Chương I
lý luận về năng lực cạnh tranh.
I.Vai trò của nâng cao năng lực cạnh tranh.
1.Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.1. Khái niệm, vai trò năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Khái niệm năng lực cạnh tranh:
Trước tiên để có thể hiểu được năng lực cạnh tranh, chúng cần phải hiểu cạnh tranh là gì? Cạnh tranh của doanh nghiệp là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trên thị trường nhằm tạo lợi thế cho mình và thu được nhiều lợi nhuận hơn. Thực chất của cạnh tranh là sự tranh giành về
42 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1337 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng xuất khẩu của hàng thuỷ sản Việt Nam sang thị trường EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lợi ích kinh tế giữa các chủ thể tham gia thị trường, đối với người mua, họ muốn mua được hàng hoá có chất lượng cao với một mức giá thấp. Còn ngược lại, các nhà doanh nghiệp bao giờ cũng muốn tối đa hoá lợi nhuận của mình, vì mục tiêu lợi nhuận, họ phải giảm chi phí, tìm cách giành giật khách hàng và thị trường về phía mình, như vậy cạnh tranh sẽ xảy ra.
Năng lực cạnh tranh là tổng thể các yếu tố gắn trực tiếp với hàng hoá cùng với các điều kiện, công cụ và biện pháp cấu thành khả năng của các doanh nghiệp trong ganh đua với nhau nhằm chiếm lĩnh thị trường, giành khách hàng và đem lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp tham gia cạnh tranh.
Vai trò :
Thứ nhất, vai trò to lớn nhất của cạnh tranh là chiếm lĩnh thị trường, giành giật lấy thị phần lớn trước các đối thủ cạnh tranh của mình. Từ đó thu về lợi nhuận lớn.
Thứ hai, cạnh tranh làm tăng khả năng mở rộng thị trường, giúp cho việc quảng bá thương hiệu sản phẩm tới tay người tiêu dùng được dễ dàng hơn, và khi thương hiệu sản phẩm được người tiêu dùng ưa thích thì khả năng tiêu thụ của mặt hàng đó sẽ tăng doanh thu lớn đem về lợi nhuận cao.
Thứ ba, cạnh tranh là động lực khiến các doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất theo chiều sâu cũng như bề rộng. Bởi lẽ, khi tham gia cạnh tranh, các doanh nghiệp sẽ phải nỗ lực để dành lấy những cơ hội tốt nhất, nhưng muốn đạt được điều này thì doanh nghiệp đó cần có những điều kiệ cạnh tranh hơn các đối thủ của mình tức là doanh nghiệp đó phải nâng cao chất lượng sản xuất cũng như mối quan hệ thị trường.
Thứ tư, nâng cao cạnh tranh khiến cho các doanh nghiệp phải cải tiến chất lượng sản phẩm, điều này dẫn tới ngươi tiêu dùng sẽ nhận được những sản phẩm tốt nhất. Cũng nhờ đó mà thị trường sẽ loại bỏ được những sản phẩm kém chất lượng.
Như vậy, cạnh tranh có rất nhiều vai trò, nhưng phải kể tới vai trò to lớn nhất vẫn là chiếm lĩnh thị trường, mở rộng thị phần, nâng cao lợi nhuận, và chọn lọc được những sản phẩm tốt nhât tới tay người tiêu dùng.
1.2. Các tiêu chí phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.2.1 Tiêu chí định lượng.
Dưới giác độ định lượng đánh giá năng lực cạnh tranh thông qua thị phần. Thị phần được định nghĩ là tỉ lệ phần trăm thị trường mà doanh nghiệp chiếm lĩnh được. Nó là một chỉ tiêu tổng hợp để đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp. Thị phần càng lớn thể hiện rõ năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp càng mạnh.
1.2.2 Chỉ tiêu định tính.
Dưới giác độ định tính, năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp gắn liền với các nhân tố tác động như: chi phí sản xuất, hiệu quả sử dụng thiết bị, chất lượng lao động, sản phẩm sẵn có và tiện dụng, quan hệ khách hàng, hiệu quả trong dịch vụ khách hàng, tổ chức hoạt động bán hàng, kỹ năng buôn bán với giá linh hoạt, dịch vụ khách hàng…
1.2.2.1 Về sản phẩm:
Điều quan trọng nhất đối với một doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh là phải trả lời được câu hỏi cơ bản: sản xuất cái gì? sản xuất cho ai? Sản xuất như thế nào? và như vậy, doanh nghiệp đã xây dựng cho mình một chính sách sản phẩm. Không một doanh nghiệp nào hoạt động trên thị trường mà lại không có sản phẩm kinh doanh cho dù là vô hình hay hữu hình. Vậy, doanh nghiệp nào có sản phẩm thích ứng được với thị trường một cách nhanh chóng thì mới có thể tiêu thụ trên thị trường, mở rộng thị trường và tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Sức cạnh tranh của một sản phẩm được đánh giá thông qua các tiêu chuẩn về chất lượng, chức năng, kiểu dáng của sản phẩm và nhãn hiệu bao bì. Trong đó, chất lượng sản phẩm đóng vai trò then chốt. Nếu như trước kia, giá cả được coi là yếu tố quan trọng nhất trong cạnh tranh thì ngày nay, nó đã phải nhường chỗ cho chỉ tiêu chất lượng sản phẩm. Trên thực tế, cạnh tranh bằng giá là “biện pháp nghèo nhất” vì nó làm giảm lợi nhuận thu được, ngược lại, cùng một loại sản phẩm, chất lượng sản phẩm nào tốt đáp ứng được yêu cầu thì người tiêu dùng cũng sẵn sàng mua với mức giá cao hơn, nhất là trong thời đại ngày nay, khi mà khoa học kỹ thuật đang trong giai đoạn phát triển mạnh, đời sống nhân dân được nâng cao nhiều so với trước.
