Mục lục
Trang
Chương 1: Cơ sở lý luận về hợp đồng kinh tế
5
1.1. Những vấn đề cơ bản về chế độ pháp lý của hợp đồng kinh tế
5
1.1.1. Sự ra đời của chế định hợp đồng và hợp đồng kinh tế
5
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng kinh tế
10
1.1.3 Vai trò của hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường
13
1.2. Ký kết hợp đồng kinh tế
16
1.2.1. Nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế
16
1.2.2. Căn cứ ký kết hợp đồng kinh tế
18
1.2.3. Chủ thể ký kết hợp đồng kinh tế
20
1.
68 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1476 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thực trạng việc ký kết hợp đồng kinh tế & hướng hoàn thiện pháp luật về ký kết hợp đồng kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2.4. Cách thức ký kết hợp đồng kinh tế
22
1.2.5. Những điều khoản thoả thuận khi ký kết thể hiện trong nội dung của hợp đồng
23
1.2.6. Hợp đồng vô hiệu
31
Chương 2 : Thực trạng việc ký kết hợp đồng kinh tế và hướng hoàn thiện pháp luật về ký kết hợp đồng kinh tế.
34
2.1. Thực trạng ký kết hợp đồng kinh tế
34
2.2. Kiến nghị hướng hoàn thiện pháp luật về ký kết hợp đồng kinh tế
55
CHƯƠNG I :
CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG KINH TẾ
Những vấn đề lý luận về hợp đồng kinh tế.
1.Khái niệm chung về hợp đồng
a.Khái niệm
Hợp đồng là sự thoả thuận giữa hai hoặc nhiều bên bình đẳng với nhau làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên trong quá trình thực hiện một công việc hay giao dịch nhất định.
b.Vai trò của hợp đồng trong đời sống xã hội
Hợp đồng biểu hiện sự tự nguyện tham gia ký kết của các chủ thể mà ý chí của các bên thống nháat với nhau do yêu cầu khách quan của cuộc sống hàng ngày, do điều kiện kinh tế nhất định tác động, ngoài ra ý chí của chủ thể tham gia hợp đồng còn bị chi phối bởi luật pháp tức là ý chí cua r nhà nước. Vì vậy, dưới các chế độ khác nhau, hợp đồng có ý nghĩa và bản chất khác nhau. Trong đời sống kinh tế xã hội hiện nay, hợp đồng là công cụ pháp lý quan trọng của nhà nước trong xây dựng và phát triển đời sống xã hội, nó làm cho lợi ích của mỗi cá nhân, tập thể phù hợp với lợi ích chung của toàn xã hội. Nó xác lập và gắn chặt mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân, đơn vị, tạo nên sự bình đẳng về mặt pháp lý trong đời sống xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên ký kết, giúp đỡ các bên xây dựng kế hoạch một cách vững chắc, kế hoạch ấy chỉ trở thành phương án thực hiện khi nó bảo đảm bằng những cam kết hợp đồng. Ngược lại hợp đồng cụ thể hoá, chi tiết hoá nội dung kế hoạch của các chủ thể hợp đồng. Việc thực hiện quyền và nghĩa vụ cụ thể đó chính là việc thực hiện từng phần kế hoạch.
Nghiên cứu vai trò của hợp đồng, chúng ta khẳng định rằng hợp đồng có vai trò quan trọng trong đổi mới cơ chế quản lý đời sống xã hội: đổi mới kế hoạch hoá nhằm bảo đảm quyền tự chủ của các đơn vị, tăng cường quản lý kinh tế quản lý thị trường.
Trong pháp luật nước ta đang quy định gồm nhiều loại hợp đồng tồn tại thuộc các lĩnh vực quan hệ xã hội khác nhau như : hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế, hợp đồng mua bán ngoại thương, hợp đồng liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp đồng lao động ...
2. Khái niệm về hợp đồng kinh tế:
a. Lịch sử phát triển của hợp đồng kinh tế:
Trong thời kỳ đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nền kinh tế nước ta còn bao gồm nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Ngoài khu vực kinh tế quốc doanh, tập thể còn có kinh tế cá thể trong nông nghiệp, thủ công nghiệp và thành phần kinh tế tư bản tư doanh chưa được cải tạo. Hoạt động kinh tế của các cơ quan Xí nghiệp Nhà nước của các đơn vị kinh tế tập thể tiến hành song song với hoạt động kinh tế của tư nhân. Để thu hút mọi hoạt động kinh tế đi theo hướng có lợi cho việc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mối quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định 735/TTg ngày 10/4/1957, kèm theo Nghị định này là bản Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh doanh. Bản Điều lệ này bao gồm những quy định điều chỉnh các quan hệ hợp đồng giữa các đơn vị kinh tế như các đơn vị kinh tế quốc doanh, hợp tác xã, công ty hợp doanh, tư doanh, người Việt Nam hay ngoại kiều kinh doanh trên đất Việt Nam.
Theo Điều lệ này, hợp đồng kinh doanh được thiết lập bằng cách hai hay nhiều đơn vị kinh doanh tự nguyện cam kết với nhau thực hiện một một số nhiệm vụ nhất định, trong một thời gian nhất định, nhằm phát triển kinh doanh công thương nghiệp, góp phần thực hiện kế họach Nhà nước. Hợp đồng kinh doanh được xây dựng trên nguyên tác các bên tự nguyện, cùng có lợi và có lợi ích cho việc phát triển nền kinh tế quốc dân. Điều lệ còn quy định nếu trong quan hệ hợp đồng có 1 bên là tư doanh, hợp đồng phải được đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (cơ quan công thương tỉnh hoặc Uỷ ban hành chính huyện) thì mới có giá trị về mặt pháp lý...
Việc thực hiện Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh doanh, trong một chừng mực nhất định, đã sử dụng được khả năng của các thành phần kinh tế quốc dân theo hướng thống nhất của kế hoạch Nhà nước, góp phần cải tạo quan hệ sản xuất cũ, từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới...
Đến năm 1960, ở miền Bắc, chúng ta đã hoàn thành cơ bản công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, mở đầu bằng kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1960 - 1965. Các quan hệ kinh tế đã có sự thay đổi về cơ cấu chủ thể và về tính chất. Công tác kế hoạch hoá và hạch toán kinh tế đòi hỏi phải có những quy định mới về điều chỉnh các quan hệ hợp đồng giữa các đơn vị kinh tế. Vì vậy, Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế được Nhà nước ban hành kèm theo Nghị định 04/TTg ngày 4/1/1960, đồng thời Nhà nước cũng quyết định thành lập Hội đồng trọng tài kinh tế để thực hiện chức năng quản lý công tác hợp đồng kinh tế và giải quyết các tranh chấp hợp đồng kinh tế (Nghị định 20/TTg ngày 14/1/1960).
Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế đã quy định rõ các bên tham gia quan hệ hợp đồng là các đơn vụ kinh tế cơ sở, các tổ chức xã hội chủ nghĩa, việc ký kết hợp đồng là nhằm thực hiện chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước, khi hợp đồng kinh tế bị vi phạm, thẩm quyền giải quyết tranh chấp thuộc Hội đồng trọng tài kinh tế...
Trong quá trình thực hiện bản Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy định các điều lệ về từng chủng loại hợp đồng chính trị ở nước ta. Hợp đồng kinh tế đã thực sự trở thành công cụ điều chỉnh và củng cố các quan hệ kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Trước yêu cầu của việc cải tiến quản lý kinh tế: “xoá bỏ lối quản lý hành chính cung cấp, thực hiện quản lý theo phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa, khắc phục cách quản lý thủ công phân tán theo lối sản xuất nhỏ, xây dựng cách tổ chức quản lý của nền công nghiệp lớn nhằm thúc đẩy quá trình đưa nền kinh tế quốc dân từ sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất xã hội chủ nghĩa”.
