Thực trạng xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc

Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về xuất khẩu 1.1. Lý luận chung về xuất khẩu 1.1.1.Khái niệm và vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế đất nước 1.1.1.1.Khái niệm về xuất khẩu Có nhiều khái niệm về xuất khẩu nhưng ta có thể hiểu xuất khẩu hàng hóa là một hệ thống quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm bán sản phẩm, hàng hóa sản xuất trong nước ra nước ngoài để thu ngoại tệ, qua đó có thể đẩy mạnh sản xuất hàng hóa phát triển, chuyển đổi cơ c

doc52 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2190 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ấu kinh tế, ổn định và nâng cao đời sống người dân. Cũng có thể hiểu xuất khẩu là một hoạt động cơ bản của hoạt động ngoại thương, xuất hiện từ lâu và ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu.Hình thức sơ khai của xuất khẩu chỉ là hoạt động trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia (bao gồm cả hàng hóa vô hình và hàng hoá hữu hình).Khi sản xuất phát triển ,trao đổi hàng hóa ngày càng có lợi, hoạt động vày mở rộng phạm vi trên toàn cầu trong tất cả các ngành các lĩnh vực của nền kinh tế với tỷ trọng ngày càng cao. 1.1.1.2. Vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế đất nước Xuất khẩu là một trong những hoạt động kinh tế đối ngoại chủ yếu của quốc gia, hàng năm hoạt động này đóng góp một phần lớn và ngày càng gia tăng vào tổng thu nhập quốc dân.Theo xu hướng ngày càng phát triển theo cả quy mô về cả chiều rộng lẫn chiều sâu thì vai trò của xuất khẩu ngày càng quan trọng, có thể nói hoạt động xuất khẩu là một nhân tố cơ bản thúc đẩy tăng trưởng và phát triển của một quốc gia.Thực tế đã chứng minh các quốc gia đi nhanh trên con đường tăng trưởng và phát triển cũng như những quốc gia có tiềm lực kinh tế mạnh đều là những nước có nền ngoại thương năng động và sớm phát triển. Xuất khẩu không những đem lại một nguồn giá trị ngoại tệ cho quốc gia mà hơn thế còn mở rộng giao lưu hợp tác với các quốc gia khác trên toàn thế giới.Với xu hướng toàn cầu hoá hiện nay thúc đẩy xuất khẩu là hoạt động cần thiết và thiết thực.Bởi vì: +Xuất khẩu được xem là một yếu tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế +Xuất khẩu tạo tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm đổi mới thường xuyên năng lực sản xuất của quốc gia. +Đẩy mạnh xuất khẩu có tác động đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế ngành theo hướng sử dụng có hiệu quả nhất lợi thế so sánh của đất nước, đây có thể là yếu tố then chốt trong quá trình công nghiệp hoá -hiện đại hoá đất nước. Trong điều kiện nền kinh tế lạc hậu, sản xuất nhỏ là chủ yếu, khu vực nông nghiệp chiếm đại bộ phận dân cư, khả năng tích luỹ của công nghiệp thấp thì xuất khẩu có vai trò ngày càng quan trọng và trở thành nguồn tích luỹ chủ yếu trong giai đoạn đầu thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. 1.1.2. Các hình thức xuất khẩu Xuất khẩu trực tiếp: Là việc thực hiện xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ do chính doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước hoặc từ các khách hàng nước ngoài thông qua các tổ chức của mình.Về nguyên tắc, xuất khẩu trực tiếp có thể làm tảng thêm rủi ro trong kinh doanh ,tuy nhiên hình thức này cũng có những ưu điểm nổi bật như:Giảm bớt chi phí trung gian và có thể liên hệ trực tiếp và đều đăn với khách hàng và với thị trường nước ngoài ,từ đó nắm bắt ngay được nhu cầu cũng như tình hình của khách nên có thể thay đổi sản phẩm và những điều kiện bán hàng trong điều kiện cần thiết, Xuất khẩu uỷ thác: Đây là hình thức kinh doanh ,trong đó đợn vị kinh doanh xuất nhập khẩu đóng vai trò là người trung gian thay cho đơn vị sản xuất tiến hành ký kết hợp đồng mua bán, tiến hành các thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng hoá cho nhà sản xuất qua đó thu được một số tiền nhất định ( theo phần trăn giá trị lô hàng). Ưu