Thực trạng xuất khẩu giầy dép của Việt Nam và một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu giầy dép

Lời nói đầu Trong thời đại ngày nay, việc duy trì và mở rộng quan hệ thương mại đã trở thành vấn đề sống còn đối với các quốc gia. Có thể nói không một quốc gia nào có thể phát triển nhanh chóng nếu không mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, đặc biệt là những nền kinh tế có quy mô nhỏ và kém phát triển như nước ta. Một trong những bước đi quan trọng của quá trình mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế là xây dựng nền kinh tế hướng về xuất khẩu, tham gia vào các định chế liên kết khu

doc93 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1497 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng xuất khẩu giầy dép của Việt Nam và một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu giầy dép, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vực và toàn cầu. Tự do hoá thương mại và mở cửa thị trường làm ranh giới giữa thị trường trong và ngoài nước thu hẹp lại. Trước xu thế chung của thế giới cũng như những thành tựu đổi mới đã và đang tạo đà cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam, chiến lược phát triển hợp lý nhất mà chúng ta lựa chọn và khẳng định là hướng mạnh vào xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu ngành hàng xuất khẩu sang dạng chế biến sâu, mở ra những mặt hàng mới, có giá trị thặng dư cao. Chiến lược đó đã đem lại cho ngành giầy dép những động lực và định hướng phát triển mới: “phát triển mạnh công nghiệp nhẹ, nhất là dệt may, giầy dép, giấy, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Đầu tư hiện đại hoá dây chuyền công nghệ, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm. Chuyển dần việc gia công dệt may, đồ da sang mua nguyên liệu, vật liệu để sản xuất hàng xuất khẩu. Coi trọng nâng cao năng lực tiếp thị để mở rộng thị trường...”- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam. Cũng giống như nhiều quốc gia khác, ngành giầy dép đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá. Kim ngạch xuất khẩu của ngành giầy dép chiếm vị trí quan trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Từ năm 1993, ngành giầy dép trở thành một trong 10 ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu đứng thứ 3 sau dầu thô, dệt may. Năm 1998, dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng nhưng xuất khẩu giầy dép vẫn đạt 1000,8 triệu USD và vươn lên vị trí thứ 3 trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Theo ước tính, năm 2000, kim ngạch xuất khẩu hàng giầy dép có thể đạt 1650 triệu USD, tiếp tục đứng thứ 3 trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Tuy nhiên những thành quả đạt được đó vẫn chưa đúng với khả năng và tiềm năng của ngành giầy dép do nguyên nhân từ nhiều phía. Những tồn tại và khó khăn của xuất khẩu hàng giầy dép làm cho đề tài “Thực trạng xuất khẩu hàng giầy dép của Việt Nam và một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu giầy dép” trở nên cấp thiết. Đề tài nghiên cứu bản chất, vai trò của xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng giầy dép nói riêng với viêc phân tích, đánh giá thực trạng về khả năng cạnh tranh cũng như xuất khẩu của sản phẩm để từ đó đề xuất một số biện pháp để giải quyết những khó khăn, nâng cao khả năng xuất khẩu và thúc đẩy xuất khẩu hàng giầy dép của Việt Nam. Để đạt được mục đích của đề tài, khoá luận tập trung nghiên cứu trên ba vấn đề cơ bản: Những vấn đề tổng quan xuất khẩu giầy dép của Việt Nam: nghiên cứu những lý luận về hoạt động xuất khẩu nói chung cũng như xuất khẩu giầy dép nói riêng; vai trò của mặt hàng giầy dép đối với nền kinh tế Việt Nam. Thực trạng xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam trong những năm gần đây: Phân tích những khó khăn, thuận lợi của ngành giầy dép Việt Nam trong xuất khẩu sang những thị trường chủ yếu. Trên cơ sở phân tích tình hình buôn bán giầy dép trên thế giới để đánh giá khả năng cạnh tranh và xuất khẩu của hàng giầy dép Việt Nam. Từ đó đưa ra những đánh giá thuận lợi và khó khăn trong hoạt động xuất khẩu giầy dép của Việt Nam. Xác định mục tiêu, định hướng phát triển hàng giầy dép Việt Nam, đề xuất những biện pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam: Trên cơ sở những mục tiêu, định hướng đã xác định, khoá luận đề xuất một số biện pháp giải quyết khó khăn cho các doanh nghiệp cũng như những hỗ trợ cần thiết từ phía Chính phủ nhằm tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất và xuất khẩu hàng giầy dép, khuyến khích nâng cao hiệu quả xuất khẩu để ngành giầy dép thực sự trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài chủ yếu dựa trên những quan điểm và tư duy đổi mới của Đảng và Nhà nước, sử dụng phương pháp suy luận biện chứng, phân tích và đánh giá các hiện tượng kinh tế một cách khách quan trong mối quan hê với các hoạt động kinh doanh khác và chủ yếu theo phương pháp nghiên cứu tại bàn thông qua sách báo, tài liệu, các phương tiện thông tin. Khoá luận gồm 3 chương: Chương I: Xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân. Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng giầy dép của Việt Nam. Chương III: Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu giầy dép của Việt Nam. Vì trình độ và khả năng có hạn cũng như thiếu những kinh nghiệm thực tế nên khoá luận không thể tránh khỏi những hạn chế và sai sót nhất định. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy giáo hướng dẫn và các bạn để bài viết hoàn chỉnh hơn. Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn GS - TS - NGƯT Bùi Xuân Lưu đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này. Chương I Vai trò của mặt hàng giầy dép trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam Xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân 1. Khái niệm xuất khẩu Ngoại thương có vai trò rất to lớn trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Trên lý thuyết và trong lịch sử phát triển của kinh tế toàn cầu cho thấy một quốc gia không thể tồn tại riêng rẽ mà vẫn phát triển thuận lợi được. Ngoại thương mở rộng khả năng tiêu dùng của mỗi nước, nó cho phép một quốc gia tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với giới hạn của khả năng sản xuất trong nước nếu nó thực hiện chế độ tự cung tự cấp, không buôn bán với bên ngoài. Ngoại thương là sự trao đổi hàng hoá giữa nước này với nước khác thông qua các hoạt động mua và bán. Trong đó, nhập khẩu là mua hàng hoá và dịch vụ của nước ngoài, xuất khẩu là bán hàng hoá và dịch vụ cho nước ngoài trên cơ sở sử dụng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hay cả hai quốc gia. Cơ sở của hoạt động xuất khẩu hàng hoá là hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá trong nước. Khi việc trao đổi này giữa các quốc gia đem lại lợi ích cho cả hai bên, các nước đều quan tâm mở rộng hoạt động này. Thực tế cho thấy nếu mỗi quốc gia chỉ đóng cửa nền kinh tế của mình, áp dụng phương thức tự cung tự cấp thì không bao giờ có cơ hội để vươn lên, củng cố thế lực của mình và nâng cao đời sống nhân dân. Xuất khẩu là hình thức cơ bản của ngoại thương, đã xuất hiện từ rất lâu đời và ngày càng phát triển. Nó diễn ra trên mọi lĩnh vực, mọi điều kiện kinh tế, từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng đến xuất khẩu hàng hoá sản xuất, từ máy móc thiết bị đến các công nghệ kỹ thuật cao. Tất cả các hoạt động trao đổi đó đều nhằm mục tiêu là đem lại lợi ích cho các quốc gia. Xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rất rộng cả về không gian lẫn thời gian. Nó có thể chỉ diễn ra trong phạm vi lãnh thổ của các nước khác nhau, có thể được tiến hành trong một hai ngày hoặc kéo dài hàng năm. Theo David Ricardo- nhà kinh tế học người Anh thì cơ chế xuất hiện lợi ích của ngoại thương là: Mọi nước đều có lợi khi tham gia vào phân công lao động quốc tế bởi vì ngoại thương cho phép mở rộng khả năng tiêu dùng của mỗi nước do chỉ chuyên môn hoá vào sản xuất một số sản phẩm nhất định và xuất khẩu hàng hoá của mình để đổi lấy hàng nhập khẩu từ nước khác. Những nước có lợi thế tuyệt đối hoàn toàn hơn nước khác, hoặc bị kém lợi thế tuyệt đối hơn so với nước khác trong việc sản xuất mọi sản phẩm thì vẫn có thể và vẫn có lợi khi tham gia vào phân công lao động quốc tế bởi vì mỗi nước có một lợi thế so sánh nhất định về một số mặt hàng và kém lợi thế so sánh về một số mặt hàng khác. David Ricardo cho rằng lợi ích của thương mại quốc tế chính là bắt nguồn từ sự khác nhau về chi phí cơ hội- là chi phí bỏ ra để sử dụng cho một mục tiêu nào đó- ở các quốc gia. Khi các cơ hội ở tất cả các quốc gia đều giống nhau thì không có lợi thế so sánh và cũng không có khả năng nảy sinh các lợi ích do chuyên môn hoá sản xuất và thương mại quốc tế. Đó chính là nội dung cơ bản của quy luật lợi thế so sánh: các nước sẽ có lợi khi chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm mà họ làm ra với chi phí cơ hội nhỏ hơn các nước khác. Phát triển lý thuyết của D.Ricardo, Eli Hecksher và Bertil Ohlin - hai nhà kinh tế học người Thuỵ Điển- đã trình bày thuyết ưu đãi về các nguồn lực sản xuất vốn có, gọi là lý thuyết H-O và đề ra quy luật H-O về tỷ lệ cân đối các yếu tố sản xuất “một nước sẽ xuất khẩu loại hàng hoá mà việc sản xuất nó cần nhiều nhân tố rẻ và tương đối sẵn có của nước đó và nhập khẩu loại hàng hoá mà việc sản xuất cần nhiếu yếu tố đắt và tương đối khan hiếm hơn ở nước đó”. Quy luật này chi phối động thái phát triển của thương mại quốc tế và có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn quan trọng đối với các nước đang phát triển và chưa phát triển. Nó chỉ ra rằng, với các nước đông dân và nhiều lao động nhưng lại thiếu vốn trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá cần tập trung sản xuất và xuất khẩu nhiều những hàng hoá sử dụng nhiều lao động và nhập khẩu những hàng hoá sử dụng nhiều vốn. Việc lựa chọn các sản phẩm xuất khẩu, đặc biệt là việc xây dựng chiến lược về các mặt hàng xuất khẩu chủ lực phù hợp với các lợi thế so sánh về các nguồn lực sản xuất vốn có sẽ là điều kiện cần thiết để các nước này có thể nhanh chóng hội nhập vào phân công lao động và hợp tác quốc tế, trên cơ sở lợi ích thu được từ ngoại thương đó sẽ đẩy mạnh sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động chủ yếu của ngoại thương, nó mang tính chất tất yếu của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế. Do những điều kiện khác nhau, mỗi quốc gia có lợi thế về những lĩnh vực này và bất lợi về những lĩnh vực khác trong việc sản xuất những hàng hoá khác nhau. Để có thể dung hoà được nguy cơ và lợi thế, tạo ra sự cân bằng trong quá trình sản xuất và tiêu dùng, các quốc gia phải tiến hành trao đổi với nhau, bán những gì mình có thể sản xuất nhiều hơn nhu cầu trong nước và phải mua những gì mình chưa có hoặc không có khả năng sản xuất từ những nước khác. Tuy nhiên, hoạt động xuất nhập khẩu không nhất thiết chỉ diễn ra những quốc gia có lợi thế về lĩnh vực này hay lĩnh vực khác, các quốc gia không có lợi thế về các điều kiện như nhân lực, tài chính, tài nguyên thiên nhiên, công nghệ, thông qua hoạt động trao đổi thương mại quốc tế cũng sẽ thu được những lợi ích, tạo điều kiện phát triển kinh tế trong nước. Tính tất yếu của hoạt động xuất nhập khẩu đã được chứng minh rất rõ thông qua lý thuyết về lợi thế so sánh của D. Ricardo. Theo đó, nếu một nước có hiệu quả thấp hơn so với các nước khác trong viêc sản xuất hầu hết các loại sản phẩm vẫn cần phải tham gia hoạt động xuất nhập khẩu vì có thể tạo ra lợi ích không nhỏ mà nếu bỏ qua quốc gia có thể mất cơ hội phát triển. Nói cách khác, trong những điểm bất lợi nhất vẫn có thể tìm ra những điểm có lợi nhất để khai thác. Khi tiến hành xuất khẩu, quốc gia có hiệu quả thấp trong việc sản xuất ra tất cả các loại hàng hoá sẽ có thể chuyên môn hoá vào sản xuất loại hàng hoá ít bất lợi nhất để trao đổi với các quốc gia khác và nhập về những hàng hoá mà việc sản xuất ra nó là bất lợi nhất để tiết kiệm được những nguồn lực của mình và thúc đẩy sự phát triển của sản xuất trong nước. 2. Vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân Xuất khẩu là một tất yếu khách quan và có vai trò quan trọng đối với các quốc gia, đặc biệt là nước ta, một nước có nền kinh tế phát triển chậm, cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu, không đồng bộ, dân số phát triển nhanh. Sự tăng trưởng kinh tế đòi hỏi mỗi quốc gia phải có những điều kiện về nhân lực, tài nguyên, vốn và công nghệ để thực hiện quá trình công nghiệp hoá của mình. Song hầu hết các nước đang phát triển như Việt Nam đều nằm trong tình trạng thiếu vốn, công nghệ và thừa lao động. Thực tế kinh nghiệm một số nước NICs và ASEAN cho thấy chiến lược tăng trưởng kinh tế trong công cuộc công nghiệp hoá là phát triển kinh tế hướng về xuất khẩu. Xuất khẩu đã được xác định là một trong những mũi nhọn có ý nghĩa quyết định đối với quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia. Công tác xuất khẩu được đánh giá quan trọng như vậy là do vai trò hết sức to lớn của nó đối với nền kinh tế quốc dân. Thứ nhất, xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ cho công nghiệp hoá đất nước. Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo và chậm phát triển của mỗi quốc gia. Để công nghiệp hoá đất nước trong một thời gian ngắn, đòi hỏi phải có một số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên, nguồn vốn ngoại tệ để nhập khẩu chủ yếu được hình thành từ các nguồn như: đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ, xuất khẩu sức lao động, hàng hoá trong nước ra nước ngoài... Các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ,...tuy quan trọng nhưng vẫn phải trả theo cách này hay cách khác. Như vậy, nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu, công nghiệp hoá đất nước chỉ có thể trông chờ vào xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng trưởng của nhập khẩu. ở những nước đang phát triển và chậm phát triển, một trong những nguyên nhân thiếu vốn trong quá trình phát triển là do ít có cơ hội xuất khẩu. Không xuất khẩu được một mặt không thu được ngoại tệ từ hoạt động này, mặt khác các nhà đầu tư cũng không ưa thích đầu tư vào quốc gia mà họ không thấy có khả năng phát triển xuất khẩu do đó lại càng thiếu vốn hơn nữa. Thứ hai, xuất khẩu đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Các cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại đã làm cho cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi một cách mạnh mẽ. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá từ nông nghiệp sang công nghiệp là phù hợp với xu thế tất yếu của nền kinh tế thế giới. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một là, xuất khẩu chỉ là tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Theo cách hiểu này thì đối với những quốc gia lạc hậu và chậm phát triển khi mà sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu cùng, nếu chỉ thụ động chờ sự “thừa ra” của sản xuất thì xuất khẩu chỉ ở quy mô nhỏ và tăng trưởng chậm, sản xuất và sự thay đổi cơ cấu kinh tế sẽ rất chậm chạp. Hai là, coi thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Quan điểm này chính là xuất phát từ quan điểm coi nhu cầu của thị trường thế giới là nhu cầu cần đáp ứng để tổ chức sản xuất. Điều đó tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này thể hiện ở chỗ: Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp cùng có cơ hội phát triển thuận lợi. Ví dụ, khi phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu có thể kéo theo sự phát triển của công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ nó hoặc nếu phát triển ngành giầy dép xuất khẩu thì các ngành sản xuất nguyên liệu như chăn nuôi, thuộc da, hoá chất... cũng phát triển theo. Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định. Xuất khẩu là phương tiện quan trọng để tạo ra vốn, thu hút kỹ thuật công nghệ mới từ các nước phát triển nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước, tạo ra năng lực sản xuất mới. Thông qua xuất khẩu, hàng hoá các quốc gia sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Do cạnh tranh sâu sắc trên thị trường quốc tế, các quốc gia buộc phải tổ chức lại sản xuất sao cho phù hợp và từ đó hình thành cơ cấu sản xuất hợp lý. Thứ ba, xuất khẩu tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Tác động của xuất khẩu ảnh hưởng đến rất nhiều lĩnh vực của cuộc sống. sản xuất hàng xuất khẩu sẽ tạo ra hàng triệu chỗ làm, góp phần giải quyết công ăn việc làm, tạo thu nhập ổn định cho người lao động. Đồng thời xuất khẩu tạo ra nguồn thu ngoại tệ để nhập khẩu những vật phẩm tiêu dùng mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất không có hiệu quả nhằm đáp ứng nhu cầu ngày một đầy đủ hơn, nâng cao mức sống của người dân. Bốn là, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại có thể phát triển sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như dịch vụ thương mại, bảo hiểm hàng hoá, thông tin liên lạc quốc tế, dịch vụ tài chính quốc tế, kinh doanh du lịch, khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên hiện có. Cuối cùng, hoạt động xuất khẩu tăng cường hợp tác và chuyên môn hoá quốc tế, là một mắt xích quan trọng trong quá trình phân công lao động, nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Như vậy, với vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế, việc đẩy mạnh xuất khẩu đã trở thành vấn đề được quan tâm hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia nói chung cũng như của Việt Nam nói riêng. II. Vai trò của mặt hàng giầy dép trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam Ngành công nghiệp giầy dép Việt Nam ra đời và ngày càng lớn mạnh là phù hợp với yêu cầu phát triển hiện nay của đất nước. Căn cứ vào đường lối phát triển kinh tế- xã hội theo hướng công nghiệp hoá đất nước của Đảng và Chính phủ, với vai trò quan trọng của việc xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, Việt Nam đã đưa ra hướng phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực tới năm 2010: Trong những năm tới, đối với sản phẩm xuất khẩu chủ lực cần tập trung vào một số sản phẩm sử dụng ngay những lợi thế cạnh tranh về nguồn lao động rẻ hơn là những sản phẩm sử dụng nhiều vốn. Những lợi thế này ở các lĩnh vực nông, lâm, hải sản, công nghiệp nhẹ và chế biến thực phẩm (dệt may, da giầy...) và một số khoáng sản có giá trị. Do vậy cần tập trung có trọng điểm (khoảng trên 10 mặt hàng) khai thác sản xuất có chuyên môn hoá cao, chế biến sâu với công nghệ tiên tiến thích hợp, đạt tiêu chẩn quốc tế, có nhu cầu tương đối lớn trên thị trường thế giới trong vòng 10 năm tới, đảm bảo đồng bộ các khâu thực hiện sản phẩm cuối cùng và năng suất, chất lượng hiệu quả cao trong xuất khẩu trên cơ sở tính toán đầy đủ chi phí đầu vào cho thực hiện sản phẩm cuối cùng trên thị trường thế giới. Phù hợp với định hướng chung đó, ngành công nghiệp giầy dép đã và đang được đầu tư phát triển mạnh. 1. Khả năng sản xuất và xuất khẩu giầy dép của Việt Nam Đến năm 1987, sản xuất giầy và đồ da Việt Nam mới bắt đầu phôi thai trở thành một ngành công nghiệp với quy mô ban đầu rất nhỏ bé, cơ sở sản xuất sơ sài, sản phẩm chủ yếu được sản xuất thủ công, chất lượng kém, quan hệ với nước ngoài chủ yếu là thực hiện các hợp đồng gia công mũ giầy cho Liên Xô và các nước XHCN Đông âu. Với biến động chính trị ở thị trường này, năm 1991, 1992, ngành da giầy Việt Nam gặp khó khăn lớn do thiếu đơn hàng, máy móc thiết bị lại lạc hậu, đội ngũ nhân lực trình độ còn yếu kém, sản phẩm làm ra không phù hợp nhu cầu thị trường nên sản xuất và xuất khẩu bị đình trệ. Từ năm 1993, ngành Da giầy Việt Nam khởi sắc trở lại nhờ làn sóng di chuyển sản xuất, và cùng với đó là sự di chuyển của đơn hàng từ những nước có truyền thống về sản xuất da giầy như Hàn Quốc, Đài Loan sang nước ta. Đơn hàng dồi dào cũng khuyến khích các doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư trang bị lại máy móc thiết bị nhằm nâng cao năng lực sản xuất, đáp ứng nhu cầu của thị trường mới. Chỉ trong vòng 4 năm (1992-1996), nhờ mạnh dạn đầu tư đổi mới trang thiết bị thông qua liên doanh liên kết, ngành Da giầy Việt Nam gồm tất cả các thành phần kinh tế đã đầu tư ước đạt 450 triệu USD (gồm cả vốn đầu tư xây dựng nhà xưởng), gần một nửa dùng để mua sắm máy móc thiết bị, trong đó, hơn 55% vốn huy động từ nước ngoài thông qua hình thức góp vốn liên doanh và vay trả chậm. Đến nay ngành Da giầy Việt Nam đã bổ sung hoàn chỉnh và trang bị đồng bộ được trên 300 dây chuyền sản xuất giày, sửa chữa gần 200.000m2 và xây dựng mới trên 240.000 m2 nhà xưởng. Năng lực sản xuất của ngành đã tăng hơn 7 lần so với năm 1992. Quá trình đầu tư và phát triển sản xuất, kinh doanh xuất khẩu đã tạo ra khoảng 300.000 việc làm mới, đào tạo lao động có tay nghề tốt hơn, học vấn cao hơn, phong cách làm việc hiện đại hơn so với trước đây. Bên cạnh đó, trình độ quản lý kỹ thuật sản xuất, quản trị kinh doanh, khả năng tiếp thị... của đội ngũ cán bộ quản lý đã được nâng lên rõ rệt. Phần lớn máy móc thiết bị nhập từ Đài Loan, Hàn Quốc phù hợp với điều kiện tài chính và trình độ kỹ thuật hiện nay của Việt Nam nên cũng phần nào phát huy hiệu quả. Cùng với những nỗ lực chung của ngành của mỗi doanh nghiệp, tính đến hết năm 1999 về cơ bản, cả nước đã thiết lập được một mạng lưới sản xuất giầy dép chủ yếu là để xuất khẩu, với khả năng cung cấp ra thị trường gần 300 triệu đôi giầy dép các loại trong đó giầy thể thao chiếm gần 50% và có xu hướng ngày càng tăng. Cho tới nay, toàn ngành giầy dép có gần 160 nhà máy và cơ sở sản xuất với trên 300 dây chuyền đồng bộ, công suất thiết kế đạt 360 triệu đôi/năm (Nguồn: Hiệp hội Da giầy Việt Nam-1999). Bảng I.1: Công suất sản xuất giầy dép tính theo thành phần kinh tế Đơn vị: triệu đôi ( Nguồn: Hiệp hội Da-giầy Việt Nam) Trong năm 1997, 1998, năng lực sản xuất thực tế thấp hơn so với công suất thiết kế phần lớn là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á, đặc biệt các nhà đầu tư nước ngoài gặp phải khó khăn về tài chính nên phải thu hẹp sản xuất, sa thải công nhân và vì vậy mà năng lực sản xuất bị giảm sút đáng kể. Nhưng điều này cũng không kéo dài, sang năm 1999, khi nền kinh tế các nước trong khu vực và Châu á phục hồi thì năng lực sản xuất của ngành có xu hướng được khôi phục lại. Quy chế điều hành xuất khẩu mới cho phép các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được tham gia xuất nhập khẩu trực tiếp đã tạo ra môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Tình hình xuất khẩu giầy dép của các thành phần kinh tế được thể hiện trong bảng I.2 dưới đây. Khu vực các doanh nghiệp trong nước vẫn giữ vị trí chủ đạo trong tổng kim ngạch xuất khẩu giầy dép, chiếm trên 50% tổng giá trị kim ngạch hàng năm. Tuy nhiên cũng có thể thấy xu thế hiện nay các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang nâng dần tỷ trọng trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Năm 1996, kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài mới chỉ đạt 79,58 triệu USD chiếm 15,06%, nhưng năm 1998 đã tăng lên 393,55 triệu USD và chiếm 29,33% trong tổng kim ngạch xuất khẩu giầy dép của Việt Nam. Phía các doanh nghiệp trong nước, tỷ trọng