Ngày 10/3/1975, Nhà nước ta đã ban hành bản Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế (ban hành kèm theo Nghị định 54/CP ngày 10/3/1975 của Hội đồng Chính phủ). Điều lệ này đã quy định tương đối đầy đủ các vấn đề như: Vai trò của hợp đồng kinh tế, nguyên tắc ký kết, các nội dung ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế, giải quyết tranh chấp và trách nhiệm do vi phạm chế độ hợp đồng kinh tế... những quy định này đã trở thành căn cứ pháp lý quan trọng đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải tiến quản lý kinh tế, góp phần đưa các quan hệ hợp đồng kinh tế trở thành nề nếp, ở giai đoạn này với sự phát triển cao độ của cơ chế tập trung quan liên bao cấp, hợp đồng kinh tế đã trở thành một công cụ pháp lý chủ yếu của Nhà nước để quản lý nền kinh tế kế hoạch hoá xã hội chủ nghĩa. Nghĩa là hợp đồng kinh tế được coi là một công cụ hữu hiện trong xây dựng, thực hiện và đánh dấu việc hoàn thành hay không hoàn thành kế hoạch
Nói một cách khác, Nhà nước ta đã đặt một cái dấu bằng giữa hợp đồng kinh tế và kế hoạch. Ký kết hợp đồng kinh tế là xây dựng kế hoạch, thực hiện hợp đồng kinh tế là thực hiện kế hoạch vi phạm hợp đồng kinh tế là vi phạm hợp đồng kế hoạch... Do đó, việc ký kết hợp đồng kinh tế được Nghị định 54/CP quy định là một nghĩa vụ, là kỷ luật Nhà nước. Nhà nước quy định tỷ mỉ, chặt chẽ gần như toàn bộ nội dung của hợp đồng kinh tế buộc các bên phải tuân thủ nghiêm chỉnh. Về mặt lý luận, ai cũng biết rằng, một trong những đặc điểm của hợp đồng kinh tế buộc các bên phải tuân thủ nghiêm chỉnh. Về mặt lý luận, ai cũng biết rằng, một trong những đặc điểm của hợp đồng kinh tế trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung cao độ là ở chỗ, trong quan hệ hợp đồng kinh tế có sự thống nhất của 2 yếu tố: yếu tố trao đổi tài sản (quan hệ ngang) và yếu tố tổ chức kế hoạch (quan hệ quản lý). Nhưng phải nói rằng, do Nhà nước ta đã nhấn mạnh quá mức yếu tố tổ chức - kế hoạch trong quan hệ hợp đồng kinh tế nên đã làm cho hợp đồng bị biến dạng và đã trở thành công cụ chủ yếu để Nhà nước thực hiện sự can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện nội dung đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, cần xoá bỏ hoàn toàn cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp xác định rõ phạm vi quản lý Nhà nước về kinh tế và quản lý sản xuất kinh doanh, xác lập và mở rộng quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các đơn vị kinh tế cơ sở, bảo đảm sự bình đẳng về mặt pháp lý trong các quan hệ kinh tế giữa các đơn vị kinh tế, không phân biệt thành phần kinh tế.
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, các quan hệ hợp đồng kinh tế giữa các đơn vị kinh tế mang một nội dung mới. Bản Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế ban hành kèm theo Nghị định 54/CP ngày 10/3/1975 không còn phù hợp nữa. Vì vậy, Nhà nước đã ban hành Pháp lện hợp đồng kinh tế ở nước ta, nó đã thể chế hoá được những tư tưởng lớn về đổi mới quản lý kinh tế của Đảng, trả lại giá trị đích thực của hợp đồng kinh tế với tư cách là sự thống nhất ý chí của các bên, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và các văn bản pháp lý cụ thể hoá pháp lệnh đã tạo thành hệ thống các quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý quan trọng điều chỉnh các quan hệ hợp đồng kinh tế trong cơ chế kinh tế mới hiện nay.
b. Khái niệm hợp đồng kinh tế
Theo điều 1 pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/ 9/1989 thì hợp đồnh kinh tế là sự thoả thuận bằng văn bản, hay tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh doanh cà thực hiện kế hoạch của mình
c. Phân loại hợp đồng kinh tế:
*.Căn cứ vào thời gian của hợp đồng kinh tế
+Hợp đồng dài hạn: Hợp đồng này có thời hạn từ trên một nam nhằm thực hiện kế hoạch dài hạn
+Hợp đồng ngắn hạn: Đây là những hợp đồng có thời hạn được thu thực hiện từ một năm trở xuống.
Dựa vào tính chất của hợp đồng kinh tế, có thể chia hợp đồng kinh tế thành hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu Pháp lệnh và hợp đồng kinh tế không theo chỉ tiêu Pháp lệnh.
Hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu Pháp lệnh là hợp đồng kinh tế được ký căn cứ vào chỉ tiêu Pháp lệnh của Nhà nước giao. Ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu Pháp lệnh là kỷ luật của Nhà nước, là nghĩa vụ của các đơn vị kinh tế được Nhà nước giao chỉ tiêu Pháp lệnh. Trong nền kinh tế thị trường, số lượng hợp đồng kinh tế thuộc loại này rất hạn chế .
Hợp đồng kinh tế không theo chỉ tiêu Pháp lệnh là loại hợp đồng được ký kết theo nguyên tắc tự nguyện nhằm xây dựng và thực hiện kế hoạch của các chủ thể. Các chế độ ký kết, thực hiện hợp đồng của loại hợp đồng này được nghiên cứu trong các mục tiếp theo của chương này.
Căn cứ vào nội dung cụ thể của các quan hệ kinh tế, trong hợp đồng có thể chia hợp đồng kinh tế thành các loại sau đây :
- Hợp đồng mua bán hàng hoá
- Hợp đồng vận chuyển
- Hợp đồng xây dựng cơ bản
- Hợp đồng gia công
- Hợp đồng dịch vụ
- Hợp đồng nghiên cứu khoa học, triển khai kỹ thuật
Các loại hợp đồng khác.
3. Đặc điểm hợp đồng kinh tế
- Về nội dung: Hợp đồng kinh tế được ký kết nhằm phục vụ hoạt động kinh doanh. Đó là nội dung thực hiện các công việc sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác do các chủ thể tiến hành trong một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình tái sản xuất, từ khi đầu tư vốn đến khi tiêu thụ sản phẩm hoặc hoàn thành dịch vụ nhằm sinh lợi hợp pháp.
Kinh doanh là chức năng, nhiệm vụ, là mục tiêu của các đơn vị kinh tế. Vì vậy, mục đích là kinh doanh luôn được thể hiện hàng đầu trong các hợp đồng mà các chủ thể kinh doanh ký kết, nhằm xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình. Khác với hợp đồng kinh tế, nội dung của hợp đồng dân sự lại chủ yếu nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng của các chủ thể ký kết.
- Về chủ thể hợp đồng, theo Điều 2 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì hợp đồng kinh tế được ký kết giữa pháp nhân với pháp nhân, hay pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật và phải ký kết trong phạm vi nghề nghiệp kinh doanh đã đăng ký. Ngoài ra, Pháp lệnh còn quy định những người làm công tác khoa học kỹ thuật, nghệ nhân, hộ kinh tế gia đình, hộ nông dân, ngư dân cá thể, các tổ chức và cá nhân nước ngoài ở Việt Nam cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng kinh tế khi họ ký kết hợp đồng với một pháp nhân.
Trên thực tế hiện nay và xu hướng trong nền kinh tế thị trường chủ thể chủ yếu của hợp đồng kinh tế là các doanh nghiệp. Đối với hợp đồng dân sự, mọi pháp nhân và cá nhân có năng lực pháp luật và năng lực hành vi đều có thể là chủ thể của hợp đồng ,.
- Về hình thức, hợp đồng kinh tế phải được ký kết bằng văn bản. Đó là bản hợp đồng hay các tài liệu giao dịch mang tính văn bản có chữ ký của các bên xác nhận nội dung trao đổi, thoả thuận như công văn, đơn chào hàng, đơn đặt hàng, giấy chấp nhận...
Ký kết hợp đồng kinh tế bằng văn bản là một quy định bắt buộc mà các chủ thể của hợp đồng phải tuân theo. Văn bản này là sự ghi nhận rõ ràng về quyền và nghĩa vụ mà các bên đã thoả thuận với nhau, là cơ sở pháp lý để các bên tiến hành thực hiện các điều đã cam kết, để các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kiểm tra tính hợp pháp của mối quan hệ kinh tế và giải quyết các tranh chấp, xử lý các vi phạm nếu hợp đồng dân sự phải ký kết bằng văn bản hoặc thoả thuận miệng tuỳ theo nội dung của từng quan hệ hợp đồng và ý chí của các bên ký kết.
Hợp đồng kinh tế còn mang tính kế hoạch và phản ảnh mối quan hệ giữa kế hoạch với thị trường. Hợp đồng kinh tế được ký kết dựa trên định hướng kế hoạch của Nhà nước, nhằm các việc xây dựng và thực hiện kế hoạch của các đơn vị kinh tế. Trong đó có những hợp đồng kinh tế mà việc ký kết và thực hiện nó phải hoàn toàn tuân theo các chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh của Nhà nước. Trong cơ chế quản lý theo phương pháp kế hoạch hoá tập trung thì tính kế hoạch là đặc tính số một của hợp đồng kinh tế. Mặc dù trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước ta đã có những thay đổi lớn trong công tác kế hoạch hóa, nhưng tính kế hoạch của hợp đồng kinh tế vẫn tồn tại: “Hợp đồng kinh tế giữa các đơn vị sản xuất kinh doanh vừa là cơ sở để xây dựng kế hoạch, vừa là công cụ pháp lý bảo đảm việc thực hiện kế hoạch”.
Những đặc điểm của hợp đồng kinh tế giúp ta phân biệt hợp đồng kinh tế và các loại hợp đồng khác như hợp đồng dân sự, hợp đồng ngoại thương, hợp đồng lao động.v.v...
II. Chế độ ký kết hợp đồng kinh tế:
1.Nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế .
Các nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế là những tư tưởng chỉ đạo, có tính chất bắt buộc đối với các chủ thể khi ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế. Tính bắt buộc này được thể hiện thông qua các quy phạm pháp luật. Các nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong Điều 3 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế.
