Chương 1
vốn kinh doanh và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh.
Vốn kinh doanh.
Vốn kinh doanh và đặc trưng của vốn kinh doanh.
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên gọi riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD), bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải có đầy đủ ba yếu tố về lao động: tư liệu lao động, đối tượng lao
72 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1309 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng vốn kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Công ty xà phòng Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động và sức lao động. Quá trình SXKD chính là quá trình kết hợp các yếu tố đó để tạo ra sản phẩm, dịch vụ trên thị trường.
Để có được ba yếu tố trên cho quá trình SXKD, doanh nghiệp cần một lượng vốn tiền tệ nhất định. Với số tiền này, doanh nghiệp sẽ đầu tư mua sắm các loại tài sản, thiết bị, nguyên vật liệu (NVL) cần thiết cho hoạt động SXKD, đồng thời trả lương cho người lao động. Đến khi làm ra sản phẩm, dịch vụ, doanh nghiệp đem đi tiêu thụ và thu tiền về. Từ số tiền này, doanh nghiệp để lại một phần để trích lập các quĩ dự trữ cho quá trình SXKD tiếp theo.
Các tư liệu lao động và đối tượng lao động mà doanh nghiệp đầu tư mua sắm cho hoạt động SXKD chính là hình thái hiện vật của vốn kinh doanh. Như vậy, ta có thể nêu khái niệm của vốn kinh doanh như sau:
“Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là giá trị ứng trước của tư liệu sản xuất của doanh nghiệp đưa vào SXKD nhằm mục tiêu sinh lời”
Vốn kinh doanh luôn thay đổi hình thái biểu hiện, vừa tồn tại dưới hình thái tiền tệ vừa tồn tại dưới hình thái vật tư, tài sản vô hình nhưng bắt đầu và kết thúc một vòng tuần hoàn phải là hình thái tiền tệ.
Cùng với quá trình SXKD, vốn được vận động không ngừng tạo ra sự tuần hoàn và chu chuyển vốn song cách vận động và phương thức vận động của vốn lại do phương thức đầu tư kinh doanh quyết định. Điều này lại phụ thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp cụ thể.
Trong các doanh nghiệp sản xuất, ta có thể biểu diễn sự vận động của vốn kinh doanh theo sơ đồ sau:
SLĐ
T … H …… SX … H’ … T’ (T’ > T)
TLSX
Qua sơ đồ ta thấy sự vận động của vốn kinh doanh trong doanh nghiệp trải qua ba giai đoạn : mở đầu quá trình sản xuất, vốn kinh doanh tồn tại dưới hình thái tiền tệ sau đó chuyển sang hình thái vốn vật tư dự trữ. Sau đó trong quá trình sản xuất, vốn kinh doanh từ hình thái hình thái vốn vật tư dự trữ chuyển sang hình thái vốn hàng hoá. Cuối cùng, khi hàng hóa được tiêu thụ xong, vốn kinh doanh lại từ hình thái vốn hàng hoá chuyển sang hình thái vốn tiền tệ. Đồng tiền phải quay về nơi xuất phát với giá trị lớn hơn tức là T’ > T. Nếu không nó sẽ ảnh hưởng đến chu kì vận động tiếp theo của vốn. Đó cũng chính là nguyên lí đầu tư, sử dụng và bảo toàn vốn trong kinh doanh.
Đối với doanh nghiệp thương mại, phương thức vận động của vốn kinh doanh có phần đơn giản hơn.
T … H … T’ (T’ > T)
Đầu tiên vốn kinh doanh chuyển từ hình thái tiền tệ sang hình thái vốn hàng hoá sau đó vốn lại chuyển từ hình thái vốn hàng hoá sang hình thái vốn tiền tệ.
Còn trong các doanh nghiệp đầu tư mua cổ phiếu, trái phiếu, góp vốn kinh doanh thì phương thức vận động của vốn kinh doanh chỉ là:
T … T’ (T > T’)
Muốn quản lí tốt và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh, trước hết chúng ta phải hiểu được những đặc trưng cơ bản của vốn doanh nghiệp trong các doanh nghiệp cụ thể là:
Một là, vốn phải được biểu hiện bằng một lượng giá trị thực của những tài sản được sử dụng để sản xuất ra một lượng giá trị khác. Điều này có nghĩa là chỉ những giá trị tài sản được sử dụng vào quá trình SXKD một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như: nhà xưởng, đất đai, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu… mới được coi là vốn kinh doanh.
Hai là, vốn phải được vận động để sinh lời. Tiền tệ chỉ được coi là vốn kinh doanh khi chúng được đưa vào SXKD và sinh lời. Trong quá trình vận động vốn có thể thay đổi hình thái biểu hiện nhưng điểm xuất phát và điểm cuối cùng là hình thái tiền tệ. Để đảm bảo cho quá trình đầu tư thì số vốn đó phải có giá trị tăng lên.
Ba là, vốn phải được tập trung, tích tụ đến một lượng nhất định mới có thể phát huy tác dụng phục vụ SXKD và để đầu tư, mở rộng sản xuất. Vì thế, các doanh nghiệp phải luôn khai thác mọi tiềm năng vốn để đầu tư vào SXKD.
Bốn là, vốn có giá trị về mặt thời gian. Điều này có nghĩa là khi sử dụng vốn chúng ta cần phải xem xét đến yếu tố thời gian của vốn. Xét trên quan điểm kinh doanh, mỗi đồng vốn bỏ ra phải không ngừng vận động và sinh lời. Nhưng mỗi đồng vốn thu được trong tương lai lại không thể bằng một đồng vốn có ở thời điểm hiện tại. Sự khác biệt đó là do giữa chúng có yếu tố thời gian và rủi ro. Chính vì vậy khi quyết định bỏ vốn ra đầu tư, doanh nghiệp cần phải quan tâm đến yếu tố thời gian.
Năm là, vốn phải được gắn với chủ sở hữu. Đặc trưng này làm cho đồng vốn khi đưa vào SXKD mới được sử dụng hợp lý vì nó gắn chặt vào quyền lợi kinh tế của chủ sở hữu đó. Hơn nữa trong nền kinh tế thị trường, không thể để những đồng vốn vô chủ vì nếu thế sẽ dẫn đến hiện tượng sử dụng vốn lãng phí, kém hiệu quả.
Sáu là, vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền của các tài sản hữu hình mà còn được biểu hiện bằng tiền của các tài sản vô hình như vị trí địa lý, nhãn hiệu bản quyền, bằng phát minh sáng chế… Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ thì tài sản vô hình ngày càng phong phú và đa dạng. Những tài sản này càng giữ vai trò quan trọng trong việc tăng khả năng cạnh tranh và khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Vì vậy tất cả tài sản này của doanh nghiệp phải được lượng hoá qui giá trị. Đây là việc làm cần thiết cho các doanh nghiệp.
Bảy là, trong nền kinh tế thị trường vốn phải được quan niệm là hàng hoá - hàng hoá đặc biệt. Những người có vốn nhàn rỗi có thể đem đến thị trường vốn để cho người tạm thời thiếu vốn vay. Nhưng khác với hàng hoá thông thường, vốn khi được bán sẽ không mất đi quyền sở hữu mà chỉ mất đi quyền sử dụng. Người mua quyền sử dụng vẫn phải trả cho người bán một khoản tiền theo một tỉ lệ nhất định gọi là lãi suất.
Trên đây là những đặc trưng cơ bản của vốn kinh doanh. Các doanh nghiệp cần hiểu được các đặc trưng của vốn kinh doanh từ đó có một tầm nhìn sâu và rộng về vốn kinh doanh để quản lý, sử dụng có hiệu quả hơn vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.2. Phân loại vốn kinh doanh.
Khi nói đến vốn chúng ta thường gặp các khái niệm như: vốn điều lệ, vốn chủ sở hữu, vốn vay, vốn kinh doanh. Trước khi đi sâu vào phân tích vốn kinh doanh, ta cần nắm được các khái niệm đó.
Vốn điều lệ là số vốn do tất cả thành viên góp và được ghi vào điều lệ của công ty.
Vốn chủ sở hữu là số vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, doanh nghiệp có đầy đủ các quyền chiếm hữu, sử dụng, chi phối và định đoạt số vốn này.
Vốn vay là các khoản vốn được hình thành từ vốn vay của các ngân hàng thương mại hay tổ chức tài chính khác, vốn vay thông qua phát hành trái phiếu, các khoản nợ chưa thanh toán ... doanh nghiệp chỉ có quyền sử dụng trong thời gian nhất định.
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là giá trị ứng trước của tư liệu sản xuất của doanh nghiệp đưa vào SXKD nhằm mục tiêu sinh lời.
Qua các khái niệm trên ta có thể thấy vốn kinh doanh có phạm vi rộng nhất vì nó bao gồm cả vốn chủ sở hữu và vốn vay mà vốn chủ sở hữu lại bao gồm vốn điều lệ. Cấu thành vốn của doanh nghiệp được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau:
Nếu căn cứ vào phạm vi sử dụng vốn có thể chia vốn kinh doanh của doanh nghiệp thành hai loại: vốn đầu tư tại doanh nghiệp và vốn đầu tư ra bên ngoài.
Nếu căn cứ vào quan hệ sở hữu về vốn người ta cũng chia vốn kinh doanh của doanh nghiệp thành vốn chủ sở hữu và các khoản nợ.
Nếu căn cứ vào đặc điểm chu chuyển của vốn trong quá trình SXKD, ta có thể chia vốn thành hai loại: vốn cố định và vốn lưu động.