điểm của hình thức này là mức độ rủi ro thấp, đặc biệt là không cần bỏ vốn kinh doanh ,tạo được việc làm cho người lao động đồng thời cũng thu được một khoản lợi nhuận nhất định.Ngoài ra trách nhiệm trong việc tranh chấp và khiếu nại không thuộc trách nhiệm người uỷ thác mà thuộc về người sản xuất.Tuy nhiên phương pháp này cũng có một số nhược điểm là phải qua trung gian và phải mất một tỷ lệ hoa hông nhất định cho người uỷ thác,nắm bắt thông tin về thị trường cũng như khách hàng chậm và thông thường phải thông qua người uỷ thác. Buôn bán đối lưu: Là hình thức giao dịch,trong đó xuất khẩu kết hợp nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua là hàng hóa mang ra trao đổi thường có giá trị tương đương.Mục đích của xuất khẩu ở đây không nhằm mục đích thu ngoại tệ mà có được lượng hàng hoá có giá trị tương đương với giá trị lô hàng xuất khẩu. Lợi ích của buôn bán đối lưu là nhằm tránh những rủi ro về biến động tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối . Đặc biệt khi các bên không đủ ngoại tệ thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của mình.Thêm vào đó, đối với mỗi một quốc gia thì buôn bán đối lưu có thể làm cân bằng hạng mục thường xuyên trong cán cân thanh toán,nhưng lại làm hạn chế quá trình trao đổi hàng hóa, việc giao nhận hàng hoá khó tiến hành được thuận lợi. Giao dịch qua trung gian: Đây là hình thức giao dịch mà mọi việc kiến lập quan hệ giữa người bán với người mua đều phải thông qua một người thứ ba là đại lý môi giới hay trung gian.Quan hệ này dựa trên cơ sở hợp đồng đại lý.Có nhiều đại lý khác nhau như đại lý hoa hồng, đại lý kinh tiêu, đại lý toàn quyền…Môi giới là thương nhân trung gian giữa người mua và người bán.Khi tiến hành nghiệp vụ, người môi giới có vai trò như người uỷ thác.Do đó quá trình trao đổi giữa người mua và người bán phải thông qua người thứ ba nên có những nhược điểm về thời gian chậm lại do phải thông qua ba bên, phí hoa hồng phaảitrả cho người môi giới. Gia công quốc tế: Là một hình thức kinh doanh trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công) nhập nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên (bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm, giao lại cho bên đặt gia công và qua đó thu lại một khoản phí đặt gia công. Đây là hình thức kinh doanh chủ yếu áp dụng cho những nước có nhiều lao động giá rẻ và thiếu vốn, thiếu công nghệ cũng như thị trường.Khi đó các doanh nghiệp không có đủ điều kiện sản xuất hàng xuất khẩu có thể tạo dựng uy tín và xâm nhập các thị trường này. Tái xuất khẩu:Là hình thức xuất khẩu những hàng hoá trước đây đã nhập nhưng không tiến hành các hoạt động chế biến. Ưu điểm của hình thức này là có thể thu được lợi nhuận cao mà không phải tổ chức sản xuất.Chủ thể tham gia hoạt động này nhất thiết phải có 3 nước trở lên: nước xuất khẩu, nước nhập khẩu, nước tái xuất khẩu.Hình thức này góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu, bởi không phải lúc nào hàng hóa cũng được xuất khẩu trực tiếp hoặc thông qua trung gian như trường hợp bị cấm vận, bao vây kinh tế…khi đó phải thông qua phương pháp tái xuất khẩu qua nước thứ ba vẫn có thể tham gia buôn bán trên thị trường thế giới được. 1.1.3. Nội dung của hoạt động xuất khẩu Hoạt động xuất khẩu được tiến hành qua các bước sau: Bước 1: Nghiên cứu thị trường Đây là nội dung ban đầu của quá trình xuất khẩu, tuy chỉ là những nội dung cơ bản nhưng hết sức quan trọng và cần thiết để tiến hành xuất khẩu.Trong khâu cơ bản này,doanh nghiệp xuất khẩu cần xác định được mặt hàng xuất khẩu, thị trường xuất khẩu, đối tác để xuất khẩu và xác định phương thức giao dịch Bước 2: Đàm phán ký kết hợp đồng Đây là khâu quan trọng trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng, vì nó quyết định đến tính khả thi hoặc không khả thi của kế hoặch kinh doanh của doanh nghiệp .Kết quả của đàm phán sẽ là hợp đồng được ký kết ,trong đó quy định người bán có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho người mua ,còn người mua có nghĩ vụ trả cho người bán một khoản tiền ngang giá trị đã được quyết định trong hợp đồng theo các phương tiện thanh toán quốc tế . Bước 3:Thực hiện hợp đồng xuất khẩu và thanh toán Sau khi đã ký kết xong hợp đồng hai bên thực hiện những gì đã cam kết trong hợp đồng .Với tư cách là nhà xuất khẩu,doanh nghiệp sẽ thực hiện những công việc sau đây: giục mở L/C và kiểm tra L/C, xin giấy phép xuất khẩu và chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu, kiểm tra hàng hoá, uỷ thách thuê tàu, mua bảo hiểm hàng hoá, làm thủ tục hải quan, giao hàng lên tàu, làm thủ tục thanh toán giải quyết tranh chấp (nếu có) Trên đây là trình tự những công việc chung nhất cần thiết để thực hiện hợp đồng xuất khẩu, tuy nhiên trên thực tế có thể giảm bớt một vài khâu tuỳ theo thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng. 1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới xuất khẩu 1.1.4.1. Môi trường chính trị , văn hoá, kinh tế và pháp luật Môi trường chính trị và pháp luật sẽ có tác động trực tiếp đến quyết định kinh doanh tại thị trường nước ngoài của bất kỳ một doanh nghiệp nào.Một điều dễ hiểu là không một doanh nghiệp nào muốn tiến hành giao dịch với một quốc gia đang có sự tranh chấp về pháp luật hay chính trị, có sự đấu tranh giành giật giữa các đảng phái….Mỗi quốc gia có nền văn hoá mang đậm bản sắc văn hoá riêng của dân tộc mình, do đó hiểu biết về nền văn hóa sẽ giúp các doanh nghiệp xuất khẩu có thể hiểu rõ thị hiếu cũng như những điều cấm kị trong văn hoá của thị trường bản địa và từ đó xác định được chính xác chiến lược đối với từng thị trường nhập khẩu riêng, khả năng thành công cao hơn. Trong các môi trường quốc gia ảnh hưởng tới hoạt động xuất nhập khẩu thì môi trường kinh tế có ảnh hưởng quan trọng nhất .Những chỉ số về hạ tầng cơ sở: giao thông ,mạng lưới phân phối, truyền thông,…có tác động tới xuất khẩu cả tầm vĩ mô và vi mô.Xét về tổng thể thì chúng tác động tới đặc điểm và sự phân bố cơ hội kinh doanh quốc tế cũng như thị trường quốc tế.Còn ở tầm vĩ mô, các yếu tố kinh tế ảnh hưởng tới cơ cấu tổ chức và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.Các yếu tố về giá cả và sự phân bố tài nguyên ở các thị trường khác nhau cũng có những ảnh hưởng tới quá trình sản xuất, phân bố nguyên liệu,vốn lao động và do đó ảnh hưởng tới giá cả ,chất lượng hàng hoá xuất khẩu. 1.1.4.2. Chính sách thương mại Chính sách thương mại quốc tế của mỗi một quốc gia chi phối tới tất cả các hoạt động xuất nhập khẩu của quốc gia đó. Đó là một hệ thống các nguyên tắc, công cụ và biện pháp mà nhà nước áp dụng thực hiện, điều chỉnh hoạt động thương mại quốc tế của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định nhằm đạt được những mục đích đã đặt ra trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội đất nước. Ngày nay với xu hướng tự do hoá thương mại ,các biện pháp thuế quan được giảm dần trong các tổ chức như WTO, các khu vực mậu dịch tự do, các liên minh thuế quan…Các biện pháp phi thuế quan cũng được giảm dần như biện pháp về hạn ngạch, trợ cấp của chính phủ…và được sủ dụng tăng cường các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm vệ sinh dịch tễ, bảo vệ môi trường.Hầu hết các biện pháp này đều làm giảm nhập khẩu hàng hóa từ bên ngoài vào quốc gia đó, khuyến khích tiêu thụ hàng hoá được sản xuất trong nước, nâng cao năng lực sản xuất quốc gia, cản trở hoạt động ngoại thương. Chính sách thương mại quốc tế của mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ đều có sự thay đổi và sự thay đổi này là một trong những rủi ro lớn đối với doanh nghiệp xuất khẩu,vì vậy đối với mỗi doanh nghiệp xuất khẩu phải nắm rõ được chiến lược phát triển của quốc gia nhập khẩu và có sự điều chỉnh chiến lược kịp thời đối với những thay đổi đó. 1.1.4.3. Các đối thủ cạnh tranh Yếu tố cạnh tranh bao gồm các đối thủ cạnh tranh hiện tại và các đối thủ cạnh tranh tiềm năng. Để có vị trí lâu dài trên thị trường nước ngoài các doanh nghiệp xuất khẩu phải tính đến các đối thủ tiềm nằng, đó là những đối thủ hiện tại chưa có khả năng cạnh tranh cao nhưng rất có triển vọng trong thời gian tới. Các yếu tố cạnh tranh còn phụ thuộc vào sức ép người cung cấp các nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất và sức ép từ phía người tiêu dùng là những người trực tiếp tiêu dùng, trực tiếp quyết định sự sống còn của sản phẩm trên thị trường đó bằng quyết định có tiêu dùng hay không. 