Thực trạng về quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay, kiến nghị và giải pháp nhằm đảm bảo cân đối quỹ bảo hiểm xã hội được lâu dài

Lời nói đầu Từ hàng chục năm nay, chính sách Bảo hiểm xã hội đã góp phần quan trọng trong việc trợ cấp vật chất, hỗ trợ đời sống cho những đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội và gia đình họ khi gặp phải rủi ro, biến cố trong cuộc sống như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp hoặc chết dẫn đến giảm hoặc mất nguồn thu nhập. Chính sách BHXH cũng có tác dụng động viên công nhân viên chức, lực lượng vũ trang yên tâm công tác sản xuất, chiến đấu góp phần thắng lợi vào công cuộc xây dựn

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1571 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng về quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay, kiến nghị và giải pháp nhằm đảm bảo cân đối quỹ bảo hiểm xã hội được lâu dài, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g và bảo vệ Tổ quốc. Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Bước sang cơ chế kinh tế mới với quan hệ lao động phong phú, đa dạng, chính sách BHXH trong cơ chế cũ không còn phù hợp nữa. Do đó việc nghiên cứu, tìm hiểu và xây dựng cơ sở lý luận nhằm đổi mới hoàn thiện chính sách BHXH cho phù hợp với tình hình mới là một yêu cầu cấp thiết. Quỹ BHXH là một nội dung rất quan trọng trong chính sách BHXH. Quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng nó vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất quan trọng đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển. Chính vì vậy, việc đảm bảo hệ thống tài chính cho quỹ BHXH là hết sức cần thiết và mang ý nghĩa sống còn đối với hoạt động của BHXH. Thông qua việc xem xét đánh giá cơ chế quản lý BHXH ở Việt Nam từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện và đổi mới cơ chế quản lý quỹ BHXH cho phù hợp với giai đoạn mới. Từ những lý do trên và quá trình thực tập tôi đã chọn đề tài "Thực trạng về quỹ BHXH ở Việt Nam hiện nay, kiến nghị và giải pháp nhằm đảm bảo cân đối quỹ BHXH được lâu dài". Kết cấu đề tài gồm 3 chương: CHƯƠNG I:Lý luận chung về BHXH và quỹ BHXH. CHƯƠNG II:Thực trạng về quỹ BHXH ở Việt Nam. CHƯƠNG III:Một số kiến nghị nhằm đảm bảo cân đối quỹ BHXH được lâu dài. Chương I lý luận chung về BHXH Và Quỹ BHXH I.Một số vấn đề tổng quan về BHXH: 1. Sự cần thiết và tác dụng của BHXH: 1.1. Sự cần thiết của BHXH: Con người muốn tồn tại và phát triển luôn cần phải thoả mãn các nhu cầu tối thiểu về vật chất và tinh thần,để đáp ứng các nhu cầu đó con người phải lao động, sản xuất ra các sản phẩm. Mặt khác, con người ai cũng phải trải qua các giai đoạn phát triển của đời người đó là: sinh ra, lớn lên, trưởng thành và chết. Trong các giai đoạn sinh, lão, bệnh tử của con người thì không ai có thể tồn tại độc lập khỏi sự giúp đỡ, chia sẻ của những người xung quanh. Cuộc sống không phải lúc nào cũng diễn ra bình thường, con người không phải bao giờ cũng gặp thuận lợi, có đủ thu nhập và điều kiện sinh sống mà trái lại rủi ro luôn đi kèm với con người. Trong nhiều trường hợp rủi ro bất ngờ xảy ra làm cho người lao động bị giảm hoặc mất thu nhập hay những điều kiện sinh sống khác do ốm đau, TNLĐ, già yếu. Khi rơi vào các trường hợp đó, các nhu cầu cần thiết của cuộc sống con người không vì thế mà giảm đi hoặc mất đi, thậm chí còn tăng lên hoặc phát sinh những nhu cầu mới như chi phí khám chữa bệnh khi ốm đau xảy ra. Bởi vậy, muốn đảm bảo duy trì cuộc sống người lao động làm thế nào để tạo ra nguồn thu nhập thay thế hoặc bù đắp. Trong xã hội nguyên thuỷ, con người phần vừa tự lực, phần biết kết hợp đoàn kết để đi săn bắt, hái lượm để kiếm sống. Khi gặp rủi ro, tai nạn thì họ vừa tự mình chịu đựng khắc phục vừa được các thành viên trong cộng đồng hỗi trợ, cưu mang. Trong xã hội phong kiến, quan lại dựa vào bổng lộc của nhà vua, còn dân cư thì đùm bọc lẫn nhau trong họ hàng, làng xóm ... Ngành công nghiệp hình thành cùng với nền kinh tế hàng hoá phát triển đã làm xuất hiện quan hệ thuê mướn nhân công. Những người làm công phải hoàn toàn dựa vào tiền lương làm nguồn sống chủ yếu. Có việc thì mới có lương dù đó là đồng lương ít ỏi. Khi ốm đau, tai nạn, sinh đẻ ... thì phải nghỉ việc và không có lương, cuộc sống bị đe doạ. Người lao động đã ý thức được sự cần thiết phải có thu nhập đề phòng khi họ gặp rủi ro, tai nạn bất ngờ nên họ đấu tranh đòi giới chủ phải cam kết đảm bảo một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi ốm đau, thai sản ... Lúc đầu giới chủ cam kết đảm bảo cho người lao động những khoản thu nhập nhất định đó. Song nhiều khi rủi ro xảy ra liên tục buộc người chủ phải chi ra những khoản tiền lớn mà họ không muốn. Do vậy, giới chủ đã chi ít hơn nên xuất hiện mâu thuẫn và tranh chấp giữa chủ và thợ, mâu thuẫn này ngày càng gay gắt. Để giải quyết mâu thuẫn này đã xuất hiện một bên thứ ba, đóng vai trò trung gian nhằm giải quyết mâu thuẫn và điều hoà lợi ích giữa chủ và thợ. Điều đó thay cho việc giới chủ và giới thợ phải trả trực tiếp một khoản tiền khi người lao động bị ốm đau, tai nạn ... Giới chủ có thể trích ra hàng tháng một số tiền nhỏ được tính toán chặt chẽ dựa trên những biến cố của tập hợp những người lao động. Số tiền này giao cho bên thứ ba dồn tích thành một quỹ tiền tệ. Khi người lao động gặp rủi ro, bên trung gian sẽ chi trả theo cam kết không phụ thuộc vào giới chủ có muốn hay không, làm như thế một mặt giới chủ đỡ khó khăn về mặt kinh tế do không phải chi trả một lúc những khoản tiền lớn, mặt khác người lao động làm thuê cũng được đảm bảo một phần thu nhập khi họ gặp rủi ro. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện thì cơ chế này bộc lộ nhiều bất cập, tính pháp lý không cao. Do vậy, nhiều chủ sử dụng lao động đã không tự giác tham gia, tính chất rủi ro còn quá lớn không có sự đảm bảo về tài chính một cách vững chắc. Trước tình hình đó Nhà nước phải đứng ra can thiệp một mặt làm tăng vai trò của Nhà nước,mặt khác nhà nước hỗ trợ thêm từ ngân sách và buộc giới chủ và thợ phải góp thêm để đảm bảo chi trả các chế độ cho người lao động. Từ đó, cả giới chủ và thợ đều được đảm bảo và họ thấy có lợi. Các nguồn đóng góp của giới chủ, thợ và sự hỗ trợ của Nhà nước hình thành nên một quỹ tiền tệ tập trung,đó là quỹ BHXH. Mặt khác, khi nền kinh tế ngày càng phát triển,công nghiệp hoá,hiện đại hoá ngày càng cao thì những rủi ro đi liền với nó cũng xuất hiện thêm như nạn thất nghiệp, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, ốm đau ngày càng nhiều hơn. Do vậy, BHXH cũng ngày càng phải hoàn thiện hơn để thích ứng với tình hình cụ thể. Như vậy, BHXH ra đời là một đòi hỏi khách quan của thực tế và ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia, mọi thành viên trong xã hội đều thấy cần thiết phải tham gia BHXH, nó trở thành quyền lợi và nhu cầu của người lao động và được thừa nhận là nhu cầu tất yếu khách quan, một trong những quyền lợi cơ bản của con người như Tuyên ngôn nhân quyền của Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10/12/1948: “Tất cả mọi người, với tư cách là thành viên của xã hội đều có quyền được hưởng BHXH ...” 1.2. Tác dụng của BHXH: Trên cơ sở cương lĩnh công ước Giơnevơ (Công ước năm 1952) các quốc gia tuỳ theo điều kiện, hoàn cảnh thực tế của mình mà có những hình thức tổ chức BHXH riêng phù hợp. Tuy vậy, ở tất cả các quốc gia đều có chung một điểm là: BHXH do Nhà nước thống nhất và quản lý. Từ khi BHXH xuất hiện đến nay, hoạt động này vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính cộng đồng, nhân văn lớn, điều này cũng có nghĩa là dù kinh tế có phát triển đến mức độ nào, dù có biến động như thế nào về thể chế chính trị, xã hội thì bản chất BHXH vẫn không thay đổi, vẫn là một trong những chính sách quan trọng của một quốc gia. BHXH có những tác dụng sau: a.BHXH nhằm giúp người lao động ổn định cuộc sống khi họ gặp rủi ro: Mục đích lớn nhất của BHXH là bảo đảm cuộc sống ổn định cho người lao động và gia đình họ khi họ gặp rủi ro, giảm hoặc mất sức lao động ảnh hưởng đến thu nhập. Do đó, BHXH có tác dụng rất lớn đối với người lao động làm cho họ yên tâm với công việc. Nói là bảo đảm thay thế bù đắp một phần thu nhập cho người lao động là nói sự thay thế bù đắp đó nhất định phải xảy ra, chắc chắn xảy ra khi người lao động bị rơi vào các trường hợp làm giảm hoặc mất thu nhập nói trên và hội đủ các điều kiện quy định thì họ được hưởng trợ cấp với mức hưởng, thời điểm và thời gian hưởng theo quy định của Nhà nước. Ngoài ra, BHXH còn làm cho người lao động gắn bó hơn với công việc, sống và làm việc có trách nhiệm hơn đối với chính mình và đối với cộng đồng- điều này đã góp phần đáng kể vào việc nâng cao năng suất, hiệu quả làm việc của người lao động. BHXH góp phần hạn chế và điều hoà các mâu thuẫn xảy ra giữa những người lao động và giới chủ, tạo môi trường làm việc ổn định cho tất cả các bên khi tham gia BHXH để từ đó tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, thực hiện tăng trưởng và phát triển kinh tế. b.Gắn bó lợi ích giữa người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước: BHXH không chỉ bảo đảm ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi người lao động gặp rủi ro mà nó còn bảo vệ cho người sử dụng lao động, tạo điều kiện cho họ ổn định tài chính để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả. BHXH còn bảo vệ và tăng cường sức khoẻ cho người lao động góp phần tái sản xuất giản đơn sức lao động cho người lao động. Giúp người lao động nhanh chóng trở lại làm việc góp phần tạo ra sản phẩm cho doanh nghiệp và nền kinh tế quốc dân. BHXH góp phần ổn định xã hội ,an toàn xã hội ,nhà nước đỡ gánh nặng đối với người bị tàn tật, người già vì họ có thu nhập từ BHXH. c.Phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia: Cũng giống như tất cả các loại hình bảo hiểm khác, BHXH cũng dựa trên nguyên tắc “lấy