1.2.2.2 Về giá thành.
Giá thành sản phẩm (bao gồm giá thành sản xuất và giá thành toàn bộ) được hình thành từ các chi phí trực tiếp và gián tiếp phát sinh trong quá trình sản xuất, kinh doanh như chi phí nhân công, chi phí nguyên vật liệu, chi phí khấu hao tài sản cố định…Trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, nếu các yếu tốkhác tương đương nhau thì doanh nghiệp nào có giá thành sản phẩm thấp hơn sẽ có sức cạnh tranh cao hơn. Thật vậy, khi cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu tăng lên thì lợi nhuận sẽ bị hạn chế. Để giữ vững lợi nhuận, doanh nghiệp cần phải tìm mọi cách giảm chi phí nhằm cho phép đưa ra thị trương sản phẩm với giá cả cạnh tranh. Ngày nay, trong môi trường cạnh tranh quốc tế thì điều kiện tiên quyết để thành công đối với một doanh nghiệp là giảm tối đa giá thành và rủi ro. Ngoài ra, giá thành sản phẩm còn là một nhân tố ảnh hưởng đến giá bán. Trong khi đó, giá bán cũng là một công cụ cạnh tranh rất hữu hiệu đối với người mua, khi mua hàng yếu tố giá luôn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến các quyết định mua hàng.
1.2.2.3 Về khả năng tiếp cận thị trường:
Đánh giá về khả năng tiếp cận thị trường của doanh nghiệp thường căn cứ vào: các tiêu thức về kênh phân phối , chính sách kích thích tiêu thụ sản phẩm(quảng cáo, khuyến mại…). Ngày nay, những hạn chế trong giai đoạn sản xuất đã được khắc phục do sự phát triển của khoa học – công nghệ , nhưng doanh nghiệp lại vấp phải những khó khăn trong quá trình tiêu thụ sản phẩm bởi môi trường cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt. Vì vậy, doanh nghiệp nào tiếp cận thị trường tốt hơn sẽ có cơ hội tồn tại nhiều hơn các đối thủ cạnh tranh khác. Để tiếp cận thị trường, doanh nghiệp cần phải tiến hành các hoạt động tuyên truyền, nhằm cung cấp các thông tin về sản phẩm cho khách hàng cũng như các hoạt động khác để xây dựng thiện cảm và lòng tin của người tiêu dùng về sản phẩm. Từ đó khuyến khích khách hàng hành động mua hàng của đơn vị. Khi khách hàng có nhu cầu mua hàng, doanh nghiệp phải đảm bảo chuyển hàng hoá đến tay người tiêu dùng một cách thuận tiện và nhanh chóng nhất thông qua hệ thống kênh phân phối của mình. Kênh phân phối, là một tập hợp các công ty hay cá nhân tự gánh vác, giúp đỡ chuyển giao cho một ai đó quyền sở hữu đối với hàng hoá hay dạch vụ trên con đường từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng. Tùy thuộc vào đặc điểm của khách hàng, của sản phẩm, của những người trung gian và môi trường kinh tế , văn hoá, phong tục, tập quán mà có thể tổ chức các kênh phân phối khác nhau. Hàng hoá là tư liệu sản xuất, được phân phối thông qua lực lượng bán hàng của người sản xuất một cách trực tiếp hoặc phân phối gián tiếp thông qua các nhà phân phối, các đại lý hoặc người bán buôn. Để lựa chọn các kênh phân phối, các nhà sản xuất cần căn cứ vào thị trường từng nước, lựa chọn từng đại lý , người phân phối cụ thể.