kim ngạch có xu hướng giảm dần: năm 1996 chiếm 67,54% đến năm 1998 còn 58,67% tổng kim ngạch. Bảng I.2: Kim ngạch xuất khẩu giầy dép theo thành phần kinh tế Đơn vị: triệu USD 1996 Tỷ trọng (%) 1997 Tỷ trọng (%) 1998 Tỷ trọng (%) Các DN trong nước 357,00 67,54 550,40 57,06 587,17 58,67 Các DN 100% vốn NN 79,58 15,06 262,13 27,18 393,55 29,33 Các DN liên doanh 91,98 17,40 152,01 15,76 120,10 12,00 Tổng cộng 528,55 100 964,54 100 1000,82 100 Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt Nam Nhu cầu thị trường thế giới Số lượng giầy dép tiêu thụ trên thị trường thế giới phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tốc độ tăng dân số hàng năm, mức tăng thu nhập và yếu tố giá cả. Khi thu nhập ngày càng cao, nhu cầu về giầy dép của người tiêu dùng ngày càng lớn, yêu cầu về chất lượng ngày càng cao, đồng thời cũng có sự lựa chọn lớn hơn về chủng loại, kiểu dáng, tính thời trang gắn với thị hiếu, thói quen tiêu dùng, bản sắc văn hoá dân tộc. Tình hình kinh tế thế giới xấu đi vào cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 đã dẫn đến những thay đổi mạnh mẽ về sức mua trên thị trường giầy dép thế giới. Điều này được thể hiện trong bảng I.3 dưới đây. Nếu như năm 1995, mức tiêu dùng giầy dép thế giới đạt trên 10 tỷ đôi/năm thì đến năm 1999, con số này chỉ là trên 11 tỷ. Trong thời kỳ này, tốc độ tăng của sức mua bình quân trên thế giới chỉ đạt 2,75%/năm, trong đó khu vực Châu á và Đông âu đều đạt mức tăng khá khiêm tốn, khoảng 2,3%/năm, khu vực các nước phát triển Tây âu chỉ tăng 1,2%/năm. Khu vực tiêu dùng tăng khá hơn là Trung và Nam Mỹ với tốc độ tăng bình quân đạt 7,17%/năm, trong khi các nước Tây và Trung Phi tăng 3,8%/năm, còn khu vực Bắc Mỹ thì hầu như dậm chân tại chỗ. Bảng I.3: Tiêu thụ giầy dép thế giới năm 1995-1999 Đơn vị: triệu đôi Khu vực Năm 1995 Năm 1999 Số lượng Tỷ trọng (%) Số lượng Tỷ trọng (%) Tây Âu, trong đó: -EU -Những nước còn lại 1.755 1.601 151 17,3 15,8 1,5 1.844 1.687 157 16,3 14,9 1,4 Trung và Đông Âu 1.333 13,1 1.467 13,0 Bắc Mỹ 1.473 14,5 1.484 13,1 Trung và Nam Mỹ 930 9,2 1.227 10,8 Châu á 3.854 38,0 4.356 38,5 Trung và Tây Phi 720 7,1 838 7,4 Châu Đại Dương 82 0,8 97 0,9 Tổng số 10.147 100 11.313 100 Nguồn: FAO, Shoe and Leather News 1999 Xét theo khu vực địa lý, Châu á là khu vực tiêu thụ giầy dép lớn nhất. Năm 1999, các nước Châu á tiêu thụ tới 4,356 tỷ đôi, chiếm 38,5% khối lượng giầy dép tiêu thụ toàn thế giới. Khu vực tiêu thụ lớn thứ hai là Tây âu, 1,844 tỷ đôi trong năm 1999, chiếm 16,3% sản lượng giầy dép tiêu thụ toàn thế giới. Tiếp theo là Bắc Mỹ với 1,484 tỷ đôi được tiêu thụ năm 1999, chiếm 13,1% lượng giầy dép toàn thế giới, sau đó là các khu vực Trung và Đông âu, Trung Nam Mỹ, Trung và Tây Phi. Những nước và khu vực tiêu thụ giầy dép lớn trên thế giới năm 1998 là: Trung Quốc: 2078 triệu đôi Mỹ: 1610 triệu đôi Nhật Bản: 426 triệu đôi Đức: 385 triệu đôi ấn Độ: 384 triệu đôi Đông Âu: 379 triệu đôi Brazil: 374 triệu đôi Pháp: 326 triệu đôi Mặc dù sản xuất và tiêu thụ giầy dép lớn nhất thế giới nhưng mức tiêu thụ giầy dép bình quân đầu người của Châu á lại rất thấp. Theo số liệu thống kê của Trung tâm Kỹ thuật Giầy Satra (Anh), mức tiêu thụ bình quân đầu người về mặt hàng giầy dép ở Châu á chỉ từ 1 đến 2 đôi/năm trong khi đó ở phương Tây con số kỷ lục là 5-6 đôi/năm. Số liệu về mức tiêu thụ giầy dép bình quân hàng năm tính trên đầu người ở một số nước như sau: Mỹ: 6 đôi/người Pháp: 5,8 đôi/người Anh: 5 đôi/người Đức: 4 đôi/người Philipine: 2 đôi/người Đài Loan: 1,8 đôi/người Trung Quốc: 1,7 đôi/người Pakistan: 1,4 đôi/người. 3. Vai trò của sản xuất và xuất khẩu giầy dép đối với nền kinh tế Đối với những nước đang phát triển, con đường ngắn nhất để thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển là thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. Việt Nam cũng lựa chọn con đường đó để phát triển. Để thực hiện thành công quá trình đó, chúng ta cần một lượng vốn lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị và công nghệ tiên tiến. Cùng với sự đóng góp của các nhân tố khác, sự phát triển của xuất khẩu cũng là một nhân tố quan trọng trong sự thành công của quá trình đổi mới nền kinh tế nước ta. Vài năm gần đây nổi lên một số mặt hàng có mức tăng trưởng hàng năm rất cao là giầy dép, dệt may, điện tử, chè, gạo, nhân điều... Với đặc điểm là sử dụng nhiều lao động, đơn giản về kỹ thuật, tốc độ đổi mới máy và thiết bị chậm, quy mô đầu tư nhỏ, trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, sản xuất giầy dép là một trong những ngành quan trọng và được đánh giá là một ngành mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế hướng về xuất khẩu của nước ta hiện nay. Với giá trị xuất khẩu năm 1997 đạt 965 triệu USD, năm 1998 đạt 1000,8 triệu USD và năm 1999 đạt 1392 triệu USD, chiếm hơn 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, hàng giầy dép xuất khẩu của Việt Nam đã đem lại một lượng vốn không nhỏ, làm tăng dự trữ ngoại tệ của quốc gia. Là một trong ba mặt hàng xuất khẩu chủ lực có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, giầy dép xuất khẩu đã góp phần tăng vai trò của việc xây dựng và phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Bảng I.4: Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực năm 1991-2000 Đơn vị tính: triệu USD Mặt hàng chủ lực 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 KH2000 Dầu thô 581 806 844 867 1.033 1.346 1.423 1.232 2.092 2.100 Dệt may 158 221 335 554 850 1.150 1.503 1.450 1.747 1.950 Giầy dép - 50 118 244,2 342,04 528,5 964,5 1000,8 1.392 1.650 Gạo 255 300 363 425 546,8 854,6 870,9 1.025 1.025 1.024 Thuỷ sản 285,4 307,7 427,2 551,2 621,4 697 782 858 971 1.100 Cà phê 74 92 110,6 328,2 595,5 336,8 497,5 594,4 585 600 Điện tử linh kiện - - - - - 89 440 502 585 700 Thủ công mỹ nghệ - - - - 66 78,7 121 111 168 180 Cao su 50 61 74,6 134,5 193,5 263 191 127,2 147 153 Hạt điều 26 41 44 72,5 97,7 76 133,3 117,6 94 100 Nguồn: Báo cáo tổng kết kế hoạch thương mại 1991-2000 của Bộ Thương Mại Hơn nữa, với tiềm năng xuất khẩu lớn, hiện nay ngành giầy dép Việt Nam đã thu hút được trên 30 vạn lao động từ lực lượng lao động nhàn rỗi và ít có tay nghề thông qua sản xuất hàng xuất khẩu, giải quyết tốt công ăn việc làm, góp phần cải thiện đời sống nhân dân, ổn định xã hội. Đồng thời sự phát triển của ngành có thể đem lại cơ hội phát triển cho những ngành khác có liên quan. Việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng giầy dép đã tạo động lực cho một số ngành khác như chăn nuôi gia súc, sản xuất cao su, nhựa hoá chất...có điều kiện phát triển. Không những thế, ngành còn có khả năng phát triển trên mọi vùng kinh tế trọng điểm của đất nước, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ theo hướng hợp lý. Bên cạnh đó, thông qua xuất khẩu, mặt hàng giầy dép của Việt Nam đã thâm nhập thị trường thế giới, từ đó mở rộng và thúc đẩy sự phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại giữa Việt Nam và các nước khác. Thế giới sẽ biết đến Việt Nam thông qua các sản phẩm giầy dép mà các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất. Nhờ đó các mối quan hệ khác cũng phát triển theo như du lịch quốc tế, vận tải quốc tế, tín dụng quốc tế...Sự phát triển những ngành này cũng tác động ngược trở lại tới hoạt động xuất khẩu giầy dép. Ngoài ra, do yêu cầu của thị trường thế giới và cũng do sự cạnh tranh khốc liệt mà các đơn vị sản xuất hàng giầy dép xuất khẩu luôn phải tìm tòi, cải tiến mẫu mã chất lượng sản phẩm nhằm đáp ứng một cách tốt nhất cho nhu cầu của thị trường. Từ đó góp phần đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường trong nước, đóng góp cho sự tăng trưởng GDP của đất nước. Như vậy, ngành giầy dép đã và đang có một vai trò quan trọng trong nền kinh tế của nước ta. Ngành có đầy đủ khả năng để là một trong những ngành hà._.ng xuất khẩu chủ lực: - Chiếm vị trí quyết định trong kim ngạch xuất khẩu do có thị trường ngoài nước và điều kiện sản xuất trong nước thuận lợi. - Đạt kim ngạch từ 100 triệu USD trở lên, đặc biệt là mặt hàng đạt từ 500 triệu USD trở lên. - Ngành đặc biệt quan tâm đến hiệu quả kinh tế-xã hội và an toàn môi trường, tạo nền móng cho sự ra đời và phát triển những sản phẩm xuất khẩu chủ lực có giá trị kim ngạch lớn hơn nữa trong tương lai của 5, 10 năm tiếp theo. - Việc sản xuất và xuất khẩu mặt hàng này đem lại lợi ích to lớn, phù hợp với giai đoạn phát triển hiện nay của nền kinh tế. Chương II thực trạng xuất khẩu hàng giầy dép của Việt Nam I . Khái quát tình hình thị trường giầy dép thế giới 1. Tình hình sản xuất giầy dép trên thế giới Từ năm 1989 đến nay, sản lượng giầy dép trên thế giới liên tục biến động, từ 10,311 tỷ đôi năm 1989 giảm xuống 9,632 tỷ đôi năm 1992 và sau đó lại tăng lên tới 10,387 tỷ đôi trong năm 1998. Trong giai đoạn 1992-1998, tốc độ tăng bình quân sản lượng giầy dép trên thế giới đạt 1,26%/năm. Khu vực sản xuất giầy dép lớn nhất thế giới là Châu á với sản lượng chiếm tới 2/3 tổng sản lượng giầy dép thế giới (năm 1999), tiếp đến là Tây Âu (khoảng 10%), Đông và Trung Âu (9%). Sự biến động sản lượng giầy dép thế giới là kết quả của hai xu thế trái ngược nhau trong tốc độ tăng sản lượng giầy dép của hai khối nước phát triển và đang phát triển. Nếu như sản lượng giầy dép của các nước Châu á tăng liên tục với tốc độ tăng bình quân 2,4%/năm thì trong cùng thời kỳ, sản xuất của hai khu vực Tây Âu, Trung và Đông Âu liên tục giảm (-0,28% và -9,66%/năm). Các nước Châu á là khu vực sản xuất giầy chủ yếu của thế giới, trong những năm 80, sản lượng chiếm 40% tổng sản lượng giầy của thế giới, năm 1998 đã tăng lên tới 64,5%, đến nay, sản lượng giầy dép do khu vực này sản xuất chiếm gần 70% tổng sản lượng giầy dép thế giới, trong đó có sự đóng góp đáng kể của một số nước có sản lượng giầy dép tăng trưởng khá mạnh mẽ như Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia và Việt Nam. Trong khi đó, ở một số nước Tây Âu, sản xuất giầy dép có xu hướng ngày càng giảm sút, tỷ trọng của các nước này trong tổng sản lượng giầy dép của thế giới đã giảm từ 16% năm 1980 xuống còn 10,2% năm 1998. Trong cùng kỳ, tỷ trọng giầy dép sản xuất của các nước Đông Âu giảm từ 20% xuống còn 9%, các nước Bắc Mỹ giảm từ 9% xuống còn 5%, và các nước Châu Phi và Châu Đại Dương giảm từ 5% xuống còn 3,3%. 