1.1.4.4.Công nghệ về sản xuất và chế biến Ngày nay với sự phát triển ngày càng cao của khoa học công nghệ đã làm thay đổi cục diện toàn bộ hoạt động xuất khẩu. Đời sống con người được nâng cao làm cho nhu cầu tiêu dùng cũng ngày nâng cao hơn, đó là những loại hàng hoá dịch vụ chất lượng chất lượng cao, đảm bảo các yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật cũng như mẫu mã, hình dáng kích cỡ…Khả năng ứng dụng công nghệ kỹ thuật đã góp phần tác động hoạt động xuất khẩu đạt hiệu quả cao hơn .Cụ thể công nghệ sản xuất sẽ giúp cho chất lượng hàng hoá xuất khẩu cao hơn đáp ứng được nhu cầu của thị trường thế giới, công nghệ chế biến không những góp phần làm đa dạng sản phẩm xuất khẩu mà còn góp phần giả quyết nguông nguyên liệu thừa ra vào mỗi vụ thu hoạch, đặc biệt là sản phẩm nông sản xuất khẩu. 1.2. Khái quát về xuất khẩu rau quả của Việt Nam 1.2.1.Tình hình sản xuất rau quả Việt Nam có điều kiện về đất đai và khí hậu thích hợp trồng các loại cây rau quả nhiệt đới và ôn đới , ở Miền bắc khí hậu chia làm hai mùa tương đối rõ rệt là muà nóng và mùa lạnh.Mùa nóng thích hợp cho các loại cây: nhãn, vải , mận, dứa ,xoài …Mùa lạnh thích hợp cho gieo trồng các loại rau như: Bắp cải, xu hào ,xúp lơ…Ở Miền nam nhiệt độ trung bình năm khá cao nên thích hợp trồng cây ăn quả nhiệt đới như: nhãn, chôm chôm, thanh long…Sản xuất rau quả của Việt Nam những năm qua có những bước tiến đáng kể về quy mô cũng như cơ cấu sản phẩm, nhiều loại rau quả đặc sản có chất lượng cao được quy hoặch thành những vùng chuyên canh. Diện tích rau quả của Việt Nam đã tăng từ 771,4 nghìn ha năm 1993 đã tăng lên tới 1440,1 nghìn ha năm 2002, trong đó diện tích cây ăn quả tăng 2,3 lần, bình quân tăng từ 10,1%/năm và diện tích rau các loại tăng 1,6 lần, bình quân tăng 5,6%/năm. Bảng 2 :Diện tích trồng rau quả của Việt Nam Diện tích trồng rau quả (Nghìn ha) Tăng trưởng so với năm trước(%) ( Năm trước =100%) Cây ăn quả Rau các loại Cây ăn quả Rau các loại 1999 512.7 659.7 114.0 103.6 2000 564.8 661.9 110.2 100.3 2001 609.6 720.7 107.9 108.9 2002 677.5 762.5 111.1 105.8 Nguồn: Niên giám thống kê 2003, Tổng cục thống kê Khu vực sản xuất rau chủ yếu là vùng đồng bằng Sông Hồng chiếm 25.26% diện tích và 30.78% sản lượng rau của cả nước, tiếp đến là vùng đồng bằng Sông Cửu Long với 23.28% diện tích và 25,46% sản lượng (số liệu năm 2002), ngoài ra còn có Đà Lạt –vùng chuyên canh rau có chất lượng và hiệu quả cao. Sản xuất cây ăn quả tập trung nhiều nhất tại khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long, nơi chiếm tới 34.1% diện tích cây ăn quả cả nước, tiếp đến là Đông Bắc 19%, Đông Nam Bộ 17.4%...Sản xuất cây ăn quả phát triển ở mọi vùng đất nước và hình thành nên các vùng sản xuất cây ăn trái hàng hoá phù hợp với điều kiện khí hậu và tập quán từng vùng. Bảng 3. Diện tích trồng cây ăn quả phân theo vùng năm 2002 Tên vùng Diện tích (Nghìn ha) Tỷ trọng(%) Loại cây ăn quả chủ yếu 1. Đông bắc 70.4 10.39 Mận,đào ,hồng, chuối,xoài, cam, quýt,mơ, vải ,nhãn, mít 2.Tây bắc 128.9 19.03 Mận, đào, hồng 3. Đồng bằng Sông Hồng 33.4 4.93 Vải, nhãn, chuối, dứa ,mít, na , đu đủ 4.Bắc Trung Bộ 51.4 7.59 Cam, quýt, dứa, dừa 5.Duyênhải trung bộ 26.7 3.94 Xoài, nho, thanh long, dừa 6.Tây nguyên 18.0 2.66 Hồng, lê,chuối, dâu, mận 7. Đông nam bộ 117.7 17.37 Chôm chôm, mít ,sầu riêng 8. Đồng bằng sông Cửu Long 231.0 34.10 Nhãn, xoài ,chôm chôm, ổi Tổng số 677.5 100.00 Xxx Nguồn: Tổng cục Thống Kê Sản lượng rau quả hiện nay đạt khoảng 5 triệu tấn, nếu