Tóm lại, có thể rút ra một quan điểm chung nhất là: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được xác định bởi những điểm mạnh, những ưu thế tương đối của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh. Một doanh nghiệp có nhiều ưu điểm, thế mạnh, có tiềm năng hơn các đối thủ thì doanh nghiệp đó sẽ có năng lực cạnh tranh cao hơn. Ưu điểm đó có thể là chất lượng sản phẩm tốt hơn, giá bán rẻ hơn, giá thành sản xuất thấp hơn, nguồn tài chính dồi dào hơn , công nghệ tiên tiến hơn, năng suất lao động cao hơn… Xét cho cùng, mục tiêu cạnh tranh là nhằm thu hút được nhiều khách hàng hơn, tăng lợi nhuận. Chính vì vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng có thể hiểu là khả năng của doanh nghiệp trong việc tạo ra sức mạnh thu hút khách hàng. Đương nhiên, doanh nghiệp nào thu hút được nhiều khách hàng hơn thì doanh nghiệp đó có khả năngca cao hơn.
1.3 Những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động sản xuất kinh doanh bao giờ cũng gắn liền với môi trường kinh doanh, đó là các yếu tố ngoài doanh nghiệp. Vì vậy, nó chịu ảnh hưởng và tác động của các nhân tố này:
1.3.1.Môi trường kinh tế
Một nền kinh tế phát triển với tốc độ cao sẽ kéo theo sự tăng thu nhập cũng như khả năng thanh toán của người dân. Mặt khác, nền kinh tế phát triển mạnh có ý nghĩa là khả năng tích tụ và tập trung tư bản lớn như vậy tốc độ đầu tư phát triển cho xản xuất kinh doanh sẽ tăng lên. Đây chính là cơ hội tốt cho doanh nghiệp phát triển. Doanh nghiệp nào có khả năng nắm bắt được những cơ hội này thì chắc chắn sẽ thành công và sức cạnh tranh cũng tăng lên. Tuy nhiên, do sự tăng trưởng của nền kinh tế sẽ kéo theo sự tăng lên một cách nhanh chóng số lượng các doanh nghiệp tham gia thị trường và như vậy mức độ cạnh tranh sẽ trở nên gay gắt hơn. Ai đi trước trong cuộc cạnh tranh này người đó sẽ chiến thắng. Ngược lại, khi nền kinh tế đang trong giai đoạn suy thoái, tỷ lệ lạm phát tăng làm cho giá cả tăng, sức mua của người dân bị giảm sút, các doanh nghiệp phải tìm mọi cách giữ khách hàng, do đó cạnh tranh trên thị trường sẽ khốc liệt hơn.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, môi trường kinh tế là một yếu tố rất nhạy cảm, dễ bị tác động. Thật vậy, khủng hoảng kinh tế không bao giờ ảnh hưởng chỉ trong phạm vi một quốc gia mà tác động lan truyền trong cả khu vực, thậm chí trên phạm vi toàn cầu. Mức độ tàn phá cũng ngày một nặng nề hơn, tần suất xuất hiện cũng dàyđặc hơn. điều này đì hỏi các doanh nghiệp phải tạo được một năng lực cạnh tranh tốt hơn để có thể sẵn sàng đương đầu với những “cơn bão khủng khiếp”, đang đe doạ sự sống còn của doanh nghiệp.
1.3.2 Môi trường luật pháp, chính trị.
Luật pháp rõ ràng, chính trị ổn định là môi trường thuận lợi đảm bảo sự bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả, ổn định về chính trị đem lại sự lành mạnh hoá xã hội, ổn định kinh tế, tạo hành lang thông thoáng cho sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp .Trong điều kiện bình thường, một doanh nghiệp có thể bị ảnh hưởng do những thay đổi của hệ thống pháp luật. Luật pháp là yếu tố dễ dàng bị áp đặt nên dễ dàng bị thay đổi. Những ảnh hưởng của những thay đổi gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc hoạch định chiến lược kinh doanh lâu dài dủa mình.
Trong quá trình toàn cầu hoá, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi các quy định, luật pháp, thủ tục của nước sở tại. Mọi sự biến động về môi trường luật pháp, chính trị của một nước trên thế giới đều có khả năng ảnh hưởng đến các doanh nghiệp trong nước. Trong điều kiện đó, sự thấu hiểu thông lệ và luật pháp quốc tế là cơ sở quan trọng giúp doanh nghiệp tránh được những tổn thất không đáng có trong nỗ lực chiếm lĩnh thị trường.
1.3.3 Khả năng thâm nhập thị trường của doanh nghiệp tiềm ẩn.
Đó là sự xuất hiện của các công ty mới tham gia vào thị trường nhưng có khả năng mở rộng sản xuất, chiếm lĩnh thị trường của các công ty khác..
1.3.4 Nhân tố cung ứng đầu vào cho doanh nghiệp.
Là nhân tố phản ánh mối tương quan giữa nhà cung cấp với doanh nghiệp ở khía cạnh sinh lợi, tăng giá hoặc giảm giá, giảm chất lượng hàng hoá khi tiến hành giao dịch với công ty. Nhà cung cấp có thể chi phối đến doanh nghiệp do sự thống trị hoặc khả năng độc quyền của một số ít nhà cung cấp. Nhà cung cấp có thể đe doạ tới doanh nghiệp do sự thay đổi chi phí của sản phẩm mà người mua phải chấp nhận và tiến hành do sự đe doạ tiềm tàng và do sự liên kết của những nhà cung cấp gây ra.