“Hợp đồng kinh tế được ký kết theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản và không trái pháp luật”.
a- Nguyên tắc tự nguyện :
Theo nguyên tắc này, một hợp đồng kinh tế được hình thành, phải hoàn toàn dựa trên cơ sở tự nguyện thoả thuận giữa các chủ thể (tự do ý chí ), không thể do sự áp đặt ý chí của bất cứ cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào.
Khi xác lập quan hệ hợp đồng, các bên hoàn toàn tự do ý chí, tự nguyện trong việc thoả thuận, bày tỏ ý chí và thống nhất ý chí nhằm đạt tới mục đích nhất định. Các bên có quyền tự do lựa chọn bạn hàng, thời điểm ký kết và các nội dung ký kết. Mọi sự tác động làm tính tự nguyện của các bên trong quá trình ký kết như bị cưỡng bức, lừa đảo, nhầm lẫn ... đều làm ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng kinh tế.
Nguyên tắc này thể hiện quyền tự chủ trong ký kết hợp đồng kinh tế của các chủ thể kinh doanh được Nhà nước đảm bảo. Ký kết hợp đồng kinh tế là quyền của các đơn vị kinh tế, quyền này phải gắn liền với những các điều kiện nhất định, đó là :
- Không được phép lợi dụng ký kết hợp đồng kinh tế để hoạt động trái pháp luật.
- Đối với các đơn vị kinh tế có chức năng sản xuất kinh doanh trong các thành phần kinh tế thuộc độc quyền của Nhà nước thì không được lợi dụng quyền ký kết hợp đồng kinh tế để đòi hỏi những điều kiện bất bình đẳng, ép buộc, cửa quyền, hoặc vì không đạt được những đòi hỏi bất bình đẳng đó nên đã từ chối ký kết hợp đồng kinh tế thuộc ngành nghề độc quyền của mình.
- Quyền ký kết hợp đồng kinh tế của các đơn vị kinh tế còn được thể hiện qua việc quy định các đơn vị kinh tế có quyền từ chối mọi sự áp đặt của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào trong việc ký kết hợp đồng kinh tế.
Nguyên tắc tự nguyện trong ký kết hợp đồng kinh tế đánh dấu bước đổi mới căn bản trong chế độ hợp đồng kinh tế của Nhà nước ta, được ghi nhận trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989 .
Cũng cần lưu ý rằng, trước đây cũng như hiện nay, việc ký kết các hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu kế hoạch Pháp lệnh là nghĩa vụ bắt buộc của các đơn vị kinh tế được Nhà nước giao chỉ tiêu Pháp lệnh, là kỷ luật Nhà nước. Đối với việc ký kết loại hợp đồng này, tính tự nguyện của các chủ thể bị hạn chế đáng kể do có sự ràng buộc bởi tính kỷ luật của các chỉ tiêu kế hoạch Pháp lệnh .
b. Nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi:
Nội dung của nguyên tắc này là khi ký kết hợp đồng kinh tế, các chủ thể phải đảm bảo trong nội dung của hợp đồng có sự tương xứng về quyền và nghĩa vụ nhằm đáp ứng lợi ích kinh tế của mỗi bên. Tính bình đẳng này không phụ thuộc và quan hệ sở hữu và quan hệ quản lý của chủ thể. Bất kể các đơn vị kinh tế thuộc thành phàn kinh tế nào, do cấp nào quản lý, khi ký kết hợp đồng đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, cũng có lợi trên cơ sở thoả thuận và phải chịu trách nhiệm vật chất nếu vi phạm hợp đồng đã ký kết. Không thể có một hợp đồng kinh tế nào chỉ mang lại lợi ích cho một bên hoặc một bên chỉ có quyền còn bên kia chỉ có nghĩa vụ. Một hợp đồng kinh tế được ký kết mà vi phạm nguyên tắc bình đẳng thì sẽ ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng kinh tế đó.
Trong điều kiện hiện nay, nền kinh tế nước ta còn tồn tại nhiều thành phần, cơ cấu chủ thể của hợp đồng kinh tế rất đa dạng, nguyên tắc này càng có ý nghĩa quan trọng. Nó góp phần tạo nên sự bình đẳng về mặt pháp lý giữa các thành phần kinh tế, khuyến khích sự phát triển và đa dạng hoá các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
c. Nguyên tắc trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản và không trái pháp luật
Trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản là các bên tham gia quan hệ hợp đồng kinh tế phải dùng chính tài sản của đơn vị mình để đảm bảo việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế. Tuy nhiên, một chủ thể có thể ký kết hợp đồng kinh tế trong trường hợp được một chủ thể khác đứng ra bảo lãnh về tài sản.
Quy định việc ký kết hợp đồng “không trái pháp luật” đòi hỏi nội dung, hình thức chủ thể của hợp đồng kinh tế đó phải phù hợp, tuân theo các quy định của pháp luật, không được lợi dụng việc ký kết hợp đồng kinh tế để hoạt động trái pháp luật.
Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện hợp đồng kinh tế và việc bảo về trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước. Một hợp đồng kinh tế chỉ có thể được thực hiện một cách nghiêm chỉnh khi nó không trái pháp luật và các bên có khả năng thực hiện đẩy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình. Trong giai đoạn hiện nay nguyên tắc này càng cần được coi trọng.
2. Căn cứ để ký kết hợp đồng kinh tế
Căn cứ ký kết hợp đồng kinh tế được quy định tại Điều 10 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Theo quy định này, hợp đồng kinh tế được ký kết trên các căn cứ sau:
a. Định hướng kế hoạch của Nhà nước, các chính sách, chế độ, các chuẩn mực kinh tế, kỹ thuật hiện hành.
Đối với mỗi đơn vị kinh tế, ký kết hợp đồng kinh tế là cơ sở để xây dựng kế hoạch và là cộng cụ để thực hiện kế hoạch của mình. Kế hoạch của mỗi đơn vị kinh tế được xây dựng căn cứ vào định hướng kế hoạch của Nhà nước, do đó việc ký kết các hợp đồng kinh tế cũng phải căn cứ vào định hướng kế hoạch của Nhà nước. Ngoài ra, để đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý và hiệu quả trong việc xây dựng nội dung của hợp đồng kinh tế, khi ký kết hợp đồng các chủ thể cũng phải căn cứ vào các chính sách và chế độ quản lý kinh tế của Nhà nước, các chuẩn mực kinh tế kỹ thuật hiện hành đối với từng loại sản phẩm, ngành nghề.
b. Nhu cầu thị trường, đơn đặt hàng, đơn chào hàng của bạn hàng.
Hợp đồng kinh tế phản ánh mối quan hệ hàng hoá - tiền tệ, luôn luôn gắn liền với sự vận động của thị trường của quan hệ cung cầu. Vì vậy, trong việc ký kết hợp đồng kinh tế, các chủ thể phải luôn luôn căn cứ vào nhu cầu của thị trường bao gồm các khả năng cung cấp hàng hoá, dịch vụ và nhu cầu cần đáp ứng về hàng hoá dịch vụ của mình và của bạn hàng.
Căn cứ này nhằm đảm bảo cho các hoạt động kinh tế được ký kết có khả năng thực hiện trên thực tế, đồng thời đảm bảo cho sản xuất kinh doanh vừa mang lại hiệu quả cao cho các đơn vị kinh tế, vừa thoả mãn nhu cầu xã hội, đảm bảo gắn kế hoạch sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế với quan hệ thị trường.
c. Khả năng phát triển sản xuất kinh doanh, chức năng hoạt động của các chủ thể ký kết.
Khả năng phát triển sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế là những khả năng thực tế về tiền vốn, vật tư, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh. Chức năng hoạt động là phạm vi ngành nghề, lĩnh vực kinh tế mà đơn vị đó được tiến hành hoạt động.
Việc ký kết hợp đồng kinh tế không thể bỏ qua được căn cứ này bởi vì nó đảm bảo khả năng thực tế của việc thực hiện hợp đồng, đồng thời bảo đảm tính cân đối giữa khả năng và nhu cầu, giữa sản xuất và tiêu thụ, giữa giá trị và hiện vật .
Mặt khác, các đơn vị kinh tế hoạt động đúng ngành nghề cần đảm bảo các cân đối ngành kinh tế và trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước .
d. Tính hợp pháp của hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng đảm bảo tài sản của các bên cùng ký kết hợp đồng
Đây là một căn cứ rất quan trọng để đảm bảo hiệu lực của hợp đồng kinh tế về mặt nội dung cũng như tính chất hợp pháp của mỗi quan hệ và khả năng đáp ứng về hàng hoá, khả năng thanh toán của mỗi bên. Căn cứ này nhằm đảm bảo cho mỗi hợp đồng kinh tế có đầy đủ cơ sở pháp lý và cơ sở kinh tế để thực hiện trên thực tế.
Tóm lại, khi tiến hành ký kết hợp đồng kinh tế, các đơn vị kinh tế phải căn cứ vào những quy định của pháp luật, những yêu cầu khách quan và khả năng chủ quan để xác lập mối quan hệ kinh tế một cách hợp pháp, có đầy đủ điều kiện để thực hiện nhằm mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực cho đơn vị mình và cho xã hội.