10 nước và khu vực sản xuất giầy dép lớn trên thế giới năm 1996 là Trung Quốc, Hongkong, Indonesia, Thái Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đông Âu, Italia. Brazil, Mỹ với tổng sản lượng giầy dép chiếm khoảng 64% sản lượng giầy dép toàn thế giới. Bảng II.1: sản xuất giầy dép trên thế giới Đơn vị: triệu đôi Khu vực Sản xuất năm 1989 Sản xuất năm 1992 Sản xuất năm 1998 Số lượng Tỷ trọng(%) Số lượng Tỷ trọng(%) Số lượng Tỷ trọng(%) Châu á 5,539 53,7 6,084 63,3 6,869 64,6 Trung-Đông Âu 1,722 16,7 0,630 6,6 0,690 9,0 Tây Âu 1,111 10,8 1,102 11,5 1,083 10,2 Nam Mỹ 0,901 8,7 0,813 8,4 0,808 7,6 Trung-Bắc Mỹ 0,696 6,7 0,680 6,3 0,574 5,4 Châu Phi 0,313 3,1 0,301 3,0 0,338 3,1 Châu Đại Dương 0,029 0,3 0,022 0,2 0,025 0,2 Tổng số 10,311 100 9,632 100 10,387 100 Nguồn: FAO, Shoe and Leather News 1993-1999 1.1 Sản xuất giầy dép của Trung Quốc Trong nhiều năm qua, Trung Quốc luôn luôn dẫn đầu thế giới về sản xuất giầy dép với sản lượng tăng mạnh hàng năm, đạt 3,958 tỷ đôi năm 1996, chiếm khoảng 40% sản lượng giầy dép thế giới. Từ năm 1989 đến 1996, sản lượng giầy dép tăng 75,9%, tốc độ tăng bình quân là 7,98%/năm. Sản phẩm giầy dép chủ yếu của Trung Quốc là giầy da, giầy vải, giầy thể thao và dép các loại, trong đó sản phẩm giầy da chiếm khoảng 40%, đạt 1,544 tỷ đôi năm 1994, tăng 6,7% so với năm 1984. Kinh nghiệm của Trung Quốc là đa dạng hoá sản phẩm với mọi chủng loại phong phú, từ loại có giá rẻ đến những sản phẩm giầy dép cao cấp, có kiểu dáng hình thức đẹp nhưng chất lượng vừa phải. Đây cũng là một ưu thế cạnh tranh của sản phẩm giầy dép Trung Quốc trên thị trường thế giới. Quan sát những thành tựu đạt được trong ngành Da giầy của Trung Quốc có thể thấy rõ ràng con đường phát triển sản xuất đơn giản và nhanh nhất mà Trung Quốc áp dụng là “bắt chước” những thành phố công nghiệp da giầy của Italia để tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao giúp ngành Da giầy Trung Quốc tăng thu 4 tỷ USD/năm. Hiệp hội Da giầy Trung Quốc đã xây dựng chiến lược lâu dài nhằm đưa Trung Quốc trở thành nước sản xuất da giầy hàng đầu thế giới. 1.2 Sản xuất giầy dép của Italia Bảng II.2: sản lượng và xuất khẩu giầy dép của Italia Đơn vị: triệu đôi Năm 1993 1994 1997 1998 Tốc độ tăng bình quân/năm (%) Sản lượng 451,703 471,307 476,230 484,326 1,4 Xuất khẩu 400,249 424,868 426,745 447 2,23 Nguồn: National Federation - Eurostat Năm 1998, với khối lượng sản xuất gần 485 triệu đôi giầy dép, Italia là nước sản xuất giầy dép lớn thứ tư trên thế giới, đồng thời cũng là nước sản xuất giầy dép lớn nhất EU, chiếm 60% khối lượng sản xuất giầy của cả khối. Thêm vào đó, Italia còn là nước có nền sản xuất vật liệu, phụ liệu hoá chất và nhất là máy móc thiết bị nổi tiếng ở Châu Âu và trên thế giới, tốc độ tăng trưởng sản xuất và xuất khẩu sản phẩm này trong thời kỳ 1993-1998 ở mức vừa phải (2%/năm). Có thể nói thành công của ngành da giầy ở đất nước này là do có một mô hình tổ chức ngành thuộc da làm giầy ít nước sánh kịp. Công nghiệp giầy dép của Italia luôn luôn đi tiên phong trong các lĩnh vực thiết kế thời trang, cải tiến kỹ thuật và công nghệ sản xuất giầy dép của thế giới. Chính vì lí do này, ngược với xu thế giảm sản lượng của các nước khác trong khối EU trong thời gian qua, sản lượng giầy của Italia vẫn tăng đều đặn qua các năm, đạt mức 484,326 triệu đôi năm 1998, tăng 7,2% so với năm 1993. Mục tiêu chính trong phát triển sản xuất giầy dép của Italia là phục vụ cho xuất khẩu, trung bình tới hơn 85% sản lượng sản xuất hàng năm được đem ra thị trường thế giới với giá xuất khẩu trung bình 15,62 USD/đôi năm 1999, trung bình tăng 2,4%/năm. Chiến lược phát triển của ngành giầy dép Italia là tăng số lượng các nhà sản xuất thay vì mở rộng quy mô của các nhà máy sẵn có, ngay cả khi họ đã có tiềm lực trên thị trường. Sự lựa chọn mang tính chiến lược này tỏ ra thích hợp vì giầy dép là mặt hàng có những đặc tính riêng biệt so với các hàng tiêu dùng khác, luôn gắn bó mật thiết với thời trang, tính linh hoạt của nhà sản xuất khá cao do không ngừng đổi mới và cải tiến sản phẩm để theo kịp được những thay đổi nhanh chóng của thị trường. 2.3 Sản xuất giầy dép của ấn Độ Từ mức sản lượng khá khiêm tốn 200-230 triệu đôi/năm đạt được trong thập niên 80, sản xuất giầy dép của ấn Độ đã tăng tưởng vững chắc lên được mức 500 triệu đôi/năm trong thập kỷ 90. Với mức sản lượng kỷ lục này, ấn Độ đã vươn lên thành nước sản xuất giầy dép lớn thứ ba trên thế giới trong năm 1996. Trong thời kỳ 1989-1996, sản lượng giầy dép của ấn Độ tăng tới 118%, tốc độ tăng bình quân hàng năm là 17,1%. Sau nhiều năm phát triển thận trọng, ấn Độ chỉ là nhà cung cấp nguyên liệu thô và bán thành phẩm, trong những năm gần đây, Chính phủ ấn Độ đã ban hành những chính sách mới, chuyển hướng đầu tư vào lĩnh vực hiện đại hoá ngành chế biến da và sản xuất giầy dép, xoá bỏ những thói quan liêu làm nản lòng các chủ doanh nghiệp. Trong công nghiệp da, Chính phủ khuyến khích sản xuất những sản phẩm có giá trị gia tăng như may mặc, giầy dép và những mặt hàng da cho xuất khẩu. Đây là sự thay đổi định hướng quan trọng làm thay đổi tỷ lệ xuất khẩu da và sản phẩm da trong 10 năm qua. Theo dự đoán, năm 2000, ngành công nghiệp Da giầy ấn Độ sẽ đạt sản lượng 900 triệu đôi, đồng thời Phòng Thương mại và Công nghiệp của ấn Độ cũng đã đưa ra chiến lược phát triển ngành da giầy trong những năm tới, với mục tiêu đưa ấn Độ trở thành một trong những nước sản xuất và xuất khẩu hàng đầu thế giới về da và các sản phẩm ngành da vào năm 2001. 1.4 Sản xuất giầy dép của Brazil Brazil là nước sản xuất giầy dép lớn thứ hai trên thế giới năm 1996, đồng thời là nước có vai trò chủ đạo trong ngành công nghiệp giầy dép ở Nam Mỹ. Trong những năm 80 và đầu những năm 90, sản lượng giầy dép của Brazil đạt trên 500 triệu đôi, nhưng vào những năm 90, sản xuất có xu hướng giảm nhẹ, xuống còn 490 triệu đôi (năm1996). 1.5 Sản xuất giầy dép của Indonesia Indonesia là nước sản xuất giầy dép lớn thứ năm trên thế giới trong năm 1996. Ngành công nghiệp giầy Indonesia phát triển với tốc độ nhanh trong năm năm qua và trở thành một trong những ngành công nghiệp chủ chốt của đất nước. Từ năm 1989 đến năm 1996, sản lượng giầy dép tăng 100,5%, bình quân tăng 10,41%/năm, tuy những năm gần đây sản lượng giầy dép có xu hướng đi xuống: năm 1996 đạt 438 triệu đôi, giảm xuống 385 triệu đôi trong năm 1998. Năm 1997, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, sản lượng giầy dép của Indonesia tiếp tục giảm. Ngành giầy dép phải đối mặt với những khó khăn trước mắt như giá nguyên liệu thô tăng mạnh, nhu cầu tiêu dùng trong nước giảm và sự cạnh tranh mạnh mẽ của các nước khác trên thị trường giầy dép thế giới. Năm 1998, ngành công nghiệp giầy dép chỉ thu hút 5,9 triệu USD vốn đầu tư nước ngoài, lãi suất ngân hàng tăng, các hợp đồng sản xuất giầy dép với hãng Nike, Reebok tiếp tục bị cắt giảm. Tuy nhiên, ngành giầy dép Indonesia đang cố gắng khai thác các thị trường mới, tìm kiếm những hợp đồng mới từ các nhà sản xuất giầy dép Italia và tích cực chiếm lĩnh thị trường nội địa rộng lớn với 210 triệu dân. 1.6 Sản xuất giầy dép của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan Sau nhiều năm phát triển mạnh mẽ ở thập kỷ 70 và 80, ngành công nghiệp giầy dép Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan đã bị chững lại khi bước vào thập niên 90. Sản lượng giầy dép của ba nước này trong năm 1996 lần lượt đạt 80 triệu, 182 triệu và 145 triệu đôi. Trong thời kỳ 1989-1996, tốc độ tăng bình quân sản lượng giầy dép của ba nước tương ứng là -8,76%, -7,88% và -8,2%/năm. Tại Hàn Quốc, ngành công nghiệp giầy dép phát triển cao đang chuyển sang giai đoạn chuyên sản xuất các loại sản phẩm chất lượng cao, đồng thời phát triển sản xuất nguyên phụ liệu giầy dép, đây là lĩnh vực đang ngày càng trở nên quan trọng trong ngành công nghiệp giầy dép. Tại Đài Loan những năm gần đây, ngành công nghiệp giầy dép tiếp tục gặp khó khăn do giá đất tăng, thiếu lao động, tiền lương tăng, giá nguyên liệu giầy tăng đáng kể. Nhiều nhà máy phải đóng cửa, tuy nhiên cũng có một số nhà máy phát triển thành công ty đa quốc gia, sản xuất sản phẩm có chất lượng cao. Hiện nay các nhà máy sản xuất giầy dép Đài Loan đang tiếp tục chuyển dịch sản xuất ra nước ngoài, đặc biệt là sang các nước ở khu vực Đông Nam á, nơi có lợi thế về nhân công rẻ. Còn tại Nhật Bản, cũng như những nước phát triển khác, sản xuất giầy dép của Nhật Bản đang có xu hướng giảm sút và chuyển dịch sang các nước khác có lợi thế hơn. Theo số liệu thống kê của Chính phủ Nhật Bản, sản xuất giầy dép của Nhật trong năm 1999 đạt 80,294 triệu đôi, giảm 5,2% so với năm 1998. Như vậy, có thể thấy bức tranh chung về ngành công nghiệp giầy dép thế giới trong những năm gần đây có một số nét cơ bản: -Trên thị trường giầy dép thế giới, số lượng doanh nghiệp sản xuất giầy dép ngày càng lớn, đặc biệt tại các nước công nghiệp mới ở Châu á. Sự có mặt ngày càng đông đảo các nhà sản xuất trên một thị trường ngày càng có xu hướng phân đoạn khiến cho cuộc cạnh tranh giành giật thị trường ngày càng trở nên gay gắt. -Chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch đang bao trùm lên thị trường giầy dép thế giới. Hai thị trường tiêu thụ giầy dép lớn là EU và Bắc Mỹ đang tìm cách bảo hộ sản xuất và chống lại việc nhập khẩu giầy dép rẻ hơn từ các nước Châu á-Thái Bình Dương. Điều này được thể hiện bằng việc đánh thuế chống phá giá đối với các loại giầy dép nhập khẩu với giá rẻ, áp dụng hạn ngạch đối với hàng giầy dép của các nước Châu á, hạn chế bớt các nước đang phát triển được hưởng hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập GSP. Vì vậy các nước sản xuất giầy dép ở Châu á phải đối mặt với sự cạnh tranh quyết liệt hơn. -Mặc dù vấp phải những khó khăn về sản xuất và tiêu thụ do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á từ cuối năm 1997, nhưng theo quy luật của sự dịch chuyển đầu tư và sản xuất, ngành công nghiệp giầy dép ở khu vực này vẫn tiếp tục phát triển trong lương lai với những lợi thế vốn có của mình, trong khi ngành giầy dép Châu Âu có xu hướng thu hẹp lại để chuyển sang sản xuất những sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn. 2. Tình hình tiêu thụ hàng giầy dép trên thế giới 2.1 Tình hình tiêu thụ hàng giầy dép ở Mỹ Tiêu thụ: Mỹ là thị trường tiêu thụ giầy dép lớn thứ hai trên thế giới, sau Trung Quốc. Bảng II.3: tiêu thụ giầy dép trên thị trường Mỹ từ 1994-1998 Đơn vị: triệu đôi Năm 1994 1995 1996 1997 1998 Sản xuất 252,1 238,7 235,6 204,1 178,4 Xuất khẩu 30,6 32,6 34,4 38,5 36,6 Nhập khẩu 1347,9 1425,8 1409,2 1350,0 1462,0 Tiêu thụ 1569,4 1631,9 1610,4 1515,6 1603,8 Nguồn: FIA-Hiệp hội Công nghiệp giầy Mỹ Thị trường Mỹ với 260 triệu dân và mức tiêu thụ giầy dép cao (trung bình 6 đôi/người/năm) là một thị trường có nhiều triển vọng và hấp dẫn các nhà xuất khẩu giầy dép trên thế giới. Năm 1994, thị trường Mỹ tiêu thụ 1.569,4 triệu đôi giầy dép, năm 1998, mức tiêu thụ tăng lên 1.603,8 triệu đôi. Sản phẩm giầy dép tiêu thụ trên thị trường Mỹ rất đa dạng và phong phú. Năm 1997, giầy dép của ba nhà sản xuất được tiêu thụ nhiều nhất trên thị trường Mỹ là Trung Quốc, Italia và Brazil. Nhập khẩu: Từ năm 1994 đến nay, sản xuất giầy dép của Mỹ chỉ đáp ứng khoảng 12% nhu cầu tiêu thụ trong nước. Mỹ là thị trường nhập khẩu lớn nhất thế giới cả về số lưọng và giá trị, hàng năm Mỹ nhập khoảng 1.400 triệu đôi giầy dép với giá trị khoảng 14-15 tỷ USD. Năm 1998, Mỹ nhập khẩu 1.462 triệu đôi giầy dép, trị giá 14 tỷ USD, chiếm hơn 90% số lượng giầy dép tiêu thụ ở Mỹ trong đó 44% giá trị và 60% số lượng được nhập từ Trung Quốc. Xu thế nhập khẩu lớn vẫn đang tiếp tục tăng do các nhà sản xuất của Mỹ đang tiếp tục chuyển dịch sản xuất ra nước ngoài trong nỗ lực hạ giá thành sản phẩm và tận dụng được lợi thế so sánh của những nước khác. 2.2 Tình hình tiêu thụ hàng giầy dép ở EU tiêu thụ: Là một thị trường lớn với số dân 375 triệu với mức sống vào loại cao nhất thế giới và nhu cầu tiêu dùng giầy dép lớn, bình quân từ 4-5 đôi/người/năm, EU trở thành thị trường tiêu thụ đầy tiềm năng của thế giới. Năm 1998, EU tiêu thụ 1,545 tỷ đôi, năm 1999, mặc dù mức tiêu thụ có giảm đôi chút so với năm trước nhưng cũng vẫn đạt 1,517 tỷ đôi. Nhập khẩu: Giầy tiêu thụ trên thị trường EU có tới gần 50% có nguồn gốc từ các thị trường ngoài khối, chủ yếu được sản xuất theo đơn đặt hàng, do EU là thị trường khó tính và có những đòi hỏi rất cao về chất lượng cũng như các yếu tố về kiểu dáng và màu sắc. Giầy dép nhập khẩu vào EU chủ yếu có nguồn gốc Châu á. Năm 1998, EU nhập khẩu khoảng 810 triệu đôi giầy dép các loại, Trung Quốc tăng thị phần từ 32,9% lên 33,4%, là nước xuất khẩu lớn nhất vào EU, tiếp theo là Việt Nam 18,1%, Indonesia 8,3%. 