1.3.5 Nhân tố khách hàng.
Khách hàng là nhân tố quyết định đến sự thành công hay thất bại trong kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thu hút được nhiều khách hàng mới càng có được kết quả kinh doanh cao. Khách hàng lựa chọn sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp không chỉ bởi chất lượng, giá cả mà đôi khi cả dịch vụ chăm sóc khách hàng của doanh nghiệp. Một nhóm khách hàng có liên quan đến nhau sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp cũng là mối quan tâm của những khách hàng khác… Vì vậy, doanh nghiệp cũng cần tập trung chú ý đến nhóm khác hàng tiềm năng để duy trì phát triển thêm nhiều khách hàng mới.
1.3.6 Nhân tố cạnh tranh nội bộ ngành.
Các công ty trong cùng ngành cạnh tranh khốc liệt với nhau về giá cả, sự khác biệt hoá sản phẩm hoặc sự đổi mới sản phẩm giữa các công ty hiện đang cùng tồn tại trong thị trường. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự cạnh tranh này ngày càng gay gắt là do đối thủ cạnh tranh nhiều hơn và mạnh hơn về mọi mặt như vốn, công nghệ, trình độ quản lý, kinh nghiệm thị trường…
II. đặc điểm của thị trường eu
1.Đặc điểm thị trường.
EU là một liên minh kinh tế của 15 quốc gia nằm trong khu vực Châu Âu, kể từ ngày 1/5/2004 EU kết nạp thêm 10 quốc gia mới đã đưa tổng số thành viên lên 25, và trở thành một liên minh kinh tế, tiền tệ lớn nhất thế giới. Như vậy, xét về thị trường thì EU là một thị trường chung với những chính sách và quy định chung cho tất cả 25 nước thành viên. Do đó, nó mang những đặc điểm sau:
1.1.EU là một thị trường có quy mô lớn.
EU với khoảng 500 triệu người tiêu dùng có nhu cầu tiêu thụ đa dạng. Nhưng, từ lâu nó vẫn được biết đến là một thị trường “sang trọng” và khó tính. Kể từ khi Việt Nam và EU bình thường hoá mối quan hệ (tháng 10/1990), sự hợp tác trên lĩnh vực kinh tế và thương mại giữa 2 bên liên tục được cải thiện và phát triển. Tiến trình đó được thúc đẩy bởi những hiệp định song phương được ký kết trong đó có hiệp định khung về hợp tác Việt Nam – EU ngày 17/7/1999 đã tạo ra những cơ sở thuận lợi mới cho 2 bên. Buôn bán 2 chiều năm 1990 là 300 triệu USD năm 1995 tăng lên 2 tỷ USD, năm 2002 gần 2 tỷ USD. Đến nay đã có 285 dự án FDI tổng trị giá 6,9 tỷ EURO từ 11 nước EU đầu tư vào Việt Nam. Hiện nay EU là một trong những thị trường nhập khẩu lớn, chiếm tới 20% toàn bộ xuất khẩu của Việt Nam, kim ngạch buôn bán song phương có tốc độ tăng trưởng khá nhanh, danh mục hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU ngày càng tăng đặc biệt là mặt hàng thuỷ sản. Sau 1/5/2004 việc EU có thêm 10 nước thành viên mới, nâng tổng số lên 25 quốc gia sẽ trở thành một thị trường thống nhất với sức mua lớn. Số lượng người tiêu dùng tăng lên kéo theo nhu cầu tiêu thụ tăng lên cả về hàng hoá và dịch vụ, tầng lớp dân cư đa dạng hơn nên nhu cầu cũng phong phú hơn. Việc đổi mới cơ cấu kinh tế giúp các nước thành viên mới phát triển nhanh hơn và phong phú hơn trên nhiều lĩnh vực. Phần lớn các nước thành viên mới là những bạn hàng cũ của ta trước đây, nên khi gia nhập EU sẽ có điều kiện khôi phục và phát triển trở lại. Như vậy, EU sẽ trở thành một thị trường đầy tiềm năng cho Việt Nam.
