Lời nói đầu
Trong nền kinh tế hiện đại, thuế không chỉ là công cụ thu của Ngân sách Nhà nước mà còn là một công cụ của Nhà nước để quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Khi nền kinh tế mỗi nước chuyển sang một giai đoạn mới với những chủ trương, chính sách định hướng sự phát triển kinh tế thay đổi thì chính sách thuế của quốc gia cũng được cải cách cho phù hợp.
Đối với Việt Nam, khi chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì việ
15 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1311 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thuế giá trị gia tăng (GTGT) khuyến khích đối với việc sản xuất kinh doanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c áp dụng luật thuế giá trị gia tăng (GTGT) thay thuế thu nhập là một bước ngoặt lớn trong việc cải cách cơ chế quản lý kinh tế- tài chính, đặc biệt là chính sách thuế của Nhà nước.
Sau hơn 4 năm thực hiện, ta thất trong các sắc thuế gián thu thì thuế GTGT được xem là phương pháp thu tién bộ hiện nay, được đánh giá cao vì luật thuế GTGT đã đạt được cơ bản các mục tiêu lớn của chính sách thuế hiện nay, phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá- hiện đại hoá, khuyến khích chuyên môn hoá, khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên việc áp dụng thuế GTGT ở nước ta vẫn còn được xem là một vấn đề khá mới mẻ, việc thực hiện còn nhiều vướng mắc. Nên theo em, việc nghiên cứu đề tài này là cần thiết, nó giúp em hiểu thêm phần nào về thuế GTGT ở nước ta.
Trong phạm vi bài viết này em xin đề cập đến vấn đề: “Thuế GTGT khuyến khích đối với việc sản xuất kinh doanh.”
I/ Lý luận chung
1. Thuế GTGT là gì?
Thuế GTGT còn được gọi là VAT (Volue Added Tax) là một thứ thuế gián thu tính trên phần giá trị tăng thêm phát sinh trong mỗi khâu, mỗi công đoạn của quá trình sản xuất, lưu thông, luân chuyển hàng hoá, dịch vụ.
2. Vai trò của thuế GTGT trong hệ thống thuế nước ta
Thuế GTGT là một thứ thuế vừa dễ thu vừa có năng suất thu cao nhất so với các sắc thuế gián thu khác. Chính vì vậy mà hiện nay đã có hơn 120 nước trên khắp các châu lục áp dụng như toàn bộ các nước công nghiệp phát triển Tây Âu, các nước Đông Âu, các nước đang phát triển tại châu Mỹ La tinh, châu Phi, những nước công nghiệp mới châu á. Đặc biệt thuế GTGT đã được áp dụng ở tất cả các nước có nền kinh tế chuyển đổi như Trung Quốc, Nga, Bacan, Séc, Việt Nam…
Trong hệ thống thuế tiêu dùng, thuế GTGT được coi là sắc thuế chủ đạo trong việc đảm bảo nguồn thu ổn định và thường xuyên cho ngân sách Nhà nước. Thuế này có đối tượng chịu thuế rộng (bao quát hầu hết tất cả các loại hàng hoá dịch vụ), mức thuế suất tương đối quân bình, tính trên phần giá trị tăng thêm ở tất cả các khâu luân chuyển của hàng hoá dịch vụ nên không trùng lắp, thể hiện tính trung lập kinh tế cao, không làm méo mó các mối quan hệ tổ chức của các hoạt động kinh tế.
3. Phạm vi áp dụng thuế GTGT
Xét theo tiêu thức lãnh thổ, thuế GTGT được thực hiện theo nguyên tắc “điểm đến” - hàng hoá, dịch vụ được “đem đến” tiêu dùng ở đâu thì người tiêu dùng ở đó phải chịu thuế GTGT. Nói cách khác, nếu hàng hoá dịch vụ được sản xuất ở một nơi (xét theo tiêu thức lãnh thổ) nhưng không tiêu dùng ở nơi đó thì nó sẽ không phải chịu thuế GTGT ở nơi sản xuất. Do vậy, tất cả các nước áp dụng thuế GTGT khi xuất khẩu hàng hoá dịch vụ ra nước ngoài không những không đánh thuế GTGT vào hàng xuất khẩu mà còn cho phép khấu trừ (hoàn trả) số thuế GTGT đã chứa đựng trong giá cả hàng hoá, dịch vụ ở những khâu trước đó (nếu có).
Ngược lại, hàng hoá, dịch vụ được sản xuất, cung cấp bởi nước khác nhập khẩu vào nước mình thì phải chịu thuế GTGT ngay ở khâu nhập khẩu. Thông lệ này còn được gọi là tính chất lãnh thổ của thuế GTGT.