2.3 Tình hình tiêu thụ hàng giầy dép ở Nhật Bản tiêu thụ: Nhật Bản là một thị trường tiêu thụ giầy dép lớn và ổn định. Từ năm 1994 đến nay, tốc độ mở rộng thị trường giầy dép Nhật Bản đạt 1,7%/năm. Cùng với xu hướng giảm sút trong sản xuất nội địa, tiêu thụ giầy dép nội địa giảm từ 81% xuống còn 59%. Xu hướng tiêu dùng của thị trường Nhật Bản hiện nay là chuộng những hàng có chất lượng, mẫu mã phù hợp, đặc biệt là hàng giầy dép của Trung Quốc. nhập khẩu: Nhìn chung, tốc độ nhập khẩu giầy dép của Nhật Bản luôn luôn cao hơn nhịp độ sản xuất trong nước. Từ năm 1989 đến nay, số lượng giầy dép nhập khẩu vào Nhật tăng trung bình 16%/năm. Năm 1992, Nhật chỉ nhập 241 triệu đôi, đến năm 1996 đã phải nhập 350 triệu đôi, tăng 45% so với năm 1992 và năm 1999, số lượng nhập khẩu đã lên tới gần 500 triệu đôi, gấp 6,3 lần sản xuất nội địa- 80,3 triệu đôi (Nguồn: JETRO-Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản). Bảng II.4: nhập khẩu giầy da của Nhật Bản Đơn vị: Triệu đôi Năm 1996 1997 1998 1999 Tốc độ tăng bq(%/năm) Số lượng 12 14,41 17,29 20,75 25,9 Nguồn: Hiệp hội công nghiệp giầy Châu á-Thái Bình Dương sản phẩm nhập khẩu chủ yếu của Nhật Bản là giầy da và giầy thể thao từ Italia, Trung Quốc, pháp, Tây Ban Nha. Riêng giầy da trong năm 1996, Nhật Bản nhập 12 triệu đôi, tăng lên 14,41 triệu đôi năm 1997, 17,3 triệu đôi năm 1998 và 20,75 triệu đôi năm 1999, tăng bình quân 25,9%/năm. Về cơ cấu thị trường, năm 1999, nước xuất khẩu chính sang thị trường Nhật Bản là Trung Quốc với số lượng chiếm 75,7% tổng số giầy dép nhập khẩu của Nhật Bản, tiếp sau đó là Indonesia với số lượng chiếm 10,3%, Italia cũng là nước cung cấp một lượng lớn giầy dép cao cấp sang thị trường này. 3. Xu hướng phát triển của thị trường giầy dép thế giới Cùng với xu thế phục hồi kinh tế sau thời kỳ khủng hoảng của nhiều nước trên thế giới, sản xuất và buôn bán giầy dép cũng có sự phát triển mạnh mẽ. Điều này thể hiện ở năng lực sản xuất giầy dép trên thế giới tiếp tục tăng nhanh do có sự tăng trưởng ở khâu cung cấp nguyên liệu và xu hướng tiêu dùng trên thế giới ngày càng tăng. Theo số liệu dự báo của FAO, sản xuất các sản phẩm da giầy trên thế giới có xu hướng tăng. Hết năm 2000, sản lượng sẽ đạt mức 6.641 nghìn tấn da súc vật khô, 14.963 triệu feet vuông da thuộc, trên 11 tỷ đôi giầy dép các loại. Về mậu dịch, hết năm 2000, các nước phát triển sẽ nhập khẩu 2,41 tỷ đôi, các nước đang phát triển sẽ nhập khẩu khoảng 350 triệu đôi và xuất khẩu 2,76 tỷ đôi. Xu thế chuyển dịch đầu tư và các khu vực sản xuất giầy dép trên thế giới vẫn còn đang tiếp tục, nó thể hiện ở sản lượng giầy dép sản xuất tại các nước đang phát triển Châu á và Nam Mỹ ngày càng tăng cao. Hiện nay, gần 75% sản lượng giầy dép thế giới được sản xuất tại các nước đang phát triển Châu á và Nam Mỹ. Trong 10 năm qua, sản xuất giầy dép Nam Mỹ tăng 15%, tốc độ này được dự đoán sẽ tiếp tục duy trì trong thời gian tới. Trong vòng 15 năm tới, sản xuất giầy dép của các nước ASEAN sẽ tăng 30%. Đồng thời với nó là sản xuất giầy dép tại các nước phát triển có xu hướng thu hẹp chỉ còn tối đa 20% tổng sản lượng, 60% sẽ được sản xuất tại các nhà máy đã chuyển ra nước ngoài và số còn lại trên 20% sẽ được nhập khẩu từ các nước đang phát triển. Như vậy, có thể thấy trong tương lai, ngành công nghiệp giầy dép thế giới sẽ hình thành hai khu vực rõ rệt: các nước công nghiệp phát triển Bắc Mỹ, EU chuyên sản xuất các loại giầy dép cao cấp, giầy chuyên dụng, một số phụ liệu và máy cho công nghiệp giầy; các nước khu vực khác, chủ yếu là các nước Châu á và Nam Mỹ sẽ tập trung và sản xuất các loại giầy có phẩm cấp thấp hơn. Thời trang ngày càng trở thành một nhân tố quan trọng cho định hướng sản xuất và xuất khẩu giầy dép. Một sản phẩm muốn tồn tại phải đáp ứng được yêu cầu thời trang của người tiêu dùng và đảm bảo những chỉ tiêu về chất lượng sản phẩm. Điều đó có nghĩa là trong ngành công nghiệp giầy dép luôn luôn diễn ra một quá trình vận động, trong đó phương thức và công nghệ sản xuất giầy dép luôn được cải tiến để đạt trình độ thiết kế những sản phẩm thời trang hoàn hảo, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Trong tương lai, phần lớn tiến bộ công nghệ của ngành công nghiệp giầy dép dựa vào áp dụng thành quả khoa học của ba ngành chủ yếu sau: Thứ nhất, sự tiến bộ về công nghệ chế tạo máy. Thứ hai, áp dụng những thành tựu đạt được trong toán học, vật lý, hoá học vào công nghệ pha cắt nguyên vật liệu, chế tạo khuôn mẫu nhằm làm giảm vật tư tiêu hao. Thứ ba, áp dụng các thành tựu sản xuất các vật liệu mới, nhờ đó các sản phẩm giầy dép sẽ đa dạng, phong phú và hấp dẫn hơn, đạt hiệu quả cao hơn trong sử dụng, có nhiều tính năng hơn như trợ giúp sức khoẻ, chữa bệnh, giúp các vận động viên đạt thành tích cao hơn. Với tất cả những thành tựu của khoa học và xu hướng phát triển của sản xuất và buôn bán giầy dép trên thế giới, ta thấy rằng nhu cầu của người tiêu dùng thế giới đang ngày càng được đáp ứng đầy đủ và hoàn thiện hơn. II. Thực trạng xuất khẩu hàng giầy dép của Việt Nam Kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu Kim ngạch xuất khẩu Ngành giầy dép xuất khẩu của Việt Nam mới ra đời từ cuối những năm 80, sau khi Hiệp định về hợp tác sản xuất và xuất khẩu giầy dép giữa Chính phủ Việt Nam và Liên Xô được ký kết năm 1987. Từ năm 1987, ngành công nghiệp da giầy nước ta đã có những thay đổi đáng kể theo hướng sản xuất hàng xuất khẩu. Song nó chỉ thực sự phát triển từ năm 1993, sau khi khủng hoảng chính trị-xã hội xảy ra ở Liên Xô và các nước Đông Âu (1991-1992). Từ năm 1987-1990, Việt Nam xuất khẩu hàng giầy dép cho Liên Xô và các nước Đông Âu, bình quân khoảng 4-5 triệu đôi giầy vải mỗi năm theo các Hiệp định được kí kết giữa các Chính phủ. Năm cao nhất (1990), xuất khẩu đạt trên 28 triệu đơn vị sản phẩm các loại, đạt kim ngạch 100 triệu RCN. Sau đó ngành da giầy Việt Nam gặp nhiều khó khăn do biến động về chính trị và kinh tế trên thị trường Nga và Đông Âu. Năm 1991, kim ngạch xuất khẩu đạt 7,4 triệu USD, đến năm 1992 tăng lên 23,4 triệu USD, hầu hết các sản phẩm thuộc loại đơn giản (giá bình quân khoảng 1,5 USD/đôi). Từ năm 1992 đến nay, nhờ đầu tư đổi mới công nghệ do liên doanh với một số nước như Đài Loan, Hàn Quốc, công nghiệp giầy dép Việt Nam phát triển với tốc độ lớn. Kim ngạch xuất khẩu hàng giầy dép nước ta không ngừng tăng (bảng II.5) từ con số khiêm tốn là 118,4 triệu USD năm 1993 đã tăng lên tới 1.392 triệu USD năm 1999, trung bình mỗi năm tăng 50,8%, cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân của tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước (25,2%/năm). Bảng II.5: kim ngạch xuất khẩu hàng giầy dép trong tổng kim ngạch xuất khẩu Đơn vị: triệu USD 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng KN-XK 2.985 4.054 5.449 7.256 9.185 9.361 11.523 Tăng giảm (%) - 35,8 34,4 33,2 26,6 1,9 23,1 KN-XK giầy dép 118 244,2 342,04 528,5 964,5 1000,8 1.392 Tăng giảm (%) - 106,9 40,6 54,5 82,5 3,7 39,1 Tỷ trọng trong KN xuất khẩu (%) 3,95 6,02 6,28 7,28 10,5 10,7 12,1 Vị trí 7 7 6 5 3 3 3 Nguồn: Vụ Kế hoạch Thống kê-Bộ Thương mại Bên cạnh đó, tỷ trọng xuất khẩu giầy dép trong tổng kim ngạch xuất khẩu cũng không ngừng tăng từ 3,95% năm 1993 lên 7,3% năm 1996 và 12,08% năm 1999, khiến cho kim ngạch xuất khẩu hàng giầy dép ngày càng đóng vai trò quan trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Từ vị trí thứ 7 trong năm 1993, vươn lên vị trí thứ 5 năm 1996 và từ năm 1997 đến năm 1999, giữ vị trí thứ 3 trong danh sách 15 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam. Có thể thấy giai đoạn 1995-1997, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu giầy dép rất lớn, tốc độ tăng năm sau luôn cao hơn năm trước. Đến năm 1998, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, tốc độ tăng có giảm xuống, chỉ đạt 3,7% so với năm 1997. Nhưng sang năm 1999, khi mà nền kinh tế nhiều nước đã được phục hồi thì tốc độ tăng trưởng kim ngạch lại tiếp tục đạt mức tăng cao 39,08% cao hơn tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (23,1%). Cơ cấu xuất khẩu Từ năm 1987 đến nay, các sản phẩm xuất khẩu chính của ngành giầy dép Việt Nam luôn có những sự thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng xuất khẩu giầy vải và tăng tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng có giá trị cao hơn như giầy thể thao, giầy nữ,... Bảng II.6: cơ cấu xuất khẩu của ngành giầy dép Việt Nam 1993 1994 1995 1996 1997 1998 Giầy thể thao (triệu USD) 55,5 130,6 193,04 326,2 666,5 668,07 Tỷ trọng (%) 47 53,5 56,4 61,7 69 66,8 Giầy nữ (triệu USD) 30 63,84 72,46 90,1 140,5 143,24 Tỷ trọng (%) 25,4 26,1 21,2 17 14,6 14,3 Giầy vải (triệu USD) 20,5 35,5 51,54 87,2 105,7 112,43 Tỷ trọng (%) 17,4 14,5 15,1 16,5 11 11,2 Dép các loại (triệu USD) 12 14,2 25 25 47,1 72,19 Tỷ trọng (%) 10,2 5,9 7,3 4,8 4,9 7,2 Giầy da nam (triệu USD) - - - - 4,7 4,87 Tỷ trọng (%) - - - - 0,5 0,5 Tổng cộng (triệu USD) 118 244,14 342,04 528,5 964,5 1000,8 Nguồn: Số liệu thống kê của Hiệp hội Da giầy Việt Nam Từ năm 1987-1992, sản phẩm sản xuất và xuất khẩu chủ yếu là giầy vải, năm 1993, sản lượng giầy vải xuất khẩu chỉ chiếm 24,8% tổng sản lượng xuất khẩu trong khi đó, về mặt giá trị, giầy vải xuất khẩu chỉ chiếm 17,4% còn giầy thể thao chiếm 47%, giầy nữ chiếm 25,4%. Năm 1998, tỷ trọng xuất khẩu giầy vải chỉ còn 11,2% trong khi giầy thể thao tăng lên 66,8%. Điều này chứng tỏ trong cơ cấu xuất khẩu giầy dép của Việt Nam đã có sự chuyển dịch từ xuất khẩu những mặt hàng có giá trị thấp sang sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng có giá trị cao hơn. 1.3 Đánh giá sự tăng trưởng kim ngạch và biến đổi cơ cấu xuất khẩu giầy dép: Chỉ trong vòng chưa đầy 10 năm, bộ mặt của ngành giầy dép Việt Nam đã có sự thay đổi đáng kể, vị trí của ngành trong nền kinh tế Việt Nam cũng như trên thị trường thế giới đang dần dần được khẳng định. Từ năm 1997, do khủng hoảng, các nhà đầu tư Đài Loan, Hàn Quốc gặp nhiều khó khăn về tài chính, tình hình kinh tế của một số nước có biến động nên kim ngạch xuất khẩu của ngành công nghiệp giầy dép Việt Nam bị ảnh hưởng mạnh, chủ yếu là trong năm 1998. Nhưng sang năm 1999, khi mà nền kinh tế của các nước trong khu vực đã bắt đầu phục hồi thì xuất khẩu giầy dép của Việt Nam cũng có sự tăng trưởng cao trở lại, năm 1999, kim ngạch vượt qua con số 1 tỷ USD. Kim ngạch tăng do có sự tăng nhanh năng lực sản xuất của các cơ sở sản xuất trong nước. Khi mới vào làm ăn ở Việt Nam, các nhà nhập khẩu đã chọn con đường đơn giản và hiệu quả nhất là đặt gia công để nhanh chóng có được sản phẩm và chiếm thị phần trước khi bỏ vốn đầu tư. Trước sức ép của các hợp đồng gia công, trong những năm 1993-1997, năng lực sản xuất của các doanh nghiệp trong nước tăng 30-35%, sản lượng giầy dép xuất khẩu của các cơ sở này luôn đạt mức tăng trưởng tương ứng và chiếm tỷ trọng trên 30% tổng sản lượng giầy dép xuất khẩu của Việt Nam. Ngoài ra còn phải kể đến sự đóng góp đáng kể của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chỉ tính từ năm 1996 đến hết 1999 đã có trên 50 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành với tổng số vốn gần 600 triệu USD trong đó có 27 dự án 100% vốn nước ngoài, chiếm 70% tổng vốn đầu tư vào ngành với các nhà đầu tư lớn như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông. Với lợi thế về vốn, công nghệ lại chủ động về thị trường nên các doanh nghiệp trên đã thu hút được nhiều hợp đồng lớn từ các hãng giày, đưa kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài trong những năm gần đây tăng trên 30%. Với tốc độ tăng năng lực sản xuất và đầu tư như trên thì có thể thấy trong tương lai, ngành giầy dép Việt Nam sẽ tiếp tục đạt được những thành tựu đáng kể. Trong khi đó, cơ cấu xuất khẩu giầy