trừ đi khoảng 20-25% số này bị tổn thất trong khâu thu hoạch, bảo quản , vận chuyển…và một phần xuất khẩu thì sản lượng quả tiêu thụ nội địa đạt khoảng 3,5 triệu tấn/năm .Năm 1999 Chính phủ đã phê duyệt dề án phát triển rau quả giai đoạn 1999-2010 .Sau 4 năm thực hiện đề án, đến cuối năm 2003, tổng diện tích rau quả đạt 1.270.000 ha ,sản lượng đạt 13.8 triệu tấn.Bình quân mỗi năm tăng thêm 13% diện tích và trên 2% về sản lượng. Trên phạm vi cả nước đã hình thành một số vùng rau đặc trưng như rau bắp cải ở Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Đà Lạt, hành tây ở Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Vĩnh Phúc , Bắc Ninh, tỏi ở Hải Dương, dừa ở Bến Tre, Trà Vinh Vĩnh Long… 1.2.2.Tình hình xuất khẩu rau quả của Việt Nam Hiện nay mặt hàng rau quả của Việt Nam xuất hiện ở gần 50 nước trên thế giới, cơ cấu thị trường trong những năm gần đây hầu như không có sự thay đổi lớn và Trung Quốc vẫn là nước nhập khẩu chủ yếu, chiếm gần 50% tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam. Năm 2006 kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang Trung Quốc đạt 67,1 triệu USD, chiếm 44,3% kim ngạch xuất khẩu rau quả, tiếp đến là Đài Loan 20,16 triệu USD chiếm 14,2% tổng kim ngạch ,Nhật Bản đạt khoảng 16,7 triệu USD chiếm khoảng 11,0% , Nga đạt 8,3 triệu USD chiếm khoảng 5,5%, Hoa Kỳ đạt 8,1 triệu USD chiếm khoảng 5,3% và các nước trong khu vực.Rau quả xuất sang Trung Quốc chủ yếu là rau quả tươi còn xuất sang các nước khác thì chủ yếu là rau quả đông lạnh hoặc qua chế biến. Đồ thị :Xuất khẩu rau quả theo thị trường năm 2006 Nguồn: Tổng cục Hải Quan năm 2006 Có thể thấy thị trường xuất khẩu rau quả của Việt Nam chủ yếu lầ các nước Châu Á( chiếm khoảng 90% tổng giá trị) còn các thị trường nhập khẩu chính của thế giới như EU , Hoa kỳ, Nhật Bản thì mặt hàng này của Việt Nam hiện tại vẫn chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Trung quốc là thị trường tiêu thị nông sản của Việt Nam, nhất là rau quả tươi. Xuất khẩu sang Trung Quốc chiếm khoảng 80% giá trị xuất khẩu hoa quả tươi của Việt Nam. Vì vậy khi xuất khẩu rau quả sang Trung Quốc phải đối mặt với những thách thức mới, xuất khẩu rau quả của Việt Nam bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Sau khi Thái Lan ký với Trung Quốc Hiệp Định ưu đãi thuế quan cho mặt hàng rau quả của hai nước, xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc gặp nhiều khó khăn trước sức ép cạnh tranh với Thái Lan. Theo Hiệp Định thì có tới 188 mặt hàng, tức gần hết rau quả của Thái Lan xuất khẩu vào Trung Quốc được hưởng thuế suất 0% trong khi đó các mặt hàng rau quả của Việt Nam xuất vào Trung Quốc phải chịu thuế suất từ 10-15%. Mặt khác sau khi gia nhập WTO, từ tháng 4/2002 Trung Quốc quy định mặt hàng tươi nhập vào nước nayg phải có hạn ngạch và đáp ứng yêu cầu về kiểm dịch thực phẩm. Do không có sự chuẩn bị thích ứng, nhiều lô hàng rau quả của Việt Nam bị trả lại , không được đưa qua biên giới Trung Quốc. Một số thị trường khác ở Châu Á như Đài Loan, Hồng Kông ,Singapore, Nhật Bản cũng là những nước những có nhu cầu cao về mặt hàng rau quả ,nhưng những điều kiện để nhập khẩu rau quả tươi vào nước này tương đối khắt khe về chủng loại , về vệ sinh an toàn thực phẩm. Vì vậy trong những năm qua Việt Nam chỉ xuất khẩu được những mặt hàng rau quả đã qua chế biến và một rất ít rau quả tươi vào thị trường nước này. Thanh long là mặt hàng xuất khẩu nhiều nhất vào thị trường nước này, những năm gần đây sản lượng thanh long xuất khẩu tăng cao là do loại quả này được khách hàng rất ưa chuộng, trước đây chỉ bán cho Đài Loan, Hồng Kông, nhưng hiện nay Singapore là khác hàng tiềm năng vượt cả Đài Loan về tiêu thụ mặt hàng này.Nhưng tại thị trường Nhật Bản, từ khi phát hiện một loại dòi có trong quả thanh long nhập khẩu thì phía Nhật Bản đã đưa quả thanh long vào danh mục hàng cấm nhập khẩu Thị trường Nga cũng là thị trường có nhu cầu cao về các sản phẩm rau quả nhiệt đới , mặt khác đời