1.1.2.1. Vốn cố định.
Khi đầu tư thành lập một doanh nghiệp, các doanh nghiệp đều phải bỏ ra số vốn đầu tư ứng trước nhất định để mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các TSCĐ hữu hình và vô hình. Số vốn này được gọi là vốn cố định (VCĐ) của các doanh nghiệp. Vậy:
Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định (TSCĐ), mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng.
Vốn cố định được biểu hiện thông qua hình thái vật chất là TSCĐ của doanh nghiệp. TSCĐ của doanh nghiệp bao gồm rất nhiều loại, mỗi loại có những đặc điểm khác nhau về tính chất kỹ thuật, thời gian sử dụng...Vì vậy để quản lý tốt TSCĐ cũng như quản lý tốt vốn cố định, doanh nghiệp cần phải tiến hành phân loại TSCĐ. Có nhiều cách phân loại TSCĐ khác nhau đó là:
Nếu căn cứ vào tình hình sử dụng TSCĐ, ta có TSCĐ đang sử dụng, TSCĐ chưa cần dùng, TSCĐ không cần dùng chờ xử lý. Cách phân loại này cho thấy mức độ sử dụng có hiệu quả các TSCĐ của doanh nghiệp như thế nào. Từ đó có biện pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng chúng.
Nếu căn cứ vào mục đích sử dụng, TSCĐ được chia thành TSCĐ dùng cho mục đích kinh doanh, TSCĐ dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp,an ninh quốc phòng, TSCĐ bảo hộ, giữ hộ, cất giữ hộ nhà nước. Cách phân loại này cho phép doanh nghiệp thấy được cơ cấu TSCĐ theo mục đích sử dụng của nó. Từ đó có biện pháp quản lý TSCĐ theo mục đích sử dụng sao cho có hiệu quả nhất.
Nếu căn cứ vào hình thái biểu hiện có thể chia TSCĐ thành hai loại là TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình. Trong đó :
- TSCĐ hữu hình: Là những tư liệu lao động chủ yếu có hình thái vật chất, là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản liên kết với nhau để thực hiện một hay nhiều chức năng nhất định trong quá trình SXKD, có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài, tham gia vào nhiều chu kỳ SXKD nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu. Đó là toàn bộ vốn đầu tư xây dựng, mua sắm thiết bị công nghệ... của doanh nghiệp để tạo ra năng lực kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm: nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc thiết bị các loại, phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn, TSCĐ khác.
- TSCĐ vô hình: Là TSCĐ không có hình thái vật chất cụ thể, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ SXKD của doanh nghiệp như: quyền sử dụng đất, quyền phát hành, bản quyền, bằng sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá, phần mềm máy vi tính, giấy phép và giấy nhượng quyền...
Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu đầu tư vào TSCĐ hữu hình và vô hình. Từ đó lựa chọn các quyết định đầu tư hay điều chỉnh cơ cấu đầu tư sao cho phù hợp và có hiệu quả nhất.
TSCĐ và VCĐ là hai phạm trù liên quan chặt chẽ với nhau. VCĐ là số vốn đầu tư ứng trước vào TSCĐ nên quy mô của VCĐ nhiều hay ít sẽ quyết đến quy mô TSCĐ và ảnh hưởng lớn đến trình độ trang bị kỹ thuật công nghệ cũng như năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Ngược lại, những đặc điểm kinh tế của TSCĐ lại có ảnh hưởng quyết định, chi phối đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của vốn cố định.
Xuất phát từ mối quan hệ trên, ta có thể khái quát những đặc điểm cơ bản sự vận động của vốn cố định trong quá trình SXKD như sau:
- VCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ. Điều này do đặc điểm của TSCĐ được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất quyết định.
- VCĐ được luân chuyển từng phần trong các chu kỳ sản xuất. Đặc điểm này do đặc điểm kinh tế kỹ thuật của TSCĐ quyết định. Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, TSCĐ không bị thay đổi hình thái nhưng tính năng và năng lực sản xuất của nó bị giảm dần. Cùng với sự giảm dần về giá trị sử dụng, giá trị của TSCĐ cũng bị giảm dần. Vì vậy, khi tham gia vào quá trình sản xuất giá trị của vốn cố định được thể hiện dưới hai hình thức, hai bộ phận khác nhau. Bộ phận thứ nhất là phần giá trị luân chuyển vào giá trị của sản phẩm và khi kết thúc giá trị của sản phẩm thì bộ phận giá trị này được rút khỏi quá trình chu chuyển của vốn cố định. Xét về mặt lý thuyết, nó được tích luỹ lại dưới hình thái của quỹ tiền tệ gọi là quỹ khấu hao. Bộ phận thứ hai là phần giá trị còn lại của vốn cố định. Bộ phận này không ngừng bị giảm đi theo mức độ luân chuyển.
- Sau nhiều chu kỳ sản xuất, VCĐ mới hoàn thành một vòng luân chuyển. Sau mỗi chu kỳ sản xuất, phần vốn được chuyển dịch vào giá trị sản phẩm được dần dần tăng lên còn phần vốn còn lại dần dần giảm đi tương ứng với mức suy giảm dần giá trị của TSCĐ cho đến khi TSCĐ hết thời hạn sử dụng, giá trị của nó được chuyển hết vào giá trị sản phẩm thì khi đó VCĐ mới hoàn thành một vòng luân chuyển.
Do đặc điểm của tài sản cố định và vốn cố định như trên, nên nội dung bảo toàn VCĐ bao gồm 2 mặt: hiện vật và giá trị. Trong đó bảo toàn về mặt hiện vật là tiền đề bảo toàn VCĐ về mặt giá trị.
Bảo toàn về mặt hiện vật không phải chỉ là giữ nguyên hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu của tài sản cố định mà quan trọng hơn là doanh nghiệp phải quản lý chặt chẽ không làm mất mát tài sản cố định, thực hiện đúng quy chế sử dụng, bảo dưỡng, không để tài sản cố định bị hư hại trước thời hạn quy định.
Bảo toàn VCĐ về mặt giá trị là phải duy trì được sức mua của VCĐ ở thời điểm hiện tại so với thời điểm bỏ vốn đầu tư ban đầu bất kể sự biến động của giá cả, sự thay đổi của tỷ giá, ảnh hưởng của tiến bộ khoa học, kỹ thuật.
1.1.2.2. Vốn lưu động :
Để cho quá trình SXKD được diễn ra thường xuyên liên tục, ngoài VCĐ doanh nghiệp còn phải bỏ ra một lượng vốn nhằm hình thành các tài sản lưu động (TSLĐ) và số vốn đó được gọi là vốn lưu động (VLĐ). Như vậy VLĐ là biểu hiện bằng tiền toàn bộ TSLĐ của doanh nghiệp phục vụ cho quá trình SXKD. Có thể dựa vào nhiều tiêu thức khác nhau để xem xét kết cấu VLĐ của doanh nghiệp:
- Nếu dựa vào vai trò của từng loại vốn trong quá trình SXKD, vốn lưu động được phân chia thành: VLĐ nằm trong khâu dự trữ, VLĐ nằm trong khâu sản xuất, VLĐ nằm trong khâu lưu thông. Cách phân loại này cho thấy vai trò và sự phân bố của VLĐ trong từng khâu của quá trình SXKD. Từ đó có biện pháp điều chỉnh cơ cấu vốn hợp lý sao cho có hiệu quả nhất.
- Nếu dựa vào hình thái biểu hiện thì VLĐ dược chia thành: vốn hàng hoá, vốn phi hàng hoá, vốn trong khâu thanh toán. Cách phân loại này cho các doanh nghiệp xem xét đánh giá mức tồn kho dự trữ và khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
- Nếu dựa vào nguồn hình thành, VLĐ của doanh nghiệp được chia thành: VLĐ tự khai thác từ nội bộ doanh nghiệp và VLĐ khai thác từ bên ngoài doanh nghiệp. Việc phân chia này giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu nguồn vốn tài trợ cho nhu cầu VLĐ trong kinh doanh của mình từ đó tìm cách giảm thấp chi phí sử dụng vốn.
Việc nghiên cứu kết cấu VLĐ có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý vốn của doanh nghiệp. Nó giúp doanh nghiệp thấy rõ hơn được tính hợp lý hay không của kết cấu VLĐ tại mỗi thời điểm, từ đó có các biện pháp điều chỉnh hợp lý hơn đảm bảo sử dụng vốn có hiệu quả hơn, tránh được các rủi ro trong cơ chế thị trường.
VLĐ của doanh nghiệp được biểu hiện thông qua TSLĐ, TSLĐ của doanh nghiệp là những tài sản tiền tệ hoặc là những tài sản có thể chuyển thành tiền tệ trong chu kì kinh doanh. Nó bao gồm: Vốn bằng tiền, hàng hoá tồn kho, các khoản ứng trả trước, các khoản phải thu, đầu tư tài chính ngắn hạn, chi phí sự nghiệp.
Do đặc điểm của TSLĐ chi phối, VLĐ của doanh nghiệp có những đặc trưng cơ bản sau:
- Vốn lưu động chỉ tham gia vào một chu kỳ SXKD và chuyển hoá qua nhiều hình thái biểu hiện khác nhau. Bắt đầu từ hình thái vốn tiền tệ chuyển sang hình thái vốn khác và khi kết thúc quá trình tiêu thụ sản phẩm VLĐ lại trở về hình thái ban đầu là vốn tiền tệ. Sau mỗi chu kỳ SXKD là kết thúc một vòng tuần hoàn vốn lưu động.