Thuế GTGT là loại thuế tính trên phần giá trị tăng thêm qua mỗi khâu của quá trình luân chuyển. Vì vậy, về mặt nguyên tắc, giá tính thuế GTGT là giá cung cấp hàng hoá dịch vụ chưa có thuế GTGT. Trường hợp đối tượng chịu thuế là hàng hoá nhập khẩu thì giá tính thuế là giá dùng để tính thuế nhập khẩu (giá mua hàng hoá tại cửa khẩu) cộng với thuế nhập khẩu. Sở dĩ phải cộng yếu tố thuế nhập khẩu là vì thuế nhập khẩu của bất kì 1 loại hàng hoá nào đó đều có tác dụng như một cái “nệm” cân đối sự chênh lệch giữa giá cả của hàng nội địa cùng loại tuỳ theo quan điểm bảo hộ nặng hay nhẹ của nước nhập khẩu. Nói cách khác, thuế nhập khẩu là một trong những nhân tố tạo mặt bằng khởi điểm về giá khi một hàng hoá nào đó được nhập khẩu vào thị trường nội địa. Do vậy, tính thuế GTGT trên cả yếu tố thuế nhập khẩu không có nghĩa là tính trùng (thuế chồng lên thuế) mà là điều kiện cần và đủ để đảm bảo sự công bằng giữa hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước. Từ đó sẽ triệt tiêu được hiệu ứng chuộng hàng ngoại nhập do có ưu thế về mặt giá cả tiêu dùng (giá đã có thuế GTGT).
4. Thuế suất thuế GTGT
Về mặt thuế suất, thuế GTGT là loại thuế có ít mức thuế suất so với các loại thuế tiêu dùng khác. Lịch sử áp dụng thuê GTGT trên thế giới cho thấy có thể có 4 mức thuế suất được sử dụng:
- Nhóm thuế suất điều tiết (mức thuế suất cao trên dưới 30%) áp dụng đối với những mặt hàng được coi là xa xỉ phẩm. Về sau nhóm thuế suất này bị bãi bỏ trên hầu hết các nước trên thế giới.
- Nhóm thuế suất thông thường (biến động từ 10% đến 20% tuỳ từng nước). áp dụng đối với hàng hoá dịch vụ thông thường. Đại đa số các nước đều áp dụng mức thuế suất phổ biến trong khoảng 10% đến 20%.
- Nhóm thuế suất ưu đãi (khoảng 5% đến 7%), thường áp dụng đối với các mặt hàng lương thực thực phẩm và các nhu yếu phẩm cần thiết khác.
- Thuế suất đặc biệt 0% áp dụng với hàng hoá hoặc dịch vụ xuất khẩu. Mục đích của việc áp dụng thuế suất đặc biệt 0% là để cho các doanh nghiệp xuất khẩu được hưởng quyền khấu trừ toàn bộ số thuế GTGT đã phải nộp ở những khâu sản xuất, lưu thông trước đó tạo điều kiện cạnh tranh về giá của của hàng xuất khẩu trên thị trường thế giới.
Từ thập kỷ 80%, người ta nhận thấy rằng nếu thuế GTGT càng đơn giản thì càng dễ áp dụng, dễ đạt được các mục tiêu đặt ra. Vì vậy, thuế GTGT một thuế suất trở nên thịnh hành (trừ nhóm thuế suất đặc biệt 0%). Việc áp dụng thuế GTGT với 1 thuế suất thống nhất có cái lợi cơ bản là khắc phục ngay lập tức mọi nguy cơ gian lận, trốn thuế sinh ra từ việc nhập nhằng về thuế suất vì nếu chỉ còn 1 thuế xuất thì không thể còn cơ hội đánh tráo giữa thuế suất cao với thuế suất thấp để gian lận thuế được nữa.
II. Nội dung chính
1. Những ưu điểm chung của thuế GTGT trong việc khuyến khích sản xuất kinh doanh
Sau gần 5 năm thực hiện Luật thuế GTGT, chúng ta có thể khẳng định: Thuế GTGT là 1 loại thuế tiên tiến, mang tính chuyên môn hoá cao. Từ khi Luật thuế được ban hành đã kích thích mạnh mẽ sản xuất, kinh doanh và đầu tư.
Đối với các doanh nghiệp, thuế GTGT tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá phát sinh trong quá trình luân chuyển từ sản xuất đến tiêu dùng nên loại bỏ triệt để hiện tượng thuế chồng lên thuế và làm cho thuế trở nên hợp lý hơn, giải toả tâm lý ức chế bấy lâu nay của các doanh nghiệp và tạo điều kiện cho các cán bộ hành thu thuận lợi hơn trong vấn đề tuyên truyền, giải thích luật thuế.