3. Thẩm quyền ký kết hợp đồng kinh tế.
Theo Điều 2 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, hợp đồng kinh tế được ký kết giữa các bên sau đây :
- Pháp nhân với pháp nhân
- Pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Như vậy, chủ thể của hợp đồng kinh tế ít nhất một bên phải là đơn vị có tư cách pháp nhân, còn bên kia có thể là pháp nhân hoặc cá nhân có đăng ký kinh doanh .
Pháp nhân là một tổ chức có đầy đủ các điều kiện sau đây :
- Có tài khoản riêng và chịu trách nhiệm một cách độc lập bằng các tài sản đó.
- Tự nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật, có thể trở thành nguyên đơn, bị đơn trước toà án.
- Tồn tại độc lập và được pháp luật công nhận là một tổ chức độc lập.
- Cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật là người đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo đúng thủ tục pháp luật quy định và đã được cấp giấy phép kinh doanh (giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh )
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 42, Điều 43 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, những người làm công tác khoa học, kỹ thuật, nghệ nhân, hộ kinh tế gia đình, hộ nông dân, ngư dân cá thể, tổ chức và cá nhân nước ngoài tại Việt Nam khi ký kết hợp đồng với một pháp nhân Việt Nam cũng được áp dụng các quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế.
Về chủ thể của hợp đồng kinh tế, trong khoa học pháp lý hiện có quan điểm cho rằng, hợp đồng kinh tế là những hợp đồng có mục đích kinh doanh. Vì vậy, nó phải được thiết lập giữa các chủ thể kinh doanh - chủ yếu là giữa các doanh nghiệp với nhau.
Khi tiến hành ký kết hợp đồng kinh tế , mỗi bên tham gia quan hệ hợp đồng chỉ cần cử một đại diện để ký vào hợp đồng kinh tế. Nếu là pháp nhân thì người ký hợp đồng phải là người được bổ nhiệm hoặc đang giữ chức vụ đó. Nếu là cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật thì người ký hợp đồng phải là người đứng tên trang giấy phép kinh doanh (đã đăng ký kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật và được cấp giấy phép kinh doanh). Trong tất cả các trường hợp, hợp đồng kinh tế không bắt buộc kế toán trưởng phải cùng ký vào bản hợp đồng kinh tế, đây là điểm khác biệt so với quy định trong Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế ban hành theo Nghị định 54/CP ngày 10/3/1975.
Trong trường hợp một bên là người làm công tác khoa học, kỹ thuật, nghệ nhân thì người ký hợp đồng kinh tế phải là người trực tiếp thực hiện công việc trong hợp đồng (nếu có nhiều người cùng làm thì người ký vào bản hợp đồng kinh tế phải do những người cùng làm cử bằng văn bản có chữ ký của tất cả những người đó, văn bản này phải kèm theo hợp đồng kinh tế ).
Khi một bên là hộ kinh tế gia đình nông dân, ngư dân cá thể thì đại diện ký hợp đồng kinh tế phải là chủ hộ. Khi một bên là tổ chức nước ngoài tại Việt Nam thì đại diện tổ chức đó phải được uỷ nhiệm bằng văn bản, nếu là cá nhân nước ngoài ở Việt Nam thì bản thân họ phải là người ký kết các hợp đồng kinh tế .
Đại diện ký kết hợp đồng kinh tế như trên cũng chính là đại diện đương nhiên trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế và trong tố tụng trước cơ quan tài phán.
Tuy nhiên, người đại diện đương nhiên của các chủ thể hợp đồng kinh tế có thể uỷ quyền cho người khác hay mình ký kết, thực hiện hợp đồng kinh tế. Việc uỷ quyền có thể theo vụ việc hoặc thường xuyên nhưng phải được thể hiện dưới hình thức văn bản. Việc uỷ quyền thường xuyên có thể áp dụng trong trường hợp người đại diện đương nhiên uỷ quyền cho cấp phó của mình (hoặc do người đứng đầu chi nhánh trực thuộc, có tư cách pháp nhân không đầy đủ) theo kỳ hạn cần uỷ quyền. Văn bản uỷ quyền phải ghi rõ họ tên, chức vụ của người uỷ quyền, người được uỷ quyền, số chứng minh thư của người được uỷ quyền; tính chất và nội dung uỷ quyền, thời hạn uỷ quyền và phải có chữ ký xác nhận của cả hai người này. Người được uỷ quyền chỉ được phép hành động trong phạm vi được uỷ quyền và không được uỷ quyền lại cho người khác. Trong phạm vi uỷ quyền, người uỷ quyền phải chịu trách nhiệm về hành vi của người được uỷ quyền như hành vi chính của mình.
Quy định trên đây có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc vì nó vừa giúp cho các đơn vị kinh tế có thể linh hoạt trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế lại vừa ràng buộc trách nhiệm theo nguyên tắc ²chịu trách nhiệm cá nhân².
4. Nội dung ký kết hợp đồng kinh tế:
Theo quy định tại Điều 12 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì nội dung của hợp đồng kinh tế bao gồm những điều khoản cụ thể sau:
a. Ngày tháng năm ký kết hợp đồng kinh tế.
- Tên, địa chỉ, số tài khoản, ngân hàng giao dịch của các bên.
Họ tên người đại diện, người đứng tên đăng ký kinh doanh.
b. Điều khoản đối tượng của hợp đồng:
Tức là các bên trao đổi mua bán, giao dịch về cái gì...? công việc gì...?
Đối tượng của hợp đồng được tính bằng khối lượng, số lượng hoặc giá trị quy ước đã thoả thuận.
c. Điều khoản chất lượng
Tức là sự quy định thể hiện những đặc điểm, tính cách... của đối tượng hợp đồng. Các bên phải thoả thuận cụ thể về chủng loại, quy cách, cách tính, tính đồng bộ, mẫu mã, tiêu chuẩn... của sản phẩm. Hàng hoá hoặc những yêu cầu kỹ thuật của công việc giao dịch giữa các bên.
d. Điều khoản giá cả:
Các bên có thể thoả thuận xác định đơn giá, hoặc giá trị của toàn bộ công việc thoả thuận những nguyên tắc xác định rõ giá cả....
e. Điều khoản bảo hành:
g. Điều khoản nghiệm thu, giao nhận:
Các bên được thoả thuận đặt ra các điều kiện dể giao nhận sản phẩm hàng hoá, điều kiện để nghiệm thu đối tượng của hợp đồng.
h. Điều khoản phương thức thanh toán:
Các bên được quyền lựa chọn phương thức thanh toán cho phù hợp với hoạt động kinh doanh, nhưng không trái với những quy định của pháp luật hiện hành.
i. Điều khoản trách nhiệm do vi phạm hợp đồng kinh tế:
Các bên được thoả thuận trong khung phạt do pháp luật quy định đối với hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế, đối với từng chủng loại hợp đồng kinh tế.
k. Điều khoản thời hạn có hiệu lực của hợp đồng:
l. Các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng:
Các bên có thể thỏa thuận các biện pháp bảo đảm thực hiện
hợp đồng như: thế chấp tài sản, cầm cố, bảo lãnh tài sản theo quy định của pháp luật.
m. Các bên có quyền xây dựng những điều khoản thể hiện sự thoả thuận về các vấn đề khác, không trái quy định của pháp luật.
Đề cập đến nội dung hợp đồng kinh tế, khi ký kết hợp đồng do không nắm vững các quy định pháp luật nên các bên thườngmắc sai lầm khi thoả thuận các điều khoản. Theo quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế để một hợp đồng hợp pháp thì ngoài các điều kiện chủ thể, hình thức hợp đồng còn phải đảm bảo yếu tố nội dung hợp đồng. Hợp đồng phải đảm bảo các điều khoản cơ bản thì mới đảm bảo tính hiệu lực.
Về phương diện khoa pháp lý, căn cứ vào tính chất vai trò của các điều khoản, nội dung của hợp đồng kinh tế được xác định thành ba loại với các điều khoản sau:
Thứ nhất: điều khoản chủ yếu là những điều khoản cơ bản, quan trọng nhất của một hợp đồng bắt buộc phải có trong bất cứ hợp đồng kinh tế nào, nếu không thì hợp đồng sẽ không có giá trị Pháp lý, theo Điều 12 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế các Điều khoản chủ yếu của hợp đồng kinh tế bao gồm:
- Ngày, tháng năm ký hợp đồng, tên, địa chỉ, số tài khoản, ngân hàng giao dịch của các bên, họ tên người đại diện, người đứng tên đăng ký kinh doanh.
- Điều khoản đối tượng của hợp đồng kinh tế tính bằng số lượng, khối lượng hoặc giá trị quy ước đã thoả thuận .
- Điều khoản chất lượng.
- Điều khoản giá cả.
Ngoài ra hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận của các bên về viềc thiết lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các bên trong hoạt động kinh doanh. Do đó nội dung của hợp đồng kinh tế trước hết là những điều khoản do các bên thoả thuận. Những điều khoản mà các bên đã thoả thuận đó là phát s._.inh thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của ác bên tham gia thoả thuận.