- Vốn lưu động chuyển dịch toàn bộ giá trị một lần vào giá trị sản phẩm có nghĩa là kết thúc quá trình SXKD thì số VLĐ ứng ra ban đầu được bù đắp toàn bộ.
Trên đây là những đặc điểm về tuần hoàn và chu chuyển của VLĐ, các doanh nghiệp cần nắm được chúng để nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng và bảo toàn VLĐ.
1.1.3 Nguồn hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Đối với một doanh nghiệp thì nguồn vốn SXKD là toàn bộ các nguồn tài chính mà doanh nghiệp có thể khai thác và sử dụng trong một thời kì nhất định để đáp ứng nhu cầu SXKD của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, vốn SXKD của doanh nghiệp được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Ta có thể phân loại nguồn vốn doanh nghiệp theo một số tiêu thức sau:
- Căn cứ vào quyền sở hữu nguồn vốn SXKD của doanh nghiệp được chia thành hai loại: nguồn vốn chủ sở hữu và nợ phải trả.
+ Nguồn vốn chủ sở hữu là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp bao gồm: vốn điều lệ, vốn tự bổ xung từ lợi nhuận, các quĩ của doanh nghiệp và vốn do nhà nước tài trợ.
+ Nợ phải trả là các khoản doanh nghiệp huy động được từ ngân hàng, ngân sách nhà nước, các tổ chức kinh tế, các đơn vị, cá nhân mà doanh nghiệp có trách nhiệm phải trả cho họ. Ví dụ: các khoản vay ngắn hạn, dài hạn ngân hàng, các khoản nợ phải trả nhà nước, phải trả cho người bán, phải trả cho công nhân viên…
Theo cách phân loại này ta thấy được cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp. Cơ cấu nguồn vốn hợp lí phụ thuộc vào đặc điểm của ngành mà doanh nghiệp đang hoạt động, cũng như điều kiện thực tế của doanh nghiệp và quyết định của người quản lí doanh nghiệp.
- Căn cứ vào phạm vi hình thành, nguồn vốn SXKD của doanh nghiệp bao gồm 2 loại: nguồn vốn bên trong và nguồn vốn bên ngoài.
+ Nguồn vốn bên trong của doanh nghiệp là nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động được từ kết quả SXKD như: lợi nhuận để lại, các khoản dự phòng, dự trữ, tiền khấu hao TSCĐ... Đây là nguồn vốn rất quan trọng đối với sự phát triển của công ty.
+ Nguồn vốn bên ngoài của doanh nghiệp là nguồn vốn doanh nghiệp có thể huy động được từ các nguồn như: nguồn vốn liên doanh, liên kết, nguồn vốn tín dụng, nguồn vốn huy động từ thị trường vốn... Khi nguồn vốn bên trong đã sử dụng hết nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu SXKD thì đây là nguồn vốn cần thiết vừa giúp doanh nghiệp có đủ vốn, vừa tạo cho doanh nghiệp có một cơ cấu vốn linh hoạt.
Theo cách phân loại này người quản lý thấy được những ưu điểm, nhược điểm khi sử dụng từng nguồn vốn vào SXKD. Do đó, việc lựa chọn nguồn vốn nào sử dụng cho có hiệu quả là vấn đề đòi hỏi các nhà quản lý doanh nghiệp hết sức cẩn trọng.
- Căn cứ thời gian huy động vốn và sử dụng vốn, nguồn vốn SXKD của doanh nghiệp được chia thành 2 loại: nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn.
+ Nguồn vốn ngắn hạn: là nguồn vốn doanh nghiệp có thể sử dụng và đáp ứng nhu cầu tạm thời thường là có thời hạn dưới một năm. Chẳng hạn các khoản vay ngắn hạn ngân hàng, các khoản nợ phải trả cho người bán, các khoản phải nộp ngân sách, các khoản phải trả công nhân viên… Nguồn vốn này thường mang tính chất tạm thời.
+ Nguồn vốn dài hạn: là nguồn vốn có tính chất ổn định mà doanh nghiệp có thể sử dụng và đáp ứng nhu cầu lâu dài trên một năm. Chẳng hạn nguồn vốn chủ sở hữu và các khoản vay dài hạn.
Theo cách phân loại này, các nhà quản lý có thể xem xét huy động các nguồn vốn phù hợp với thời gian sử dụng, đảm bảo vừa đáp ứng kịp thời cho nhu cầu vốn cho SXKD, vừa nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn.
1.2. Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
1.2.1. Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
1.2.1.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp là mối tương quan giữa kết quả đạt được theo mục tiêu đã xác định trong một thời kì nhất định với số vốn bỏ ra để đạt được kết quả đó. Nó là chỉ tiêu quan trọng khi xem xét đánh giá hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp đó. Nguồn lực chính giúp doanh nghiệp thực hiện các mục tiêu xác định của mình là vốn, nếu trình độ quản lí, khai thác và sử dụng vốn của doanh nghiệp tốt, có hiệu quả thì sẽ rút ngắn được thời gian cũng như các chi phí khác phải bỏ ra để doanh nghiệp đạt được các mục tiêu của mình và ngược lại.
Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm hiệu quả sử dụng vốn lưu động và hiệu quả sử dụng vốn cố định. Việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là mục tiêu của doanh nghiệp qua các thời kì phát triển. Qua mỗi một thời kì phát triển, doanh nghiệp có những mục tiêu khác nhau nhưng mục đích cuối cùng là hiệu quả kinh tế, là lợi nhuận và sự ổn định để phát triển.
1.2.1.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
Việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện thông qua hệ thống các chỉ tiêu sau
* Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn nói chung:
- Chỉ tiêu vòng quay tổng vốn: Chỉ tiêu này cho biết bình quân một đồng vốn tham gia vào SXKD tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu hay doanh thu thuần.
Vòng quay tổng vốn =
Tổng doanh thu(thuần) trong kỳ
Vốn kinh doanh bình quân trong kỳ
- Chỉ tiêu doanh lợi tổng vốn: là chỉ tiêu đo lường mức độ sinh lời của tổng vốn, nó phản ánh một đồng vốn sử dụng bình quân tham gia tạo ra mấy đồng lợi nhuận trước thuế hoặc sau thuế.
Doanh lợi tổng vốn =
Lợi nhuận trước thuế (sau thuế) trong kỳ
Vốn kinh doanh bình quân trong kỳ
- Chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu: mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là nhằm tạo ra lợi nhuận cho chủ sở hữu. Doanh lợi vốn chủ sở hữu là chỉ tiêu đánh giá mức độ thực hiện chỉ tiêu này.
Doanh lợi vốn chủ sở hữu =
Lợi nhuận sau thuế trong kỳ
Vốn chủ sở hữu bình quân trong kỳ
- Chỉ tiêu doanh lợi doanh thu: chỉ tiêu này cho biết một đồng doanh thu mà doanh nghiệp thực hiện trong kì có bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Doanh lợi doanh thu =
Lợi nhuận trước thuế (sau thuế) trong kỳ
Doanh thu(thuần) trong kỳ
Trên đây là các chỉ tiêu phán ánh tình hình sử dụng vốn kinh doanh nói chung của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào các chỉ tiêu trên thì ta không thể thấy được việc sử dụng vốn có hiệu quả hay không là do tình hình sử dụng vốn cố định hay là sử dụng vốn lưu động vì vậy để xem xét một cách toàn diện tình hình sử dụng vốn kinh doanh thì chúng ta cần phải nghiên cứu các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả vốn cố định và vốn lưu động.
* Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định:
- Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định: chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định bình quân có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu (thuần) trong kỳ.
Hiệu suất sử dụng vốn cố định =
Doanh thu (thuần) trong kỳ
Vốn cố định bình quân trong kỳ
- Chỉ tiêu doanh lợi vốn cố định: chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định trong kì tham gia tạo ra tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế hay sau thuế.
Doanh lợi vốn cố định =
Lợi nhuận trước thuế(sau thuế) trong kỳ
Vốn cố định bình quân trong kỳ
- Chỉ tiêu hàm lượng VCĐ : chỉ tiêu này phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu hay doanh thu thuần trong kỳ cần bao nhiêu đồng vốn cố định.
Hàm lượng VCĐ =
Vốn cố định bình quân trong kỳ
Doanh thu (thuần) trong kỳ
Ngoài ra hiệu quả sử dụng vốn cố định còn được đánh giá thông qua chỉ tiêu hiệu suất sử dụng TSCĐ
- Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng tài sản cố định: phản ánh một đồng tài sản cố định trong kì tham gia tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu hay doanh thu thuần.
Hiệu suất sử dụng TSCĐ =
Doanh thu (thuần) trong kỳ
Nguyên giá TSCĐ bình quân
* Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng VLĐ :
- Số vòng quay vốn lưu động: chỉ tiêu này phản ánh trong kì vốn lưu động quay được mấy vòng.
Số vòng quay vốn lưu động =
Doanh thu (thuần) trong kỳ
Vốn lưu động bình quân trong kỳ
- Chỉ tiêu số ngày của một vòng luân chuyển: chỉ tiêu này phản ánh số ngày cần thiết để vốn lưu động có thể quay được một vòng.
Số ngày một vòng luân chuyển =
Số ngày trong kỳ
Số vòng quay vốn lưu động
- Doanh lợi vốn lưu động: chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động tham gia vào sản suất trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế hoặc sau thuế.