Thuế GTGT đánh vào hàng nhập khẩu (điều mà thuế doanh thu không thực hiện được) đã tạo ra 3 khả năng quan trọng: Một là góp phần khuyến khích và bảo hộ hợp lý sản suất nội địa; hai là mở ra cơ hội để giảm thuế nhập khẩu, thúc đẩy tiến trình Việt Nam hội nhập kinh tế với thế giới; ba là góp phần chuyển dịch cơ cấu thuế theo hướng nội địa hoá.
Luật Thuế GTGT được thực hiện đã khuyến khích mạnh mẽ hàng xuất khẩu: với thuế suất 0% cho hàng hoá xuất khẩu, toàn bộ thuế GTGT đầu vào được hoàn trả đơn vị xuất khẩu. Đây là một động lực mạnh mẽ đối với hoạt động xuất khẩu mà không có 1 sắc thuế nào có thể tạo ra. Vì thế năm 1999, năm đầu tiên thực hiện Luật Thuế GTGT, khoảng 1720 tỉ đồng thuế GTGT đã được hoàn trả cho các đơn vị nhập khẩu, góp phần quan trọng thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu tăng 23,8%, gấp 4 lần chỉ tiêu do Quốc hội đề ra. Luật Thuế GTGT khuyến khích đầu tư vào tài sản cố định và đổi mới công nghệ nhằm gia tăng chủng loại, chất lượng sản phẩm và giảm giá thành sản xuất. Thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ và vật tư xây dựng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được, cần nhập khẩu để tạo tài sản cố định, thì không thuộc diện chịu thuế GTGT.
Luật Thuế GTGT giúp tăng cường chế dộ hoạch toán tại các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Việc khấu trừ thuế được hạch toán trên hoá đơn bán hàng và mua hàng, vì thế các doanh nghiệp ngày càng chú trọng hơn công tác kế toán nhằm hạch toán chính xác một số tỉ lệ cần thiết cho khấu trừ thuế (xác định số thuế cần thiết doanh nghiệp phải nộp). Đồng thời, các doanh nghiệp phải lưu giữ, bảo quản tốt sổ sách hoá đơn chứng từ.
Luật Thuế GTGT thực sự gắn với các hoạt động kinh tế tại các doanh nghiệp và phù hợp với bối cảnh cạnh tranh của nền kinh tế thị trường. Cơ chế vận hành của thuế GTGT là lấy thuế đầu ra trừ đi số thuế đầu vào trong cùng kỳ. Nếu số chênh lệch (> 0) thì đó là số tiến thuế doanh nghiệp phải nộp. Nếu số chênh lệch (< 0) thì đó là số thuế doanh nghiệp đã nộp thừa và ngân sách nhà nước. Thuế đầu ra tỉ lệ với thuế doanh thu, thuế đầu vào tỷ lệ với giá trị tài sản, vật tư, dịch vụ mua trong kì, nên số thuế phải nộp hay đã nộp thừa (với điều kiện việc kê khai phải hoàn toàn chính xác) phản ánh trung thực tình trạng sản xuất, kinh doanh của đơn vị.
2. Khấu trừ thuế - Linh hồn của thuế GTGT
Về phương pháp tính thuế, thuế GTGT có thể áp dụng hai phương pháp cơ bản:
a. Phương pháp khấu trừ: Hàng tháng, tại mỗi cơ sở kinh doanh, người ta lấy tổng số thuế GTGT đầu ra thu được khi bán hàng trừ đi tổng số thuế GTGT đầu vào phải trả khi mua hàng. Nếu kết quả là một số dương thì đó chính là số thuế GTGT phải nộp ngân sách nhà nước trong tháng đó. Nếu kết quả là một số âm thì được chuyển bù trừ vào số thuế GTGT phải nộp của tháng sau hoặc đề nghị cơ quan thuế hoàn lại theo qui định
b. Phương pháp trực tiếp: Trước hết người ta xác định lượng GTGT thuộc diện chịu thuế do cơ quan sở kinh doanh sáng tạo ra trong một thời kỳ nhất định (thường là 1 tháng) rồi sau đó nhân với thuế suất thuế GTGT thì sẽ tìm ra được số thuế GTGT phải nộp ngân sách nhà nước.
Xét về mặt toán học thuần tuý, hai phương pháp này đều cho một kết quả như nhau. Nhưng trong thực tế vận hành thuế GTGT trên thế giới, hầu hết các nước đều qui định tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ.
Tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ là nét đặc thù của thuế GTGT. Ưu điểm nổi bật của cách tính này là không cần phải xác định GTGT (vốn rất khó và không chính xác) nhưng vẫn đánh thuế GTGT, không phân biệt đối tượng chịu thuế dó chịu thuế ở khâu sản xuất hay ở khâu lưu không. ở khâu cuối cùng của chu trình kinh tế, số thuế GTGT mà người tiêu dùng cuối cùng thực sự phải chịu đúng bằng thuế suất nhân với giá bán lẻ chưa có thuế GTGT. Số thuế này cũng đúng bằng tổng số thuế GTGT do các đơn vị khác nhau “nộp” và “khấu trừ luân phiên” trong quá trình luân chuyển của sản phẩm hàng hoá đó.