1.2. EU là thị trường có thị hiếu và thói quen tiêu dùng tương đối tương đồng.
Là một liên minh kinh tế với nhiều thị trường quốc gia, mỗi thị trường có những đặc điểm tiêu dùng riêng. Tuy có những khác biệt nhất định về tập quán và thị hiếu tiêu dùng giữa các thị trường quốc gia trong khối EU, nhưng phần lớn, các nước thành viên là những quốc gia nằm ở khu vực Tây và Bắc Âu nên có những điểm tương đồng về kinh tế và văn hoá. Trình độ phát triển kinh tế- xã hội của các nước thành viên khá đồng đều cho nên người dân thuộc khối EU có những đặc điểm chung về sở thích và thói quen tiêu dùng. Xét riêng về mặt hàng thuỷ hải sản, người tiêu dùng EU không mua những sản phẩm thuỷ hải sản nhập khẩu bị nhiễm độc do tác động của môi trường hoặc là chất phụ gia không được phép sự dụng. Đối các sản phẩm thuỷ hải sản đã qua chế biến, người Châu Âu chỉ dùng những sản phẩm đóng gói có ghi rõ tên sản phẩm, nơi sản xuất các điều kiện bảo quản và sử dụng, mã số và mã vạch. Người Châu Âu ngày càng ăn nhiều thuỷ hải sản vì họ cho rằng sẽ giảm được béo mà vẫn khoẻ mạnh. Người tiêu dùng EU có sở thích và tạo ra thói quen sử dụng các sản phẩm có nhãn hiệu nổi tiếng thế giới. Họ cho rằng, những nhãn hiệu này gắn liền với chất lượng sản phẩm có uy tín lâu đời. Cho nên, dùng những sản phẩm mang nhãn hiệu nổi tiếng sẽ rất an tâm về chất lượng và an toàn cho người sử dụng. Đặc biệt, đối với những sản phẩm của các nhà sản xuất có danh tiếng hay nói cách khác là những sản phẩm có nhãn hiệu ít người biết đến thì rất khó tiêu thụ trên thị trường này. Người tiêu dùng EU rất sợ mua những sản phẩm như vậy vì họ cho rằng sản phẩm của những nhà sản xuất không danh tiếng sẽ không đảm bảo về chất lượng vệ sinh, an toàn cho người sử dụng . Do đó, không an toàn cho sức khoẻ của họ.
Xu hướng tiêu dùng trên thị trường EU đang có những thay đổi như: không thích dùng đồ nhựa mà dùng đồ gỗ, thích ăn thuỷ hải sản hơn là ăn thịt, yêu cầu về mẫu mã và kiểu dáng thay đổi nhanh. Sở thích và thói quen tiêu dùng trên thị trường này đang thay đổi rất nhanh cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ. Ngày nay, yêu cầu của người tiêu dùng EU đề cao hơn về phương thức dịch vụ sau khi bán hàng hoá, vì chất lượng hàng hoá vẫn luôn là yếu tố quyết định phần lớn mặt hàng được tiêu thụ ở thị trường này.
1.3 EU là thị trường khó tính.
EU là thị trường lớn trên thế giới, sở thích và nhu cầu của họ cũng cao, họ có thu nhập, mức sống cao và khá đồng đều, yêu cầu rất khắt khe về chất lượng và độ an toàn của sản phẩm nói chung, thực phẩm nói riêng. Yếu tố trước tiên quyết định tiêu dùng của người EU là chất lượng và thời trang của hàng hoá, sau đó mới đến giá cả đối với đại đa số các mặt hàng được tiêu thụ trên thị trường này. Thị trường EU về cơ bản giống như thị trường quốc gia, nó phân chia làm 3 nhóm người tiêu dùng khác nhau:
Nhóm I. Nhóm có khẳ năng thanh toán ở mức cao, chiếm gần 20% dân số, EU dùng hàng có chất lượng tốt nhất, giá cả đắt nhất hoặc những mặt hàng hiếm và độc đáo.
Nhóm II. Nhóm có khẳ năng thanh toán ở mức trung bình, chiếm 68% dân số, sủ dụng chủng loại hàng chất lượng kém hơn một chút so với nhóm I và giá rẻ hơn.
Nhóm III. Nhóm có khẳ năng thanh toán ở mức thấp, chiếm hơn 10% dân số, tiêu dùng những loại hàng có chất lượng và giá đều thấp hơn so với hàng của nhóm II. Hàng hoá đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trên thị trường này bao gồm cả hàng hoá cao cấp lẫn hàng bình dân phục vụ mọi đối tượng. Nắm bắt được thị trường này các doanh nghiệp Việt Nam sẽ xâm nhập được một cách dễ dàng.