Doanh lợi vốn lưu động =
Lợi nhuận trước thuế (sau thuế) trong kỳ
Vốn lưu động bình quân trong kỳ
- Chỉ tiêu hàm lượng VLĐ: phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu cần có mấy đồng vốn lưu động.
Hàm lượng VLĐ =
Vốn lưu động bình quân trong kỳ
Doanh thu (thuần) trong kỳ
Trên đây là một số chỉ tiêu cơ bản để đánh giá tình hình sử dụng vốn kinh doanh nói chung cũng như vốn cố định và vốn lưu động nói riêng. Khi phân tích đánh giá đòi hỏi các nhà quản trị phải căn cứ vào từng điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp để đưa ra những nhận xét hợp lí, có căn cứ khoa học.
1.2.2 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp là kết quả tổng thể của hàng loạt các biện pháp kinh tế, kĩ thuật và tài chính. Trong đó biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh có tác động mạnh mẽ thúc đẩy hiệu quả SXKD của doanh nghiệp. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp là một sự cần thiết đối với bản thân doanh nghiệp. Điều này xuất phát từ các lý do sau:
Một là, xuất phát từ mục đích kinh doanh của doanh nghiệp. Bất kì doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động SXKD cũng hướng tới mục tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp liên quan đến tất cả hoạt động SXKD của doanh nghiệp, đó là nguồn tích luỹ cơ bản để tái sản xuất giản đơn cũng như tái sản xuất mở rộng. Vì vậy, lợi nhuận được coi là một trong những đòn bẩy quan trọng, là chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Do đó, trong quá trình sản xuất việc sử dụng vốn kinh doanh như thế nào để thu được lợi nhuận cao là mục tiêu phấn đấu của các doanh nghiệp.
Hai là, xuất phát từ vị trí, vai trò của vốn trong quá trình SXKD. Bất kì doanh nghiệp nào để tiến hành SXKD cũng đều cần có vốn. Vốn là điều kiện quyết định và ảnh hưởng đến toàn bộ các hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Với vai trò quan trọng đó, đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Ba là, xuất phát từ tầm quan trọng của việc bảo toàn vốn và mục tiêu phát triển của mỗi doanh nghiệp. Như đã nói ở trên, mục tiêu hàng đầu của mỗi doanh nghiệp là lợi nhuận mà muốn thu được lợi nhuận thì doanh nghiệp phải bảo toàn và phát triển được vốn kinh doanh. Hơn nữa, mục tiêu của doanh nghiệp không đơn thuần là lợi nhuận mà còn có các mục tiêu khác như: mở rộng và phát triển hoạt động SXKD... Vì vậy, muốn đạt được các mục tiêu trên đòi hỏi doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả vốn kinh doanh.
Bốn là, xuất phát từ tình hình quản lí và sử dụng vốn kinh doanh ở các doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, giữa các doanh nghiệp luôn tồn tại sự cạnh tranh quyết liệt đòi hỏi các doanh nghiệp phải năng động nhạy bén, nắm bắt nhu cầu thị trường, đổi mới thiết bị, cải tiến qui trình công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm… Mặt khác trong điều kiện hiện nay, các doanh nghiệp thực sự là các đơn vị kinh tế tự chủ trong tổ chức quản lí, tạo lập và sử dụng vốn … Muốn thế, doanh nghiệp cần phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của mình.
Như vậy việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp có một ý nghĩa quan trọng. Nó quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
Trong quá trình SXKD, vốn kinh doanh của doanh nghiệp liên tục chuyển từ hình thái này sang hình thái khác, tại mỗi thời điểm nó tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong quá trình vận động đó vốn kinh doanh chịu tác động của nhiều nhân tố cả khách quan lẫn chủ quan. Vậy một doanh nghiệp muốn sử dụng có hiệu quả vốn kinh doanh thì cần phải biết được những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.3.1 Nhân tố chủ quan
Một là, việc xác định nhu cầu vốn. Nếu doanh nghiệp xác định nhu cầu về vốn chính xác sẽ giúp cho doanh nghiệp nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn, ngược lại nếu không chính xác sẽ gây nên sự thừa vốn hoặc thiếu vốn cho SXKD. Nếu thừa vốn sẽ gây ra tình trạng ứ đọng vốn trong sản phẩm tiêu thụ. Nếu thiếu vốn thì quy trình sản xuất sẽ gặp khó khăn làm chu kì sản xuất bị kéo dài, chất lượng sản phẩm không đảm bảo. Do vậy việc xác định nhu cầu về vốn cũng là một trong những nhân tố chủ quan của doanh nghiệp ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh.
Hai là, việc bố trí cơ cấu vốn: cơ cấu vốn SXKD là tỷ trọng từng loại vốn trong tổng vốn kinh doanh. Tuỳ từng loại hình SXKD mà cơ cấu vốn SXKD khác nhau. Nếu cơ cấu vốn SXKD được bố trí hợp lý sẽ làm tăng hiệu quả sử dụng vốn nhưng ngược lại nếu cơ cấu vốn SXKD bố trí không hợp lí sẽ dẫn đến tình trạng thừa hoặc thiếu một loại tài sản nào đó làm cho hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh bị giảm đi.
Ba là, việc chọn phương án đầu tư. Đây là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng vốn SXKD của doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp lựa chọn phương án đầu tư đúng đắn, tức là đầu tư để sản xuất ra các sản phẩm, hàng hoá có mẫu mã đẹp, chất lượng cao, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng thì doanh nghiệp sẽ thu được nhiều lợi nhuận. Điều này có nghĩa là vốn SXKD của doanh nghiệp được sử dụng có hiệu quả. Ngược lại, nếu doanh nghiệp lựa chọn phương án đầu tư sai, bỏ vốn ra sản xuất những sản phẩm hàng hóa mà thị trường không có hoặc chưa có nhu cầu, chất lượng kém… thì việc tiêu thụ sẽ rất khó. Từ đó gây ra tình trạng ứ đọng vốn và làm giảm hiệu quả sử dụng VKD.
Bốn là, trình độ quản lý và trình độ kỹ thuật công nghệ của doanh nghiệp. Nếu trình độ quản lý của doanh nghiệp tốt, tay nghề của công nhân cao sẽ góp phần làm tăng hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp đồng thời giúp doanh nghiệp sử dụng tiết kiệm dược đồng vốn. Ngược lại nếu trình độ quản lí yếu kém, trình độ kĩ thuật thấp sẽ dẫn đến việc sử dụng vốn không có hiệu quả, thể hiện ở khâu quản lí vốn SXKD chưa chặt chẽ dẫn đến việc sử dụng vốn lãng phí, phân tích tình hình tài chính chưa sát thực tế, tay nghề của người lao động thấp không phù hợp với yêu cầu của công việc. Vì vậy đây chính là nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Năm là, lợi nhuận của doanh nghiệp. Lợi nhuận của doanh nghiệp được dùng để tính các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh cũng như vốn cố định và vốn lưu động. Do đó nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nếu lợi nhuận đạt được cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là tốt và ngược lại. Chính vì thế phấn đấu tăng lợi nhuận của doanh nghiệp cũng chính là tăng hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Ngoài những nhân tố chủ quan trên, hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp còn chịu tác động của những nhân tố khách quan sau.
1.2.3.2 Nhân tố khách quan
Một là, những tác động của nền kinh tế. Nếu nền kinh tế biến động theo chiều hướng xấu, lạm phát cao, sức mua của đồng tiền giảm dẫn đến sự gia tăng giá các loại vật tư hàng hoá đầu vào trong khi sản phẩm lại không bán được do sức mua của thị trường giảm. Điều này làm cho vốn SXKD của doanh nghiệp bị giảm hiệu quả sử dụng. Ngược lại, nếu nền kinh tế biến động tốt, lạm phát giảm, sức mua của đồng tiền ổn định sẽ làm cho hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp được nâng cao.
Hai là, những rủi ro tro._.ng quá trình doanh nghiệp tiến hành hoạt động SXKD. Trong quá trình hoạt động SXKD, rủi ro là điều mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng không tránh khỏi. Rủi ro có thể do thiên tai, do cạnh tranh mà doanh nghiệp không thể lường trước được. Nhân tố này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn SXKD của doanh nghiệp.
Ba là, những tác động của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật. Khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển đã cho ra đời hàng loạt các máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại. Nếu doanh nghiệp nào không biết ứng dụng những thành tựu đó vào sản xuất thì sẽ rơi vào tình trạng lạc hậu, làm cho sản phẩm sản xuất ra năng suất thấp, chất lượng kém, không đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường và không thể đem lại lợi nhuận. Ngược lại nếu doanh nghiệp nào biết ứng dụng khoa học kĩ thuật hiện đại thì khả năng cạnh tranh sẽ rất cao, lợi nhuận nhiều. Do vậy, đây cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Trên đây là những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Để hạn chế những tác động tiêu cực của các nhân tố trên, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đòi hỏi doanh nghiệp phải xem xét, nghiên cứu một cách thận trọng từng nhân tố để đưa ra các biện pháp kịp thời cụ thể.
1.2.4 Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Có rất nhiều những biện pháp để quản lí và sử dụng hiệu quả vốn kinh doanh. Tuy nhiên, do những đặc điểm khác nhau của mỗi doanh nghiệp cần căn cứ vào phương hướng và biện pháp chung để từ đó tìm ra cho mình một biện pháp cụ thể và hiệu quả.