Phương pháp khấu trừ được coi là phương pháp tiên tiến vì nó tạo ra một cơ chế kiểm soát tự động giữa các nhà sản xuất kinh doanh. Số thuế đầu ra của doanh nghiệp bán về cơ bản cũng là số thuế đầu vào của doanh nghiệp mua. Do đó, vì lợi ích kinh tế của chính mình, doanh nghiệp mua phải yêu cầu doanh nghiệp bán xuất hoá đơn hợp lệ làm cơ sở cho việc tính khấu trừ. Cũng nhờ cơ chế này mà cơ quan thuế có thể dễ dàng kiểm tra đối chiếu khi cần thiết nhăm phát hiện các trường hợp gian lận, trốn thuế thông qua các nghiệp vụ có liên quan.
Tuy nhiên, đặc tính nêu trên của thuế GTGT cũng giống như một con dao hai lưỡi. Trong trường hợp điều kiện giám sát, kiểm tra của cơ quan thu thuế bị hạn chế, hoặc ý thức chấp hành của đối tượng nộp thuế không cao thì dễ nảy sinh hiện tượng lợi dụng gian lận thuế thông qua việc khấu trừ thuế đầu vào. Cơ hội gian lận thuế đầu vào này không thể có được đối với các loại thuế tiêu dùng khác (thuế doanh thu hoặc thuế TTĐB).
3. Cơ chế hoàn thuế GTGT góp phần tạo nên hiệu quả sản xuất kinh doanh và đẩy mạnh xuất khẩu.
3.1. Hoàn thuế thuộc tính ưu việt của thuế GTGT
Luật Thuế GTGT được Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ 11, tháng 5 năm 1997 thông qua và áp dụng ở Việt Nam từ ngày 1 tháng 1 năm 1999. Đạo luật này được ban hành thay thế Luật Thuê doanh thu, vì vậy khi xây dựng, các nhà làm luật đã tính đến khả năng sắc thuế mới này có thể có những ảnh hưởng bất lợi tới các cơ sở kinh doanh trong giai đoạn đầu đưa vào áp dụng. Vì lí do đó, Luật Thuế có một số quy định về hoàn thuế GTGT.
Qui định về hoàn thuế GTGT nảy sinh từ một số tình huống được dự liệu trong kỳ tính thuế, cơ sở kinh doanh có số thuế GTGT đầu vào lớn hơn thuế GTGT đầu ra. Sở dĩ, có hiện tượng này là vì: (1) hàng hoá, nguyên vật liệu mua vào còn tồn kho, sản phẩm hàng hoá sản xuất ra cũng còn tồn kho nhiều; (2) cơ sở sản xuất kinh doanh đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản lớn nhưng chưa đi vào sản xuất, chưa có sản phẩm hàng hoá bán ra hoặc bán ra rất ít; (3) sản phẩm hàng hoá bán ra xuất khẩu áp dụng thuế suất 0%; (4) thuế suất của nguyên vật liệu mua vào lớn hơn thuế suất sản phẩm bán ra; (5) và hàng hoá là hàng viện trợ, hàng hoá dịch vụ cung cấp cho dự án sử dụng vốn ODA. Cơ sở pháp lý cho việc hoàn thuế GTGT chủ yếu được qui định tại Điều 8, 10 và 16 Luật Thuế GTGT. Theo Điều 16, việc hoàn thuế GTGT chỉ được thực hiện trong 3 trường hợp. Thứ nhất, hoàn thuế cho cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ nếu các cơ sở đó thoả mãn những điều kiện luật định (khoản 1). Thứ hai, việc hoàn thuế cũng được áp dụng trong trường hợp quyết toán thuế khi các doanh nghiệp sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản có số thuế nộp thừa (khoản 2). Thứ ba, hoàn thuế theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền (khoản 3).
Qua thực tiễn công tác quản lý và đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực thuế, cơ quan thuế phối hợp với các cơ quan chức năng đã sớm nhận diện các trường hợp lợi dụng qui định về hoàn thuế GTGT để gian lận chiếm đoạt tiền thuế dưới nhiều hình thức khác nhau.