số đông bù số ít” và vì vậy người lao động bình đẳng trong nghĩa vụ đóng góp cũng như trong quyền lợi nhận được từ quỹ BHXH. Tập hợp tất cả những người đóng BHXH thuộc tất cả các ngành nghề, lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế quốc dân. Bao gồm tất cả các loại công việc từ đơn giản đến phức tạp, từ nhẹ nhàng đến nặng nhọc độc hại... Chính vì thế tính chất xã hội của BHXH là rất cao. BHXH phân phối lại thu nhập giữa các đối tượng khác nhau giữa những người có thu nhập cao và những người có thu nhập thấp, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc và những người ốm đau bệnh tật, thai sản ... Thực hiện chức năng phân phối lại, BHXH cũng đồng thời góp phần thực hiện công bằng xã hội. d.BHXH tập trung được nguồn vốn lớn cho phát triển sản xuất: Nguồn quỹ hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia cũng là nguồn vốn nhàn rỗi có thể dùng để đầu tư vào nền kinh tế quốc dân. Quỹ BHXH có thể có số dư và phần quỹ nhàn rỗi được đầu tư cho các chương trình kinh tế, xã hội, vừa đóng góp vào xây dựng đất nước vừa làm tăng trưởng quỹ. Trong điều kiện hiện nay hoạt động này có ý nghĩa rất quan trọng. Ngoài ra, với chức năng giám đốc của mình, BHXH tiến hành kiểm tra, giám sát việc tham gia và thực hiện chính sách BHXH để đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ và quyền lợi của người sử dụng lao động và người lao động theo những quy định của pháp luật. Qua đó tạo điều kiện để người lao động yên tâm làm việc, còn người sử dụng lao động chủ động hơn trong việc quản lý và sử dụng lao động trong quá trình hoạt động của mình. Chức năng giám đốc còn thể hiện ở các khâu nghiệp vụ của hoạt động BHXH và thực hiện chính sách BHXH. 2.Khái niệm và bản chất của BHXH: 2.1Khái niệm về BHXH: Như đã nêu ở trên BHXH ra đời là một đòi hỏi khách quan của thực tế đồng thời nói lên bản chất của BHXH là đảm bảo cuộc sống cho người lao động đảm bảo an toàn xã hội. Nhưng cho đến nay, hầu như chưa có một định nghĩa chính thống về BHXH. Mặc dù, gần đây trong một số tài liệu nghiên cứu về BHXH các tác giả đã đề cập đến khái niệm này. Đã hơn 100 năm nay, các nước trên thế giới có xu hướng chung là thực hiện hệ thống an sinh xã hội mà trong đó BHXH là một trong các tầng an sinh xã hội chủ yếu và được phân biệt với các nội dung khác trong hệ thống thông qua những đặc trưng cơ bản của BHXH. Trong tuyên ngôn nhân quyền do Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua ngày 10/12/1948 có nêu: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH. Quyền đó đặt trên cơ sở sự thoã mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự do phát triển của con người ...” Theo Tổ chức lao động thế giới gọi tắt là ILO, BHXH được hiểu là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt biện pháp công cộng (bằng pháp luật, trách nhiệm của Chính phủ) để chống lại tình trạng khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm thu nhập gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già, tàn tật, chết; thêm vào đó BHXH bảo vệ việc chăm sóc y tế, sức khoẻ và trợ cấp cho các gia đình. BHXH được định nghĩa như vậy phản ánh tổng quát về mục tiêu, bản chất và chức năng của sự nghiệp này. BHXH có mục đích cuối cùng là hướng tới sự phát triển của mỗi cá nhân và toàn xã hội, thể hiện sự gắn kết quyền lợi và trách nhiệm của các cá nhân trong cộng đồng và của toàn xã hội với mỗi người. BHXH là một trong những quyền cơ bản của con người trong một xã hội hiện đại và mục tiêu cao cả nhất của nó là vì sự an toàn, phòng tránh được hậu quả về những tổn thất, gây ra bởi những rủi ro trong cuộc sống hay trong quá trình lao động. BHXH hướng tới sự phát triển, sự đảm bảo tốt nhất cho con người, góp phần quan trọng vào tạo lập sự ổn định và thịnh vượng của xã hội . Như vậy ta có thể nêu khái niệm BHXH như sau: BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm bằng cách hình thành và sử dụng một quỹ tài chính độc lập ,tập trung do sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động,nhằm đảm bảo sự an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ,góp phần đảm bảo an toàn xã hội. 2.2 Bản chất của BHXH: 2.1. Về phương diện cá nhân, BHXH là một nhu cầu khách quan của con người: BHXH là một nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp, nó nhằm đảm bảo an toàn về kinh tế, giữ cho cuộc sống ổn định, an toàn, tránh được đói nghèo sa sút khi bị mất nguồn thu nhập trong cuộc sống. Đó chính là các nhu cầu về BHXH và cũng là những nhu cầu tự nhiên trong hệ thống các nhu cầu về cuộc sống của con người. Điều này xuất phát từ nhu cầu cần thiết để đảm bảo các tiêu chuẩn hay giá trị cho một cuộc sống tối thiểu. Theo nhà nghiên cứu tâm lý và hành vi của con người Maslow, nhu cầu BHXH nằm trong nhóm nhu cầu ở bậc thiết yếu cùng với các nhu cầu về điều kiện sinh tồn khác là ăn, ở, mặc và đi lại mức tối thiểu nhất. BHXH cần phải được đảm bảo trước khi thoả mãn các nhu cầu xã hội khác rộng hơn trong đời sống con người. BHXH thực sự là một nhu cầu bức thiết. C. Mác đã từng viết “Vì nhiều rủi ro khác nhau nên phải dành một số thặng dư nhất định cho quỹ BHXH để mở rộng theo kiểu luỹ tiến quá trình tái sản xuất ở mức độ cần thiết, phù hợp với sự phát triển của nhu cầu và tình hình tăng dân số”. BHXH thoả mãn các nhu cầu về đảm bảo cuộc sống như đã trình bày ở trên, BHXH còn là cần thiết để tái sản xuất sức lao động, một trong những tiền đề quan trọng nhất để tái sản xuất xã hội. 2.2.Dưới góc độ kinh tế: BHXH là một phạm trù kinh tế tổng hợp. Trong đó: đối với những người hưởng các chế độ BHXH, đó là sự đảm bảo thu nhập, bảo đảm cuộc sống khi họ ở trong điều kiện khó khăn do giảm hoặc mất khả năng lao động mà giảm hay mất thu nhập, thông qua việc tích luỹ dần của cá nhân trong quỹ BHXH và sự đóng góp của số đông những người có cùng khả năng gặp rủi ro như nhau. Trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân, hoạt động BHXH mang nội dung của quá trình phân phối lại một phần thu nhập trong dân cư thông qua việc hình thành và sử dụng quỹ BHXH, một quỹ tiền tệ tập trung có quy mô rất lớn và ngày càng tăng lên. Khi có sự phát triển của thị trường tài chính và nếu được sự quản lý và sử dụng tốt, quỹ BHXH còn có khả năng sinh lời từ đầu tư hợp pháp khác nhau. Việc sử dụng quỹ BHXH để đầu tư sinh lời được thấy rõ trong các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Hiện tại BHXH Việt nam bắt đầu thực hiện hoạt động này như dùng quỹ để mua trái phiếu. Trong tương lai, việc sử dụng quỹ BHXH vào các hoạt động đầu tư cũng sẽ được mở rộng ra với nhiều hình thức khác nhau. Kinh tế càng phát triển thì BHXH ngày càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế, có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước. 2.3.Về phương diện chính trị: BHXH là sự liên kết giữa những người lao động khác nhau trong xã hội cũng vì lợi ích chung của cộng đồng, trong đó có cá nhân tham gia BHXH. BHXH cũng phản ánh bản chất của một chế độ xã hội nhất định. Đối với quốc gia đây còn là những hoạt động thể hiện thái độ trách nhiệm của Chính phủ đối với người dân trong xã hội. Trong rất nhiều nước, sự không ổn định hay khủng hoẳng của hệ thống BHXH có tác động rất mạnh đến hệ thống chính trị của các nước đó. Chính vì vậy chính sách BHXH nằm trong hệ thống chung của các chính sách về kinh tế, xã hội và là một trong những bộ phận hữu cơ trong hệ thống chính sách quản lý đất nước của các quốc gia. 2.4.Về mặt xã hội: BHXH được xem như là một loạt các hoạt động mang tính xã hội nhằm đảm bảo đời sống cho người dân và làm lành mạnh xã hội. Thông qua đó, bảo vệ và phát triển nguồn lao động xã hội, mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế, ổn định trật tự xã hội nói chung. BHXH mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc vì lợi ích của con người trong những hoàn cảnh gặp khó khăn, vì an toàn xã hội và có ý nghĩa xã hội lâu dài. Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diển ra giữa 3 bên: bên tham gia, bên BHXH và bên được BHXH. Như vậy, tổ chức và vận hành một hệ thống BHXH phải đứng trên một quan điểm tổng thể, toàn diện. BHXH không thể tách khỏi một thể chế chính trị nhất định và phải dựa trên nền tảng kinh tế cụ thể. BHXH không phải là loại hình bảo hiểm cá nhân hay cá nhân tự bảo hiểm mà đó là sự bảo hiểm đặt trong những ràng buộc giữa những con người với nhau trong những mối quan hệ nhất định trong cộng đồng mặc dù xuất phát điểm bao giờ cũng là nhu cầu của mỗi con người. BHXH gắn liền với những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm, đó có thể là những rủi ro ngẫu nhiên: ốm đau, tai nạn lao động ... nhưng cũng có thể là những trường hợp xảy ra hoàn toàn không ngẩu nhiên như: tuổi già, thai sản. Đồng thời những biến cố đó có thể xảy ra cả trong và ngoài quá trình lao động. Sự giảm hoặc mất khả năng lao động làm giảm hoặc mất thu nhập, phần thu nhập này sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ nguồn quỹ tiền tệ tập trung do các bên tham gia đóng góp. 3. Nội dung cơ bản của BHXH: a.Đối tượng của BHXH: BHXH ra đời vào những năm giữa thế kỷ 19, khi nền công nghiệp và nền kinh tế hàng hoá đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở các nước châu Âu. Từ năm 1883, ở nước Phổ (CHLB Đức) đã ban hành đạo luật bảo hiểm y tế. Một số nước châu Âu và Bắc Mỹ mãi đến cuối những năm 1920 mới có đạo luật về BHXH. BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất đi do người lao động bị giảm hoặc bị mất khả năng lao động, bị mất việc làm vì các nguyên nhân rủi ro như ốm đau, tai nạn lao động, già yếu ... Chính vì vậy, đối tượng của BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của những người tham gia BHXH. Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động. Tuy vậy, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó. Hầu hết các nước khi mới có chính sách BHXH, đều thực hiện BHXH đối với các viên chức Nhà nước, những người làm công hưởng lương. Việt nam cũng không vượt ra khỏi thực tế này, mặc dù biết rằng như vậy là không bình đẳng giữa tất cả những người lao động. Nếu xem xét trên mối quan hệ ràng buộc trong BHXH, ngoài người lao động còn có người sử dụng lao động và cơ quan BHXH, dưới sự bảo trợ của Nhà nước. Người sử dụng lao động đóng góp vào quỹ BHXH là trách nhiệm của họ để bảo hiểm cho người lao động mà họ sử dụng. Còn cơ quan BHXH nhận sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động, phải có trách nhiệm quản lý và sử dụng quỹ để thực hiện mọi công việc về BHXH đối với người lao động. Nó quyết định sự tồn tại và phát triển của BHXH một cách ổn định và bền vững. b. Các loại chế độ BHXH: Theo công ước số 102 “Công ước về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội” quy định gồm có 9 chế độ BHXH như sau: Chăm sóc y tế. Trợ cấp ốm đau. Trợ cấp thất nghiệp. Trợ cấp tuổi già. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Trợ cấp gia đình. Trợ cấp thai sản. Trợ cấp tàn tật. Trợ cấp mất người nuôi dưỡng. c.Mức đóng và hưởng: Tuỳ thuộc vào sự phát triển chung của nền kinh tế và của lĩnh vực BHXH mà có thể xác định một số mức khác nhau để thoả mãn nhu cầu đa dạng về BHXH của người lao động. Mức đóng BHXH có liên quan đến thu nhập dùng để tính tỷ lệ đóng BHXH. Mức đóng và hưởng có tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô và số lượng tham gia vào BHXH. Điều này đòi hỏi phải có những nghiên cứu, thiết kế các chính sách và nội dung của từng chế độ cụ thể thích hợp trong BHXH. II. Khái niệm chung về quỹ BHXH: 1.Sự cần thiết của quỹ BHXH: Trong quá trình sản xuất kinh doanh, người lao động luôn phải gánh chịu, đương đầu với vô vàn các rủi ro. Những rủi ro đó có thể làm cho người lao động mất khả năng lao động tạm thời hay vĩnh viễn, mất nguồn sống hay chết người, con cái mất nơi nương tựa, hoặc lúc về già không còn khả năng lao động để có thu nhập đảm bảo cuộc sống. Vì vậy, để có nguồn thu nhập duy trì, ổn định cuộc sống của bản thân và gia đình họ trong lúc gặp rủi ro hoặc tuổi già thì tất yếu phải lập quỹ dự trữ bảo hiểm thích hợp, đủ lớn để có thu nhập ổn định đảm bảo cuộc sống cho bản thân và gia đình trong tương lai. Mặt khác do quy luật bảo toàn nòi giống, duy trì lức lượng lao động cho tương lai của xã hội, những người lao động nữ họ còn phải làm nghĩa vụ sinh con, nuôi con và chăm sóc khi con ốm đau ... cũng đòi hỏi phải có quỹ bảo hiẻm giúp đỡ... Việc tạo lập quỹ BHXH cho người lao động những lúc gặp rủi ro bất ngờ hoặc lúc tuổi già có thể được tiến hành bằng nhiều hình thức khác nhau. Do vậy, quỹ BHXH có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống của người lao động. Trong thực tế không ai muốn mất việc làm hoặc mất, giảm khả năng lao động để được hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH, do đó nó phù hợp với nguyên tắc “lấy số đông bù số ít”. Nguyên tắc này thể hiện việc phân phối lại thu nhập giữa những người lao động có thu nhập khác nhau, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc và những người đang ốm đau phải nghỉ việc hay giữa những người đang hưởng trợ cấp BHXH khác nhau. Từ đó cũng thấy rằng khả năng, vai trò của quỹ BHXH trong việc phân phối lại thu nhập và công bằng xã hội, động viên người lao động hăng hái làm việc: Khi người lao động đang làm việc sẽ có thu nhập, còn khi mất khả năng lao động thì họ lại được hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH. Như vậy, họ đã có “van an toàn” để đảm bảo cuộc sống cho họ, đó là chỗ dựa vững chắc khi họ không có khả năng lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn và làm cho người lao động yên tâm gắn bó với công việc. Bên cạnh đó quỹ BHXH đầu tư một phần vào các hoạt động kinh tế - xã hội, khoản này không những tạo thêm khả năng mở rộng quỹ BHXH mà còn góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Qũy BHXH hình thành và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết hậu quả của rủi ro cho người tham gia, đảm bảo an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ, giảm thiểu tối đa thiệt hại kinh tế cho người sử dụng lao động, tiết kiệm cho ngân sách Nhà nước. Quỹ sử dụng để trợ cấp cho người lao động và gia đình họ khi họ gặp phải rủi ro và một phần chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH. 2. Khái niệm quỹ BHXH: Trong đời sống kinh tế- xã hội người ta thường nói đến rất nhiều loại quỹ khác nhau như quỹ tiêu dùng, quỹ sản xuất, quỹ dự phòng, quỹ tiền lương, quỹ dự trữ quốc gia. Tất cả các loại quỹ này đều có điểm chung đó là tập hợp các phương tiện tài chính hay vật chất khác cho những hoạt động nào đó theo những mục tiêu và định hướng trước. Quỹ lớn hay nhỏ biểu thị khả năng và điều kiện vật chất để thực hiện các hoạt động BHXH. Tất cả các loại quỹ không chỉ tồn tại với một khối lượng tính tại tại một thời điểm mà luôn luôn biến động tăng lên ở đầu vào với các nguồn thu và giảm đi ở đầu ra với một khoản chi như một dòng chảy liên tục. Để đảm bảo cho đầu ra ổn định, người ta thiết lập một lượng dự trữ. Bởi vậy, để nắm và điều hành được một quỹ nào đó thì không phải chỉ nắm được khối lượng của nó tại một thời điểm mà quan trọng hơn là phải nắm được lưu lượng của nó trong một khoảng thời gian nhất định. Theo những quan điểm nói trên về quỹ nói chung thì quỹ BHXH là tập hợp những đóng góp bằng tiền của những người tham gia BHXH hình thành một quỹ tiền tệ tập trung để chi trả cho những người được BHXH khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng lao động hoặc bị mất việc làm. Như vậy, quỹ BHXH vừa là một quỹ tiêu dùng vừa là một quỹ dự phòng. Quỹ tiêu dùng được thể hiện ở mục đích chi của quỹ BHXH là cho những người hưởng BHXH, là một quỹ dự phòng thể hiện quỹ chi trả trợ cấp khi có rủi ro xảy ra và người lao động có thể được hưởng trợ cấp ở một thời điểm rất xa so với thời điểm đóng góp. Đồng thời quỹ BHXH còn mang tính chất kinh tế và mang tính chất xã hội cao, là điều kiện và cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển. 3. Nguồn hình thành quỹ BHXH: Quỹ BHXH là một yếu tố mang tính chất sống còn đối với sự nghiệp BHXH. Do đó, nguồn hình thành quỹ bao giờ cũng được quan tâm đúng mức nhằm đảm bảo chi trả cho các đối tượng được hưởng BHXH và đảm bảo cho hệ thống BHXH hoạt động một cách có hiệu quả. 3.1. Sự đóng góp của người lao động: Hệ thống BHXH ở các nước trên thế giới từ trước đến nay chủ yếu vẫn thực hiện trên nguyên tắc: Người tham gia BHXH phải đóng góp cho quỹ BHXH mới được hưởngrợ cấp BHXH. Người lao động tham gia đóng góp là để bảo hiểm cho mình, vừa thực hiện nghĩa vụ cao đẹp với cộng đồng. Thực chất ở đây người lao động đã dàn trải rủi ro theo thời gian. 3.2. Sự đóng góp của người sử dụng lao động: Người sử dụng lao động đóng góp cho quỹ BHXH để bảo hiểm cho người lao động mà mình thuê mướn. Sự đóng góp này thể hiện trách nhiệm của họ đối với người lao động. Đồng thời còn thể hiện chính lợi ích của người sử dụng lao động. ở đây người sử dụng lao động san sẻ rủi ro cho nhau để khi xẩy ra rủi ro đối với người lao động thì họ không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để bồi thường, vì quá trình sản xuất kinh doanh của họ không bị ảnh hưởng khi người lao động có nhu cầu BHXH. 3.3. Nhà nước đóng góp và hỗ trợ: Người sử dụng lao động đóng góp cho quỹ BHXH để bảo hiểm cho người lao động mà mình thuê mướn. Sự đóng góp này thể hiện trách nhiệm của họ đối với người lao động. Đồng thời còn thể hiện chính lợi ích của người sử dụng lao động. ở đây người sử dụng lao động san sẻ rủi ro cho nhau để khi xẩy ra rủi ro đối với người lao động thì họ không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để bồi thường, vì quá trình sản xuất kinh doanh của họ không bị ảnh hưởng khi người lao động có nhu cầu BHXH. 3.4. Các nguồn thu khác: Bao gồm các nguồn thu chủ yếu sau: - Tiền lãi, tiền lời từ các hoạt động đầu tư nhằm bảo toàn và phát triển quỹ BHXH. Nhưng phải chú ý là phần vốn nhàn rỗi mới được mang đi đầu tư. Bởi vì khi thực hiện các hoạt động này nếu bị rủi ro thì không ảnh hưởng đến phần quỹ BHXH chi trả cho các đối tượng được hưởng. - Các nguồn tài trợ và viện trợ khác ở trong nước, ngoài nước và cộng đồng quốc tế, kể cả các tổ chức phi Chính phủ và các cá nhân hảo tâm ... Tuy nhiên nguồn này không ổn định và không nhiều. - Giá trị các tài sản cố định của BHXH được đánh giá lại theo các quy định của Nhà nước. - Các nguồn thu khác: Tiền phạt do nộp chậm BHXH so với thời gian quy định, tiền truy thu khi các đơn vị sử dụng lao động và người lao động đóng thiếu tiền BHXH hoặc nhận thừa so với chế độ được hưởng thụ. Thông thường sự đóng góp của ba bên: Người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước tạo ra nguồn quỹ cơ bản nhất và chiếm tỷ trọng lớn nhất. Tùy theo điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước mà tỷ lệ đóng góp của mỗi bên được quy định khác nhau. Ví dụ: ở Việt Nam, theo Nghị Định 12/CP (26/1/1995) đã quy định: Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung ngoài ngân sách Nhà nước được hình thành từ ba nguồn: + Người sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ lương của những người tham gia trong đơn vị. + Người lao động đóng bằng 5% lương hàng tháng. + Ngân sách Nhà nước (NSNN) đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện chế độ BHXH đối với người lao động. Nguyên tắc hoạt động của quỹ BHXH là cân đối thu- chi. 4. Phân loại quỹ BHXH: Để quản lý và sử dụng quỹ BHXH một cách có hiệu quả cần phải phân loại quỹ BHXH. Có nhiều cách phân loại quỹ BHXH theo các tiêu thức khác nhau, có thể phân loại như sau: * Phân loại theo tính chất sử dụng. - Quỹ ngắn hạn: Chi trả cho các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp nhẹ. - Quỹ dài hạn: Chi trả trợ cấp hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp nặng. Quỹ này chịu ảnh hưởng của tài chính tiền tệ. * Phân loại theo các chế độ. - Quỹ hưu trí, tử tuất. - Quỹ TNLĐ và BNN. - Quỹ thất nghiệp. - Quỹ ốm đau, thai sản. * Phân loại theo đối tượng. - Quỹ cho công chức. - Quỹ cho lực lượng vũ trang. - Quỹ cho người lao động trong các doanh nghiệp. - Quỹ cho các loại lao động khác. 5. Quản lý quỹ BHXH: Quản lý quỹ BHXH bao gồm quản lý thu, quản lý chi và tình hình đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH.BHXH được tổ chức theo ngành dọc từ trung ương xuống từng địa phương, cho nên khi thực hiện thu thì BHXH của từng địa phương thu rồi nộp nên cơ quan trung ương hình thành nên quỹ BHXH tập trung.Khi thực hiện chi trả cho các chế độ thì cơ quan trung ương sẽ lấy từ quỹ BHXH phân bổ xuống từng địa phương.