1.2.4.1 Các biện pháp tài chính.
Một là, xác định chính xác nhu cầu vốn tối thiểu cần thiết cho hoạt động SXKD của doanh nghiệp, từ đó đưa ra kế hoạch tổ chức huy động vốn đáp ứng cho SXKD của doanh nghiệp tránh tình trạng thừa hoặc thiếu vốn. Bởi vì cả hai trường hợp này đều làm giảm hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Hai là, lựa chọn hình thức huy động vốn hợp lí, khai thác triệt để nguồn vốn bên trong, giảm đến mức tối thiếu chi phí sử dụng vốn. Trong cơ cấu nguồn vốn huy động phải vừa đảm bảo chi phí thấp nhất, vừa đảm bảo mức độ an toàn cho doanh nghiệp. Trong những phương án đầu tư có hiệu quả vốn đầu tư cao thì việc sử dụng vốn vay là rất thích hợp tuy nhiên không phải lúc nào sử dụng vốn vay cũng hợp lí. Vì vậy việc lựa chọn các hình thức huy động vốn trong từng hoàn cảnh cụ thể là rất cần thiết cho các doanh nghiệp muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Ba là, lựa chọn phương án kinh doanh hợp lí đảm bảo sản phẩm sản xuất ra được thị trường chấp nhận và thu được nhiều lợi nhuận nhiều nhất. Từ đó tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường tạo điều kiện bảo toàn vốn kinh doanh. Bên cạnh đó trong qui trình đầu tư doanh nghiệp không chỉ chú trọng mở rộng qui mô SXKD theo chiều rộng mà phải phát triển theo cả chiều sâu. Điều này tạo điều kiện cho doanh nghiệp dần nâng cao năng lực sản xuất hiện có.
Bốn là, doanh nghiệp cần chủ động thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh để hạn chế tổn thất về vốn do nguyên nhân khách quan. Doanh nghiệp cần mua bảo hiểm tài sản, trích lập các khoản dự phòng như: dự phòng giảm giá hàng tồn kho, giảm giá chứng khoán đầu tư, chi phí bán hàng, dự phòng nợ phải thu khó đòi, trích lập các quĩ dự phòng tài chính, quĩ trợ cấp mất việc làm từ lợi nhuận sau thuế thu qui định của nhà nước. Đặc biệt đối với trường hợp tổn thất rủi ro do chủ quan thì người gây ra tổn thất phải chịu trách nhiệm bồi thường cho doanh nghiệp.
Năm là, tổ chức tốt quá trình SXKD và đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm. Doanh nghiệp cần phối nhịp nhàng giữa các bộ phận sản xuất, không ngừng nâng cao năng suất lao động nhằm sản xuất ra nhiều sản phẩm với chất lượng cao, tiết kiệm nguyên vật liệu, khai thác tối đa công suất máy móc hiện có đồng thời doanh nghiệp phải mở rộng thị trường, tăng cường công tác tiếp thị quảng cáo nhằm tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ, hạn chế đến mức thấp nhất lượng sản phẩm tồn kho, từ đó tăng nhanh vòng quay của vốn.
Sáu là, đối với vốn cố định, doanh nghiệp phải đánh giá đúng giá trị nhằm phản ánh đúng tình hình biến động của vốn cố định, điều chỉnh kịp thời giá trị tài sản cố định, lựa chọn phương pháp khấu hao phù hợp, xác định mức khấu hao và sử dụng quĩ khấu hao hợp lí, chú trọng đổi mới trang thiết bị, thanh lí tài sản cố định đã hư hỏng hoặc không cần dùng, không dự trữ quá mức các tài sản cố định chưa cần dùng, thực hiện tốt chế độ bảo dưỡng, sửa chữa tài sản cố định, tránh tình trạng tài sản cố định bị hư hỏng trước thời hạn hay hư hỏng bất thường làm ngừng SXKD…
Bảy là, đối với vốn lưu động, cần tính toán nhu cầu vốn thường xuyên cần thiết đảm bảo huy động của doanh nghiệp tiến hành liên tục tiết kiệm và hiệu quả. Việc xác định đúng nhu cầu vốn lưu động giúp doanh nghiệp tránh được tình trạng ứ đọng vốn đồng thời tăng hiệu quả sử dụng VKD. ở khâu dự trữ vật tư hàng hóa phải hợp lí về số lượng, chủng loại, phù hợp với nhu cầu sản xuất, giải phóng những vật tư hàng hoá ứ đọng lâu ngày, không cần dùng để thu lại vốn. ở khâu sản xuất cần áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật để rút ngắn chu kì sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. ở khâu tiêu thụ cần lựa chọn phương thức bán hàng, phương thức thanh toán để đẩy nhanh việc tiêu thụ và thu tiền…
Ngoài các biện pháp chủ yếu trên, doanh nghiệp còn có thể sử dụng một số biện pháp khác.
1.2.4.2 Các biện pháp khác.
Một là, tăng cường vai trò của tài chính trong việc quản lí và sử dụng vốn kinh doanh. Thực chất của biện pháp này là đòi hỏi các doanh nghiệp phải tăng cường công tác kiểm tra giám sát đối với việc sử dụng vốn trong tất cả các khâu từ khâu dự trữ, sản xuất đến khâu tiêu thụ sản phẩm và đầu tư mua sắm TSCĐ.
Hai là, nâng cao trình độ tay nghề của người lao động và trình độ tổ chức quản lí nhằm sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Trên đây là một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên trên thực tế các doanh nghiệp cần căn cứ vào điều kiện và phương hướng của mình để đưa ra các biện pháp cụ thể có tính khả thi cao nhằm đầy mạnh công tác quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn kinh doanh cho doanh nghiệp mình.
Chương 2
Thực trạng vốn kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở công ty Xà phòng Hà Nội
Khái quát vài nét về Công ty Xà phòng Hà Nội.
Quá trình hình thành và phát triển của Công ty xà phòng Hà Nội
Công ty Xà phòng Hà Nội là doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập thuộc tổng công ty hoá chất Việt Nam, được thành lập theo quyết định số 323 ngày 27/5/1993 của Bộ trưởng Bộ Công Nghiệp.
Công ty Xà phòng Hà Nội nằm trên đường Nguyễn Trãi, số 233b, quận Thanh Xuân - Hà Nội với tổng diện tích mặt bằng là 50000 m2, tiếp giáp với Nhà máy thuốc lá Thăng Long và Công ty cao su sao vàng.
Ngành nghề kinh doanh của công ty là công nghiệp sản xuất hoá chất tẩy rửa tổng hợp, sản xuất kinh doanh các mặt hàng như: hoá mỹ phẩm, bao bì và in nhãn mác trên sản phẩm carton, bao giấy, bao và chai nhựa các loại.
Nhà máy xà phòng Hà Nội được khởi công xây dựng từ năm 1958 và bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 1960. Toàn bộ số vốn đầu tư xây dựng ban đầu do Trung Quốc viện trợ.
Từ năm 1960 đến năm 1990, nhà máy hoạt động dưới sự chỉ đạo của Bộ Công Nghiệp nặng, sản xuất kinh doanh theo chỉ tiêu kế hoạch của nhà nước. Khi đó nền kinh tế nước ta đang trong thời kì kinh tế kế hoạch hoá tập trung, việc tiêu thụ sản phẩm do nhà nước bao tiêu nên sản phẩm của nhà máy hầu như được tiêu thụ khắp cả nước, đặc biệt là ở khu vực phía Bắc. Do vậy, Nhà máy xà phòng Hà Nội gần như độc quyền về sản phẩm.
Từ năm 1991 đến năm 1993, do có sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước, nhà máy được giao quyền tự chủ trong quản lý, sử dụng vốn kinh doanh. Năm 1993, để phù hợp với luật tổ chức công ty, Nhà máy xà phòng Hà Nội đã đổi tên thành Công ty xà phòng Hà Nội, thực hiện quản lý, tổ chức và sản xuất theo mô hình công ty.
Từ tháng 12/1994 trở về đây, trong xu thế phát triển của nền kinh tế cả nước, công ty đã liên doanh với hãng Unilever của Hà Lan, toàn bộ công ty trước đây được tách thành 2 doanh nghiệp:
Doanh nghiệp 1: Công ty xà phòng Hà Nội.
Doanh nghiệp 2: Công ty liên doanh Lever Việt Nam.
Công ty Xà phòng Hà Nội đóng vai trò là công ty mẹ, hàng năm thu về 1 khoản lợi nhuận căn cứ vào giá trị số vốn góp ban đầu (36%).
Đặc điểm tổ chức sản xuất, tổ chức quản lí sản xuất ở Công ty Xà phòng Hà Nội.
Đặc điểm tổ chức sản xuất.
Ngành nghề kinh doanh của công ty là công nghiệp sản xuất chất tẩy rửa tổng hợp, kinh doanh xuất nhập khẩu vật tư hoá chất, sản xuất kinh doanh các mặt hàng như: hoá mỹ phẩm, bao bì ...
Cơ cấu tổ chức sản xuất của công ty được chia thành các phân xưởng sản xuất. Hiện nay công ty có 3 phân xưởng chính là phân xưởng chất tẩy rửa, phân xưởng bao bì carton, phân xưởng kem giặt, và một phân xưởng phụ là phân xưởng cơ điện.
Công ty Xà phòng Hà Nội sản xuất những loại sản phẩm khác nhau, nguyên liệu sản xuất mỗi loại sản phẩm khác nhau, vì thế quá trình công nghệ sản xuất mỗi loại sản phẩm không giống nhau. ở đây xin giới thiệu qui trình công nghệ sản xuất xà phòng kem của công ty.