3.2. Tại sao áp dụng cơ chế hoàn thuế trước, kiểm tra sau?
Trước đây, khi áp dụng thuế doanh thu, tất cả mọi công việc hành thu được thực hiện theo chu trình khép kín, từ việc chuyển quản đến xác định doanh thu, tính thuế, cán bộ thuế tổ chức thực hiện. Thời gian gần đây, thực hiện đường lối đổi mới, số doanh nghiệp mới thành lập ngày càng lớn, hoạt động kinh doanh ngày càng đa dạng, nên yêu cầu đặt ra đối với doanh nghiệp phải đề cao tính tự chủ về hoạt động kinh doanh của mình, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc kê khai nộp thuế vào ngân sách nhà nước. Cơ quan thuế đi sâu thực hiện chức năng hướng dẫn cách kê khai tính thuế tính thuế và kiểm tra giám sát việc thực hiện đúng pháp luật thuế. Đây thực sự là cuộc cải cách cả về tư duy kinh tế và thủ tục hành thu, phải phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính và tiến trình hội nhập trong tình hình mới.
Luật Thuế GTGT được áp dụng ở Việt Nam trong bối cảnh nền sản xuất trong nước đang gặp nhiều khó khăn, phần lớn các doanh nghiệp đang trong tình trạng thiếu vốn, phải đi vay để đầu tư đổi mới trang thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh, nên yêu cầu về vốn là mục tiêu hàng đầu, nếu đặt vấn đề kiểm tra trước sau đó mới hoàn thuế thì sẽ gặp vướng mắc khó khăn cho doanh nghiệp. Mặt khác, trong điều kiện kinh tế thị trường ngày càng mở rộng, mọi người mọi tổ chức kinh tế có thể kinh doanh các ngành nghề, mặt hàng mà Nhà nước không cấm, họ được bán hàng đến mọi nơi cả trong nước và ngoài nước. Với số lượng hàng hoá bán ra như vậy, nếu kiểm tra sẽ phải tiến hành trong khoảng thời gian, không thể làm một lúc một nơi… Vì vậy nếu đặt vấn đề kiểm tra trước, hoàn thuế sau là việc làm xa rời với thực tế.
3.3. Cơ chế hoàn thuế đã phát huy tác dụng khuyến khích sản xuất phát triển, đẩy mạnh xuất khẩu
Đối với hàng hoá xuất khẩu không những không phải nộp thuế GTGT, khi thực tế xuất khẩu còn được hoàn lại toàn bộ số thuế GTGT đã nộp ở các công đoạn trước. Trường hợp các doanh nghiệp thu mua hàng nông, lâm thủy sản của nông dân (nơi chiếm 80% dân số cả nước) không có hoá đơn nhưng lập bảng kê cũng được khấu trừ thuế, coi như hình thức trợ giá của Nhà nước tạo nên giá thành sản phẩm hạ , nâng cao khả năng cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường quốc tế. Chính vì vậy, từ khi áp dụng các luật thuế mới, kim ngạch xuất khẩu từ năm 1999 đến nay liên tục tăng cao (tăng bình quân 23%/năm, kéo theo sản xuất trong nước được đẩy mạnh, kinh tế nội địa được khôi phục và tăng trưởng từ 4,8% năm 1999, đến 6,7% năm 2000 và 6,8% năm 2001). Do xuất khẩu tăng, có thêm nguồn ngoại tệ bổ sung để nhập khẩu các loại vật tư hàng hoá thiết yếu, nêu thu thuế được từ lĩnh vực nhập khẩu cũng tăng theo, từ 24000 tỉ đồng năm 1999 đến 28000 tỉ đồng năm 2000 và 32000 tỉ đồng năm 2001. Nếu tính cả lĩnh vực xuất nhập khẩu và sản xuất trong nước thì số thu ngân sách nhà nước qua 3 năm triển khai Luật thuế mới tăng thêm hàng năm khoảng 1000 tỉ đồng, góp phần ổn định tình hình kinh tế - chính trị - xã hội, từng bước nâng cao đời sống nhân dân.
Là một doanh nghiệp đang tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường nhiều biến động như hiện nay, Công ty Dệt Phong Phú đã gặp không ít những khó khăn do: mức tăng trưởng chung của toàn cầu giảm, khủng hoảng kinh tế - chính trị - xã hội, giá tiêu thụ giảm mạnh, thị trường Nhật Bản - nơi tiêu thụ chính của Dệt Phong Phú trong hơn 10 năm qua - đã bị suy thoái… Tuy vậy, Công ty đã tìm cho mình một chỗ đứng vững chắc trong lòng người tiêu dùng bằng chính sự nỗ lực vượt bậc của Ban Giám đốc Công ty cùng tập thể CBCNV. Với các sản phẩm chủ yếu là sợi, vải, khăn, chỉ các loại và các sản phẩm may mặc, năm 2000 tổng doanh thu của công ty đạt 705,946 tỷ đồng, nhưng sang năm 2001 chỉ tiêu này đạt tới 802,075 tỷ đồng; Theo đó số nộp ngân sách năm 2000 là 22,300 tỷ đồng, sang năm 2001 con số này là 26,597 tỷ đồng; Thu nhập bình quân đầu người đạt 1.720.000 đồng/tháng vào năm 2000, đến năm 2001 tăng lên 1.781.000 đồng/tháng.