Xuất phát từ nguyên tắc tự do hợp đồng trong nền kinh tế thị trường, pháp luật không giới hạn các điều khoản mà các bên đã ký kết hợp đồng thoả thuận với nhau. Nói như vậy không có nghĩa là các bên thoả thuận như thế nào được, các bên có quyền thoả thuận nhưng những thoả thuận đó không được trái với pháp luật thì mới có hiệu lực và được pháp luật bảo vệ. Do đó yêu cầu đặt ra là nội dung của hợp đồng kinh tế phải hợp pháp, có khả năng thực hiện, các điều khoản của hợp đồng phải rõ ràng cụ thể.
Trong trường hợp cần thiết, Nhà nước vẫn có quyền can thiệp vào nội dung của quan hệ hợp đồng. Chẳng hạn buộc các bên ký kết hợp đồng phải tuân theo những quy định bắt buộc về chất lượng sản phẩm để đảm bảo an toàncho người tiêu dùng.
Như vậy, nội dung của hợp đồng kinh tế không chỉ là những điều khoản mà các bên thoả thuận mà còn có thể bao gồm cả những điều khoản mà các bên không thoả thuận nhưng theo dquy định của pháp luật các bên có nghĩa vụ thực hiện. Bởi vì quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng không chỉ phát sinh từ những điều khoản mà các bên thoả thuận mà còn có thể phát sinh từ những quy định pháp luật.
Trong Thứ hai: điều khoản thường lệ, là những điều khoản đã được pháp luật ghi nhận, nếu các bên không ghi vào các văn bản hợp đồng thì coi như các bên đã mặc nhiên công nhận và có nghĩa vụ thực hiện những quy định đó. Nếu các bên thoả thuận ghi vào văn bản hợp đồng thì không được ghi trái với những điều đã quy đinh đó, nếu thoả thuận trái pháp luật thi những thoả thuận đó không có giá trị.
Những quy định của pháp luật sẽ trở thành nội dung của hợp đồng kinh tế thay vào những điều khoản các bên đã thoả thuận trái đó. Do đó, các bên phải thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ quy phạm pháp luật có liên quan. Ví dụ: điều khoản về bối thường thiệt hại, về khung phạt vi phạm hợp đồng kinh tế, điều khoản về bảo hành. Trong hợp đồng có thể các bên không thoả thuận về điều khoản bảo hành nhưng bên bán vẫn có nghĩa vụ phải bảo hành nếu có quy định của Nhà nước về bảo hành sản phẩm đó. Bên bán không thể viện cớ là trong hợp đồng hai bên không thoả thuận về điều khoản bảo hành để trốn trách nhiệm bảo hành. Qua đây chúng ta càng thấy rõ hơn nội dung của hợp đồng kinh tế không chỉ bao gồm những điều khoản mà các bên đã thỏa thuận mà còn có thể bao gồm cả những điều khoản mà các bên không thoả thuận, nhưng theo quy định của Pháp luật, các bên có nghĩa vụ phải thực hiện.
Trong mối quan hệ giữa các điều khoản chủ yếu và điều khoản thường lệ của hợp đồng kinh tế thì sự tồn tại của hợp đồng kinh tế không phụ thuộc vào các điều khoản thường lệ mà chỉ phụ thuộc vào các điều khoản chủ yếu. Hai bên không thoả thuận về những điều khoản thường lệ thì hợp đồng kinh tế vẫn cứ hình thành và làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.
Thứ ba: điều khoản tuỳ nghi là những điều khoản do các bên tự thoả thuận với nhau khi pháp luật cho phép. Khi một quy phạm pháp luật quy định các bên có thoả thuận về vấn đề này hay vấn đề khác thì các bên có thể thoả thuận hoặc không thoả thuận. Nếu các bên thoả thuận đó là nội dung của hợp đồng các bên phải có trách nhiệm thực hiện. Còn nếu các bên không thoả thuận thì các bên không phải thực hiện. Ví dụ: điều khoản thưởngvật chất, điều khoảm áp dụng mức phạt cụ thể khi vi phạm các điều khoản của hợp đồng trogn khung phạt mà pháp luật đã quy định.
Theo pháp luật về hợp đồng kinh tế của nước ta hiện nay thì những thoả thuận về biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng (cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, bảo lãnh tài sản, thoả thuận về tiền thưởng do thực hiện tốt hợp đồng) là những điều khoản tuy nghi. Những điều khoản này chỉ trở thành nội dung hợp đồng nếu các bên trực tiếp thoả thuận với nhau.
Về điều khoản thưởng do thực hiện tốt hợp đồng cần phải xem xét them. Khái niệm, “thực hiện tốt hợp đồng” theo chúng tôi là một khái niệm không có cơ sở khoa học. Thế nào là thực hiên tốt hợp đồng? Sau khi hợp đồng được ký kết và có hiệu lực các bên phải thực hiện đúng hợp đồng và nếu thực hiện đúng hợp đồng là bình thường. Còn nếu các bên thực hiện không đúng, không đầy đủ hoặc không là nghĩa vụ của các bên, do đó nó hoàn toàn là bình thường, chẳng có lý do gì để thưởng cả, còn bên nào vi phạm hợp đồng thì phải chịu trách nhiệm vật chất (phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại nếu có).
Trong hợp đồng kinh tế, hàng hoá được trao đổi ngang giá, do đó điều khoản thưởng phạt tronh hợp đồng kinh tế là vô lý, trái với quy luật kinh tế. Bởi vì giá cả trong hợp đồng đã chịu sự tác động khách quan của quy luật giá trị và quy luật cung cầu của thị trường. Nếu cộng thêm khoản tiền thưởng nó sẽ phá vỡ quy luật trao đổi hàng hoá trên cơ sở ngang giá.
Trong quan hệ hợp đồng kinh tế giữa các chủ doanh nghiệp tư nhân với nhau hoặc giữa các doanh nghiệp ngoài khu vực kinh tế quốc doanh, nếu họ thoả thuận thưởng cho nhau thì đó là việc của họ. Điều vô lý đó không ảnh hưởng đến lợi ích của ai nên pháp luật cũng không can thiệp. Nhưng trong quan hệ hợp đồng giữa các doanh nghiệp Nhà nước với nhau hoặc giữa doanh nghiệp Nhà nước với doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác thì không nên có điều khoản tuỳ nghi này. Vì sự “tuỳ nghi” đó có thể dẫn đến sự “tuỳ tiện” làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước.
Nói tóm lại các điều khoản của hợp đồng là do các bên thoả thuận, pháp luật không hạn chế các điều khoản mà các bên thoả thuận, miễn là những thoả thuận đó không phải trái pháp luật. Pháp luật chỉ quy định những điều khoản tối thiểu phải có để chứng tỏ giữa các bên có quan hệ hợp đồng. Những điều khoản tối thiểu đó là những điều khỏan chủ yếu của hợp đồng.
Tuy nhiên, về từng khía cạnh cụ thể cần có những hiểu biết và kinh nghiệm sâu sắc đặc biệt về chủ thể hợp đồng, về hình thức, về nội dung hợp đồng như tiêu đề trình bày.
5. Thủ tục ký kết hợp đồng kinh tế.
Để xác lập một quan hệ hợp đồng kinh tế có hiệu lực pháp lý, các bên có thể lựa chọn một trong hai cách ký kết hợp đồng kinh tế như sau:
a. Ký kết hợp đồng bằng phương pháp ký trực tiếp là cách ký đơn giản. Hợp đồng kinh tế được hình thành một cách nhanh chóng. Khi ký kết bằng cách này, đại diện hợp pháp của các bên trực tiếp gặp nhau bàn bạc, thoả thuận, thống nhất ý chí để xác định các điều khoản của hợp đồng và cùng ký vào bản hợp đồng
b. Ký kết hợp đồng bằng phương pháp ký gián tiếp là cách ký kết mà trong đó các bên tiến hành gửi cho nhau các tài liệu giao dịch ( công văn, điện báo, đơn chào hàng, đơn đặt hàng ) chứa đựng nội dung cần giao dịch. Việc ký kết hợp đồng kinh tế bằng phương pháp ký gián tiếp đòi hỏi phải tuân theo trình tự nhất định, thông thường trình tự này ít nhất cũng gồm hai bước:
-Bước một: Một bên lập dự thảo ( đề nghị ) hợp đồng trong đó đưa ra những yêu cầu về nội dung giao dịch ( tên hàng hoặc công việc, số lượng, chất lượng, thời gian, địa điểm, phương thức giao nhận, thời hạn thanh toán... và gửi cho bên kia ).
-Bước hai: Bên nhận được đề nghị hợp đồng tiến hành trả lời cho bên đề nghị hợp đồng bằng văn bản, trong đó ghi rõ nội dung chấp nhận, nội dung không chấp nhận, những đề nghị bổ sung ...