Sơ đồ 01: Quy trình sản xuất xà phòng kem
Nguyên vật liệu
Cân, đong,trộn
Nấu khuấy kỹ
Đóng kiện
Đậy nắp hộp kem
Nhập kho
thành phẩm
Đặc điểm tổ chức quản lí sản xuất.
Hiện nay tổng số cán bộ công nhân viên của công ty là 219 người, trong đó nhân viên quản lí là 50 người.
Để hoàn thành tốt công tác kinh doanh, bộ máy quản lí của công ty được tổ chức khoa học, chặt chẽ theo sơ đồ 02 (trang bên). Trong đó:
- Giám đốc là người đứng đầu bộ máy quản lí, là đại diện pháp nhân của công ty trong các quan hệ đối tác và chịu trách nhiệm về tất cả kết quả hoạt động kinh doanh của công ty cũng như thực hiện chế độ đối với nhà nước.
- Phó giám đốc phụ trách kỹ thuật: có nhiệm vụ giúp việc cho giám đốc, phụ trách về mặt kĩ thuật, sản xuất, điều độ công tác sản xuất, tình hình sản xuất kinh doanh, công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty.
- Phòng kế hoạch - tài vụ: có nhiệm vụ tổ chức thực hiện các nghiệp vụ tài chính kế toán, thống kê theo đúng qui định của nhà nước. Theo dõi và thường xuyên báo cáo về tình hình tài chính cho giám đốc đồng thời lập kế hoạch và giao kế hoạch cho các phân xưởng, theo dõi tình hình thực hiện kế hoạch, cung cấp vật tư, bảo quản kho tàng, vật liệu, thành phẩm. Hiện nay công ty áp dụng hình thức nhật ký chung để hạch toán các nghiệp vụ kinh kế phát sinh. Tổ chức bộ máy kế toán- tài chính của công ty được bố trí theo sơ đồ 03 (trang bên).
- Phòng hành chính nhân sự: có nhiệm vụ tổ chức, quản lí cán bộ, đề xuất việc thực hiện bộ máy quản lí, xây dựng, ban hành và thực hiện các tiêu chuẩn cấp bậc kĩ thuật, kiểm tra, sát hạch tay nghề...
- Phòng đào tạo tiền lương: có nhiệm vụ duyệt và quản lí quĩ tiền lương của công ty.
- Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu: có nhiệm vụ quản lí các hoạt động liên quan đến xuất khẩu các sản phẩm của công ty và nhập khẩu các loại vật tư, máy móc, thiết bị, phụ tùng hoá chất.
- Phòng dự án - xây dựng cơ bản: có nhiệm vụ giám sát, quản lí các hoạt động xây dựng cơ bản của công ty. Lập và tổ chức thực hiện các kế hoạch về xây dựng cơ bản.
- Các phân xưởng: sản xuất theo chỉ đạo của công ty.
Kết quả sản xuất kinh doanh ở công ty trong những năm gần đây
Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, bên cạnh những thuận lợi, Công ty xà phòng Hà Nội nói riêng và các doanh nghiệp khác nói chung đã gặp rất nhiều khó khăn như: khó khăn về thị trường tiêu thụ... Nhưng với nỗ lực và quyết tâm cao của ban lãnh đạo cũng như của tất cả cán bộ công nhân viên toàn công ty trong 2 năm 2001 và 2002, công ty đã đạt được những kết quả đáng kể. Kết quả đó được thể hiện thông qua bảng sau (trang bên).
Qua bảng 01 công ty ta thấy:
- Giá trị sản lượng năm 2002 so với năm 2001 tăng 10.482.090.000đ tương ứng với tỉ lệ tăng 30,47%.
- Doanh thu bán sản phẩm và cung cấp dịch vụ năm 2002 giảm 31.391.414.648đ tương ứng với tỉ lệ giảm 19,18%. Việc giảm doanh thu năm 2002 của công ty chủ yếu là do doanh thu kinh doanh thương mại của công ty giảm đi. Nguyên nhân là từ tháng 8/2002 công ty chấm dứt hoạt động nhập uỷ thác vật tư, nguyên liệu cho công ty Lever- Việt Nam.
- Lợi nhuận trước thuế năm 2002 tăng 6.777.195.674đ tương ứng với tỷ lệ tăng 23,95%. Việc này chủ yếu là do lợi nhuận thu về từ hoạt động liên doanh tăng lên. Tuy nhiên, lợi nhuận của công ty trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng tăng lên, chứng tỏ công ty đã tổ chức sản xuất, tổ chức sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả hơn.
- Về các khoản chi phí:
+ Giá vốn hàng bán năm 2002 là 127.867.658.060đ giảm đi 32.760.441đ so với năm 2001 với tốc độ tăng là 20,4%. Với việc giảm doanh thu thì giá vốn hàng bán giảm cũng là điều dễ hiểu. Hơn nữa tốc độ giảm giá vốn hàng bán còn nhanh hơn tốc độ giảm của doanh thu chứng tỏ công ty đã giảm được chi phí tăng lợi nhuận.
+ Chi phí bán hàng năm 2002 so với năm 2001 tăng 802.962.739đ tương ứng 104,26%. Chi phí bán hàng tăng lên trong khi doanh thu lại giảm xuống chứng tỏ doanh nghiệp chưa tiết kiệm được chi phí bán hàng. Doanh nghiệp cần xem xét và khắc phục ở kỳ sau.
+ Chi phí quản lí doanh nghiệp giảm 509.439.959đ tương ứng 15,39%. Đây là kết quả của việc công ty đã cố gắng giảm chi phí dịch vụ mua ngoài.
+ Hàng bán bị trả lại năm 2002 giảm 32.247.487đ. Đây là kết quả của việc trong năm 2002, công ty đã quản lí, xem xét chặt chẽ hơn các hợp đồng bán hàng do đó giảm đáng kể lượng hàng bị trả lại. Tuy nhiên cũng có 1 lượng nhỏ hàng hoá bị trả lại do chất lượng không đạt tiêu chuẩn. Đây là điều không có lợi cho công ty.
- Nghĩa vụ phải nộp cho nhà nước năm 2002 là 26.866.664.168đ so với năm 2001 giảm 3.590.659.891đ tức là 11,79%. Lý do là phần lớn lợi nhuận của công ty trong năm 2002 dành để tái đầu tư cho nên không phải nộp thuế thu nhập bổ xung.
- Qui mô vốn sản xuất kinh doanh bình quân của năm 2002 là 126.130.184.722đ, so với năm 2001 tăng 26.246.494.472đ tương ứng 26,28%.
- Thu nhập bình quân của cán bộ công nhân viên (CBCNV) năm 2002 là 1.504.207đ/tháng tăng hơn năm 2001 là 132.023đ tương ứng là 9,62%. Điều này cho thấy đời sống của cán bộ công nhân viên trong công ty ngày càng được cải thiện và nâng cao.
Nhận xét chung: Trong 2 năm qua, bên cạnh một số vấn đề còn tồn tại như hệ thống kiểm tra chất lượng sản phẩm chưa chặt chẽ dẫn đến sản phẩm đưa ra thị trường chất lượng chưa đồng đều, công tác tiếp thị và bán hàng của công ty tốn nhiều chi phí, mà chưa đảm bảo được sức cạnh tranh... công ty cũng đã chứng tỏ được sự phát triển ngày càng đi lên qua các chỉ tiêu như trong năm 2001, 2002 doanh thu đạt trên 100 tỷ, thu nhập người lao động bình quân trên 1,3 triệu đồng/ tháng, lợi nhuận thu về hàng năm hơn 20 tỷ đồng. Đây là những con số đáng ghi nhận của Công ty xà phòng Hà Nội.
Thực trạng về vốn kinh doanh ở Công ty Xà phòng Hà Nội.
Nhận thức được rằng VKD là điều kiện tiền đề không thể thiếu đối với mọi hoạt động SXKD, Công ty Xà phòng Hà Nội đã luôn chú trọng quan tâm tổ chức quản lí sử dụng VKD sao cho có hiệu quả nhất. Để có cơ sở đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của công ty, trước hết ta xem xét tình hình tổ chức quản lý sử dụng từng loại vốn của công ty.
Thực trạng về vốn cố định ở Công ty Xà phòng Hà Nội.
Tình hình thực tế ở công ty cho thấy tính đến thời điểm 31/12/2002, tổng VCĐ của công ty là 67.716.246.751đ tăng 1.515.553.569đ với tỷ lệ tăng tương ứng là 2,29%. Để thấy rõ tình hình quản lý và sử dụng VCĐ, chúng ta xem xét cơ cấu VCĐ qua bảng sau:
Bảng 02: Cơ cấu vốn cố định ở công ty Xà phòng Hà Nội
Đơn vị tính: Đồng
Chỉ tiêu
31/12/2001
31/12/2002
Chênh lệch
Số tiền
TT(%)
Số tiền
TT(%)
STĐ
%
1.Giá trị còn lại của TSCĐ
10,189,419,184
15.39
11,894,514,263
17.57
1,705,095,079
16.73
2. Các khoản ĐTTCDH
55,335,280,000
83.59
55,335,280,000
81.72
-
-
3. Chi phí XDCBDD
675,993,998
1.02
486,452,488
0.72
(189,541,510)
(28.04)
Tổng cộng
66,200,693,182
100.00
67,716,246,751
100.00
1,515,553,569
2.29
Qua bảng 02 ta thấy: VCĐ của công ty gồm có TSCĐ, các khoản ĐTTCDH, chi phí XDCBDD. Cụ thể:
- TSCĐ của công ty tại 31/12/2002 là 11.894.514.263đ tăng 1.705.095.079đ với tỷ lệ tăng là 16,73%.