Đạt được thành quả trên, chính sách thuế của Nhà nước cũng chiếm vai trò không nhỏ, đặc biệt là các quy định về việc hoàn thuế GTGT (hoàn theo kê khai của doanh nghiệp trước, sau đó sẽ kiểm tra sau). Cục thuế địa phương đã giải quyết nhanh chóng, kịp thời giúp doanh nghiệp hạn chế được sự căng thẳng về vốn lưu động cũng như giảm thiểu sự chiếm dụng vốn trong khi đa số các doanh nghiệp Nhà nước đang trong tình trạng thiếu vốn lưu động. Tuy nhiên, các quy định về việc thu sử dụng vốn và trừ vào lãi sau vốn vẫn còn bất hợp lý. Nếu Nhà nước căn cứ theo tiêu thức doanh nghiệp nào sản xuất kinh doanh có lãi thì thu sử dụng vốn, còn ngược lại, doanh nghiệp nào làm ăn thua lỗ, không phải nộp thuế sử dụng vốn, sẽ không khuyến khích các đơn vị Nhà nước làm ăn có hiệu quả. Trước đây thu thuế sử dụng vốn trên vốn Nhà nước, hiện nay thu trên vốn Nhà nước và vốn tự bổ sung. Vì vậy, đơn vị nào có tích luỹ nhiều sẽ nộp thuế nhiều và ngược lại, một lần nữa quy định này lại không khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh giỏi, tăng tích luỹ, tự bổ sung vốn…
Để vươn lên chiếm lĩnh thị trường và hoàn thành tốt nghĩa vụ nộp ngân sách cho Nhà nước, đồng thời thực hiện chương trình tăng tốc của ngành Dệt may Việt Nam, và đứng vững trên trường Quốc tế cũng như thị trường trong nước, thì việc thực hiện nhiều chương trình cải tiến quản lý kinh tế, cải tiến kỹ thuật,… như hiện nay là rất cần thiết. Công ty Dệt Phong Phú đang tiếp tục đổi mới công nghệ, đổi mới thiết bị, tăng hàm lượng kỹ thuật cao trong các sản phẩm phục vụ xuất khẩu cũng như thị trường nội địa, tăng giá trị gia tăng của sản phẩm. Nhằm tiếp tục cải tiến tổ chức bộ máy quản lý để thu nhập và xử lý thông tin nhanh, đáp ứng nhanh yêu cầu của khách hàng, của thị trường, công ty đề ra yêu cầu mỗi cán bộ phải làm việc theo phương châm “trí tuệ và tốc độ” - tất cả mọi công tác phải được xử lý nhanh, chính xác và hiệu quả. Trên cơ sở đó, Dệt Phong Phú tiếp tục đào tạo lại và bổ sung mới nguồn nhân lực với chất lượng cao hơn về chuyên môn, tay nghề…; Tăng cường công tác phân tích hoạt động kinh tế định kỳ và bất thường để phát hiện những tồn tại, yếu kém trong quản lý sản xuất kinh doanh, đưa ra các giải pháp nhằm tăng vòng quay vốn, tăng hiệu quả sử dụng các nguồn lực như: vật tư, thiết bị, nhà xưởng, tiến bộ kỹ thuật… Ngoài những nỗ lực chung và các giải pháp đã đề ra, đề nghị các Bộ, Ngành nghiên cứu cải tiến thủ tục xét duyệt các dự án đầu tư sao cho nhanh hơn, đơn giản hơn mà vẫn đảm bảo tính khả thi , tính hiệu quả của dự án, nhằm làm giảm những khó khăn do thủ tục còn phức tạp, cứng nhắc.
Trong cuộc sống bộ bề những lo toan và thử thách này hy vọng rằng những cố gắng của Công ty Dệt Phong Phú sẽ góp phần đem lại thành công cho sản phẩm dệt may nói riêng và sản phẩm nội địa nói chung trong quá trình chiếm lĩnh thị trường khu vực và quốc tế.
4. Những nhược điểm còn tồn tại của thuế GTGT và biện pháp…
4.1. Những nhược điểm còn tồn tại của thuế GTGT
a/ Về thuế suất
Qua gần 5 năm thực hiện Luật thuế GTGT, bên cạnh những thành công bước đầu, thì những hạn chế của hệ thống thuế suất nhiều mức đang ngày càng bộc lộ trong bối cảnh nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường và quá trình hội nhập khu vực và quốc tế đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ.