Trong trường hợp ký kết theo cách ký gián tiếp, hợp đồng kinh tế được coi là hình thành và có giá trị pháp lý từ khi các bên nhận được tài liệu giao dịch thể hiện sự thoả thuận xong những điều khoản chủ yếu của hợp đồng
Dù ký kết bằng phương pháp ký trực tiếp hay gián tiếp, những hợp đồng kinh tế được hình thành đều có hiệu lực pháp lý như nhau và các bên đều phải nghiêm chỉnh thực hiện các điều khoản đã cam kết. Để cho hợp đồng kinh tế có hiệu lực, việc thoả thuận của các bên phải đảm bảo những điều kiện sau:
Nội dung thoả thuận không vi phạm pháp luật;
Phải đảm bảo điều kiện chủ thể của hợp đồng;
Đại diện ký kết hợp đồng phải đúng thẩm quyền
Nếu không đảm bảo một trong các điều kiện này, hợp đồng sẽ trở thành vô hiệu.
Mỗi cách ký kết đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng của nó, lựa chọn cách nào là quyền của các chủ thể ký kết, song việc lựa chọn luôn luôn phải tính đến hiệu quả kinh tế, thời cơ kinh doanh. Các chủ thể cũng có thể kết hợp cả hai phương pháp ký kết để xác lập một quan hệ hợp đồng kinh tế.
III.Chế độ thực hiện hợp đồng kinh tế
Nguyên tắc thực hiện hợp đồng kinh tế:
Sau khi ký hợp đồng kinh tế và hợp đồng kinh tế có hiệu lực, các bên bị ràng buộc vào trách nhiệm thực hiện các cam kết trong hợp đồng. Mọi hành vi không thực hiện hợp đồng và thực hiện không đầy đủ đều được coi là vi phạm hợp đồng và chịu trách nhiệm vật chất. Để cho hợp đồng được thực hiện một cách đầy đủ và đúng đòi hỏi các bên phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây:
-Nguyên tắc chấp hành hiện thực: Chấp hành hiện thực hợp đồng là chấp hành đúng đói tượng hợp đồng, không được tự ý thay đổi đối tượng này bằng một đối tượng khác hoặc không được thay thế việc thực hiện nó. Nguyên tắc này đòi hỏi thoả thuận cái gì thì thực hiện đúng cái đó.
-Nguyên tắc chấp hành đúng: Thực hiện hợp đồng một cách đầy đủ và chính xác tất cả các điều khoản đã thoả thuận trong hợp đồng. Theo nghĩa này, đây là nguyên tắc bao trùm, rộng hơn nguyên tắc hiện thực. Nguyên tắc chấp hành đúng đòi hỏi các bên thực hiện nghĩa vụ của mình một cách đầy đủ đúng đắn, chính xác cam kết không phân biệt điều khoản chủ yếu, điều khoản thường lệ hay tuỳ nghi. Nếu vi phạm bất cứ cam kết nào trong hợp đồng đều phải chịu trách nhiệm vật chất cho hành vi đó.
-Nguyên tác hợp tác, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Nguyên tắc này đòi hỏi các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế phải hợp tác chặt chẽ, thường xuyên theo dõi giúp đỡ lẫn nhau để khắc phục khó khăn nhằm thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ đã cam kết và ngay cả khi có tranh chấp, các bên cũng phải áp dụng phương pháp này thông qua việc hiệp thương giải quyết hậu quả của việc vi phạm hợp đồng kinh tế. Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trog việc phòng ngừa và giải quyết kịp thời các tranh chấp hợp đồng kinh tế nhằm bảo đảm lợi ích các bên.
Biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng:
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/09/1989 Nghị định số 17/HĐBT ngày 16/01/1990 của Hội đồng Bộ trưởng quy đinh chi tiết thi hành Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế có nêu ra các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng. Thế chấp tài sản, cầm cố tài sản, bảo lãnh tài sản. Đây là những biện pháp bảo đảm mang tính chất kinh tế thường được chủ thể áp dụng.
- Thế chấp tài sản:
Thế chấp tài sản là dùng số động sản, bất động sản hoặc giá trị tài sản khác thuộc quyền sở hữu của mình để bảo đảm tài sản cho việc thực hiện hợp đồng kinh tế đã ký kết.
Việc thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản (văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính) và phải có sự xác nhận của cơ quan công chứng Nhà nước hoặc cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh (trường hợp không có cơ quan công chứng)
Người thế chấp tài sản có nghĩa vụ bảo đảm nguyên giá trị của tài sản thế chấp, không được chuyển dịch sở hữu hoặc chuyển giao tài sản đó cho người khác trong văn bản thế chấp còn hiệu lực.
- Cầm cố tài sản:
Cầm cố tài sản là trao đổi tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người cùng quan hệ hợp đồng kinh tế để làm tin và đảm bảo tài sản trong trường hợp vi phạm hợp đồng kinh tế đã ký kết. Việc cầm cố phải đượclập thành văn bản riêng có chữ ký của các bên, có sự xác nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền như trường hợp thế chấp tài sản. Người giữ vật cầm cố có nghĩa vụ bảo đảm nguyên giá trị của vật cầm cố và không được chuyển giao vật cầm cố cho người khác trong thời gian văn bản cầm cố còn có hiệu lực.
- Bảo lãnh tài sản
Là sự đảm bảo bằng tài sản thuộc quyền sở hữu của người nhận bảo lãnhđể chịu trách nhiệm tài sản thay cho người được bảo lãnh khi người này vi phạm hợp đồng kinh tế đã ký kết. Người nhận bảo lãnh phải có số tài sản không ít hơn số tài sản mà người đó nhận bảo lãnh. Việc bảo lãnh tài sản phải được làm thành văn bản, có sự xác nhận về tài sản của ngân hàng nơi người bảo lãnh giao dịch của cơ quan công chứng Nhà nước hoặc cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh (trường hợp không có cơ quan công chứng Nhà nước).
Việc xử lý các tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh khi có vi phạm hợp đồng kinh tế được thực hiện cùng với việc giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế tại cơ quan có thẩm quyền. Đó là Toà án kinh tế hoặc các trung tâm Trọng tài kinh tế phi Chính phủ.
So với pháp luật về hợp đồng kinh tế trước đây, Bộ luật dân sự quy định về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự một cách chặt chẽ và đầy đủ hơn. Các biện pháp đảm bảo trong Bộ luật dân sự phong phú hơn.
3.Cách thức thực hiện hợp đồng kinh tế
4.Thay đổi đình chỉ thanh lý hợp đồng kinh tế
-Thay đổi hợp đồng kinh tế là việc sửa đổi, bổ sung một số điểm của nội dung của hợp đồng kinh tế ch o phù hợp với nhiệm vụ kế hoạch sản xuất kinh doanh của các bên hoặc là sự thay đổi chủ thể hợp đồng. Khi có sự chuyển giao một phần hoặc toàn bộ nhiệm vụ sản xuất kinh doanh từ một chủ thể hợp đồng kinh tế sang một pháp nhân hay cá nhân có đăng ký kinh doanh. Việc sửa đổi hợp đồng kinh tế có mục đích giúp các bên khắc phục các thiếu sót trong ký kết hợp đồng các bên gặp phải hoặc nhằm khắc phục hậu quả của nguyên nhân khách quan. hợp đồng kinh tế chỉ thay đổi khi các bên thống nhất ý chí bằng văn bản.
-Đình chỉ thực hiện hợp đồng kinh tế là sự chấm dứt nửa chừng việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia trong hợp đồng kinh tế. Khi một bên vi phạm hợp đồng kinh tế và đã thừa nhận sự vi phạm đó hoặc đã được cơ quan, tổ chức, toà án có thẩm quyền kết luận là có vi phạm, bên bị vi phạm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng kinh tế đó, nếu việc tiếp tục thực hiện hợp đồng kinh tế không có lợi cho mình. Bên đương phương đình chỉ phải thông báo cho bên vi phạm biết bằng văn bản và văn bản đó phải gửi cho bên vi phạm biết trong thời gian 10 ngày, kể từ ngày bên vi phạm thừa nhận vi phạm hoặc có kết luận của cơ quan toà án có thẩm quyền. Hợp đồng kinh tế có thể bị huỷ bỏ khi các bên thoả thuận với nhau bằng văn bản. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng hợp đồng kinh tế có thể bị huỷ bỏ không phải có sự thống nhất ý chí của các bên mà do ý chí của cơ quan toà án có thẩm quyền bắt buộc.
-Thanh lý hợp đồng kinh tế là hành vi của chủ thể hợp đồng kinh tế nhằm kết thúc quan hệ hợp đồng kinh tế. Đê r đạt được mục đích đó, trong quá trình thanh lý hợp đồng kinh tế các bên phải gặp nhau giải quyết những tồn đọng, đánh giá những kết quả đạt được hoặc chưa đạt được để xác định quyền và và nghĩa vụ của các bên, thanh lý hợp đồng vừa là nghĩa vụ vừa là quyền của các bên.
5. Hợp đồng kinh tế vô hiệu và xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu:
Một hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu khi hợp đồng kinh tế đó ký kết trái với những quy định của pháp luật. Những nội dung về quyền và nghĩa vụ của các bên được xác lập trái với những quy định của pháp luật thì không có hiệu lực thực hiện . Có 2 loại hợp đồng kinh tế vô hiệu là hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ và hợp đồng kinh tế vô hiệu từng phần. Việc kết luận hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ hay từng phần thuộc thẩm quyền của toà án kinh tế.
a. Hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ:
Những hợp đồng kinh tế nào có một trong các nội dung sau đây thì bị coi là vô hiệu toàn bộ ngay từ khi ký hợp đồng kinh tế được hình thành.