sồng người dân Nga được cải thiện nên nhu cầu về rau quả đang cõu hướng tăng lên. Đây là thị trường tiềm năng cho các nhà xuất khẩu rau quả Việt Nam trong những năm tới ,vấn đề cần giải quyết thị trường này là do điều kiện địa lý xa cách nên đòi hỏi nhà sản xuất phải có công nghệ bảo quản tốt. Hoa Kỳ là một trong những nước xuất khẩu rau quả lớn nhất thế giới nhưng hàng năm nước này vẫn phải nhập một lượng lớn rau quả tươi và chế biến. Từ khi ký Hiệp Định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ, thị trường này đã mở ra nhiều triển vọng cho xuất khẩu các loại rau quả nhiệt đới sang thị trường này. Nhưng do các điều kiện về chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm rau quả nhập khẩu ở thị trường này là khá cao, mặt khác do địa lý xa cách nên mặt hàng rau quả xuất sang Mỹ của Việt Nam chủ yếu là rau quả đông lạnh và qua chế biến và một phần rất ít hoa quả tươi đi bằng đường hàng không. Các loại rau quả xuất khẩu sang Mỹ chủ yếu la dứa đóng hộp, xoài tươi, bắp non. Thị trường EU là thị trường nhập khẩu rau quả lớn nhất thế giới và có nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng đối với các loaị rau quả nhiệt đới. Tuy nhiên, tính cạnh tranh ở thị trường này là rất cao, đòi hỏi mặt hàng rau quả ở Việt Nam phải đảm bảo chất lượng, giá cả cạnh tranh, chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm…Mặt hàng rau quả của Việt Nam xuất sang thị trường EU chủ yếu là các mặt hàng trái cây tươi và một số loại rau quả chế biến như: nhãn ,xoài, dưa chuột bao tử muối, cà muối… Các nước nhập khẩu nhiều rau quả nhất của Việt Nam là Hà Lan, Italia, Pháp và Đức. 1.2.3.Đặc điểm hàng rau quả và vai trò của xuất khẩu rau quả đối với Việt Nam 1.2.3.1.Đặc điểm hàng rau quả xuất khẩu của Việt Nam Nghiên cứu và nắm bắt nhu cầu thị trường luôn là mục tiêu được đặt lên hàng đầu đối với mỗi doanh nghiệp. Để đạt được thành công đòi hỏi các doanh nghiệp xuất khẩu phải nắm bắt được những đặc điểm riêng của từng thị trường. Đối với rau quả, là ngành hàng có nhiều đặc tính thì việc nghiên cứu đặc điểm của hàng rau quả lại càng cần thiết và hữu ích cho hoạt động xuất khẩu rau quả của Việt Nam.Có thể kể đến một số đặc điểm nôi bật : + Độ co giãn về cầu thấp Nông sản nói chung và rau quả nói riêng là loại hàng thiết yếu thúc đẩy xuất khẩu ra nước ngoài, tuy nhiên nếu được đầu tư cơ sở hạn tầng kỹ thuật tốt như trang thiết bị sản xuất, chế biến bảo quản và vận chuyển thì việc cải thiện chất lượng sản phẩm cho phù hợp với yêu cầu, nâng cao năng suất và sức cạnh tranh là điều trong tầm tay. Sau nhiều nghiên cứu cho thấy,thu nhập của người dân ngày một tăng, chất lượng cuộc sống ngày một nâng cao thì nhu cầu sử dụng rau quả tươi ngày càng tăng theo. Bảng 1 dưới đây sẽ cho thấy độ co giãn chi tiêu đối với một số loại mặt hàng rau quả. Sản phẩm Độ co giãn Su hào 0.46 Bắp cải 0.70 Cà chua 0.88 Các loại rau 0.54 Cam 1.45 Chuối 0.79 Xoài 1.38 Các loại quả 1.09 Rau quả chung 0.74 Nguồn: IFPRI, 2002 Điều này có nghĩa là khi thu nhập của hộ gia đình tăng thì tỷ trọng chi phí cho rau giảm và cho quả tăng cao hơn so với mức chi tiêu, trong đó cam và xoài là loại rau quả có độ co giãn theo thu nhập cao nhất. +Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm ảnh hưởng trực tiếp tới người tiêu dùng Cũng chính vì là hàng hoá thiết yếu phục vụ cho bữa ăn của con người nên vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm ngày càng trở nên quan trọng và được đưa lên hàng đầu bởi nó ảnh hưởng trực tiếp sức khoẻ của con người. Đặc biệt đối với rau đòi hỏi tính tươi nguyên nên con người có xu hướng sử dụng hoá chất để bảo quản rau quả. Đối với đất nước có nền nông nghiệp chưa thực sự phát triển thì việc áp dụng khoa học kỹ thuật trong quá trình sản xuất,thu hoạch bảo quản… còn nhiều hạn chế, vì vậy mà rau quả Việt Nam luôn gặp khó khăn với các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm của các quốc gia tiên tiến trên thế giới. Đây là vấn đề làm giảm sức