dép cũng đã có những chuyển dịch từ các mặt hàng có giá trị thấp sang sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có giá trị cao. Chiếm tỷ trọng lớn nhất vẫn là giày thể thao, tuy nhiên phần lớn giá trị của sản phẩm (nằm ở nguyên phụ liệu) lại phải nhập khẩu. Hiện đã có một số doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đầu tư vào sản xuất nguyên liệu giầy thể thao song sản phẩm làm ra chỉ đủ để cung cấp cho các nhà máy sản xuất giày của cùng một chủ đầu tư (thường là các hãng lớn). Hầu như tất cả các doanh nghiệp trong nước đều phải nhập khẩu nguyên phụ liệu để sản xuất mặt hàng này. Đối với mặt hàng giày vải, các doanh nghiệp sản xuất đã sử dụng nguồn nguyên liệu cao su và vải trong nước, cộng với lợi thế công nhân có tay nghề cao nên đã từng bước chiếm lĩnh thị trường thế giới nhưng do đặc thù giá thấp nên khó có thể đột phá được về kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay nhu cầu thị trường thế giới đang có biến động mạnh. Nhu cầu giầy vải thế giới (chủ yếu EU) đã giảm và xuất hiện nhu cầu giầy pha tạp giữa giầy thể thao và giầy nữ. Trong khi đó Việt Nam lại có lợi thế trong sản xuất mặt hàng này là sử dụng được 60% nguyên liệu nội địa, như vậy chúng ta vừa chủ động được nguyên liệu lại vừa đáp ứng được tiêu chuẩn ưu đãi của một số thị trường. Những thuận lợi và khó khăn này làm cho trước mắt mặt hàng giầy vải vẫn có một vị trí quan trọng trong sản xuất và xuất khẩu của ngành nhưng trong tương lai, vai trò của giầy vải trong cơ cấu các mặt hàng giầy dép xuất khẩu sẽ giảm xuống. Cũng như giầy vải, các loại dép xuất khẩu của Việt Nam cũng có lợi thế là tận dụng được những nguồn lực sẵn có của đất nước, lại có suất đầu tư thấp nhất trong các sản phẩm song giá trị cũng không cao, trong tương lai khó có thể tăng mạnh về kim ngạch do giá cả ít tăng. Giá cả các loại dép phụ thuộc vào giá trị vật liệu sử dụng và kiểu dáng, kết cấu mẫu nhưng nhìn chung là thấp. Năm 1998, sản lượng dép và giầy vải chiếm 1/3 tổng sản lượng nhưng giá trị chỉ bằng 1/5. Giầy da nam là mặt hàng khó sản xuất nhất trong điều kiện Việt Nam hiện nay. Nó đòi hỏi phải đáp ứng những yêu cầu cao về nguyên liệu, công nghệ sản xuất và cả trình độ người lao động. Chính vì vậy mà tỷ trọng mặt hàng này trong các mặt hàng giầy dép xuất khẩu không đáng kể. Trong tương lai gần, đây cũng không phải là mặt hàng có thể tăng nhanh kim ngạch và không là mặt hàng xuất khẩu chính của ngành. Trước nhu cầu của thị trường và khả năng sản xuất của Việt Nam, trước mắt ta vẫn chỉ có thể tập trung xuất khẩu giầy thể thao, là mặt hàng có giá trị gia tăng cao nhất và có thể quyết định đến giá trị xuất khẩu của ngành. Thị trường xuất khẩu 2.1 Thị trường EU Nguồn: Số liệu của Tổng cục Hải quan năm 1999 Hiện nay, sản phẩm giầy dép Việt Nam được xuất khẩu tới trên 50 nước trên thế giới, trong đó thị trường xuất khẩu chủ yếu là các nước thuộc khối EU. Các nước thuộc EU là một thị trường lớn với dân số đông trên 360 triệu người, lại có mức tiêu dùng giầy dép vào loại cao nhất thế giới, bình quân 4-5 đôi/người/năm, nhưng yêu cầu về chất lượng, mẫu mã hàng giầy dép lại rất cao. Đây là một khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong xu thế cạnh tranh đang ngày càng trở nên gay gắt hiện nay vì thực tế chất lượng hàng giầy dép Việt Nam vẫn còn hạn chế so với các nước như Trung Quốc, Hàn Quốc, Indonesia... Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam vẫn là nước xuất khẩu vào EU với số lượng và giá trị rất cao. Theo thông báo chính thức của EU thì Việt Nam đứng thứ ba trê._.mại từ phía Mỹ như những nước khác nhưng trong tương lai không xa, khi mà Hiệp định Thương mại Việt Mỹ được Quốc hội hai nước thông qua thì sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam nói chung và giầy dép nói riêng xuất khẩu vào thị trường này sẽ được cải thiện. Trong điều kiện đó, trước mắt cần đẩy mạnh các hình thức đầu tư và liên doanh với các công ty Mỹ để sản xuất những sản phẩm chuyên xuất khẩu sang Mỹ, tranh thủ tiếp cận thị trường, sử dụng nhãn hiệu và kênh phân phối của các nhà đầu tư nước ngoài. Trong những năm tới, cần tăng cường thiết lập các kênh phân phối trực tiếp trên cơ sở tranh thủ kênh phân phối của các nhà trung gian xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp giầy dép Việt Nam có thể tiếp cận trực tiếp với thị trường Mỹ. Thị trường Nga: Nga là một thị trường lớn và đã từng là thị trường truyền thống của giầy dép xuất khẩu Việt Nam, tuy nhiên trong những năm qua, kết quả buôn bán giầy dép giữa hai bên chưa tương xứng với tiềm năng của mỗi bên. Trong tương lai, hướng xuất khẩu giầy dép sang thị trường Nga là tập trung vào đáp ứng nhu cầu của cộng đồng người Việt và người Nga có thu nhập thấp đến trung bình. Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp tìm cách xử lý các rắc rối trong thanh toán giữa hai nước, áp dụng phương thức bán hàng trả chậm, hàng đổi hàng, thành lập các công ty liên doanh, các chi nhánh của các doanh nghiệp Việt Nam để tăng sức tiêu thụ sản phẩm. Thị trường khác: Tình hình xuất khẩu cả nước và riêng ngành giầy dép trong những năm qua cho thấy ngoài việc duy trì và củng cố thị trường hiện có, cần chú ý tích cực mở rộng thị trường mới nhằm tăng kim ngạch xuất khẩu giầy dép trong những năm tới. Cần chú ý đến những khu vực có nhu cầu tiêu dùng phù hợp với điều kiện công nghệ Việt Nam như Châu Phi, Trung Cận Đông, những thị trường gần gũi về mặt địa lý có nhu cầu tiêu thụ như Lào, Campuchia. Đây là hai thị trường gần gũi với Việt Nam, có nhu cầu tiêu thụ sản phẩm giầy dép đế cao su, dép xốp là sản phẩm mà Việt Nam có thể chủ động về nguyên liệu. Hiện nay, hàng giầy dép Việt Nam mới chỉ xuất khẩu vào một số nước Nam Mỹ với số lượng và kim ngạch rất nhỏ bé trong khi đây là một thị trường tương đối lớn và có những nét phù hợp với giầy dép Việt Nam. Trong những năm tới, một mặt củng cố những thị trường đã có như Brazil, Mexico, Chi Lê mặt khác, tích cực tìm kiếm những thị trường mới nhằm mở rộng thị trường ở khu vực này. Thâm nhập vào thị trường 15 triệu dân Chi Lê, các doanh nghiệp Việt Nam còn có khả năng mở rộng sang một số thị trường khác ở Nam Mỹ. Ngoài ra cần phải quan tâm đến một số thị trường tiềm năng khác mà Việt Nam có thể xâm nhập được như thị trường New Zealand, thị trường úc. 1.4 Hỗ trợ sản xuất trong nước Bên cạnh các biện pháp hỗ trợ về thị trường, vốn, cơ chế xuất nhập khẩu, Nhà nước còn cần có chính sách hỗ trợ và bảo hộ sản xuất trong nước phù hợp với quy định của thế giới. Khoảng cách chênh lệch quá xa hiện nay giữa các doanh nghiệp trong nước so với nước ngoài trên các mặt vốn, công nghệ, trình độ quản lý, marketing đang là một khó khăn đối với các doanh nghiệp trong nước. Nhà nước cần có các chính sách nhằm bảo hộ sản xuất trong nước để sớm đưa nền công nghiệp da giầy nước ta tiến kịp các nước trong khu vực, đảm bảo tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh thị trường. Các chính sách khuyến khích sản xuất trong nước có thể là cho vay ngoại tệ với lãi suất ưu đãi để nhập máy móc thiết bị, cải tạo mở rộng nhà xưởng; hỗ trợ tài chính cho sản xuất hàng xuất khẩu; trợ giá sản xuất hàng giầy dép xuất khẩu nhằm tạo thị trường và giải quyết khó khăn lúc đầu cho doanh nghiệp; quy hoạch bố trí các nhà máy thuộc da hay các nhà máy thuộc da mới cách vùng đô thị đông dân cư và phải có công nghệ xử lý chất thải thích hợp không gây ô nhiễm. Nhà nước cũng cần tổ chức lại hoạt động phân phối, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo quyền lợi nhà sản xuất và người tiêu dùng 2. Đối với bản thân doanh nghiệp 2.1 Các giải pháp trong cung cấp nguyên phụ liệu Cũng như nhiều ngành công nghiệp xuất khẩu khác không nhận được sự hỗ trợ của những ngành công nghiệp nguyên liệu, ngành công nghiệp giầy dép Việt Nam cũng không nhận được sự hỗ trợ của ngành da và các ngành sản xuất nguyên phụ liệu khác. Nguyên phụ liệu giầy thể thao và giầy nữ phải nhập khẩu 100%, riêng giầy vải có khá hơn, cụ thể đã chủ động cân đối được khá nhiều nguyên liệu nội như mũ giầy, đế cao su...trong sản phẩm xuất khẩu nhưng do tỷ trọng giầy vải còn rất nhỏ (11,2%) nên có thể nói công nghiệp xuất khẩu giầy dép Việt Nam hiện nay đang sống nhờ vào nguyên liệu ngoại. Nguyên phụ liệu hàng giầy dép nếu được sản xuất trong nước, theo đánh giá sẽ rẻ hơn từ 10-30% so với nhập khẩu, đồng thời lại có thể chủ động nguồn nguyên liệu, giảm dần sự phụ thuộc vào nước ngoài để tiến tới hạn chế gia công, tăng tỷ trọng hàng xuất khẩu trực tiếp. Mặt khác, tăng tỷ lệ vật liệu nội địa trong cơ cấu giá trị sản phẩm còn là điều kiện để tăng khả năng dược hưởng ưu đãi từ một số thị trường như EU, Nhật Bản... Để có thế chủ động về nguyên vật liệu, ngành Da giầy cần thiết lập thị trường nguyên liệu tại chỗ phong phú đa dạng, có chất lượng cao để cung cấp ổn định và đồng bộ cho sản xuất, đạt sự tiến bộ về khối lượng, tạo thế cạnh tranh cho các sản phẩm giầy dép, tạo thuận lợi cho các nhà thiết kế mẫu mốt thời trang trong việc sáng tác mẫu hoặc triển khai mẫu tiếp nhận từ bên ngoài. Chủ động về nguyên liệu sản xuất là một trong những yếu tố tích cực thúc đẩy xuất khẩu giầy dép đạt hiệu quả cao hơn. Thúc đẩy ngành công nghiệp giầy dép phát triển phải tiến hành quy hoạch lại sản xuất theo vùng chuyên doanh tập trung, khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên và nhân lực. Trước mắt, phối hợp với các ngành chăn nuôi và công nghiệp thực phẩm để sớm hình thành nghề chăn nuôi gia súc lấy thịt và lấy sữa ở các vùng sinh thái thích hợp, đầu tư kỹ thuật giết mổ, lột da và bảo quản da để sau năm 2005 có được nguồn nguyên liệu đạt tiêu chuẩn quốc tế, cung cấp cho ngành thuộc da trong nước cả về số lượng và chất lượng lẫn giá cả, thay thế da nhập khẩu phục vụ cho công nghiệp giầy dép xuất khẩu. Hiện nay, mô hình kinh tế trang trại về chăn nuôi đã xuất hiện và bước đầu đã đem lại hiệu quả khả quan. Tuy nhiên, để mở rộng và phát triển mô hình kinh tế này cần tiếp tục được khuyến khích, giúp đỡ để ngày càng phát triển, tạo ra nguồn cung cấp da sống có chất lượng cho công nghiệp thuộc da, đáp ứng các yêu cầu cho ngành thuộc da sản xuất da nguyên liệu phục vụ công nghiệp giầy dép xuất khẩu. Tại những vùng chăn nuôi tập trung cần có các cơ sở chăn nuôi lớn, cơ sở nghiên cứu khoa học- dịch vụ, kỹ thuật chăn nuôi, giống, thú y, cơ sở sản xuất thức ăn gia súc, cơ sở giết mổ, chế biến thịt, sữa, sơ chế da. Cũng phải cải tạo giống đàn gia súc, tạo ra những giống lai lớn hơn để tăng diện tích bề mặt da. Trước mắt cần tập trung phát triển đàn trâu bò, đàn lợn, dần dần phát triển thêm các loại khác như cá sấu, trăn,...