1.4. EU là thị trường bảo vệ người tiêu dùng.
Một đặc điểm nổi bật trên thị trường EU là quyền lợi người tiêu dùng rất được bảo vệ, khác hẳn với thị trường của các nước đang phát triển. Để đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng, EU tiến hành kiểm tra các sản phẩm ngay từ nơi sản xuất và có các hệ thống báo động giữa các nước thành viên. Đồng thời bãi bỏ việc kiểm tra các sản phẩm ở biên giới. EU đã thông qua những quy định bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng về độ an toàn chung của các sản phẩm được bán ra, các hợp đồng quảng cáo, bán hàng tận nhà, nhãn hiệu... Các tổ chức chuyên nghiên cứu đại diện cho giới tiêu dùng EU sẽ đưa ra các quy chế định chuẩn quốc gia. Hiện nay ở EU có 3 tổ chức định chuẩn, uỷ ban Châu Âu về định chuẩn điện tử, viện định chuẩn viễn thông Châu Âu. Tất cả các sản phẩm chỉ có thể bán được ở thị trường này với điều kiện: phải bảo đảm tiêu chuẩn an toàn chung của EU. Các luật và định chuẩn quốc gia được sử dụng chủ yếu để cấm buôn bán sản phẩm được sản xuất ra từ các nước có những điều kiện sản xuất chưa đạt được mức an toàn ngang với tiêu chuẩn của EU. Đối với sản phẩm tiêu dùng, xét cho mặt hàng thuỷ sản như sau: Sản phẩm đóng gói phải ghi rõ tên sản phẩm, nhãn mác, danh mục thành phẩm, trọng lượng ròng, thời gian sử dụng, cách sử dung, địa chỉ của nước sản xuất hoặc nơi bán, nơi sản xuất, các điều kiện đặc biệt để bảo quản, để chuẩn bị sử dụng, hoặc các thao tác bằng tay, mã số vạch và mã vạch để nhận dạng lô hàng... Đặc biệt sau chỉ thị 91/493/EEC ban hành 6/1993 quy định: các doanh nghiệp tại nước xuất khẩu phải có các điều kiện sản xuất tương đương như doanh nghiệp của nước nhập khẩu và phải được cơ quan kiểm tra chất lượng và EU chấp nhận. Để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng EU tích cực tham gia chống nạn hàng giả bằng cách không cho nhập khẩu những sản phẩm đánh cấp bản quyền. Chính vì những đặc điểm trên mà thị trường các nước thuộc EU sẽ có một kênh phân phối đặc biệt chặt chẽ.
1.5 Hệ thống kênh phân phối chặt chẽ.
Hệ thống phân phối EU về cơ bản giống như hệ thống phân phối của một quốc gia, gồm mạng lưới bán, buôn, mạng lưới bán lẻ, tham gia vào hệ thống phân phối này là các công ty liên doanh xuyên quốc gia, hệ thống cửa hàng siêu thị, các công ty bán lẻ độc lập. Các công ty xuyên quốc gia là các tập đoàn lớn bao gồm nhiều công ty con. Những công ty thường phát triển theo mô hình chiều ngang gồm ngân hàng , hoặc công ty tài chính, công ty thương mại, siêu thị, cửa hàng. Các công ty xuyên quốc gia tổ chức mạng lưới tiêu thụ hàng của mình rất chặt chẽ, tự trong từ khâu đầu tư sản xuất hoặc mua hàng đến khâu phân phối hàng cho mạng lưới bán lẻ. Do đó, họ có quan hệ rất chặt chẽ với các nhà thầu nước ngoài để đảm bảo nguồn cung cấp hàng ổn định và giữ uy tín với mạng lưới bán lẻ. Hình thức tổ chức phổ biến nhất của các kênh phân phối trên thị trường EU là theo tập đoàn nghĩa là các nhà sản xuất và nhà nhập khẩu của một tập đoàn chỉ cung cấp hàng hóa cho hệ thống cửa hàng và siêu thị của tập đoàn này mà không cung cấp hàng cho hệ thống bán lẻ của tập đoàn khác. Còn kênh phân phối không theo tập đoàn thì ngược lại, các nhà sản xuất và nhập khẩu tập đoàn này ngoài việc cung cấp cho hệ thống bán lẻ của tập đoàn mình còn cung cấp cho hệ thống bán lẻ, của tập đoàn khác và các công ty bán lẻ độc lập, rất ít trường hợp các siêu thị lớn hoặc các công ty bán lẻ độc lập mua hàng trực tiếp từ các nhà nhập khẩu nước ngoài. Mối quan hệ bạn hàng giữa các nhà buôn và bán lẻ trên thị trường EU không phải là ngẫu nhiên mà phần lớn do có quan hệ tín dụng và mua cổ phần của nhau. Các nhà bán buôn và bán lẻ trong hệ thống phân phối của EU thường có quan hệ làm ăn lâu đời và rất ít khi mua hàng của các nhà cung cấp không quen biết, cho dù giá hàng có rẻ hơn nhiều, vì uy tín kinh doanh với khách hàng được họ đặt lên hàng đầu. Họ liên kết với nhau thành một chuỗi mắt xích trong kinh doanh bằng các hợp đồng kinh tế. Các cam kết trong hợp đồng được giám sát nghiêm ngặt bởi các chế tài của luật kinh tế. Vì vậy, các nhà nhập khẩu của EU yêu cầu rất cao về việc tuân thủ chặt chẽ các điều khoản hợp đồng đặc biệt là chẩt lượng và thời gian giao hàng.
Hệ thống phân phối của EU đã hình thành nên một tổ hợp rất chặt chẽ và có nguồn gốc lâu đời. Tiếp cận được hệ thống phân phối này không phải là dễ đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam hiện nay_ vốn chỉ quen làm ăn chớp giật theo từng hợp đồng riêng biệt, các doanh nghiệp xuất khẩu của ta, muốn tiếp cận các kênh phân phối chủ đạo trên thị trường EU thì phải tiếp cận được các nhà nhập khẩu EU bằng hai cách:
Thứ nhất, tìm các nhà nhập khẩu EU để xuất khẩu trực tiếp.