cạnh tranh của rau quả Việt Nam trên thị trường các nước trong khu vực và trên thế giới. +Mang tính mùa vụ cao Do đặc điểm sinh trưởng của từng loại rau quả phải mất một thời gian nhất định mới có thể thu hoạch nên cung cầu về sản phẩm không cân bằng về mặt không gian và thời gian. Lượng cung rau quả trên thị trường của các vùng, địa phương sản xuất rau quả thường cao hơn rất nhiều so với các địa phương khác và đặc biệt vào mùa thu hoạch thường tập trung nhiều ở vùng sản xuất. Đối với thị trường trong nước,sau khi thu hoạch người sản xuất thường cung ứng ra thị trường mà không quan tâm đến giá cao hay thấp bởi đặc tính của rau quả phải giữ tươi nguyên, hàng loạt người sản xuất cùng một lúc cung ứng ra thị trường sau khi thu hoạch sẽ dẫn đến cung vượt quá cầu và tất yếu dẫn đến giá cả giảm, thậm chí còn thấp hơn chi phí sản xuất. Nhưng vào thời kỳ trái vụ lượng cung trên thị trường nông sản thấp hơn nhu cầu tiêu dùng thì giá cả sẽ tăng lên cao.Vì vậy người sản xuất cũng như nhà kinh doanh nên chú ý đặc điểm mang tính mùa vụ cao của rau quả mà có những biện pháp tăng sản xuất rau quả trái vụ và hướng ra xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu cao về rau quả trái vụ trên nhiêù thị trường. +Chịu sự tác động lớn của các tác nhân tự nhiên như khí hậu, thời tiết đất đai Mặt hàng nông sản chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện tự nhiên. Đối với rau quả Việt Nam thì điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng lớn tới năng suất cây trồng bởi nền nông nghiệp Việt Nam vẫn còn lạc hậu, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn hạn chế.Phụ thuộc lớn vào điều kiện tự nhiên nên sản lượng nông sản thu được ở các khu vực có sự biến động bất thường, những năm thời tiết thuận lợi mưa thuận gió hoà thì cấy cối phát triển mạnh cho năng suất cao,cung ứng ra thị trường dồi dào với giá rẻ. Ngược lại những năm có thời tiết khắc nghiệt, hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh….sản lượng thu được không cao,gây thiếu hụt lương thực trong nước.Chính vì vậy đòi hỏi người sản xuất phải có những biện pháp phòng ngừa, tích cực đầu tư trang thiết bị kỹ thuật, hạn chế sự phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên,chủ động đề ra năng suất kế hoạch đã được đề ra. 1.2.3.2. Vai trò của xuất khẩu rau quả đối với Việt Nam Xuất khẩu nông sản từ lâu đã đóng góp cao vào tổng kim ngạch xuất khẩu của đất nước. So với các nước trong khu vực thì tỷ trọng xuất khẩu nông sản trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tương đối cao, khoảng 30% trong khi đó Thái Lan chỉ có 15% và Trung Quốc là 7%. Theo nghiên cứu của các chuyên gia ngành rau quả và các nhà kinh doanh xuất khẩu thì sản xuất và xuất khẩu rau quả ngày càng cho hiệu quả kinh tế cao hơn. Đặc biệt trong xu thế về rau quả tươi trên thị trường thế giới tăng mạnh ngày càng tăng cao. Vì thế yếu tố hiệu quả kinh tế đã trở thành một lợi thế của hoạt động xuất khẩu rau quả tươi so với xuất khẩu các mặt hàng khác. Theo tổng kết của huyện Lục Ngạn, trồng vai thiều đến năm thứ 5 đã thu hồi được vốn và từ năm thư 6 trở đi đã có lãi trong khi trồng các cây công nghiệp khác thì thường từ năm thứ 8 trở đi mới bắt đầu sinh lời. Theo tính toán trồng vải thiều đạt gần 20 triệu VNĐ/ ha trong khi đó nếu trồng các loại cây lương thực chỉ thu được 3 triệu đồng/ ha. Hiệu quả thu hoạch một cây vải thiều 8 năm tuổi tương đương với thu nhập 3 sào lúa. Vì vậy xuất khẩu rau quả đang trở thành mục tiêu trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản Việt Nam. Mặt khác, sản xuất và xuất khẩu rau quả con kéo theo các ngành công nghiệp phụ trợ khác như: công nghiệp vận chuyển, sản xuất bao bì, chế biến…góp phần tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động trong xã hội…Như vậy, với những lợi thế sẵn có Việt Nam có thể phát triển ngành sản xuất và xuất khẩu rau quả nếu biết khai thác hợp lý những lợi thế so với các nước trong khu vực và thế giới và có thể đưa