Nhiều mức thuế suất không những làm cho công tác hoạch định chính sách thêm phức tạp mà còn làm cho việc xác định thuế phải nộp cũng phức tạp không kém. Việc chọn các tiêu thức để phân định các loại hàng hoá, dịch vụ chịu thuế theo từng mức thuế là rất khó, bởi ranh giới giữa những phân định này là mờ nhạt và mang tính tương đối. Tình trạng một mặt hàng nhưng có thể áp dụng hai mức thuế suất khác nhau vẫn thường xảy ra, dẫn đến hiện tượng tránh thuế của đối tượng nộp thuế và áp sai mức thuế suất của cơ quan thuế vẫn có cơ sở tiếp diễn. Đây là một trở ngại lớn trong việc thực hiện quy trình quản lý thuế theo nguyên tắc tự khai, tự tính và tự nộp thuế của các doanh nghiệp. Với thuế GTGT nhiều mức thuế suất, các doanh nghiệp phải hao tổn công sức thêm trong việc hoạch định chiến lược sản xuất, chiến lược mặt hàng, bởi lẽ họ phải đưa thêm một thông số vào tính toán - đó là mức thuế suất thuế GTGT của từng loại hàng hoá, dịch vụ cụ thể. Việc áp dụng nhiều mức thuế suất cũng làm cho hiện tượng phân phối thuế phải thu trong từng công đoạn không đều nhau, có khâu phải thu nhiều của người tiêu dùng, có khâu thu ít, có khâu lại không thu, làm cho đối tượng nộp thuế bị phân biệt đối xử ngay trong việc thu gom tiền thuế nộp vào ngân sách Nhà nước một cách không cần thiết. Với nhiều mức thuế suất khách nhau, khối lượng hoàn thuế và truy thu cũng tăng lên một cách không đáng có, làm tiêu hao công sức và của cải của xã hội.
b/ Cơ chế hoàn thuế và khấu trừ thuế
Trên thực tế, không có chính sách chế độ nào có thể đạt được mức tuyệt đối hoàn thiện, bao giờ cũng có mặt trái và khiếm khuyết. Điều cơ bản đặt ra đối với nhà quản lý cần phải xác định rõ nguyên nhân để có biện pháp giảm thiểu thấp nhất những điểm còn hạn chế, tồn tại.
Trong điều kiện nước ta đang từng bước chuyển đổi, chưa có đầy đủ các điều kiện cần thiết về mọi mặt, lại áp dụng sắc thuế khoa học nhất, với phạm vi điều chính quá rộng (bao gồm: 6.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, 1,2 triệu hộ kinh doanh cá thể) dẫn đến quá tải trong công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực thuế. Trong khi đó ở các nước khác thời gian đầu triển khai họ chỉ cho phép các doanh nghiệp lớn có đủ sổ sách kế toán mới được áp dụng cơ chế khấu trừ và hoàn thuế GTGT. ở Trung Quốc quy định các cơ sở đạt mức doanh thu từ 600.000 NDT trở lên mới được áp dụng thuế GTGT, đối với đơn vị buôn bán tiểu ngạch qua biên giới không thanh toán qua ngân hàng thì không được hoàn thuế GTGT. ở Ôxtraylia cũng quy định “ngưỡng” áp dụng thuế GTGT.
4.2. Một số biện pháp khắc phục
a) Về thuế suất
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, để khắc phục những tác động không tốt đối với nền kinh tế - xã hội của thuế GTGT căn cứ vào những nguyên tắc cơ bản xây dựng chính sách hữu hiệu, đối tượng tính thuế GTGT là giá trị gia tăng, kinh nghiệm các nước và thực tiễn nước ta, thiết nghĩ chính sách thuế GTGT ở nước ta chỉ nên quy định một mức thuế suất chung duy nhất áp dụng cho các loại hàng hoá dùng cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trong nước là 10% ngoại trừ mức thuế suất 0% áp dụng cho hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu.
b) Về khấu trừ thuế và hoàn thuế
Giải pháp để chống thất thoát NSNN có hiệu quả, đồng thời từng bước hoàn thiện đưa các Luật thuế mới vào thực tiễn cần phải xác định rõ vấn đề khấu trừ thuế và hoàn thuế là thuộc tính ưu việt nhất, là linh hồn của Luật thuế GTGT, đó là yêu cầu thực tiễn khách quan. Từ đó đề ra các giải pháp thiết thực vừa đảm bảo tính liên hoàn của sắc thuế tiên tiến này vừa phù hợp với thực tế Việt Nam. Vừa qua, Bộ Tài chính đã có đề án khắc phục, trong đó có giải pháp phân loại doanh nghiệp trong cả nước.
- Đối với doanh nghiệp xuất khẩu chính ngạch có đủ hồ sơ thủ tục thanh toán qua ngân hàng, thường xuyên thực hiện tốt nghĩa vụ thuế với NSNN thì được ưu tiên và thực hiện thông thoáng theo cơ chế hoàn trước kiểm sau.
- Đối với các trường hợp đã vi phạm thì kiểm tra xác minh trước, đảm bảo đủ độ tin cậy mới được hoàn thuế. Theo ý kiến chung của một số chuyên gia đầu ngành, về lâu dài cần sửa đổi Luật theo hướng khoanh vùng, thu hẹp đối tượng nộp thuế, chỉ áp dụng Luật thuế GTGT với các doanh nghiệp có quy mô đủ lớn đã áp dụng đầy đủ chế độ kế toán và sử dụng hoá đơn chứng từ (ở các nước như: Pháp, Anh, Canađa không áp dụng thuế GTGT đối với hộ kinh doanh cá thể). Đồng thời chuyển từ hai hình thức tính thuế hiện hành sang áp dụng thống nhất một phương pháp khấu trừ thuế. Thực hiện đúng nguyên tắc chung của thuế GTGT, trên cơ sở có nộp thuế đầu vào, có hoá đơn mới được khấu trừ thuế và hoàn thuế, bỏ diện khấu trừ khống đối với việc thu mua hàng nông sản. Một giải pháp đặc biệt quan trọng có mức ảnh hưởng rộng lớn đến mọi hoạt động kinh tế - xã hội thuộc chức năng của Chính phủ cần có quy định bắt buộc việc thanh toán qua ngân hàng (kể cả tài khoản cá nhân) hạn chế đến mức thấp nhất hình thức thanh toán bằng tiền mặt như hiện nay. Thông qua tài khoản tại hệ thống ngân hàng, sẽ quản lý được đại bộ phận hoạt động kinh tế phát sinh, là cơ sở vững chắc để Nhà nước điều chỉnh nền kinh tế vĩ mô. Có như vậy tình trạng tiêu cực, gian lận, trốn thuế sẽ không còn cơ hội để tồn tại.
Kết luận
Thuế GTGT là loại thuế mới, lần đầu tiên đưa áp dụng ở Việt Nam thay thế cho thuế doanh thu. Chuyển từ thuế doanh thu sang thuế GTGT không chỉ đơn thuần là sự thay đổi về kỹ thuật nghiệp vụ mà là thay đổi chính sách và biện pháp thực hiện.
Nói đến thuế là nói đến nhiệm vụ thu ngân sách Nhà nước và góp phần điều tiết sản xuất. Về thu ngân sách Nhà nước thuế là một tất yếu trong mọi xã hội có Nhà nước, cho nên mỗi tổ chức cần coi thuế như là một cái ngưỡng phải vượt qua. Mặt khác, thông qua thu thuế sẽ điều tiết sản xuất, hướng dẫn tiêu dùng. Vì vậy, việc thực hiện luật thuế GTGT không tránh khỏi bỡ ngỡ ban đầu với mọi người tiêu dùng, các doanh nghiệ sản xuất kinh doanh.
Bên cạnh đó phần nào nắm bắt được tình hình thực hiện luật thuế GTGT ở Việt Nam trong thời gian qua, cụ thể là những ưu điểm đã đạt được, những vướng mắc còn tồn tại.
Trong đề tài này em cũng xin mạnh dạn trình bày các kiến nghị của mình để có thể đóng góp phần nào vào việc hoàn thiện luật thuế GTGT và thực hiện kế toán thuế GTGT ở Việt Nam.
Như ta đã biết, hiện nay trên thế giới đã có hơn 100 nước áp dụng luật thuế GTGT trong đó có Việt Nam chứng tỏ ta đã hoà chung với tiến trình đổi mới đất nước và hội nhập vào khu vực và quốc tế để nền kinh tế nước ta ngày càng đi lên.
mục lục
Lời mở đầu
Lý luận chung 1
Khái niệm thuế GTGT 1
Vai trò của thuế GTGT trong hệ thống thuế nước ta. 1
Phạm vi áp dụng thuế GTGT 1
Thuế suất thuế GTGT 2
Nội dung 3
Những ưu điểm chung của thuế GTGT trong việc sản xuấ kinh doanh. 3
Khấu trừ thuế- linh hồn của thuế GTGT 4
Cơ chế hoàn thuế GTGT góp phần tạo nên hiệu quả sản xuất kinh doanh và đẩy mạnh xuất khẩu. 5
Những nhược điểm còn tồn tại của GTGT và những biện pháp khắc phục. 9
Kết luận.
Tài liệu tham khảo.
Danh mục tài liệu tham khảo:
Tạp chí tài chính tháng 3/2003
Tạp chí thuế Nhà nước
Giáo trình thuế và kế toán thuế (NXB thống kê)
Thời báo kinh tế VN số184/2003
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7167.doc