- Nội dung của hợp đồng kinh tế vi phạm điều cấm của pháp luật. Ví dụ các bên thoả thuận sản xuất, tiêu thụ hàng giả, mua bán vận chuyển hàng cấm.
- Không đảm bảo tư cách chủ thể của quan hệ hợp đồng, một trong các bên đã ký kết hợp đồng không có giấy phép đăng ký kinh doanh, theo quy định của pháp luật để thực hiện công việc đã thoả thuận trong hợp đồng. Nếu pháp luật quy định để thực hiện công việc đó đòi hỏi cả hai bên phải có đăng ký kinh doanh mà một trong các bên không có đăng ký kinh doanh thì hợp đồng kinh tế đó bị coi là vô hiệu toàn bộ. Nếu pháp luật chỉ cần có một bên có đăng ký kinh doanh (ví dụ: bên bán, bên làm dịch vụ, bên nhận thầu, bên chủ phương tiện vận tải...) mà bên đó không có đăng ký kinh doanh thì hợp đồng đó cũng bị coi là vô hiệu toàn bộ.
- Người ký kết hợp đồng không đúng thẩm quyền hoặc có hành vi lừa đảo. Người ký kết hợp đồng đúng thẩm quyền tức là người đó không phải là đại diện hợp pháp; không phải là người được uỷ quyền hoặc được uỷ quyền nhưng vượt quá phạm vi uỷ quyền đó. Khi người ký kết hợp đồng có hành vi lừa đảo như giả danh, giả mạo giấy tờ, chữ ký, con dấu, thì hợp đồng đó được coi là vô hiệu toàn bộ.
b. Hợp đồng kinh tế vô hiệu từng phần:
Những hợp đồng kinh tế có nội dung vi phạm một phần điều cấm của pháp luật nhưng không ảnh hưởng đến các phần còn lại của hợp đồng thì bị coi là vô hiệu từng phần tức là chỉ vô hiệu những phần thoả thuận trái pháp luật, còn những phần khác vẫn có hiệu lực pháp luật.
Theo khoản 2 Điều 8 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định: “Hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu từng phần khi nội dung của phần đó vi phạm điều cấm của luật, nhưng không ảnh hưởng đến nội dung các phần cònlại của hợp đồng”
Trong trường hợp, hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu từng phần thì các bên phải sửa đổi điều khoản trái pháp luật, khôi phục các quyền và lợi ích ban đầu, đồng thời có thể bị xử lý theo các quy định của pháp luật đối với phần vô hiệu đó.
* Nguyên tắc xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu.
Hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu khi hợp đồng đó ký kết trái với quy định của pháp luật. Đối với các hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ, dù các bên chưa thực hiện, đang thực hiện hoặc đã thực hiện xong đều bị xử lý theo quy định của pháp luật.
- Nếu nội dung của hợp đồng chưa thực hiện thì các bên không được thực hiện nữa.
- Nếu nội dung của hợp đồng đang thực hiện hoặc đã thực hiện xong thì bị xử lý tài sản như sau; các bên phải hoàn trả cho nhau tất cả tài sản đã nhận được từ việc thực hiện hợp đồng; thu nhập từ việc thực hiện hợp đồng thì phải nộp vào ngân sách nhà nước, thiệt hại phát sinh thì các bên phải gánh chịu.
- Người ký kết hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ, người cố ý thực hiện hợp đồng kinh tế vô hiệu toàn bộ thì tuỳ theo mức độ vi phạm và bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Trường hợp hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu từng phần thì các bên phải sửa đổi các điều khoản trái pháp luật, khôi phục các quyền và lợi ích ban đầu và bị xử lý theo pháp luật đối với phần vô hiệu đó.
IV.Trách nhiệm vật chất trong quan hệ hợp đồng kinh tế
1.Khái niệm và ý nghĩa của trách nhiệm vật chất
Trách nhiệm vật chất là biện pháp pháp lý áp dụng cho các vi phạm hợp đồng kinh tế đã được quy định sẵn trong pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định và các văn bản khác. Điều 29 pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định: Các bên phải chịu trách nhiệm tài sản với nhau về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ hợp đồng kinh tế. Bên vi phạm phải trả cho bên bị vi phạm tiền phạt vi phạm hợp đồng và trong trường hợp có thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp lệnh. Qua quy định trên người ta hiểu rõ trách nhiệm vật chất ở hai góc độ:
+Dưới góc độ khách quan:
Trách nhiệm vật chất trong quan hệ hợp đồng kinh tế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội giữa các chủ thể trong hợp đồng kinh tế phát sinh do vi phạm chế độ hợp đồng kinh tế. Theo nghĩa này, trách nhiệm vật chất chứa đựng nội dung kinh tế thể hiện ở khoản tiền phạt và tiền bồi thường thiệt hại. Đó là hậu quả vật chất bất lợi mà bên vi phạm hợp đồng phải gánh chịu.
+Dưới góc độ chủ quan:
Trách nhiệm vật chất được biểu hiện là sự gánh chịu những hậu quả vật chất bất lợi của bên vi phạm hợp đồng mà đã đươcj pháp luật quy định, thể hiện dưới 2 hình thức phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại. Hai hình thức này còn gọi là chế tài Trách nhiệm vật chất, bộ phận không thể thiếu được của một quy phạm pháp luật hợp đồng kinh tế.
2.Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm vật chất
Bên bị vi phạm hợp đồng kinh tế và cơ quan tài phán kinh tế chỉ có thể áp dụng trách nhiệm vật chất đối với bên vi phạm hợp đồng kinh tế khi có các căn cứ sau đây:
-Có hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế
-Có thiệt hại thực tế xảy ra
-Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế
-Có lỗi của bên vi phạm
Hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế là các hành vi vi phạm các cam kết trong hợp đồng kinh tế. Chúng thường thể hiện dưới dạng là không thực hiện, hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các cam kết trong hợp đồng kinh tế. Để đòi bồi thường thiệt hại, bên bị vi phạm phải chứng minh được bên vi phạm đã gây ra thiệt hại cho mình. Những thiệt hại đó là thiệt hại về vật chất và thực tế tính toán được. Thiệt hại này phải chính do sự vi phạm hợp đồng gây nên hay nói cách khác nó là hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế của bên vi phạm gây ra. Trong quan hệ hợp đồng kinh tế lỗi để áp dụng trách nhiệm vật chất là lỗi suy đoán nghĩa là có hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế mà không có yếu tố khách quan tác động vào thì coi là có lỗi. Nếu hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế đo do nguyên nhân khách quan gây ra thì ben vi phạm được miễn trách nhiệm vật chất
3.Các hình thức trách nhiệm vật chất
Từ khái niệm trách nhiệm vật chất trong quan hệ hợp đồng kinh tế có thấy hình thức trách nhiệm vật chất gồm: Phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại.
-Phạt vi phạm hợp đồng kinh tế là chế tài tiền lệ được xác định trước áp dụng đối với bên vi phạm hợp đồng kinh tế nhằm củng cố quan hệ hợp đồng kinh tế, nâng cao ý thức tôn trọng hợp đồng kinh tế. Phạt vi phạm hợp đồng kinh tế mang tính trừng ph ạt về mặt vật chất đối với bên vi phạm, nó là một chế tài phổ biến được áp dụng rộng rãi đối với tất cả các hành vi vi phạm hợp đồng kinh tế mà không cần phải chứng minh có hoặc chưa có thiệt hại xảy ra.
Tiền phạt vi phạm hợp đồng kinh tế là một số tiền mà do bên vi phạm hợp đồng kinh tế bỏ ra cho bên bị vi phạm nằm trong khung hình phạt đã quy định cho từng loauị vi phạm hợp đồng kinh tế. Theo điều 29 pháp lệnh hợp đồng kinh tế mức phạt chung đối với các loại vi phạm hợp đồng kinh tế là từ 2% đến 12% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm. Ngoài ra điều 13 nghị định 17HĐBT ngày 16.1.1990 quy định khung phạt riêng cho từng loại vi phạm hợp đồng. Riêng vi phạm nghĩa vụ thanh toán không áp dụng các khung hình phạt trên mà áp dụng mức lãi suất tín dụng quá hạn của ngân hangf mà không hạn chế mức độ tối đa.
-Bồi thường thiệt hại là chế tài tài sản dùng để bù đắp những thiệt hại thực tế về tài sản cho bên bị thiệt hại.
+Căn cứ để phát sinh bồi thường thiệt hại phải có đủ 4 căn cứ trong đó thiệt hại thực tế xảy ra không thể thiếu.
+Mức bồi thường thiệt hại không được quy định sẵn, mà theo nguyên tắc thiệt hại bao nhiêu thì bồi thường bấy nhiêu.
Những thiệt hại thực tế mà bên vi phạm hopự đồng phải bồi thường cho bên bị thiệt hại gồm:
+Giá trị tài sản bị mất mát, hư hỏng bao gồm cả lãi phải trả cho ngân hàng, các khoản thu nhập mà lẽ ra trong điều kiện bình thường bên bị vi phạm cũng sẽ thu được.