rau quả thành mặt hàng chủ lực trong hoạt động xuất khẩu nông sản Việt Nam. 1.2.3. Lợi thế của sản xuất và xuất khẩu rau quả của Việt Nam so với các nước khác Theo các chuyên gia trên thế giới, có 3 loại lợi thế cơ bản được tính đến trong cạnh tranh của ngành rau quả đó là :chi phí thấp, khả năng cung cấp rau quả trái vụ và khả năng cung cấp những rau quả khác lạ. Trên cơ sở phân tích 3 lợi thế này thì rau quả xuất khẩu Việt Nam có những đặc điểm sau: 1.2.3.1. Lợi thế về chi phí thấp Rau quả xuất khẩu của Việt Nam có lợi thế tương đối cao về giá so với các sản phẩm cùng loại trong khu vực và trên thế giới bởi lẽ Việt Nam có điều kiện tự nhiên thuận lợi và nguồn lao động rẻ dồi dào. Điều kiện tự nhiên bao gồm đặc điểm địa hình, đất đai khí hậu rất thuận lợi cho việc gieo trồng các loại rau quả có giá trị dinh dưỡng cao và có khả năng xuất khẩu ,thêm vào đó nguồn lao động rẻ dồi dào tạo điều kiện giảm chi phi sản xuất và giá thành sản phẩm so với các sản phẩm cùng loại các quốc gia khác. Về đất đai: Với diện tích đất nông nghiệp màu mỡ phì nhiêu , đồng bằng lớn trải rộng trên cả nước, thích hợp trồng các loại rau quả đa dạng và phong phú, kết hợp với khí hậu nhiệt đới và ôn đới ẩm từng vùng rõ rệt đã hình thành vùng chuyên canh rau quả hàng năm cho năng suất và chất lưọng cao. Trong đó diện tích trồng rau quả ngày càng được mở rộng , được mô tả theo bảng dưới đây: Bảng 5: Diện tích, sản lượng, giá trị xuất khẩu rau quả của Việt Nam (Đơn vị: nghìn ha, triệu tấn, USD) Năm 2005 2006 So với 2005 ( %) 2007 Diện tích trồng rau 695 845 21,41% 855 Sản lượng rau 7,98 10 25% 10,1 Diện tích trồng cây ăn quả 765 790 2,6% 800 Sản lượng quả 6,5 18,2 2,8% 7 Xuất khẩu 234,8 263 12% 340 Nguồn: cục trồng trọt 2007. Theo quy hoạch phát triển của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam sẽ tăng diện tích gieo trồng rau quả trong năm 2007 lên đến 1195 nghìn ha, giá trị xuất khẩu đạt 340 triệu USD và đến năm 2010 diện tích có khả năng trồng rau quả của Việt Nam lến đến 1,6 triệu ha, đạt giá trị xuất khẩu khoảng 600-700 triệu USD. Cũng như Việt Nam, Thái lan cũng là một nước nông nghiệp truyền thống lâu đời với diện tích 514 nghìn km2 (38% đất nông nghiệp, 20% là rừng) tuy nhiên sản lượng sản xuất và xuất khẩu nông sản của Thái Lan rất cao, đặc biệt là xuất khẩu rau quả .Như vậy có nghĩa là tiềm năng sản xuất nông sản và xuất khẩu rau quả của Việt Nam so với các nước trong và ngoài khu vực còn nhiều và chứa được khai thác một cách triệt để. Về khí hậu Khí hâu của Việt Nam là khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, thuận lợi để trồng nhiều loại cây rau, cây ăn quả có giá trị xuất khẩu cao. Địa hình tương đối phức tạp và có nhiều vùng tiểu khí hậu khác nhau đã hình thành các vùng sinh thái nông nghiệp khác nhau với những sản phẩm rau, cây ăn quả đa dạng được trồng khắp các vùng trong cả nước. Đối với các loại cây ăn quả có nguôn gốc Á nhiệt đới như: vải , hồng, đào, mơ.. thường được phân bố ở vùng đồng bằng Sông Hồng và Đông Bắc ,Tây Bắc. Còn đối với loại quả có nguồn gốc nhiệt đới như: Măng cụt ,sẩu riêng, chôm chôm…được phân bố từ Bình Định vào đồng bằng Sông Cửu Long. Từ các giống quả đặc sản của địa phương được thị trường ưa chuộng đã hình thành các vùng rau quả tập trung, các vùng quả đặc sản được hình thành như: vùng bưởi đặc sản Nam Sa( Vĩnh Long), Tân Triều (Đồng Nai), Đoan Hùng (Phú Thọ); vùng nhãn lồng Hưng Yên, vải Hải Dương, Bắc Giang… So với các nước trong khu vực và trên thế giới thì Việt Nam là đất nước được ưu đãi lớn về khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm là điều kiện thuận lợi lớn cho sản xuất nông sản và đặc biệt là rau quả với những chủng loại quả đặc trưng và rất được ưa chuộng trên thị trường thế giới .Tuy nhiên sản lượng xuất khẩu rau quả của Việt Nam so với các nước còn nhiều bất cập do chưa khai thác hết được lợi thế về điều kiên tự n._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32900.doc
Tài liệu liên quan