để vừa cung cấp thịt vừa cung cấp các loại da sang trọng và đắt tiền làm nguyên liệu cho ngành Da giầy. Ngoài việc xây dựng các vùng chăn nuôi lớn, cần thiết phải sắp xếp lại việc giết mổ gia súc nhằm đảm bảo vệ sinh thực phẩm, đảm bảo vệ sinh môi trường, vừa đảm bảo tận thu nguồn da. Để có thể phát triển những vùng này có hiệu quả, cần có sự phối hợp giữa các doanh nghiệp sản xuất giầy dép với các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp thực phẩm, công nghiệp da giầy. Bên cạnh việc giải quyết vấn đề nguồn da sống, cần có sự đầu tư đúng đắn, hợp lý để ngành thuộc da thực sự có khả năng, năng lực đảm bảo sản xuất ra những sản phẩm cung cấp cho ngành giầy dép xuất khẩu, đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tế. Bên cạnh da nguyên liệu, các doanh nghiệp sản xuất cũng phải được đáp ứng các yêu cầu về phụ liệu, phụ tùng một cách đầy đủ nhất. Cần đầu tư sản xuất cho các cơ sở sản xuất cao su trong hoặc ngoài nhà máy giầy dép nhằm cung cấp nguyên liệu cho sản xuất giầy dép có cao su. Về vấn đề khuôn và phụ tùng, phụ liệu bằng kim loại và phi kim cần thiết lập các xưởng kim khí nhỏ, độc lập hoặc các xưởng tại nhà máy cơ khí chuyên ngành, nhà máy nhựa nhiệt cứng, nhà máy nhựa nhiệt dẻo để chế tạo các khuôn mẫu phụ tùng, phụ liệu đa dạng cho sản xuất giầy dép. 2.2 Mở rộng thị trường xuất khẩu Bên cạnh những hỗ trợ của Nhà nước trong việc củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu, doanh nghiệp cũng cần chủ động trong công tác xúc tiến thương mại của chính mình. đối với thị trường EU, điều quan trọng nhất là doanh nghiệp phải đảm bảo được các điều kiện về chứng nhận xuất xứ mẫu A để được hưởng ưu đãi về thuế quan và tránh nghi ngờ về xuất xứ. Để có thể tiếp cận thị trường Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải chuẩn bị các điều kiện có thể xâm nhập và cạnh tranh trên thị trường này như sản xuất loại hàng giầy dép mang thương hiệu Việt Nam, đảm bảo 35% hàm lượng nội địa trên một đơn vị sản phẩm- đây là một điều kiện cần thiết để được hưởng ưu đãi GSP trong khi ngành sản xuất nguyên phụ liệu nội địa chưa có điều kiện phát triển. Đồng thời các doanh nghiệp cần nghiên cứu và tuân thủ những quy định trong Luật Thương mại Mỹ cũng như các thông lệ khi xuất khẩu hàng hoá vào Mỹ. Bên cạnh đó, để nâng cao khả năng cạnh tranh, củng cố thị trường các doanh nghiệp xuất khẩu giầy dép Việt Nam cần kiên trì tiếp cận, đảm bảo các điều kiện hợp đồng, giữ chữ tín trong kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh bằng giá cả, chất lượng sản phẩm, thời hạn giao hàng. Doanh nghiệp cần chú ý lựa chón các sản phẩm phù hợp với xu thế phát triển thị trường, ưu tiên các sản phẩm có tiềm lực nguyên liệu nội địa hoặc có khả năng sử dụng các nguyên liệu thô nhập khẩu để chế biến. 2.3 Nâng cao hiệu quả gia công xuất khẩu Trong những năm tới, theo nhận định của các chuyên gia và những nhà hoạch định chính sách, công nghiệp giầy dép Việt Nam vẫn phải dựa vào gia công hàng xuất khẩu là chủ yếu. Một mặt nhằm giải quyết vấn đề đầu ra tạm thời cho các doanh nghiệp nhưng mặt khác, do ngành giầy dép nói chung chưa đủ nội lực để xuất khẩu trực tiếp. Trong điều kiện hiện nay, nâng cao được hiệu quả gia công hàng giầy dép xuất khẩu phải thực hiện một số biện pháp đồng bộ: Các doanh nghiệp cần mở rộng thị trường gia công sang các thị trường mới, tránh tập trung gia công quá đông ở một thị trường, một mặt hàng, đặc biệt là các thị trường có tiềm năng vì điều đó sẽ tạo điều kiện cho các chủ hàng ép giá và các điều kiện gia công, gây thiệt hại chung cho doanh nghiệp. Để thực hiện được biện pháp này, ngoài những nỗ lực của các doanh nghiệp, cần có sư hỗ trợ từ phía Chính phủ trong công tác thị trường, tín dụng xuất khẩu, giảm thuế kinh doanh... nhằm giảm bớt rủi ro và tạo điều kiện bước đầu để doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi làm quen với các thị trường mới từ hình thức gia công xuất khẩu chuyển dần sang xuất khẩu trực tiếp. Các doanh nghiệp cần tăng cường thoả thuận với các chủ hàng đặt gia công quyền sử dụng các nguyên liệu có trong nước phục vụ cho gia công hàng giầy dép xuất khẩu. Điều đó không những làm tăng giá trị gia công cho các doanh nghiệp mà còn giúp các đơn vị cung ứng nguyên liệu trong nước có điều kiện phát triển sản xuất, tăng thu nhập, giải quyết việc làm cho người lao động...Để biện pháp này có thể phát huy hiệu quả, chúng ta cần có chính sách phát triển hợp lý các đơn vị cung ứng nguyên phụ liệu đầu vào trong nước như cho phép họ được hưởng những chế độ ưu đãi như các doanh nghiệp xuất khẩu, hỗ trợ họ đẩy mạnh sản xuất và tăng cường nâng cao chất lượng nguyên liệu phục vụ cho công nghiệp giầy dép xuất khẩu. Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh hàng giầy dép gia công xuất khẩu thông qua tổ chức sản xuất hợp lý về đầu tư công nghệ, về quy mô sản xuất, nhân lực, nguyên liệu; quản trị kinh doanh có hiệu quả về vốn, về chi phí,...Có thể nói đây là một biện pháp mà doanh nghiệp nào cũng đều quan tâm, nhưng để thực hiện nó thì rất khó khăn. Vì vậy các doanh nghiệp cần xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh đúng đắn, cùng những kế hoạch sản xuất kinh doanh hoàn chỉnh từ đó giúp các doanh nghiệp có thể chủ động ứng phó với các biến động kinh doanh và tìm các biện pháp cụ thể để giải quyết các tham số trong hàm hiệu quả kinh doanh của mình. Trong gia công hàng giầy dép xuất khẩu, các doanh nghiệp cần tăng cường thương lượng với các chủ hàng quyền được gắn nhãn mác và địa điểm gia công trên sản phẩm gia công. Nếu thoả thuận này thành công, nó sẽ giúp cho thị trường tiêu thụ hàng gia công của ta hiểu, biết được các doanh nghiệp trong nước cũng như quen thuộc với nhãn mác, địa điểm sản xuất- là những bước quan trọng để các doanh nghiệp trong nước có được nhãn mác sản phẩm của chính mình, được thị trường thế giới chấp nhận, là cơ sở để tiến tới xuất khẩu trực tiếp. Thông qua gia công hàng xuất khẩu, các doanh nghiệp cần mở rộng học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu những thành tựu mới trong lĩnh vực sản xuất giầy dép, tạo lập những cơ sở vật chất ban đầu để phát huy nội lực nhằm chuyển sang xuất khẩu trực tiếp. 2.4 Nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt, nhất là sau năm 2005 khi các hàng rào phi thuế quan được bãi bỏ, thị phần của mỗi nước xuất khẩu sẽ phụ thuộc phần lớn vào khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Mục tiêu của ngành Da giầy là từng bước thay đổi cơ cấu sản xuất sản phẩm giầy dép theo hướng giảm dần khối lượng gia công, tăng dần khối lượng tiêu thụ trực tiếp và xuất khẩu, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và xuất khẩu. Để thực hiện được mục tiêu, cần có những chính sách, giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm giầy dép Việt Nam. Các thị trường hiện nay của Việt Nam đều là các thị trường rất khó tính, họ thường đòi hỏi cao về chất lượng. Chất lượng hàng hoá là một trong những yếu tố quan trọng nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Trong những năm tới, để đảm bảo hàng hoá đủ chất lượng xuất khẩu cần thực hiện đồng bộ các biện pháp: + Đầu tư máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến, hiện đại, đồng bộ. áp dụng công nghệ mới để nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. + Đào tạo công nhân có tay nghề kỹ thuật cao, đủ trình độ tiếp thu công nghệ mới để sản xuất những sản phẩm có chất lượng cao. + Đảm bảo nguồn cung cấp nguyên phụ liệu cho sản xuất ổn định, chất lượng tốt nhằm đáp ứng yêu cầu về sản phẩm và chủ động trong sản xuất. Tăng cường kiểm tra chặt chẽ chất lượng nguyên phụ liệu đầu vào, tạo bạn hàng cung cấp nguyên phụ liệu ổn định, đúng thời hạn. + Phấn đấu sản xuất nguyên phụ liệu nội địa đảm bảo yêu cầu chất lượng. Nâng cao tỷ lệ sử dụng nguyên phụ liệu trong nước, tăng tỷ lệ nội địa trong cơ cấu giá trị sản phẩm để hạ giá thành sản phẩm và được hưởng ưu đãi về thuế quan. + Tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của bên đặt hàng về nguyên phụ liệu, công nghệ và quy trình sản xuất theo đúng mẫu hàng và tài liệu kỹ thuật do bên đặt hàng cung cấp như yêu cầu về mẫu mã, qui cách kỹ thuật, nhãn mác, đóng gói bao bì... Tuân thủ đúng quy trình kiểm tra chất lượng trước khi xuất khẩu. Cần khắc phục tình trạng yếu kém về trình độ và thiếu điều kiện trang bị kiểm nghiệm đo lường để kiểm tra chất lượng sản phẩm giầy dép xuất khẩu. Đầu tư xây dựng phòng thí nghiệm tại nhà máy có khả năng kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi xuất khẩu, tránh tình trạng chỉ nghiệm thu đánh giá theo cảm nhận và kinh nghiệm. Để có thể đáp ứng yêu cầu chất lượng quốc tế, từng doanh nghiệp phải chú trọng đầu tư cho công tác quản lý chất lượng hàng hoá bắt đầu từ nhập nguyên liệu đến quy trình sản xuất và sản phẩm nghiệm thu. Tham gia hệ thống tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000, tiêu chuẩn này đề cập đến các yếu tố chính trong quản lý chất lượng như chính sách chỉ đạo về chất lượng, nghiên cứu thị trường, thiết kế triển khai sản phẩm, quá trình cung ứng, bao gói, phân phối, xem xét, đánh giá nội bộ, dịch vụ sau khi bán hàng, kiểm soát tài liệu, đào tạo. Hiên nay các doanh nghiệp giầy dép Việt Nam phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ, đang gặp rất nhiều khó khăn về tài chính, cơ sở vật chất kiến thức và kinh nghiệm khi đăng ký sản phẩm theo ISO 9000. Do đó cần có sự giúp đỡ, khuyến khích để các doanh nghiệp xây dựng được hệ thống sản phẩm theo tiêu chuẩn chất lượng quốc tế như ưu đãi cho doanh nghiệp đã đạt được chứng nhận ISO 9000 hoặc giải thưởng chất lượng Việt Nam. Một điểm yếu nữa của hàng giầy dép Việt Nam là chưa tự chủ về thiết kế và mẫu mốt. Về lâu dài, muốn thoát khỏi tình trạng làm thuê, tự chủ về sản xuất, tiêu thụ và xác lập thương hiệu riêng cho sản phẩm của mình thì cần phải có kế hoạch đào tạo nâng cao trình độ thiết kế mẫu mốt sản phẩm để chuẩn bị cho năm 2005-2010. Xây dựng trung tâm nghiên cứu mẫu mốt chuyên ngành da giầy với trang bị tiên tiến, đội ngũ thiết kế có trình độ, có khả năng thiết kế mẫu mã chào hàng cho ngành. Tập trung đầu tư công nghệ và đào tạo cán bộ ở nước ngoài. Đối với mỗi doanh nghiệp hiện nay, với điều kiện vẫn phụ thuộc vào mẫu mã của bên đặt gia công, phải chủ động tìm hiểu để nắm bắt được mẫu mã của họ, cải tiến biến thành mẫu mã của mình nhằm tạo cơ sở cho việc phát triển nâng cao năng lực thiết kế của doanh nghiệp. Học tập kinh nghiệm của các nước có ngành công nghiệp giầy dép xuất khẩu phát triển: khuyến khích mạnh mẽ các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các chủ sở hữu nhãn mác quốc tế, mời các chuyên gia thời trang từ nước ngoài để tư vấn về mẫu mã thiết kế thời trang cho các nhà sản xuất; tăng cường các biện pháp chào hàng, xúc tiến bán hàng giúp cho nhiều khách hàng và các nhà nhập khẩu biết đến các mẫu mã và chất lượng giầy dép của mình. 2.5 Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 2.5.1 Tổ chức sản xuất kinh doanh Đặc điểm của ngành giầy dép rất phù hợp với mô hình doanh nghiệp vừa và nhỏ do tổ chức sản xuất có hiệu quả cao nhưng thường gặp khó khăn trong tìm kiếm thị trường và giao dịch xuất khẩu. Để có thể giải quyết được vấn đề này có thể tổ chức sản xuất theo hình thức liên kết dọc theo kiểu vệ tinh: một công ty mẹ với nhiều công ty vệ tinh cùng sản xuất một loại sản phẩm. Công ty mẹ chịu trách nhiệm đặt hàng và cung ứng nguyên phụ liệu cho các công ty con, sau đó thu gom hàng và xuất khẩu dưới nhãn hiệu của một công ty lớn, đảm bảo thị trường tiêu thụ ổn định. Để tổ chức quá trình sản xuất một cách có hiệu quả, doanh nghiệp cần tận dụng tối đa công suất thiết bị nhà xưởng; sử dụng hiệu quả sức lao động của công nhân, đội ngũ quản lý, chất xám của cộng tác viên bên ngoài doanh nghiệp; giảm chi nguyên vật liệu, chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm, dự trữ tồn kho hợp lý, tăng nhanh vòng vốn nhằm sử dụng đồng vốn có hiệu quả. 2.5.2 Cơ cấu tổ chức các doanh nghiệp -Cải tiến bộ máy tổ chức: Đơn giản hoá bộ máy tổ chức, xác định rõ chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận trong tổ chức với các mối quan hệ ngang, dọc trong quản lý, quản trị sản xuất kinh doanh. Xây dựng một bộ máy tổ chức có tính kế thừa, đổi mới, hoàn thiện tổ chức, thanh lọc những bộ phận, cá nhân hoạt động không có hiệu quả hay gây trở ngại cho quá trình phát triển chung của tổ chức. Xây dựng một cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, năng động, đủ sức chống chọi và có khả năng giải quyết những khó khăn về