- Các khoản đầu tư tài chính dài hạn tại thời điểm 31/12/2002 là 55.335.280.000đ chiếm 81,72% tổng VCĐ. Đây là số vốn do công ty dùng giá trị quyền sử dụng của 19.600m2 trong 11 năm 8 tháng kể từ tháng 10 năm 1994, phần còn lại là giá trị nhà xưởng, thiết bị, các công trình phụ trợ hiện có tại công ty và bằng tiền Việt Nam. Các khoản ĐTTCDH không có gì biến động về mặt số lượng nhưng về mặt tỷ trọng đã bị giảm đi 1,87%. Nguyên nhân là do trong năm 2002 công ty đã đầu tư xây dựng và mua sắm thêm một số TSCĐ.
- Chi phí xây dựng cơ bản giảm đi 189.541.510đ với tỷ lệ giảm tương ứng là 28,04%.
Như vậy nguyên nhân chủ yếu làm VCĐ tăng lên là do sự tăng lên của TSCĐ. Chúng ta cùng đi sâu vào phân tích kết cấu và tình hình tăng giảm TSCĐ của công ty thông qua bảng số 03 (trang bên).
Qua bảng 03, ta thấy TSCĐ của công ty gồm có: nhà cửa vật kiến trúc, phương tiện vận tải, máy móc thiết bị, dụng cụ quản lý, tài sản cho phúc lợi và một số tài sản chờ thanh lý.
Tổng nguyên giá TSCĐ tính đến 31/12/2002 là 16.809.389.847đ tăng 2.345.896.847đ so với 31/12/2001. Trong đó: Nhà cửa vật kiến trúc tăng 1.797.003.945đ, phương tiện vận tải tăng 726.119.572đ, máy móc thiết bị tăng 365.659.021đ, dụng cụ quản lý tăng 381.409.171đ, tài sản chờ thanh lý giảm 924.294.862đ. Nguyên nhân TSCĐ tăng lên là do trong năm 2002 công ty đã xây dựng mới một nhà kho tổng hợp trị giá 1.165.389.144đ, 1 hệ thống nước trị giá 359.207.238đ, 1 con đường alpha trị giá 244.255.573đ... Ngoài ra công ty cũng đã mua sắm một số máy móc và phương tiện vận chuyển, dụng cụ quản lý như đầu tư mua thêm một dây chuyền carton trị giá 208.550.000đ, một xe Nissan trị giá 277.550.000đ... và thanh lý nhượng bán một số tài sản cố định khác. Như vậy so cuối năm với đầu năm thì hầu hết các loại tài sản cố định đang dùng đều tăng lên. Chứng tỏ công ty đã quan tâm đến đầu tư mua sắm tài sản cố định nhằm giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh tốt hơn, đồng thời cải thiện môi trường làm việc cho nhân viên của công ty.
Đi sâu vào đánh giá tình trạng kỹ thuật của TSCĐ chúng ta có thể thấy rõ hơn tình hình TSCĐ của công ty trong năm 2002 qua bảng 04 (trang bên):
Từ bảng 04 ta thấy:
- Nhà cửa vật kiến trúc: Tính đến 31/12/2002, hệ số hao mòn của nhóm TSCĐ là 0,17, giá trị còn lại chiếm 82,97% so với tổng giá trị đầu tư ban đầu. Các chỉ số này chứng tỏ nhóm tài sản này vẫn còn mới và đang trong giai đoạn sử dụng tốt. Tuy nhiên trên thực tế có một số nhà xưởng, nhà kho được xây dựng từ năm 1996, 1998 đã xuống cấp và hệ thống kho chưa đáp ứng được yêu cầu bảo quản những vật tư mang tính đặc thù của nghành công nghiệp hoá chất như nhà kho chính số 1 được đầu tư ban đầu trị giá 569.744.047 đồng đã khấu hao hết 438.680.385 đồng, nhà xưởng nhà kho carton đầu tư ban đầu là 3.704.628.385 đồng cũng đã khấu hao đựoc hơn 50%. Do vậy trong thời gian tới công ty cần phải đầu tư nâng cấp cải tạo những nhà kho và nhà xưởng này để đảm bảo phục vụ tốt cho hoạt động kinh doanh.
- Máy móc thiết bị: Đây là hệ thống máy móc chính để sản xuất tạo ra sản phẩm của công ty nhưng tính đến ngày 13/12/2002, số TSCĐ này chỉ chiếm 6,18% trong tổng TSCĐ của công ty. Điều này chứng tỏ máy móc thiết của công ty chưa được chú trọng đầu tư. Hiện nay tuy hệ số hao mòn của nhóm TSCĐ là 0,37 và giá trị còn lại chiếm tới 62,8% tổng giá trị đầu tư ban đầu nhưng trên thực tế do các dây truyền máy móc đều được lắp ráp trong nước nên chưa đảm bảo tính tiên tiến, hiện đại và chất lượng sản phẩm chưa được cao. Do đó trong thời gian tới công ty cần đầu tư đồng bộ nâng cấp dây truyền máy móc để nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Phương tiện vận tải: Hai năm trở lại đây công ty đã đầu tư đổi mới và mua sắm một số phương tiện vận tải phục vụ cho hoạt động SXKD của công ty. Tính đến 31/12/2002 giá trị còn lại của nhóm TSCĐ là 75.23% so với nguyên giá chứng tỏ nhóm TSCĐ này đang trong giai đoạn sử dụng tốt.
- Thiết bị dụng cụ quản lý cũng đã được công ty quan tâm đổi mới. Tuy nhiên trên thực tế có một số thiết bị kiểm tra chất lượng sản phẩm đã lạc hậu khiến cho việc kiểm tra chất lượng sản phẩm không được chính xác dẫn đến chất lượng sản phẩm của công ty không đồng đều, một số sản phẩm của công ty bị trả lại. Điều này đã ảnh hưởng đến uy tín của công ty do đó trong thời gian tới công ty cần có biện pháp khắc phục tình trạng này.
Trên đây là tình hình biến động và tình trạng kỹ thuật của TSCĐ. Để biết được tình hình quản lý và sử dụng TSCĐ của công ty chúng ta cùng nghiên cứu bảng số 05 (trang bên).
Từ bảng trên cho thấy: Nguyên giá TSCĐ đang dùng của công ty ở cuối năm so với đầu năm đã tăng lên cả về số lượng lẫn tỷ trọng. Điều này chứng tỏ năng lực sản xuất của công ty đã được cải thiện tích cực. Bên cạnh đó, số TSCĐ không cần dùng giảm 924.294.862đ, công ty không có TSCĐ chưa cần dùng. Như vậy năm 2002, những TSCĐ công ty đầu tư mua sắm đều được sử dụng. Điều này chứng tỏ việc quản lý sử dụng TSCĐ là khá tốt.
Nhìn chung, công ty đang từng bước đầu tư đổi mới TSCĐ và kịp thời thanh lý các tài sản cố định hư hỏng hoặc hết thời gian sử dụng. Việc đầu tư đổi mới TSCĐ của công ty đã góp phần cải thiện môi trường làm việc cho công nhân viên, tạo khả năng thuận lợi thúc đẩy SXKD trong năm 2002. Tuy nhiên, việc trang bị máy móc thiết bị chưa đồng bộ, các thiết bị kiểm tra chất lượng chưa được đầu tư đúng mức đã làm giảm năng suất lao động và chất lượng sản phẩm của công ty. Do đó trong thời gian tới công ty cần có những biện pháp cụ thể đầu tư vào TSCĐ đảm bảo yêu cầu sản xuất và cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường.
Thực trạng sử dụng vốn lưu động ở Công ty Xà phòng Hà Nội .
Chịu ảnh hưởng của đặc điểm ngành nghề kinh doanh nên trong cơ cấu VKD của công ty, tỷ trọng VLĐ gần tương đương tỷ trọng VCĐ. Tính đến cuối năm 2002, tổng VLĐ của công ty là 66.041.477.313đ chiếm 49,37% trong tổng VKD, tăng 13.739.525.119đ tương ứng với tỷ lệ tăng là 20,8% so với đầu năm.
Để thấy rõ tình hình sử dụng VLĐ của công ty, trước hết ta xem xét cơ cấu VLĐ của công ty theo số liệu của bảng 06:
Bảng 06: Cơ cấu vốn lưu động ở công ty Xà phòng Hà Nội
Đơn vị tính: Đồng
Tên chỉ tiêu
31/12/2001
31/12/2002
Chênh lệch
Số tiền
TT(%)
Số tiền
TT(%)
STĐ
%
1. Vốn bằng tiền
24,155,556,678
46.18
37,198,848,848
56.33
13,043,292,170
54.00
3. Các khoản phải thu
16,905,157,131
32.32
18,421,984,310
27.89
1,516,827,179
8.97
4. Hàng tồn kho
7,719,404,628
14.76
10,277,646,731
15.56
2,558,242,103
33.14
5. TSLĐ khác
3,521,833,759
6.73
142,997,426
0.22
(3,378,836,333)
(95.94)
Tổng cộng
52,301,952,196
100.00
66,041,477,315
100.00
13,739,525,119
26.27
Qua số liệu ở bảng ta thấy:
-Vốn bằng tiền của công ty tính đến thời điểm 31/12/2002 là 37.198.848.848đ, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng VLĐ 56,33%, tăng 13.043.292.170đ tương ứng với tỷ lệ tăng 54%. Hơn nữa, tỷ trọng vốn bằng tiền đã tăng lên so với đầu năm. Để thấy rõ tình hình biến động của vốn bằng tiền chúng ta cùng xem xét số liệu ở bảng 07:
Bảng 07: Tình hình biến động vốn bằng tiền ở Công ty Xà phòng Hà Nội
Đơn vị tính: Đồng
Tên chỉ tiêu
31/12/2001
31/12/2002
Chênh lệch
Số tiền
%
Số tiền
%
STĐ
%
1. Tiền mặt tại quỹ
86,818,511
0.36
482,393,746
1.3
395,575,235
455.63
2. Tiền gửi ngân hàng
24,013,153,787
99.41
36,716,455,102
98.7
12,703,301,315
52.90
3. Tiền đang chuyển
55,584,380
0.23
(55,584,380)
(100.00)
Tổng cộng
24,155,556,678
100
37,198,848,848
100
13,043,292,170
54.00
Qua bảng ta thấy:
+ Tiền mặt tại quĩ tăng 395.575.235đ tương ứng tỉ lệ tăng 455,63%.