Thứ hai, những doanh nghiệp Việt Nam có tiềm lực kinh tế nên thành lập liên doanh với các công ty xuyên quốc gia EU để trở thành công ty con. Với những đặc điểm trên EU đã đề ra một chính sách chung cho các thành viên.
2. Chính sách thương mại của EU.
Tất cả các nước thành viên EU cùng áp dụng một chính sách ngoại thương chung đối với các nước ngoài khối EU_ người đại diện cho liên minh trong việc đàm phán, kí kết các hiệp định thương mại và dàn xếp tranh chấp trong lĩnh vực này. Chính sách ngoại thương của EU được xây dựng dựa trên các nguyên tắc sau: Không phân biệt đỗi xử minh bạch, có đi có lại và cạnh tranh công bằng. Các biện pháp được áp dụng phổ biến trong chính sách này:
2.1 Thuế quan
2.1.1. Thuế nhập khẩu:
Liên minh Châu Âu áp dụng thuế quan chung của EU dựa trên hệ thống hài hòa quốc tế về phân loại sản phẩm để có quyết định thuế suất cho một hàng hóa, việc phân loại rất quan trọng. Một khi hàng hóa được phân loại thì việc định giá cũng dễ dàng hơn, và nó cũng sẽ giúp cho các nước EU xem có nên áp dụng thuế chống phá giá hay không, có cần cấp phép nhập khẩu hay hưởng giảm thuế miễn thuế hay thuế ưu đãi ... áp dụng với từng hàng hóa cụ thể. Thuế suất hàng hóa sản xuất ngoài EU thường thấp và dựa trên giá CIF của hàng đến, giá CIF là giá hàng “thường là giá bán” bao gồm cả chi phí đóng gói, bảo hiểm, giá vận chuyển đến cảng. Hầu hết nguyên liệu nhập khẩu vào EU được miễn giảm thuế, trong các mặt hàng đông hải sản thực phẩm, thuế áp dụng cho các nước thành viên. Thuế suất khác nhau phụ thuộc vào loại hàng nhập khẩu và nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa hoặc phụ thuộc vào mức độ nhạy cảm kinh tế của sản phẩm. Nguyên liệu và bán sản phẩm mà liên minh không sản xuất và cần để sản xuất thường được hưởng thuế suất thấp. Điều này khiến giá nguyên liệu rẻ và các nhà sản xuất trong nước có thể cạnh tranh với các nhà sản xuất nước ngoài. Liên minh thường xuyên điều chỉnh hệ thống thuế quan giống như một công cụ của chính sách ngoại thương cho phù hợp với biến động của nền kinh tế thế giới. Với các mặt hàng nhập khẩu, EU còn áp dụng thêm một số loại thuế khác nhằm đảm bảo việc nhập khẩu hàng hóa được ổn định.
2.1.2. Thuế giá trị gia tăng
Thuế giá trị gia tăng được áp dụng cho tất cả các hàng hóa được bán ở EU. VAT dựa trên giá CIF cộng với thuế nhập khẩu vào các nước thuộc liên minh Châu Âu. EU đã công bố thuế giá trị gia tăng chuẩn mực tối thiểu là 15% từ tháng 1 năm 1993. Tuy nhiên, từng nước thành viên có thể giảm xuống mức thấp nhất đối với từng loại hàng hóa nhất định.
2.1.3. Thuế linh hoạt ưu đãi.
Hàng nhập khẩu của Việt Nam sang Châu Âu được hưởng GSP ( chế độ ưu đãi thuế quan nhập khẩu) một công cụ quan trọng của EU để hỗ trợ các nước đang phát triển và chậm phát triển nhằm chống cạnh tranh không lành mạnh và bảo hộ sản xuất trong nước. Bằng cách này EU có thể làm cho các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam và các nước chậm phát triển được hưởng ưu đãi cao hơn các nhóm phát triển. Các biện pháp khuyến khích trong GSP của EU so với ưu đãi mà các nước và khu vực khác dành cho các nước đang phát triển vào loại thấp nhất. Trong hệ thống GSP của EU quy định: khuyến khích tăng thêm mức ưu đãi 10%, 20%, 35% với hàng nông hải sản và những trường hợp sau sẽ được hưởng ưu đãi thêm của GSP: Bảo vệ quyền của người lao động;Bảo vệ môi trường. Hàng của các nước đang và chậm phát triển, khi nhập vào thị trường EU muốn được hưởng GSP phải tuân thủ các quy định của EU về xuất xứ hàng hoá và phải xuất trình giấy chứng nhận xuất xứ mẫu A do cơ quan có thẩm quyền của các nước được hưởng GSP cấp.
Quy định của EU về xuất xứ hàng hoá.