mặt tác nghiệp và có thể xây dựng được chiến lược kinh doanh, kế hoạch kinh doanh khả thi cho doanh nghiệp. Thường xuyên có công tác thanh tra, kiểm tra đánh giá kết quả hoạt động của tổ chức cùng nguyên tắc phê bình và tự phê bình. Bên cạnh đó cần đi đôi với công tác xây dựng một đội ngũ nhân sự mạnh, có trình độ trong doanh nghiệp, công ty. -Tổ chức đào tạo lực lượng lao động. Khoa học, công nghệ và con người là những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong quá trình hội nhập và cạnh tranh. Để góp phần vào quá trình xây dựng một ngành công nghiệp đích thực của Việt Nam, cần coi trọng việc đào tạo con người về quản lý điều hành sản xuất kinh doanh, về khoa hoc kỹ thuật. Trước mắt cần đào tạo được một đội ngũ cán bộ kỹ thuật và quản lý tinh thông để có thể làm chủ trong quản lý và điều hành sản xuất tại các doanh nghiệp; quan tâm đào tạo các nhà tạo mẫu và phát triển mẫu, am hiểu sâu sắc thị hiếu người tiêu dùng tại các nước nhập khẩu trên cơ sở biết kết hợp các chất liệu nguyên vật liệu để tạo ra các mẫu mã được ưa thích đối với từng loại sản phẩm cho từng đối tượng tiêu dùng. Nghề giầy dép không đòi hỏi kỹ thuật quá cao nên ngành rất dễ thu hút nhiều lao động nhưng do trình độ chuyên môn hoá ngày càng cao nên cường độ làm việc khá căng thẳng mà tiền lương lại thấp và có sự chênh lệch giữa các doanh nghiệp nên thường xuyên có sự biến động trong đội ngũ lao động của các doanh nghiệp. Vì vậy cần khuyến khích đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật trong ngành cùng đội ngũ công nhân lành nghề. đầu tư cơ sở vật chất cho các trường đào tạo công nhân cùng với việc thay đổi nội dung và chương trình đào tạo để theo kịp với các nước công nghiệp phát triển. Bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ trong ngành; phối hợp đào tạo giữa các viện, trường trong ngành với các cơ sở đào tạo quốc gia để nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ kinh tế kỹ thuật của ngành. Bồi dưỡng thường xuyên theo các chương trình ngắn hạn; tổ chức hội thảo để cung cấp, trao đổi những thông tin trong và ngoài nước; cử cán bộ khoa học kỹ thuật giỏi, có khả năng và kiến thức cần thiết đi thực tập, đào tạo ở các nước có nền công nghiệp giầy dép phát triển nhằm thu thập và nắm bắt bí quyết về công nghệ mà trong nước đang cần hoặc tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới. Chuẩn hoá chức năng, yêu cầu về trình độ chuyên môn kỹ thuật của từng vị trí trong doanh nghiệp, từ đó có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động trong doanh nghiệp. Ngoài viêc nâng cao trình độ cho cán bộ công nhân viên cần sử dụng kết hợp một cách hợp lý giữa đòn bẩy lợi ích vật chất với lợi ích tinh thần để họ xác định công ty, xí nghiệp mà họ đang làm thực sự là ngôi nhà thứ hai của mình. Đây là một kinh nghiệm đáng quý của các công ty, xí nghiệp Nhật Bản nhằm xây dựng một cơ cấu tổ chức nhân sự mạnh, hoạt động có hiệu quả. kết luận Theo lộ trình của xu hướng chuyển dịch đầu tư, sản xuất hàng giầy dép thế giới đã và đang tiếp tục di chuyển sang các nước đang phát triển trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu với những lợi thế nhất định về lao động, giá nhân công... Sản xuất giầy dép ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đang có rất nhiều thuận lợi để phát triển. Trong thời gian tới, Việt Nam có nhiều cơ hội để trở thành một trong những trung tâm sản xuất và xuất khẩu hàng giầy dép lớn của thế giới. Tuy nhiên, để đạt được những mục tiêu đặt ra cho ngành giầy dép trong những năm tới, ngành còn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, từ những vấn đề còn tồn tại trong sản xuất, xuất khẩu đến những khó khăn từ phía thị trường nhập khẩu cũng như sự cạnh tranh của các nước sản xuất giầy dép trong khu vực. Đề tài “ Thực trạng xuất khẩu giầy dép của Việt Nam và một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu giầy dép” đã tập trung nghiên cứu thực trạng xuất khẩu các mặt hàng giầy dép và đã cho thấy một số kết quả như sau: Xuất khẩu giầy dép đã có những tăng trưởng đáng kể cả về số lượng, giá trị và vị trí trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Cơ cấu giầy dép xuất khẩu đã chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng các mặt hàng có giá trị cao. Thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng và đa dạng hơn. Tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại như: Hiệu quả xuất khẩu không cao do chúng ta chủ yếu là gia công cho nước ngoài, các doanh nghiệp sản xuất chưa tự túc được nguyên liệu đầu vào, vẫn còn phụ thuộc vào nguyên liệu nhập. Điều kiện về vốn không cho phép chúng ta mở rộng sản xuất, đầu tư chiều sâu, dẫn đến kết quả là công nghệ nhập không tiên tiến, không theo kịp yêu cầu chất lượng của thị trường. Công tác dự báo thị trường, các hoạt động marketing thực hiện chưa tốt làm cho doanh nghiệp và thị trường tách rời nhau, sức cạnh tranh của hàng hoá không cao. Hệ thống pháp lý và chính sách quản lý của Nhà nước dù đã được hoàn thiện dần song vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, nhiều quy định không hợp lý gây ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Để đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng giầy dép, cả Nhà nước và doanh nghiệp phải thực hiện các biện pháp chủ yếu: Tăng cường thu hút vốn đầu tư vào ngành cả từ trong và ngoài nước, đảm bảo sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư. Có các biện pháp tổ chức sản xuất nguyên phụ liệu cho sản xuất giầy dép xuất khẩu. Nhà nước song song với việc duy trì phát triển thị trường hiện có cần chú trọng thâm nhập thị trường mới để có một cơ cấu thị trường hợp lý. Nâng cao năng lực cạnh tranh của cả doanh nghiệp và sản phẩm qua các biện pháp về tổ chức sản xuất, nhân lực, công nghệ, nguyên liệu, kiểu dáng, chất lượng... Nhà nước phải có những sửa đổi bổ sung kịp thời để hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu, đảm bảo môi trường pháp lý ổn định và thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu giầy dép. Nếu đảm bảo thực hiện một cách đồng bộ và kịp thời các giải pháp trên thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị xuất khẩu hàng giầy dép nâng cao khả năng xuất khẩu hàng hoá của mình gắn liền với nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đặc biêt là hiệu quả xuất khẩu, đưa hàng giầy dép lên vị trí xứng đáng với tiềm năng vốn có của nó trong chiến lược phát triển kinh tế hướng về xuất khẩu của Việt Nam. Mục lục Lời nói đầu Chương I Vai trò của mặt hàng giầy dép trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam I. Xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân 1 1. Khái niệm xuất khẩu 1 2. Vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân 4 II. Vai trò của mặt hàng giày dép trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam 7 1. Khả năng sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam . 8 2. Nhu cầu thị trường thế giới 11 3. Vai trò của sản xuất và xuất khẩu giầy dép đối với nền kinh tế 13 Chương II Thực trạng xuất khẩu hàng giầy dép của Việt Nam I. Khái quát tình hình thị trường giầy dép trên thế giới 15 1. Tình hình sản xuất giầy dép trên thế giới 16 1.1 Tình hình sản xuất giầy dép của Trung Quốc 17 1.2 Tình hình sản xuất giầy dép của Italia 18 1.3 Tình hình sản xuất giầy dép của ấn Độ 19 1.4 Tình hình sản xuất giầy dép của Braxin 20 1.5 Tình hình sản xuất giầy dép của Inđônêxia 20 1.6 Tình hình sản xuất giầy dép của Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc 21 2. Tình hình tiêu thụ hàng giầy dép trên thế giới. 22 2.1 Tình hình tiêu thụ hàng giầy dép ở Mỹ 22 2.2 Tình hình tiêu thụ hàng giầy dép ở EU 23 2.3 Tình hình tiêu thụ hàng giầy dép ở Nhật Bản 24 3. Xu hướng phát triển của thị trường giầy dép thế giới 25 II. Thực trạng xuất khẩu giầy dép của Việt Nam 26 1. Kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu 27 1.1 Kim ngạch 27 1.2 Cơ cấu xuất khẩu .29 1.3 Đánh giá tăng trưởng kim ngạch và biến đổi cơ cấu xuất khẩu 30 2. Thị trường xuất khẩu 32 2.1 Thị trường EU.. 32 2.2 Thị trường Mỹ ..34 2.3 Thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan. 36 2.4 Thị trường Đông Âu, SNG và các thị trường khác. 37 3. Hiệu quả xuất khẩu giầy dép của Việt Nam 38 4. Đánh giá thực trạng xuất khẩu giầy dép của Việt Nam 41 4.1 Những lợi thế 41 4.2 Những tồn tại yếu kém 47 Chương III Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng giầy dép Việt Nam I . Mục tiêu, định hướng phát triển xuất khẩu giầy dép 56 1. Mục tiêu, định hướng của toàn nền kinh tế 56 2. Mục tiêu, định hướng phát triển xuất khẩu giầy dép của Việt Nam trong giai đoạn 2000-2010 57 2.1 Định hướng về thị trường. 58 2.2 Định hướng về sản phẩm 61 2.3 Mục tiêu phát triển tới năm 2000-2010. 61 II. Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu giày dép Việt Nam giai đoạn 2000-2010 62 1. Tác động từ phía Nhà nước 62 1.1 Thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư vào ngành 62 1.2 Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu, ổn định môi trường pháp lý. 67 1.3 Hỗ trợ doanh nghiệp trong hoạt động mở rộng thị trường nhập khẩu 69 1.4 Hỗ trợ sản xuất trong nước 73 2. Đối với bản thân doanh nghiệp 74 2.1 Giải pháp trong việc cung cấp nguyên, phụ liệu. 74 2.2 Mở rộng thị trường xuất khẩu 76 2.3 Nâng cao hiệu quả gia công xuất khẩu 77 2.4 Nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. 79 2.5 Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 68 Kết luận Tài liệu tham khảo Phụ lục Tài liệu tham khảo Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch thương mại 1991-2000. Bộ Thương mại. Các tham luận, văn kiện, Nghị quyết Đại hội Đảng VIII. Cơ sở khoa học để xây dựng định hướng, mục tiêu phát triển thương mại 5 năm (2001-2005)- Hoàng Gia Kim- Chuyên viên cao cấp Bộ Thương mại. Chiến lược xuất khẩu 2000-2005-2010. Bộ Thương mại. Chiến lược phát triển công nghiệp Da giầy Việt Nam 1996-2010. (Lê Như Hà- Thư ký Hiệp hội Da giầy Việt Nam). Chuyển dịch cơ cấu hướng về xuất khẩu. Bộ Thương mại Giáo trình Kinh tế Ngoại thương- GS- TS Bùi Xuân Lưu. ĐH Ngoại Thương. Hải quan 1993-1999. Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi). Niên giám thống kê 1998,1999 Tổng cục Thống kê. Tạp chí Công nghiệp các số năm 1998, 1999, 2000. Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu các số năm 1998, 1999, 2000. Tạp chí Nghiên cứu Châu Mỹ các số năm 1998, 1999, 2000. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế các số năm 1998, 1999, 2000. Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản các số năm 1998, 1999, 2000. Tạp chí Ngoại thương các số năm 1998, 1999, 2000. Tạp chí Thương mại các số năm 1998, 1999, 2000. Xu hướng và triển vọng phát triển công nghiệp Da giầy thế giới đến 2010- UNIDO. Leather- The International Journal 1995-1999. Shoe and Leather News 1996-1999. phụ lục Bảng 1: mức lương giờ của một số nước Đơn vị: USD/giờ Nước Lương Nước Lương Nước Lương Indonesia 0,23 Thái Lan 0,87 Đài Loan 5,00 Trung Quốc 0,34 Malaysia 0,95 Anh 10,16 Việt Nam 0,48 Singapore 3,16 Mỹ 10,33 ấn độ 0,54 Hongkong 3,39 Pháp 12,63 Philipine 0,67 Hàn Quốc 3,60 Nhật Bản 16,37 Nguồn: Vụ Kế hoạch Thống kê- Bộ Thương mại Bảng 2: đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực giầy dép Việt Nam (Đến đầu năm 1999) Nước đầu tư Số dự án Vốn đầu tư (triệu USD) Tỷ lệ (%) Đài Loan 15 179,943 40,2 Hàn Quốc 17 123,682 27,6 Hongkong 2 83,749 18,7 B.V.island 1 34,025 7,6 Đức 2 14,743 3,3 Singapore 1 11,404 2,6 Nguồn: Vụ Kế hoạch Thống kê-Bộ Thương mại ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7349.doc
Tài liệu liên quan