+Các chi phí để hạn chế thiệt hại do vi phạm hợp đồng mà bên vi phạm phải chịu
+Tiền phạt và tiền bồi thường thiệt hại mà bên bị vi phạm phải trả cho người thứ 3 do lỗi của bên vi phạm hợp đồng gây ra.
Khoản bồi thường thiệt hại do bên bị thiệt hại được hưởng nhằm bù đắp khôi phục lại lợi ích hạch toán của bên bị thiệt hại. Vì vậy bồi thường thiệt hại không mang tính chất trừng phạt bên vi phạm hợp đồng.
Chương ii
Thực tiễn áp dụng chế độ hợp đồng kinh tế tại chi nhánh công ty thái bình dương
I.Giới thiệu chung về công ty thái bình dương
Công ty Thái Bình Dương được thành lập theo Quyết định số 305/QĐ-BVN (H11) ngày 19/7/1993 của Bộ nội vụ ( nay là bộ công an)
Chứng nhận đăng ký kinh doanh số : 10285 cấp ngày 28/7/1993 của trọng tài kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
Công ty Thái Bình Dương là doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân hoạt động theo chế độ hoạch toán kinh tế độc lập, có tài khoản và con dấu riêng để giao dịch, có điều lệ tổ chức và hoạt động, có bộ máy quản lý điều hành. Công ty tuân thủ các chính sách và pháp luật nhà nước Việt nam, chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của mình, chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ nội vụ. Phạm vi hoạt động trên cả nước.
Công ty có tên giao dịch quốc tế là : PACIFIC COMPANY
Trụ sở chính: 18 Phạm Ngọc Thạch Quận 3 – Thành phố Hồ Chí Minh.
Chi nhánh: 37 Đường Giải Phóng – Bà Trưng – Hà nội và chi nhánh tại Đà Nẵng.
Vốn kinh doanh (1-8-1993) : 41 417 488 398 đ
Trong đó:
Vốn ngân sách: 39 168 146 265 đ
Vốn tự bổ xung: 2 249 342 133 đ
Công ty có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh , được quyền liên doanh liên kết , ký kết hợp đồng kinh tế trong và ngoài nước. Công ty có tổng số cán bộ nhân viên là 90 người. Đứng đầu công ty là Giám đốc – Người tiến hành giám sát và quản lý mọi hoạt động của công ty và cũng là người chịu trách nhiệm trước bộ công an về kết quả sản xuất kinh doanh của công ty và tập thể công ty.
mô hình tổ chức bộ máy quản lý và hoạt động của công ty
Giám đốc
Xí nghiệp chế biến lương thực thực phẩm
Xí nghiệp xây dựng và khai thác vật liệu
Chi nhánh
phía bắc
Chi nhánh
miền Trung
Phòng kinh doanh
Phó giám đốc III
Phòng kế hoạch
phòng kế toán tài chính
Văn phòng
Phó giám đốc II
Phó giám đốc I
- Giám đốc là người có quyền điều hành cao nhất trong công ty, là người đại diện pháp nhân của công ty.
- Các Phó giám đốc là người giúp giám đốc điều hành một hoặc một số hoạt động của công ty theo sự phân công của giám đốc và chịu trách nhiệm trước giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ được giám đốc giao phó. Phó giám đốc công ty có thể kiêm giám đốc xí nghiệp thành viên.
- Kế toán trưởng giúp giám đốc chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác kế toán thống kê của công ty
- Các phòng nghiệp vụ khác : (văn phòng, phòng kế toán, phòng kinh doanh) giúp việc cho giám đốc điều hành công việc.
- Hai xí nghiệp thành viên và các chi nhánh hoạt động theo hình thức hoạch toán nội bộ.
Chi nhánh công ty Thái Bình Dương tại Hà nội
Quá trình hình thành và phát triển của chi nhánh:
Được thành lập theo quyết định số 805 / QĐ - BNV (H11) ngày 12/11/1996 của Bộ trưởng Bộ nội vụ (nay là Bộ Công an). Chi nhánh hoạt động theo giấy đăng ký kinh doanh số : 306784 do Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hà nội cấp ngày 15 /4/ 1997.
Chi nhánh có tư cách pháp nhân có con dấu riêng để giao dịch . Chi nhánh có trụ sở Tại 37 Đường Giải Phóng Quận Hai Bà Trưng – Hà Nội
Với Tổng số vốn : 13 264 800 000 đ
Trong đó:
Vốn cố định: 4 264 800 000 đ
Vốn lưu động: 9 000 000 000 đ
Mở tài khoản VND : 361.111.001.093 tại Ngân Hàng Ngoại Thương – Hà Nội. Hoạt động chủ yếu của công ty là kinh doanh các mặt hàng như bán buôn hàng tư liệu sản xuất ( thiết bị điện tử viễn thông, văn phòng...) Thiết bị phòng cháy chữa cháy, vật liệu xây dựng. Chi nhánh Công ty có khả năng đảm nhận xây dựng các công trình xây dựng và công nghiệp, xây dựng nền móng cơ sở hạ tầng. Xây dựng hệ thống điện và hệ thống thông tin liên lạc ...
Được thành lập trong điều kiện đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường. Khoa học công nghệ trong và ngoài nước đang ngày càng phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho chi nhánh công ty có chỗ đứng trong nước và từng bước vươn ra thị trường thế giới. Ban đầu chi nhánh chỉ thành lập có 10 thành viên nhưng chi nhánh đã kịp thời gấp rút ổn định tổ chức, tăng cường và củng cố lực lượng, đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh , dịch vụ. Cho đến nay thành viên của chi nhánh công ty đã lên đến 30 người, thị trường hoạt động kinh doanh trên cả nước và đã ký kết một số hợp đồng với bạn hàng nước ngoài. Tổng số vốn kinh doanh cũng ngày càng mở rộng và trở thành công ty có bề dày kinh nghiệm và có uy tín trên thị trường.
Chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của chi nhánh công ty:
a- Chức năng và nhiệm vụ:
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường nên chi nhánh công ty đã mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh với chức năng kinh doanh các mật hàng tiêu dùng thiết yếu, nhập khẩu máy móc, thiết bị thông tin liên lạc, trang thiết bị vật tư phương tiện giao thông phục vụ trong ngành...
Nhiệm vụ cơ bản của chi nhánh là xây dựng kế hoạch kinh doanh ngắn hạn, dài hạn và thực hiện kế hoạch đó để đạt được mục tiêu đề ra của công ty. Cùng với nhiệm vụ quan trọng là kinh doanh đúng ngành nghề lĩnh vực , mặt hàng đã đăng ký với cơ quan có thẩm quyền.
Thực hiện phân phối theo lao động , đảm bảo công bằng xã hội. Chi nhánh có trách nhiệm chấp hành đầy đủ nghiêm chỉnh các quy định quản lý cấp trênvà các cơ quan chức năng như : Thuế , an ninh, môi trường, lao động , ngân hàng....Tổ chức quản lý công ty bằng các quyết định, điều lệ , nội quy lao động và trách nhiệm vật chất. Thực hiện đúng đắn tốt các chủ trương chính sách, đường lối của Đảng, Nhà nước. Thực hiện nghiêm túc các chế định pháp luật của nhà nước.
b.- Quyền hạn và nghĩa vụ:
- Quyền hạn : Căn cứ vào quy định của pháp luật chi nhánh công ty có các quyền hạn sau:
Quản lý, sử dụng vốn, đất đai và các tài sản khác được giao theo quy định để thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ do Bộ công an giao.
Tự chủ trong sản xuất kinh doanh , liên doanh liên kết, ký kết các hợp đồng kinh tế trong và ngoài nước. Vay vốn và huy động vốn theo quy định pháp luật.
Tổ chức bộ máy quản lý theo đúng quy định của Bộ công an phù hợp với mục tiêu và nhiệm vụ được giao.
Trích lập các quỹ và phân chia lợi nhuận
Tuyển chọn và bố trí sử dụng đào tạo lao động hoặc huỷ bỏ hợp đồng lao động về sử dụng lao độngtheo chế độ hiện hành của nhà nước.
Được hưởng các chế độ ưu đãi theo quy định của nhà nước và Bộ công an.
-Nghĩa vụ : Chi nhánh công ty có những nghĩa vụ cơ bản sau
Nhận và sử dụng có hiệu quả , bảo toàn và phát triển vốn giao, sử dụng có hiệu quả đất đai và các tài sản khác để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh do Bộ công an giao.
Đăng ký sản xuất kinh doanh đúng nghành nghề đã đăng ký , chịu trách nhiệm trước Bộ công an về kết quả sản xuất kinh doanh của chi nhánh và chịu trách nhiẹem trước khách hành, trước pháp luật về sản phẩm và dịch vụ do chi nhánh thực hiện .
Xây dựng kế hoạch phát triển dài hạn , kế hoạch 5 năm và hàng năm của công ty phù hợp nhiệm vụ Bộ giao và nhu cầu thị trường.
Ký kết và tổ chức thực hiện các hợp đồng kinh tế đã ký kết với các đối tác.
Đổi mới công nghệ , phương pháp quản lý, thường xuyên đổi mới thiết._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- I0007.doc