+ Tiền gửi ngân hàng tăng 12.703.301.315đ với tỷ lệ tăng 52,90%.
+ Tiền đang chuyển giảm 55.584.380đ, giảm 100%.
Như vậy tại thời điểm 31/12/2002, vốn bằng tiền của công ty tăng lên 13.043.292.170đ thì trong đó khoản tiền gửi ngân hàng của công ty đã tăng lên 12.703.301.315đ. Lượng tiền gửi ngân hàng của công ty chiếm tỷ trọng lớn như vậy là do các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty chủ yếu là uỷ thác và xuất nhập khẩu hoá chất do đó các giao dịch thanh toán hầu hết đều được thực hiện thông qua ngân hàng. Hơn nữa, khoản lợi nhuận của công ty sau khi phân bổ hết vào các quĩ tuy đã có kế hoạch sử dụng nhưng do các kế hoạch chưa được thực hiện nên công ty đã gửi tại ngân hàng để hưởng lãi. Điều này chứng tỏ công ty đã lên kế hoạch không sát với thực tế do đó làm một lượng lớn vốn bằng tiền bị ứ đọng. Mặc dù công ty đã có giải pháp là gửi số vốn dư thừa vào ngân hàng để hưởng lãi nhưng đây chỉ là một giải pháp tạm thời. Vì vậy trong thời gian tới công ty cần lên kế hoạch xác định nhu cầu vốn bằng tiền sát với thực tế hơn để tránh ứ đọng vốn như năm 2002.
- Các khoản phải thu cũng chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng VLĐ. Đầu năm là 16.905.157.131đ, cuối năm là 18.421.984.320đ. Như vậy các khoản phải thu đã tăng lên 1.516.827.179 đ tương ứng với tỷ lệ tăng là 8,97%. Số liệu bảng 08 sẽ cho thấy tình hình biến động các khoản phải thu của công ty năm 2002.
Bảng 08: Tình hình biến động các khoản phải thu ở công ty Xà phòng Hà Nội
Đơn vị tính: Đồng
Chỉ tiêu
31/12/2001
31/12/2002
Chênh lệch
Số tiền
%
Số tiền
%
STĐ
%
1. Phải thu của khách hàng
8,670,182,035
51.29
12,542,149,829
68.08
3,871,967,794
44.66
2. Trả trước cho người bán
6,849,707,430
40.52
4,419,015,125
23.99
(2,430,692,305)
(35.49)
3. Thuế VAT được khấu trừ
301,830,581
1.79
476,194,156
2.58
174,363,575
57.77
4. Các khoản phải thu khác
1,083,437,085
6.41
984,625,200
5.34
(98,811,885)
(9.12)
Tổng cộng
16,905,157,131
100.00
18,421,984,310
100.00
1,516,827,179
8.97
Từ bảng trên ta thấy, trả trước cho người bán so với đầu năm giảm 2.430.692.305đ với tỷ lệ giảm 35,49%, các khoản phải thu khác giảm 98.811.885đ tương ứng giảm 9,12%; trong khi đó phải thu của khách hàng tăng cả khối lượng lẫn tỷ trọng: số lượng tăng 3.871.967.794đ với tốc độ tăng là 44,66%, tỷ trọng tăng 16,79%. Nguyên nhân chính làm cho các khoản phải thu của khách hàng chiếm tỷ trọng cao và có xu hướng tăng là do trong năm 2002 công ty mở rộng thị trường khách hàng về khu vực phía Nam nên đã áp dụng chính sách tăng thời gian bán chịu để thu hút khách hàng. Khối lượng hàng tiêu thụ tăng lên nhưng các khoản phải thu lại chiếm tỷ trọng khá cao. Điều này chứng tỏ công ty đang bị chiếm dụng một lượng VLĐ lớn, gây lãng phí về vốn và làm giảm hiệu quả sử dụng VLĐ. Vậy công ty cần có những biện pháp tích cực trong công tác quản lí và thu hồi nợ để giảm tối thiểu số vốn bị khách hàng chiếm dụng.
- Hàng tồn kho của công ty ở đầu năm chiếm 14,76% đến cuối năm là 15,56%. Diễn biến cụ thể của hàng tồn kho được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 09: Diễn biến hàng tồn kho ở công ty Xà phòng Hà Nội
Đơn vị tính: Đồng
Chỉ tiêu
31/12/2001
31/12/2002
Chênh lệch
Số tiền
%
Số tiền
%
STĐ
%
1. NL,VL tồn kho
1,707,233,476
22.12
9,572,350,096
93.14
7,865,116,620
460.69
2. Thành phẩm tồn kho
229,947,298
2.98
206,507,523
2.01
(23,439,775)
(10.19)
3. Hàng hoá tồn kho
5,782,223,854
74.91
498,789,112
4.85
(5,283,434,742)
(91.37)
Tổng cộng
7,719,404,628
100.00
10,277,646,731
100.00
2,558,242,103
33.14
Như vậy so cuối năm với đầu năm, hàng tồn kho tăng 2.558.242.103đ tương ứng tỷ lệ tăng 33,14%. Trong đó tăng nhiều nhất là NVL tồn kho, tăng 7.856.116.620đ tương ứng với tỉ lệ tăng 460,69 %. Nguyên nhân NVL của công ty tồn kho quá nhiều là do NVL của công ty chủ yếu phải nhập khẩu. Để giảm tối thiểu chi phí thu mua, vận chuyển, công ty thường phải nhập nguyên vật liệu với khối lượng lớn dùng trong cả quý. Tuy nhiên lượng NVL tồn kho quá nhiều cũng gây ứ đọng vốn cho công ty, khiến cho hiệu quả sử dụng VLĐ giảm.
Trong khi đó thành phẩm tồn kho và hàng hóa tồn kho lại giảm. Cụ thể, thành phẩm tồn kho giảm 23.439.775đ tương ứng với tỷ lệ giảm là 10,19% còn hàng tồn kho giảm 5.283.434.742đ tương ứng với tỷ lệ giảm là 91,37%. Đây là dấu hiệu đáng mừng vì điều này chứng tỏ công ty đã thành công trong việc sử dụng biện pháp tín dụng để tăng khối lượng tiêu thụ giảm lượng thành phẩm và hàng hoá tồn kho.
- Ngoài ra, TSLĐ khác của công ty tính đến thời điểm 31/12/2002 là 142.977.426đ tương ứng với tỉ lệ giảm là 95,94% do các khoản thế chấp kí quĩ, kí cược ngắn hạn năm 2002 đã giảm 3.374.380.400đ tương ứng với tỷ lệ giảm là 100%. Nguyên nhân là trong năm 2002, do tạo được độ tin cậy với bạn hàng trong các hoạt động nhập khẩu vật tư, nguyên liệu nên công ty không bắt buộc phải thanh toán bằng hình thức L/C mà có thể sử dụng các hình thức khác như D/P, TTR. Do đó không cần phải ký quĩ, ký cược.
Nhìn chung kết cấu vốn lưu động của công ty là chưa hợp lí, hàng tồn kho và các khoản phải thu chiếm tỷ trọng khá lớn, nhất là lượng vốn bằng tiền của công ty để ứ đọng quá lớn vì thế trong thời gian tới công ty cần có những giải pháp để sử dụng hiệu quả hơn VLĐ.
2.2.3. Thực trạng về vốn kinh doanh ở Công ty Xà phòng Hà Nội.
Trên đây là thực trạng của VCĐ và VLĐ hay chính là thực trạng về VKD của công ty. Nhưng để có cái nhìn tổng thể về thực trạng vốn kinh doanh của Công ty xà phòng Hà Nội chúng ta cần xem xét cơ cấu vốn kinh doanh và nguồn vốn qua bảng sau:
Bảng 10: Vốn và nguồn vốn kinh doanh ở công ty Xà phòng Hà Nội
Đơn vị tính: Đồng
Chỉ tiêu
31/12/2001
31/12/2002
Chênh lệch
Số tiền
TT(%)
Số tiền
TT(%)
STĐ
%
1. Vốn kinh doanh
118,502,645,378
100.00
133,757,724,066
100.00
15,255,078,688
12.87
- Vốn cố định
66,200,693,182
55.86
67,716,246,751
50.63
1,515,553,569
2.29
- Vốn lưu động
52,301,952,196
44.14
66,041,477,315
49.37
13,739,525,119
26._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34382.doc