Đối với sản phẩm được sản xuất tại lãnh thổ nước hưởng GSP. Ví dụ: hải sản, thuỷ sản đánh bắt tại lãnh hải và các hàng hoá sản xuất từ các sản phẩm đó được xem là có xuất xứ và được hưởng GSP.
Đối với các sản phẩm có thành phẩm nhập khẩu: EU quy định hàm lượng trị giá sản phẩm sáng tạo tại nước hưởng GSP (tính theo gia xuất xưởng) phải đạt 60% tổng trị giá hàng liên quan. Tuy nhiên đối với một số nhóm hàng thì hàm lượng vàng thấp hơn, EU cũng quy định xuất xứ cộng gộp, theo đó hàng của một nước có thành phần xuất xứ từ một nước khác, trong cùng một tổ chức khu vực cùng được hưởng GSP thì các thành phần đó cũng được xem là có xuất xứ từ nước liên quan. Hàng xuất khẩu của Việt Nam vào EU được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) từ ngày 1/7/1996 đến nay.
2.2. Quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật.
Để đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng EU đã ra những quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật như sau:
2.2.1. Tiêu chuẩn về chất lượng.
Hệ thống quản lý ISO 9000 gần như là yêu cầu bắt buộc đối với doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sang thị trường EU. Đây là hệ thống quản lý chất lượng hiện nay trên thế giới áp dụng rất phổ biến và cũng được áp dụng có hiểu quả trong các doanh nghiệp Việt Nam. Có thể nói ISO 9000 như “ngôn ngữ” xác định chữ tín của doanh nghiệp, là giấy thông hành để đi vào thương trường thế giới, một phương tiện cho thấy các nhà sản xuất nhập khẩu vào các khu vực mậu dịch cũng như sự khẳng định cam kết cung ứng sản phẩm tin cậy.
2.2.2. Tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm.
EU đòi hỏi các doanh nghiệp chế biến hàng thực phẩm xuất khẩu sang EU đòi hỏi phải tuân thủ các tiêu chuẩn vệ sinh chặt chẽ. Bên cạnh ISO 9000 là HACCP (Hazard Analysis critical control point)- hệ thống phân tích nguy cơ và kiểm soát các khâu trọng yếu trong quá trình chế biến thực phẩm và các ngành có liên quan đến thực phẩm ( chăn nuôi, nuôi trồng...), tập trung vào vấn đề vệ sinh và đưa ra một cách tiếp cận có hệ thống để phòng ngừa, giảm thiểu nguy cơ. Các doanh nghiệp muốn xuất khẩu hàng hoá của mình vào EU thì cần phải tuân thủ các tiêu chuẩn này.
2.2.3 Tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng
EU thông qua quy định về an toàn chung của sản phẩm cho người sử dụng, các sản phẩm khi đưa đến tay người sử dụng phải đảm bảo an toàn, không gây ngộ độc cho người tiêu dùng.
2.2.4 Tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường.
Các sản phẩm khi đưa ra sử dụng phải thoả mãn yêu cầu là không làm ô nhiễm môi trường, bao bì đóng gói phải được dán nhãn tái sinh hoặc sử dụng một lần. Các hoá chất được phếp sử dụng trong sản phẩm phải thoả mãn yêu cầu phân huỷ nhanh va không làm ô nhiễm môi trường.
2.3 Các chính sách khác
2.3.1 Chính sách hạn chế nhập khẩu
Eu hạn chế nhập khẩu thông qua các biện pháp được đưa ra như là: Cấp phép nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu và hạn chế nhập khẩu bằng hạn ngạch. Với biện pháp này, nếu như quốc gia nào được EU ưu tiên nhập khẩu hàng hoá của họ thì đó là thuận lợi lớn cho nước xuất khẩu, và ngược lại, biện pháp này cũng hạn chế xuất khẩu hàng hoá từ các nước mà EU không ưu tiên.
2.3.2 Chính sách chống bán phá giá
EU ra chính sách về chống bán phá giá nhằm đảm bảo cạnh tranh công bằng cho các nước xuất khẩu. Những quốc gia nào không áp dụng chính sách về bán phá giá sẽ nhận hình phạt đối với nước nhập khẩu, đây cũng là một biện pháp nhằm cạnh tranh lành mạnh trên thị trường hàng xuất khẩu thuỷ sản sang EU.
Như vậy, với những đặc điểm về thị trường EU, các quốc gia muốn đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của mình vào thị trường này cần có những chính sách phù hợp với các quy định của thị trường đó.
Chương II
Thực trạng xuất khẩu của hàng thuỷ sản
Việt Nam sang thị trường EU
I/ Mối quan hệ Việt Nam – EU về mặt hàng thuỷ sản.
1. Thuỷ sản_ mặt hàng xuất khẩu chủ lực có quy mô lớn và tốc độ tăng trưởng nhanh
Thành công của ngành thủy sản việt Nam ngày hôm nay bắt đầu bằng quá trình đổi mới ngành suốt hai thập kỉ qua. T._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33650.doc