Để cho công tác quản lý quỹ BHXH đạt hiệu quả cao thì công tác thu và chi cũng phải đạt hiệu quả cao.Phải thu đúng thu đủ đảm bảo bằng tiền mặt vì công tác thu có ý nghĩa sống còn đối với toàn ngành BHXH vì đây là phần quan trọng để chi trả cho các chế độ.Khi thực hiện chi trả cho các chế độ thì cơ quan trung ương phải chỉ đạo cho các cơ quan BHXH địa phương chi đúng chi đủ chi kịp thời đến từng đối tượng để tạo niềm tin với người tham gia.Để cho quỹ BHXH ngày càng nhiều hơn thì ta phải đem một phần đi đầu tư nhưng phải đảm bảo an toàn và hiệu quả. Mục tiêu hoạt động của quỹ BHXH là tự cân đối thu, chi do đó quỹ BHXH luôn luôn phải có một lượng tiền tích luỹ để chi cho các chế độ trợ cấp dài hạn như: hưu trí, tử tuất, thương tật. Lượng tiền tồn tích này được Chính phủ cho phép đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH. Tuy nhiên việc sử dụng quỹ BHXH để đầu._. tư phải theo đúng quy định của Nhà nước, đảm bảo an toàn, hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất, bảo toàn giá trị và hiệu quả kinh tế - xã hội. Để việc quản lý công tác đầu tư BHXH đạt hiệu quả, chúng ta đi tìm hiểu các nguyên tắc trung đầu tư quỹ BHXH. - An toàn: thực sự có tầm quan trọng đặc biệt đối với dự trữ kỹ thuật của hệ thống trợ cấp, thậm chí rủi ro mất giá trị có thể xảy ra đối với đầu tư của dự trữ sự cố trong hệ thống trợ cấp ngắn hạn. - Lợi nhuận: Bất cứ một khoản đầu tư nào được mang đi đầu tư đều cũng muốn đạt được một khoản lợi nhuận nhất định. Tính toán tài chính được dựa trên lãi suất tính toán, nếu không hệ thống sẽ bị thâm hụt tài chính, mà phải bù đắp bằng cách này hay cách khác. - Khả năng thanh toán: - Lợi ích kinh tế - xã hội: Hiểu biết được tầm quan trọng của công tác đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH mà Chính phủ cho phép được sử dụng lương tiền nhãn rỗi của quỹ BHXH để đầu tư. Mục 2 Điều 17 Quyết định số 20/1998/QĐ - TTg ngày 26/1/1998 của Thủ tướng Chính phủ có quy định. BHXH Việt Nam được thực hiện các biện pháp đầu tư để bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH như: + Mua trái phiếu, tín phiếu của kho bạc Nhà nước và các ngân hàng thương mại của Nhà nước. + Đầu tư vốn vào một số dự án và doanh nghiệp lớn của Nhà nước có nhu cầu về vốn được Thủ tướng Chính phủ cho phép và hỗ trợ. III. Tình hình thực hiện BHXH ở một số quốc gia trên thế giới. 1. Mỹ. a. Đối tượng tham gia: ở Mỹ tất cả những người trong độ tuổi lao động là công dân Mỹ có thu nhập, kể cả những người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc hộ gia đình và lao động tự cung tự cấp có thu nhập trên mức thu nhập tối thiểu (do Nhà nước quy định mức tối thiểu) đều phải nộp thuế (một hình thức đóng BHXH) hay còn gọi là thuế lương cho “quỹ BHXH”. b. Quỹ BHXH. Nguồn tài trợ cho các chế độ trợ cấp BHXH là từ thuế phúc lợi xã hội mà chính quyền liên bang thu. Trong số tiền lương của người lao động, chính quyền sẽ khấu trừ bớt số tiền thuế cố định. Sau đó đưa các khoản thu này vào các quỹ BHXH. Mức khấu trừ cụ thể: - Người sử dụng lao động: 13,65%. - Người lao động: 7,65%. Tổng cộng: 21,3%. Để được hưởng trợ cấp, người đóng BHXH phải nộp đến một mức nào đó. Chính quyền liên bang Mỹ có cách tính thống kê từng người đã nộp đủ tiền thuế hay chưa. Kể từ năm 1993, một người đóng BHXH nếu nộp đủ 590 $ thì được một điểm hưởng thụ. Mỗi người phải có đủ 40 điểm trong 10 năm trước khi nghỉ hưu. Như vậy, cơ chế thu BHXH ở Mỹ là vừa theo tỷ lệ trích nộp, vừa phải thu đến một “ngưỡng” do chính quyền quy định, cơ chế này có vẽ đơn giản. Mặt khác tỷ lệ đóng góp cũng không quá cao. c. Các chế độ BHXH. - Trợ cấp hưu trí. - Trợ cấp tử tuất. - Trợ cấp y tế. - Trợ cấp thương tật. 2. Pháp. a. Đối tượng tham gia. BHXH ở Pháp có mầm mống từ thế kỷ 19, cùng với sự phát triển của cứu trợ công cộng và tương hỗ. Hiện nay, đối tượng tham gia BHXH là những người lao động có thu nhập trong tất cả các thành phần kinh tế (Chính phủ quy định mức gọi là có thu nhập). b. Quỹ BHXH. Nguồn tài trợ quỹ BHXH được xác định theo một cơ chế hết sức phức tạp. Cụ thể như sau: - Quỹ BH y tế, thai sản, thương tật, chết: Sự đóng góp vào quỹ này được tách biệt ra hai khoản: Đóng cho rủi ro nghề nghiệp và rủi ro phi nghề nghiệp. Đối với rủi ro nghề nghiệp, nguồn tài trợ chính là các khoản đóng góp trên lương: Giới chủ đóng 12,8%, người lao động đóng 6,8%. Đối với rủi ro phi nghề nghiệp khoản này được thu trên lương do giới chủ đóng toàn bộ. Tỷ lệ đóng góp được xác định tuỳ theo số lượng lao động trong mỗi doanh nghiệp. - Quỹ trợ cấp hưu trí, goá bụa, trợ cấp gia đình: Nguồn tài trợ này cũng chủ yếu từ các khoảm đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động. Đối với trợ cấp hưu trí, người sử dụng lao động phải đóng bằng 9,8%, người lao động đóng 6,55% tiền lương, tổng cộng 16,35%. Để được hưởng trợ cấp goá bụa người lao động còn phải đóng góp 0,1%. Đối với trợ cấp gia đình người lao động, người sử dụng lao động phải đóng góp toàn bộ với tỷ lệ 5,4% lương của người lao động. c. Các chế độ BHXH. ở Pháp phạm vi BHXH bao gồm hầu hết các chế độ BHXH theo quy định của ILO (9 chế độ). 3. ở một số nước Đông á. ở Đông á, đối với những nước có nền kinh tế thị trường phát triển sớm trong khu vực, để tạo lập quỹ BHXH cũng dựa vào ba nguồn cơ bản: Người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Trước hết là người sử dụng lao động và người lao động phải đóng góp theo tỷ lệ trích vào lương cho từng chế độ trợ cấp. - ở Thái Lan, trợ cấp BHXH bao gồm: Thương tật, ốm đau, thai sản, mất khả năng lao động, tử tuất, tuổi già và thất nghiệp. Việc đóng BHXH theo cơ chế: người lao động nộp 1/3 trên thu nhập, giới chủ nộp 1/3 và Nhà nước 1/3. Ví dụ chế độ thất nghiệp quy định: người lao động đóng 5%, người sử dụng lao động đóng 5% và Nhà nước 5%. - ở Nhật Bản: sự đóng góp vào quỹ BHXH cũng tương đối cao. Người lao động phải dóng từ 3,5% đến 4,6% thu nhập hàng tháng, giới chủ đóng từ 25,5% đến 30,5%, còn Nhà nước trợ cấp cho quỹ BHXH theo nhu cầu thiếu hụt. - ở Hàn quốc: Đối tượng tham gia là những người lao động thường xuyên ký kết hợp đồng với các doanh nghiệp, các viên chức làm việc trong các cơ quan Nhà nước, các tổ chức đoàn thể, văn hoá giáo dục. Tỷ lệ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động tương tự ở Nhật Bản, phần tài trợ của Nhà nước là đáp ứng chi phí quản lý hành chính và hưu trí dài hạn cho 1/3 số người dân (có thu nhập thấp). Trải qua hơn 100 năm hình thành và phát triển chính sách BHXH của các nước trên thế giới đã đạt được những thành tựu đáng kể: Góp phần đảm bảo đời sống cho mỗi người lao động và gia đình họ, thực hiện ổn định chính trị và an toàn xã hội. Cùng với sự phát triển kinh tế- xã hội, chính sách BHXH đã và đang được nghiên cứu đổi mới để hoàn thiện phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại. * Những kinh nghiệm rút ra được từ hoạt động BHXH của các nước trên thế giới. Qua kinh nghiệm các nước trên thế giới có hoạt động BHXH, các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển chúng ta có thể học hỏi được một số vấn đề sau: Việc xây dựng một mô hình BHXH phải phù hợp với các điều kiện kinh tế, xã hội của quốc gia mình. Hoạt động BHXH có thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào độ chặt chẽ và tính hiệu quả của các cơ chế và chính sách biện pháp thu BHXH. Có thể dễ dàng nhận ra một thực tế đó là trong bất kỳ một thể chế kinh tế, xã hội nào thì hoạt động BHXH vẫn phụ thuộc vào ngân sách Nhà nước ở các mức độ khác nhau, vấn đề là phụ thuộc ít hay nhiều, điều này còn tuỳ thuộc vào hoàn cảnh thực tế ở mỗi giai đoạn phát triển của mỗi quốc gia. Kinh nghiệm của một số nước phát triển cho thấy việc đề ra các chính sách BHXH phải dựa trên nguyên tắc bắt buộc, để có thể thu hút được ngày càng nhiều đối tượng tham gia; vấn đề này ngày càng trở nên quan trọng bởi sự an toàn của quỹ BHXH. Việc chi trả các chế độ BHXH căn cứ vào mức độ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động và đặc biệt là phụ thuộc vào mức lương của người lao động dùng làm căn cứ đóng BHXH trước khi về hưu. Việc sử dụng các nguồn thu thuế từ lương của người lao động và người sử dụng lao động cho mục đích phúc lợi xã hội, đối với tất cả các công dân làm việc trên lãnh thổ nước mình và công dân nước mình làm việc ở nước ngoài nhưng có đóng thuế cho Chính phủ. Với cơ chế này, Chính phủ các nước này cho rằng không cần thiết có một tổ chức riêng biệt để quản lý quỹ BHXH, việc thực hiện chi BHXH mang tính bao cấp với mục đích điều tiết thu nhập cá nhân đảm bảo sự công bằng xã hội, vì vậy những người được hưởng các chế độ BHXH đều nhận được các khoản phúc lợi xã hội vượt quá mức đóng góp của mình. Mô hình xây dựng hệ thống BHXH theo kiểu này chỉ phù hợp với điều kiện của nền kinh tế phát triển, những nước có mức phúc lợi xã hội cao. Trước đây, chúng ta đã xây dựng mô hình BHXH gần tương tự như mô hình này. Tuy vậy, nó đã không phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh kinh tế- xã hội Việt nam bởi sự bao cấp quá lớn của ngân sách Nhà nước và bởi mức độ phát triển thấp của nền kinh tế. Như vậy, việc xây dựng mô hình BHXH phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh kinh tế - xã hội của Việt nam trong từng thời kỳ, ngoài ra trong điều kiện đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường việc tăng cường khả năng đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động để có thể giảm nhẹ sự phụ thuộc vào ngân sách Nhà nước là một trong những hướng chính trong việc xây dựng và thực hiện các chế độ, chính sách BHXH ở Việt nam hiện nay. CHƯƠNGII THực TRạng Về Quỹ BHXH ở VIệt NAM I.Sơ qua về BHXH và quỹ BHXH ở Việt Nam: 1. Thời kỳ thực hiện BHXH trước năm 1961: Ngay từ khi thành lập chính quyền nhân dân và suốt trong thời kỳ kháng chiến, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn về mọi mặt, song Chính phủ đã luôn chăm lo cải thiện đời sống của nhân dân lao động nói chung và riêng đối với công nhân, viên chức Nhà nước. Ngoài việc ban hành chế độ tiền lương, Chính phủ đã ban hành các chế độ phụ cấp, trợ cấp xã hội mà thực chất là các chế độ BHXH như: trợ cấp ốm đau, sinh đẻ, tai nạn lao động, trợ cấp già yếu, trợ cấp cho cá nhân và gia đình công nhân, viên chức khi chết và xây dựng các khu an dưỡng, điều dưỡng, bệnh viện, nhà trẻ...Về mặt luật pháp được thể hiện trong các văn bản sau: - Sắc lệnh số 29/SL ngày 13/3/1947 của Chính phủ. - Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chính phủ về quy chế công chức. - Sắc lệnh số 77/SL ngày 22/5/1950 của Chính phủ về quy chế công nhân. Các văn bản này đã quy định những nội dung có tính nguyên tắc về bảo hiểm xã hội, song do hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, trong kháng chiến và kinh tế khó khăn nên Nhà nước chưa nghiên cứu chi tiết và thực hiện được đầy đủ các quyền lợi về bảo hiểm xã hội cho công nhân viên chức, mà các chế độ chủ yếu mang tính cung cấp, bình quân với tinh thần đồng cam cộng khổ. Về nội dung chưa thống nhất giữa khu vực hành chính và sản xuất, giữa công nhân kháng chiến và công nhân sản xuất dân dụng, các khoản chi về bảo hiểm xã hội lẫn với tiền lương, chính sách đãi ngộ mà chưa xây dựng theo nguyên tắc hưởng theo lao động là nguyên tắc cơ bản về phân phối XHCN, ngoài ra các văn bản lại chưa hoàn thiện và đồng bộ, ảnh hưởng đến việc tổ chức thực hiện. Một số vấn đề quan trọng, cấp thiết đến đời sống của đông đảo công nhân viên chức như chế độ hưu trí, trợ cấp mất sức lao động, thôi việc, chế độ trợ cấp bệnh nghề nghiệp chưa được quy định. Nhìn chung giai đoạn này các chế độ bảo hiểm xã hội chưa được quy định một cách toàn diện, quỹ bảo hiểm xã hội chưa được hình thành. Tuy nhiên, các chế độ trợ cấp, phụ cấp mang tính chất bảo hiểm xã hội trong giai đoạn đầu thành lập nước, trong kháng chiến và những năm đầu hoà bình lập lại đã có tác dụng rất to lớn, giải quyết một phần những khó khăn trong sinh hoạt của công nhân viên chức Nhà nước và gia đình họ, củng cố thêm lòng tin của nhân dân vào Đảng, Chính phủ và làm cho mọi người an tâm, phấn khởi đẩy mạnh công tác, sản xuất, thu hút lực lượng lao động vào khu vực kinh tế Nhà nước. 2.Thời kỳ thực hiện BHXH theo điều lệ tạm thời (1961-1995): 2.1 Những quy định về chế độ chính sách bảo hiểm xã hội: Để phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước, đáp ứng yêu cầu không ngừng cải thiện đời sống của công nhân viên chức Nhà nước, các chế độ trợ cấp xã hội cần được bổ sung và sửa đổi cho phù hợp với thời kỳ xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam. Tại Điều 32 Hiến pháp năm 1959 quy định rõ: quyền của người lao động được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, mất sức lao động, bệnh tật. Năm 1960 Hội đồng Chính phủ có Nghị quyết trong đó đã xác định “đi đôi với việc cải tiến chế độ tiền lương, cần cải tiến và ban hành các chính sách cụ thể về bảo hiểm xã hội và phúc lợi cho công nhân viên chức, cán bộ”. Thực hiện Nghị quyết trên, các Bộ Lao động, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Y tế và Tổng Công đoàn Việt Nam đã phối hợp nghiên cứu xây dựng Điều lệ tạm thời về bảo hiểm xã hội trình Hội đồng Chính phủ ban hành. Ngày 14/12/1961 Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn, Chính phủ đã ra Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961 ban hành kèm theo Điều lệ tạm thời về các chế độ bảo hiểm xã hội đối với công nhân viên chức Nhà nước. Nội dung của Điều lệ được tóm tắt như sau: - Về đối tượng áp dụng là: công nhân viên chức Nhà nước ở các cơ quan, xí nghiệp, công trường, nông trường, cán bộ, công nhân trong các đoàn thể nhân dân; công nhân viên chức trong các xí nghiệp công tư hợp doanh đã áp dụng chế độ trả lương như xí nghiệp quốc doanh; công nhân viên chức trong các xí nghiệp công nghiệp địa phương đã có kế hoạch lao động, tiền lương ghi trong kế hoạch Nhà nước. - Về điều kiện và mức đãi ngộ: căn cứ vào sự cống hiến thời gian công tác, điều kiện làm việc, tình trạng mất sức lao động và trợ cấp bảo hiểm xã hội nhìn chung thấp hơn tiền lương và thấp nhất cũng bằng mức sinh hoạt phí tối thiểu. - Về các chế độ được quy định bao gồm 6 chế độ: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động, hưu trí và tử tuất; từng chế độ có quy định cụ thể về điều kiện hưởng, tuổi đời, mức hưởng... - Về nguồn kinh phí đảm bảo chi trợ cấp: do quỹ bảo hiểm xã hội của Nhà nước đài thọ từ Ngân sách Nhà nước. - Về quản lý quỹ bảo hiểm xã hội: Nhà nước thành lập quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ độc lập thuộc Ngân sách Nhà nước và giao cho Tổng Công đoàn Việt Nam (nay là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) quản lý toàn bộ quỹ này (sau này giao cho ngành Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý quỹ hưu trí và tử tuất). Đây là Điều lệ tạm thời nhưng đã quy định đầy đủ 6 chế độ bảo hiểm xã hội, các chế độ này chủ yếu dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động nhằm khuyến khích mọi người tăng cường kỷ luật lao động, đẩy mạnh sản xuất và góp phần ổn định lực lượng lao động trong các ngành kinh tế quốc dân. Nghị định 218/CP được coi là văn bản gốc của chính sách BHXH và nó được thực hiện trong hơn 30 năm. Tuy nhiên để phù hợp và đáp ứng với tình hình của đất nước trong từng giai đoạn, nội dung của các quy định trong Điều lệ tạm thời đã qua 8 lần sửa đổi bổ sung với 233 văn bản hướng dẫn thực hiện. Đặc biệt là tại Nghị định số 236/HĐBT ngày 18/9/1985 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về sửa đổi, bổ sung một số chế độ chính sách thương binh và xã hội khi Nhà nước thực hiện điều chỉnh giá - lương – tiền. Trong giai đoạn này tuy qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung nhưng xét về bản chất thì bảo hiểm xã hội vẫn giữ nguyên những đặc trưng cơ bản sau: + Tồn tại trong cơ chế quản lý tập trung, bao cấp, mọi vấn đề kinh tế xã hội nói chung, bảo hiểm xã hội nói riêng đều do Nhà nước đảm bảo. + Nhà nước quy định và trực tiếp thực hiện bảo hiểm xã hội bằng bộ máy hành chính từ ngân sách Nhà nước. + Mọi người khi đã vào biên chế Nhà nước thì đương nhiên được đảm bảo việc làm , thu nhập và bảo hiểm xã hội. + Do Ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp, thường xuyên mất cân đối, vì vậy đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội chưa được mở rộng, trợ cấp tính trên lương nên chưa đảm bảo cho cuộc sống và không kịp thời. + Chính sách và các chế độ bảo hiểm xã hội còn đan xen thay nhiều chính sách xã hội khác như ưu đãi xã hội, cứu trợ xã hội, an dưỡng, điều dưỡng, kế hoạch hoá gia đình... 2.2 Về quỹ bảo hiểm xã hội: - Về nguồn quỹ và mức đóng góp vào Quỹ bảo hiểm xã hội: Theo Nghị định số 218/CP thì nguồn để thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội chủ yếu từ ngân sách Nhà nước và một phần nhỏ từ sự đóng của các xí nghiệp Nhà nước. Đối với phần từ ngân sách Nhà nước, hàng năm Quốc hội thông qua ngân sách để cấp cho việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội đối với cán bộ công nhân viên thuộc khu vực Nhà nước. Còn phần đóng góp của các cơ quan doanh nghiệp được quy định trích nộp cho quỹ bảo hiểm xã hội theo tỷ lệ phần trăm so với quỹ tiền lương của công nhân viên chức trong xí nghiệp và được hạch toán vào giá thành sản phẩm; của các cơ quan hành chính sự nghiệp được tính trong dự toán kinh phí của đơn vị do ngân sách Nhà nước cấp. Mức đóng góp vào quỹ quy định cho các cơ quan, xí nghiệp là 4,7% so với quỹ tiền lương. Trong đó quy định 3,7% do Tổng công đoàn Lao đông Việt nam (nay là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) quản lý để chi trả cho 3 chế độ ngắn hạn là ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; 1% do Bộ Nội vụ (nay là Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội) quản lý để chi cho 3 chế độ dài hạn là mất sức lao động, hưu trí và tử tuất. Tiếp theo Nghị định số 218/CP là Nghị định số 236/HĐBT năm 1985 của của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), theo Nghị định này thì Quỹ bảo hiểm xã hội được nâng lên bằng 13% so với quỹ lương, trong đó Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội quản lý 8% để chi 3 chế độ dài hạn, số thu từ nguồn đóng bảo hiểm xã hội tính vào số thu ngân sách Nhà nước, số chi 3 chế độ dài hạn do ngân sách Nhà nước cấp; Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam quản lý 5% để chi 3 chế độ ngắn hạn. Mặc dù vậy nguồn thu quỹ bảo hiểm xã hội để đảm bảo chi 3 chế độ dài hạn cũng chỉ bảo đảm được trong một số năm đầu khi ban hành chính sách, các năm từ 1986 đến hết năm 1994 thu không đủ chi. Nguồn từ ngân sách Nhà nước đảm bảo tăng thêm ngày càng lớn, năm 1993 ngân sách Nhà nước cấp bù số chi hơn số thu là 92%. Nguyên nhân của tình hình này là do: Một mặt các doanh nghiệp ở thời kỳ bắt đầu chuyển đổi cơ chế gặp nhiều khó khăn, làm ăn đình đốn hoặc tạm ngừng hoạt động nên không có khả năng đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội. Một số doanh nghiệp có đủ điều kiện và các cơ quan hành chính sự nghiệp thì trích nộp không kịp thời, việc tổ chức thu, quản lý thu bảo hiểm xã hội còn nhiều hạn chế, trong khi đó nguồn để chi trả cho 6 chế độ bảo hiểm xã hội lại bị phân tán do 2 cơ quan quản lý nên hạn chế khả năng tăng cường các biện pháp thu và truy thu quỹ ở các đơn vị cơ sở, việc thu mang tính chất hành chính, nộp chậm hoặc không nộp cũng không bị xử lý nên thất thu quỹ ngày càng nhiều, năm sau càng lớn hơn năm trước. Mặt khác do thực hiện chính sách tinh giản biên chế, lao động dôi dư lớn, cho người lao động nghỉ mất sức, nghỉ hưu sớm nên làm tăng số lượng các đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm xã hội, chi bảo hiểm xã hội tăng nhanh, thường xuyên ảnh hưởng đến cấp phát và cân đối của ngân sách Nhà nước. - Về quản lý Quỹ bảo hiểm xã hội: Giai đoạn trước năm 1988, quỹ bảo hiểm xã hội do Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội quản lý theo hệ thống quản lý 3 cấp: Bộ là đơn vị tài chính cấp 1, trực tiếp quản lý là Vụ Kế hoạch - Tài chính có nhiệm vụ dự toán, tổng hợp dự toán và xét duyệt quyết toán chi về bảo hiểm xã hội các chế độ do Bộ quản lý đối với các đợn vị cấp 2 là Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh, thành phố. Đơn vị cấp 3 là Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội quận, huyện, thị xã. Từ năm 1988 quỹ bảo hiểm xã hội do Bộ Tài chính trực tiếp quản lý cấp phát và thanh toán thông qua ngân sách Nhà nước ở cấp tỉnh, thành phố. Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội chỉ đạo thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội đối với các Bộ, Ngành và địa phương. Sự thay đổi cơ chế quản lý quỹ bảo hiểm xã hội như vậy là xuất phát từ thu bảo hiểm xã hội chiếm tỷ trọng ngày càng nhỏ so với tổng số chi bảo hiểm xã hội và thu bảo hiểm xã hội tính trong ngân sách Nhà nước, chi bảo hiểm xã hội đều do ngân sách Nhà nước cấp phát. - Về thực hiện hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội: Theo Điều lệ tạm thời về bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Nghị định số 218/CP và số 236/HĐBT thì các điều kiện và mức hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội được xác định khá chặt chẽ. Điều kiện để hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn là thời gian công tác, tuổi đời và điều kiện làm việc. Ví dụ: với chế độ hưu trí quy định đối với nam là 60 tuổi và có 30 năm công tác, đối với nữ là 55 tuổi và có 25 năm công tác; với chế độ mất sức lao động được quy định chỉ áp dụng đối với công nhân viên chức có đủ 5 năm công tác liên tục … Mức hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội được quy định theo tỷ lệ phần trăm trên mức tiền lương cơ bản do Nhà nước ban hành đối với công nhân viên chức Nhà nước. Tuy nhiên, trong thời kỳ bao cấp thì ngoài phần trợ cấp bằng tiền, các đối tượng hưởng chính sách bảo hiểm xã hội còn được hưởng các chế độ phân phối bằng hiện vật thông qua chế độ tem phiếu như: lương thực, thực phẩm, đồ dùng gia đình, chế độ bao cấp về nhà ở, điện, nước. Do đó, thực chất ngân sách Nhà nước cấp toàn bộ cho việc thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Từ những vấn đề nêu trên, có thể nói việc quy định các chế độ bảo hiểm xã hội như hình thành nguồn quỹ, mức đóng góp, mức hưởng trợ cấp và quản lý sử dụng Quỹ bảo hiểm xã hội giai đoạn trước ngày Nhà nước ban hành Bộ Luật lao động (năm 1995) còn nhiều vấn đề tồn tại, thể hiện ở một số điểm sau: + Thứ nhất: Việc hình thành Quỹ bảo hiểm xã hội chưa thiết lập được mối quan hệ giữa trách nhiệm đóng góp và quyền lợi hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội của người lao động. Thực chất nguồn Quỹ bảo hiểm xã hội ở thời kỳ này là lấy từ ngân sách Nhà nước để thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội cho công nhân viên chức Nhà nước. Các nguyên tắc cơ bản để thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ đối với người lao động trong chính sách bảo hiểm xã hội chưa gắn với nhau và chưa được quy định cụ thể. Mặt khác chính sách bảo hiểm xã hội bị chi phối bởi nhiều chính sách khác như: tinh giản biên chế, ưu đãi xã hội… đã làm cho yêu cầu chi bảo hiểm xã hội tăng lên qua các năm và làm tăng thêm tính phức tạp khi phải khắc phục các tồn tại, thiếu sót. + Thứ hai: Việc quản lý Quỹ bảo hiểm xã hội bị phân tán và thiếu chặt chẽ. Quỹ bảo hiểm xã hội do Bộ Tài chính và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam quản lý mang tính hành chính rất cao, việc thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, trong đó có chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn do Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội quản lý và được phân cấp cho địa phương và chủ sử dụng lao động. Do đó dẫn đến không thống nhất trong thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, các cơ quan, đơn vị tuỳ tiện trong việc đóng bảo hiểm xã hội, tình trạng nộp chậm, nộp thiếu bảo hiểm xã hội ở thời kỳ này khá phổ biến, Quỹ bảo hiểm xã hội bị thất thu nghiêm trọng. + Thứ ba: Việc quy định điều kiện hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội cho người lao động chưa có căn cứ khoa học và thực tiễn dẫn đến nhiều vấn đề còn bất hợp lý, khó khăn, vướng mắc trong thực hiện… Tóm lại: Trong suốt thời kỳ lịch sử của đất nước từ khi Nhà nước Cộng hoà dân chủ Việt Nam ra đời đến hết năm 1994, tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng giai đoạn, chế độ chính sách bảo hiểm xã hội nói chung, công tác tổ chức thực hiện chế độ chính sách bảo hiểm xã hội nói riêng cũng luôn thay đổi, bổ sung, sửa đổi cho phù hợp, song nhìn chung trong cơ chế quản lý tập trung, bao cấp, việc tham gia bảo hiểm xã hội được xác định bằng thời gian công tác hay gọi là thời gian cống hiến thì việc xây dựng các chính sách bảo hiểm xã hội luôn được lồng ghép cùng với các chính sách xã hội, chính sách kinh tế. Về cơ bản, chính sách bảo hiểm xã hội trong thời kỳ này đã hoàn thành cơ bản nhiệm vụ và sứ mệnh của mình trong một thời kỳ dài, nó đã góp phần ổn định cuộc sống, đảm bảo thu nhập cho hàng triệu cán bộ công nhân viên chức đang làm việc được yên tâm công tác, chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc; hàng 1 triệu người lao động khi già yếu được đảm bảo về vật chất và tinh thần, cũng như gia đình họ bằng trợ cấp bảo hiểm xã hội hoặc lương hưu, đồng thời góp phần to lớn trong việc đảm bảo ổn định xã hội và an toàn xã hội. Tuy nhiên, qua nhiều năm các văn bản pháp quy và văn bản hướng dẫn quá nhiều nên không tránh khỏi sự chồng chéo, trùng lắp hoặc có những vấn đề không được quy định, khó khăn cho việc thực hiện chế độ; có nhiều cơ sở cho việc vận dụng gây nên mất công bằng xã hội; các văn bản tính pháp lý chưa thật cao, chủ yếu mới ở dạng Nghị định, Điều lệ tạm thời, Quyết định, Thông tư. Về tổ chức bộ máy thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội chưa tách chức năng quản lý Nhà nước ra khỏi chức năng hoạt động sự nghiệp của bảo hiểm xã hội, còn phân tán, hoạt động kém hiệu quả, sự phối hợp để giải quyết các vướng mắc cho đối tượng gặp nhiều khó khăn, mỗi cơ quan, đơn vị, ngành chỉ giải quyết một vài công việc hoặc khâu công việc. Quỹ bảo hiểm xã hội thu không đảm bảo đủ chi, việc chi trả lương hưu và các khoản trợ cấp bảo hiểm xã hội thường xuyên bị chậm, ảnh hưởng lớn đến đời sống của người hưởng chế độ bảo hiểm xã hội. 3.Thời kỳ thực hiện BHXH theo Bộ luật lao động(1995-2003): Từ sau Đại hội Đảng lần thứ 6 với chủ trương đổi mới quản lý Nhà nước từ nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, chính sách bảo hiểm xã hội cũng được xem xét, nghiên cứu thay đổi sao cho phù hợp không những so với tình hình đổi mới kinh tế của đất nước mà dần hoà nhập với những quy định, những nguyên tắc của bảo hiểm xã hội thế giới và nhất là các nước trong nền kinh tế chuyển đổi. Từ năm 1995, thi hành những quy định trong Bộ Luật lao động về bảo hiểm xã hội, Chính phủ đã ban hành Điều lệ bảo hiểm xã hội kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 và Nghị định số 45/CP ngày 15/7/1995 áp dụng đối với công chức, công nhân viên chức Nhà nước, người lao động theo loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc và sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ quan, binh sỹ quân đội nhân dân và công an nhân dân. Nội dung của Điều lệ bảo hiểm xã hội này đã được đổi mới cơ bản và khắc phục được những nhược điểm, tồn tại mà Điều lệ bảo hiểm xã hội tạm thời ban hành những năm trước đây, đó là: - Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc không chỉ bao gồm lao động trong khu vực Nhà nước mà người lao động trong các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên cũng có quyền tham gia bảo hiểm xã hội. - Đề cập đến vấn đề bảo hiểm xã hội tự nguyện và vấn đề tham gia đóng góp vào Quỹ bảo hiểm xã hội của người sử dụng lao động, người lao động và hình thành Quỹ bảo hiểm xã hội. - Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý thống nhất, tập trung trong cả nước, độc lập với ngân sách Nhà nước. Quỹ bảo hiểm xã hội được Nhà nước bảo trợ, cơ chế quản lý tài chính được thực hiện theo quy định của Nhà nước. - Về các chế độ bảo hiểm xã hội, quy định 5 chế độ là ốm đau, thai sản, tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất, không còn chế độ trợ cấp mất sức lao động mà những người mất khả năng lao động được quy định chung trong chế độ hưu trí với mức hưởng lương hưu thấp. Trong từng chế độ có quy định cụ thể hơn về điều kiện hưởng, thời gian và mức hưởng. - Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội được cấp sổ bảo hiểm xã hội, sổ bảo hiểm xã hội ghi chép, phản ánh quá trình tham gia bảo hiểm xã hội, mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội và các chế độ bảo hiểm xã hội đã được hưởng. - Đối với lực lượng vũ trang cũng đã có quy định riêng về bảo hiểm xã hội (Nghị định số 45/CP của Chính phủ). - Tài chính bảo hiểm xã hội được đổi mới cơ bản, tập trung ở những nội dung chủ yếu sau: + Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành trên cơ sở sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động là chính, Nhà nước hỗ trợ cho nguồn Quỹ bảo hiểm xã hội là thứ yếu khi cần thiết. Mức đóng góp hàng tháng được quy định bắt buộc thuộc trách nhiệm của cả người lao động và người sử dụng lao động. Với quy định về mức đóng góp rõ ràng đã làm cho người lao động và người sử dụng lao động thấy được quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong việc đóng góp vào Quỹ bảo hiểm xã hội. + Quỹ bảo hiểm xã hội được tách khỏi ngân sách Nhà nước, hạch toán độc lập; quỹ bảo hiểm xã hội được thực hiện các biện pháp để bảo tồn và tăng trưởng. Quỹ bảo hiểm xã hội đảm bảo thu đủ để chi và có phần kết dư, bảo đảm tính chất của bảo hiểm xã hội đoàn kết, tương trợ giữa tập thể người lao động và giữa các thế hệ, đồng thời đảm bảo cho việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội luôn được ổn định lâu dài. Như vậy, từ năm 1995 chính sách bảo hiểm xã hội đã gắn quyền lợi hưởng bảo hiểm xã hội với trách nhiệm đóng góp bảo hiểm xã hội của người lao động, xác định rõ trách nhiệm của người sử dụng lao động, tạo được Quỹ bảo hiểm xã hội độc lập với ngân sách Nhà nước. + Mức chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội được quy định cụ thể, hợp lý, phù hợp với mức đóng góp của người lao động. Đặc biệt mức hưởng lương hưu được quy định là 45% so với mức tiền lương nghạch bậc, lương hợp đồng cho người có 15 năm làm việc và đóng bảo hiểm xã hội, sau đó cứ thêm mỗi năm được thêm 2% và cao nhất là 75% cho người có 30 năm tham gia bảo hiểm xã hội. Ngoài ra, người lao động nếu có thời gian tham gia bảo hiểm xã hội từ năm thứ 31 trở lên thì mỗi năm thêm được được hưởng trợ cấp một lần bằng 1/2 tháng tiền lương, tối đa không quá 5 tháng tiền lương. Với quy định này đã từng bước cân đối được thu- chi bảo hiểm xã hội. + Thành lập Bảo hiểm xã hội Việt Nam với chức năng thực hiện chế độ chính sách bảo hiểm xã hội và quản lý quỹ bảo hiểm xã hội theo luật định, xoá bỏ tính hành chính trong hoạt động bảo hiểm xã hội. Do có tổ chức thống nhất quản lý, bảo tồn, phát triển quỹ và thực hiện chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội cho các đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội đã đảm bảo cho việc chi trả đầy đủ, kịp thời và đúng quy định; khắc phục được những tồn tại trước đây. Tuy nhiên, với các quy định của Điều lệ bảo hiểm xã hội thực hiện từ năm 1995 còn một số điểm tồn tại cần được nghiên cứu hoàn thiện như: - Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội còn hạn hẹp, Nhà nước mới quy định lao động làm việc trong các doanh nghiệp mà có từ 10 lao động trở lên mới thuộc diện bắt buộc tham gia bảo hiểm xã hội, vì vậy đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tuy đã được mở rộng hơn so với quy định trước đây, nhưng so với tổng số lao động xã hội thì còn chiếm tỷ trọng thấp, mới chỉ có khoảng 14% số người trong độ tuổi lao động tham gia bảo hiểm xã hội. Điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến số người lao động trong xã hội được hưởng quyền lợi về bảo hiểm xã hội, đồng thời quy mô quỹ bảo hiểm xã hội bị hạn chế. - Chế độ chính sách bảo hiểm xã hội vẫn còn đan xem một số chính sách xã hội. Trong quá trình thực hiện theo những quy định của Điều lệ bảo hiểm xã hội từ năm 1995 đến nay, chính sách bảo hiểm xã hội đã có những sửa đổi, bổ sung: - Về đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội: Bổ sung đối tượng là cán bộ xã, phường, thị trấn theo Nghị định số._.ng cách này hay cách khác. - Khả năng thanh toán: Như đã nói ở trên, dự trữ sự cố của hệ thống chế độ ngắn hạn phải được đầu tư ở những khoản có khả năng thanh toán có nghĩa là dễ dàng chuyển đổi sang tiền để kịp thời chi trả khi cần thiết. Ngược lại, trong dự trữ kỹ thuật của hệ thống chế độ dài hạn tính thanh khoản không đòi hỏi cao lắm, dĩ nhiên cũng cần phải tính đến. - Lợi ích kinh tế - xã hội: Lợi ích kinh tế ở đây được biểu hiện ở khoản lợi nhuận thu được và các quan hệ kinh tế mới do đầu tư mang lại. BHXH nó mang tính xã hội nên quỹ BHXH được đầu tư theo cách thức nào đó để chúng có thể đóng góp trong việc cải thiện điều kiện sức khoẻ và giáo dục, hoặc mức sống của những người tham gia BHXH. Đầu tư cũng có thể được thực hiện theo phương thức là chúng có thể đóng góp để tạo ra những biện pháp sản xuất mới và cơ hội làm việc mới, như vậy đóng góp vào tăng thu nhập quốc dân và do đó tăng mức sống của toàn dân. Hiểu biết được tầm quan trọng của công tác đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH mà Chính phủ cho phép được sử dụng lương tiền nhãn rỗi của quỹ BHXH để đầu tư. Mục 2 Điều 17 Quyết định số 20/1998/QĐ - TTg ngày 26/1/1998 của Thủ tướng Chính phủ có quy định. BHXH Việt Nam được thực hiện các biện pháp đầu tư để bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH như: + Mua trái phiếu, tín phiếu của kho bạc Nhà nước và các ngân hàng thương mại của Nhà nước. + Đầu tư vốn vào một số dự án và doanh nghiệp lớn của Nhà nước có nhu cầu về vốn được Thủ tướng Chính phủ cho phép và hỗ trợ. CHƯƠNGIII Một Số KIến NGHị nhằm đảm bảo cân đối quỹ bhxh ĐƯợc LÂU Dài I.Dự tính về cân đối quỹ bảo hiểm xã hội theo chế độ hiện hành: 1.Căn cứ để làm cơ sở cho việc tính toán quỹ BHXH: Bảo hiểm xã hội là một chính sách bao gồm một hệ thống trợ cấp, đặc điểm của các chế độ trợ cấp này là không ổn định và theo một quy luật tăng dần lên vì số người hưởng trợ cấp ngày càng tăng (nhất là chế độ hưu trí). Do đó vấn đề tài chính của Bảo hiểm xã hội là hết sức quan trọng và bất cứ nước nào trên thế giới cũng rất quan tâm, cũng thực hiện nhiều phương pháp nhằm cân đối giữa thu và chi được lâu dài. Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành từ các nguồn thu do đóng góp bảo hiểm xã hội của người lao động và người sử dụng lao động; thu từ lãi đầu tư tăng trưởng số tiền nhàn dỗi chưa sử dụng để chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội; các khoản hỗ trợ của ngân sách Nhà nước và các nguồn khác, trong đó chủ yếu từ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động để chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội mà theo quy định hiện hành gồm các chế độ hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp, ốm đau, thai sản (có chế độ trợ cấp hàng tháng và trợ cấp một lần). Ngoài ra còn sử dụng để chi mua bảo hiểm y tế cho các đối tượng hưởng lương hưu hàng tháng, hưởng trợ cấp tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp hàng tháng, chi cho công tác quản lý bộ máy và các khoản chi khác. Với các quy định về chế độ chính sách bảo hiểm xã hội hiện hành, việc dự tính cân đối quỹ bảo hiểm xã hội xác định cân đối giữa số thu bảo hiểm xã hội và số chi bảo hiểm xã hội hàng năm và lâu dài có ý nghĩa vô cùng quan trọng, vì qua dự tính cân đối quỹ bảo hiểm xã hội có thể xác định tổng thể về tình hình thu- chi bảo hiểm xã hội, từng thời điểm quỹ tồn tích để có kế hoạch đầu tư chính xác (đầu tư ngắn hạn hoặc dài hạn) vừa đảm bảo có hiệu quả vừa không bị động về nguồn chi bảo hiểm xã hội theo quy định cho các đối tượng. Xác định thời điểm mà nguồn thu vào quỹ bắt đầu thấp hơn số chi bảo hiểm xã hội, cũng như thời điểm quỹ bảo hiểm xã hội không còn khả năng chi trả cho các chế độ bảo hiểm xã hội vì số thu bảo hiểm xã hội thấp hơn nhiều so với số cần phải chi trả, để từ đó có các biện pháp đảm bảo cân đối mới. Ngoài ra căn cứ vào dự tính cân đối quỹ bảo hiểm xã hội có thể xác định được số đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội cũng như số lượng đối tượng được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội để có kế hoạch bố trí người và phương tiện đủ thực hiện, đảm bảo kịp thời, chính xác. Việc dự tính cân đối quỹ trong thời gian nhiều năm làm cơ sở cho công tác hoạch định chính sách bảo hiểm xã hội về đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội và hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, nhất là chế độ hưu trí và tử tuất; về tỷ lệ thu bảo hiểm xã hội, tỷ lệ hưởng chế độ hưu trí; về tuổi nghỉ hưu, đồng thời xây dựng kế hoạch định hướng lâu dài về tổ chức hệ thống Bảo hiểm xã hội. Vì vậy, việc xác định các dữ liệu và các nhân tố làm căn cứ cho tính toán cân đối quỹ lâu dài là cần thiết, phải có độ chính xác cao gồm: Tổng số người tham gia bảo hiểm xã hội hàng năm, tuổi đời của số người tham gia bảo hiểm xã hội, mức lương làm căc cứ đóng bảo hiểm xã hội, tỷ lệ tăng lương tối thiểu, tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội, số người nghỉ hưu và nghỉ việc hưởng trợ cấp một lần hàng năm, số người hưởng lương hưu hàng năm, tiền lương hưu và trợ cấp bình quân, tuổi nghỉ hưu, tuổi thọ bình quân của những người hưởng trợ cấp hàng tháng, số người đang hưởng chế độ bảo hiểm xã hội chết hàng năm, chi phí quản lý, tỷ lệ đầu tư tăng trưởng của quỹ tồn tích. Cụ thể việc xác định các dữ liệu nêu trên như sau: - Thời gian tính cân đối quỹ từ năm 2002 trở đi. - Tuổi bắt đầu tham gia: tính bình quân từ 24 tuổi (đối với công chức-sĩ quan quân đội, tham gia sau khi học xong đại học; lao động trong các doanh nghiệp, tuyển vào nghề bình quân ở tuổi 24). - Số lao động tham gia bảo hiểm xã hội tăng thêm hàng năm (đã trừ số giảm do nghỉ hưu, nghỉ việc hưởng trợ cấp một lần, chết) được xác định trên cơ sở nhịp độ tăng bình quân hàng năm qua thống kê từ 1995 đến 2001, theo chính sách bảo hiểm xã hội dự kiến mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội từ tháng 1/2003; căn cứ vào chiến lược định hướng phát triển kinh tế-xã hội của Nhà nước, trong đó xác định đến năm 2002 chuyển dịch 50% cơ cấu lao động nông nghiệp nông thôn sang lao động công nghiệp. Ngoài ra theo tham khảo về tỷ lệ lao động tham gia bảo hiểm xã hội so với số người trong độ tuổi lao động của các nước đang phát triển (số lao động xã hội theo số liệu dự tính của Uỷ ban dân số). Với các căn cứ trên, số lao động tăng thêm hàng năm dự kiến tham gia bảo hiểm xã hội được xác định như sau: + Năm 2002 tăng 300.000 người (đã trừ số giảm do nghỉ hưu, nghỉ việc hưởng trợ cấp một lần, chết) theo nhịp độ hiện tại và có tính tăng do việc thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội đối với người lao động làm việc trong các cơ sở xã hội hoá theo Nghị định 73/CP. + 3 năm 2003-2005, thực hiện theo quy định về sửa đổi, bổ sung 1 số điều của Bộ Luật lao động, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội được mở rộng, dự kiến số lao động tham gia bảo hiểm xã hội tăng 500.000 ng/năm (đã trừ số giảm do nghỉ hưu, nghỉ việc hưởng trợ cấp một lần, chết) . + Các năm từ năm 2006 trở đi tăng bình quân theo nhịp điệu tăng của nền kinh tế. Ước tính năm 2020 đạt tỷ trọng 30% so với tổng số lao động xã hội. - Tổng số người tham gia bảo hiểm xã hội trong năm tính bằng số lao động tham gia bảo hiểm xã hội của năm trước và số lao động tham gia bảo hiểm xã hội tăng thêm trong năm. - Mức lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội: căn cứ vào thang, bảng lương quy định hiện hành và nâng bậc lương theo quy định; riêng lao động ngoài quốc doanh căn cứ vào mức lương nộp BHXH, có dự tính mỗi năm tăng 2%, so với năm trước và có xét đến tương quan với mức lương tối thiểu. Mức lương bình quân làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội được lấy theo số thống kê của những người đang tham gia bảo hiểm xã hội (gồm cả lực lượng vũ trang) với số tính năm 2002 bình quân là 596.750 đ/ng/tháng. - Tỷ lệ tăng lương tối thiểu: (dự kiến đã được các cơ quan hoạch định chính sách xác định trên cơ sở đánh giá mức trượt giá và mức tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân). Cụ thể là: năm 2002-2005: 14,8% (do năm 2002 chưa có quy định của Nhà nướ về tăng tiền lương tối thiểu, vì vậy dự tính các năm 2003 đến 2005 tăng bình quân mỗi năm là 20%); 2006-2015 tăng bình quân: 5,6%; từ 2016 trở đi tăng 2% năm. - Mức đóng bảo hiểm xã hội: bằng 20% tổng quỹ lương, trong đó 15% để chi cho chế độ hưu, tuất và 5% chi cho chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp (riêng khi tính cân đối quỹ chung, 3 chế độ này xác định bằng 4% tổng quỹ lương). - Số người nghỉ hưu và nghỉ việc hưởng trợ cấp một lần hàng năm: Căn cứ vào chính sách bảo hiểm xã hội dự kiến giảm bớt đối tượng nghỉ hưởng trợ cấp một lần, chủ yếu thực hiện chế độ hưu trí hàng tháng đối với người lao động khi hết tuổi lao động; căn cứ vào số thống kế về độ tuổi của những người hiện tham gia bảo hiểm xã hội để xác định số hưu nghỉ hàng năm. - Số người đang hưởng hưu chết hàng năm: tính bình quân mỗi năm bằng 6,82% số người hưởng hưu của năm trước liền kề (như đã nêu tại phần tính toán ngân sách Nhà nước chuyển quỹ). Tuy nhiên trong từng giai đoạn có xác định không giống nhau, nhất là giai đoạn từ năm 2002 đến 2010 do tuổi nghỉ hưu quy định trước đây thấp nên số người đến độ tuổi chết chưa nhiều. - Tiền lương hưu và trợ cấp một lần bình quân, được xác định qua số thống kê từ năm 1995 đến năm 2001, cụ thể là: lương hưu bình quân/ người/ tháng bằng 2,6 lần mức tiền lương tối thiểu; nghỉ việc hưởng trợ cấp một lần bình quân 1 người có 8 năm tham gia bảo hiểm xã hội, lương tháng/ người làm căn cứ tính trợ cấp bằng 1,8 lần mức lương tối thiểu (cả trợ cấp lần đầu). - Tiền tuất được tính bằng 55 tháng lương tối thiểu gồm: + Mai táng phí : = 8 tháng + Tuất 1 lần: 2,1 triệu/ người/210.000đ/2 người = 5 tháng + Tuất tháng: (1,8 ĐX x9,7 năm x 12 tháng x 0,4)/2 ng = 42 tháng - Về chi cho 3 chế độ: ốm đau, thai sản, Tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp: So với thực tế hiện nay đang thực hiện thì có một số vấn đề xảy ra chưa được tính đến: * Một số cơ quan, đơn vị chưa thực hiện đầu đủ việc theo dõi những ngày nghỉ ốm của cán bộ để hưởng trợ cấp ốm đau (thường vẫn trả lương khi nghỉ ốm). * Số người hưởng trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp hàng tháng từ năm 1996 đến nay chưa nhiều, số này trong các năm sau này tồn tích ngày tăng nhiều và số tiền chi trả cho trang cấp dụng cụ sinh hoạt phải trả ngày càng tăng. *Từ tháng 7/2001, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định cho chi chế độ nghỉ ngơi, dưỡng sức là 0,6 quỹ lương. 2.Những dự báo phục vụ cho việc tính toán quỹ BHXH: Để đảm bảo cho việc tính toán quỹ trong tương lai, cần tính một cách đầy đủ các yếu tố trên, dự kiến tính toán như sau: Chi cho chế độ ốm đau: Với số liệu năm2000: + Tổng quỹ tiền lương: 26.000 tỷ đồng. + Tổng số người tham gia BHXH: 4,125 triệu người. + Lương ngày bình quân: 22.230 đồng. + Lương ngày bình quân thanh toán chế độ :22.230 x 75% = 16.673đ. Dự tính chi ốm đau cho các năm sau này: Số ngày bình quân nghỉ ốm được thanh toán chế độ cho 1 người tham gia BHXH là 4,8 ngày/năm, thì số tiền chi cho ốm đau chiếm tỷ lệ so tổng quỹ tiền lương tham gia bảo hiểm xã hội là: 1,27% Chi cho chế độ thai sản: Với số liệu năm 2000: + Tổng quỹ tiền lương: 26.000 tỷ đồng. + Tổng số người tham gia BHXH:4,125 triệu người ( nữ: 2,021 triệu người) + Lương tháng bình quân của người thai sản: 483.300 đồng, + Thời gian nghỉ thai sản bình quân là: 4,7 tháng và 1 tháng tiền lương trợ cấp thai sản một lần. Dự tính chi ốm đau cho các năm sau này: Số người bình quân nghỉ thai sản được thanh toán chế độ bằng 7% số nữ tham gia BHXH (năm 2000 là 6,5%). Tổng số tiền do không thu BHXH trong thời gian nghỉ thai sản là: 0.25% so tổng quỹ tiền lương tham gia bảo hiểm xã hội. Như vậy số tiền chi cho ốm đau chiếm tỷ lệ so tổng quỹ tiền lương tham gia bảo hiểm xã hội là: 1,74% Chi cho chế độ TNLĐ- BNN: dự tính bằng 0,25% tổng quỹ lương đóng BHXH. Chi cho nghỉ ngơi, dưỡng sức: bằng 0,6% tổng quỹ lương đóng bảo hiểm xã hội. Theo tính toán trên thì chi cho 3 chế độ ngắn hạn chiếm 3,86% tổng quỹ lương đóng bảo hiểm xã hội (chưa tính chi phí quản lý). Như vậy, chi cho 3 chế độ dự kiến 4% tổng quỹ tiền lương đóng bảo hiểm xã hội là vừa đủ, so với quy định thu 5% tổng quỹ tiền lương còn kết dư 1% chuyển sang để thực hiện chi cho chế độ hưu trí và tử tuất vì theo tính toán 2 chế độ này thiếu để chi trả. - Tuổi nghỉ hưu: theo quy định nam đủ 60, nữ đủ 55, một số đủ 30 năm công tác hưởng hưu ở tuổi 55 đối với nam, 50 đối với nữ (theo NĐ93/CP); sĩ quan quân đội nghỉ hưởng hưu theo Luật sĩ quan Quân đội hoặc theo Điều lệ nghỉ hưởng lương hưu ở tuổi 55. Theo số thống kê từ năm 1995 đến năm 2001 thì tuổi nghỉ hưu bình quân là 54,35 tuổi, tuổi thọ bình quân của những người nghỉ hưu là 69 tuổi, thời gian hưởng lương hưu bình quân là 14,65 năm. Tuy nhiên khi tính cho từng đối cụ thể đề tài xác định thời gian hưởng lương hưu đối với nam là 10 năm, đối với nữ là 15 năm. - Chi phí quản lý: tính bằng 4% cho 2 năm 2002-2003; 3,5% cho 3 năm 2004-2006; từ 2007 trở đi bằng 3%. - Tỷ lệ lãi đầu tư tăng trưởng: tính bằng 5% năm. - Chi bảo hiểm y tế: theo quy định tính bằng 3% tổng số tiền chi lương hưu trong năm. 3.Kết quả tính toán quỹ BHXH: Từ những căn cứ ở trên và nhờ vào kết quả tính toán trên máy tính ta có kết quả tính toán quỹ bảo hiểm xã hội như sau: II. Những kiến nghị nhằm đảm bảo cân đối quỹ bảo hiểm xã hội lâu dài: 1.Kiến nghị về chế độ chính sách: Về lý luận, khi hoạch định chế độ chính sách bảo hiểm xã hội phải dựa trên các cơ sở kinh tế, chính trị-xã hội và cơ sở khoa học qua việc tính toán để xác định cân đối dài hạn quỹ bảo hiểm xã hội để định ra chế độ thu bảo hiểm xã hội, mức chi phí cho các chế độ bảo hiểm xã hội nhằm vừa đảm bảo nhiệm vụ chính trị trong tình hình cụ thể của nước nhà, đảm bảo tình hình xã hội cũng như quyền lợi thụ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội của người tham gia bảo hiểm xã hội nói riêng, mọi người lao động nói chung. Với việc xác định quỹ bảo hiểm xã hội được cân đối lâu dài, luôn đảm bảo khả năng chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động. Vì vậy, đề tài có một số kiến nghị về chế độ chính sách bảo hiểm xã hội như sau: - Về đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội: Quỹ bảo hiểm xã hội để thực hiện chính sách xã hội có chức năng phân phối lại thu nhập do Nhà nước quản lý. Do vậy quỹ bảo hiểm xã hội phải được tính toán, đảm bảo cân đối ổn định lâu dài (đa số các nước trên thế giới đều cân đối từ 50 năm trở lên) để vừa bảo đảm việc trợ cấp được ổn định, vừa bảo đảm cho sự phát triển kinh tế - xã hội, không gây ra những sức ép nặng nề về tài chính có thể dẫn đến khủng hoảng về chính sách xã hội. ở nước ta vấn đề cân đối giữa thu và chi dài hạn của quỹ bảo hiểm xã hội có nhiều khả năng, bởi vì số người trong độ tuổi lao động chưa tham gia bảo hiểm xã hội còn chiếm tỷ lệ cao (gần 90%). Do đó, cần sớm có chính sách mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, không chỉ đối với lao động thuộc khu vực Nhà nước, các doanh nghiệp mà cả đối với lao động ở các thành phần kinh tế, có như vậy nguồn thu vào quỹ bảo hiểm xã hội hàng năm được tăng lên, tồn tích của quỹ nhiều, thêm lãi đầu tư, bảo đảm quỹ bảo hiểm xã hội ổn định lâu dài. - Về thu bảo hiểm xã hội: Cần phải lấy nguyên tắc đảm bảo cân đối lâu dài quỹ bảo hiểm xã hội là một trong những nguyên tắc quan trọng để làm căn cứ trong việc hoàn chỉnh chính sách bảo hiểm xã hội. Trên cơ sở nguyên tắc này, xác định mức đóng bảo hiểm xã hội hợp lý cho từng thời kỳ, tính toán nâng dần mức thu bảo hiểm xã hội sao cho quỹ bảo hiểm xã hội không bị mất cân đối sớm. Hiện nay theo quy định mức đóng bảo hiểm xã hội là 20% tổng quỹ tiền lương, tỷ lệ này ở một số nước vào khoảng từ 25% đến 40%. Tuy nhiên, ở nước ta trong những năm trước mắt nền kinh tế chưa phát triển và chưa ổn định, việc nâng mức đóng bảo hiểm xã hội là việc hết sức khó khăn vì nó liên quan nhiều đến thu nhập, đời sống của người lao động và chi phí đầu vào của sản phẩm, cho nên giữ nguyên mức đóng bảo hiểm xã hội là 20% so với tổng quỹ tiền lương (qua 6 năm, mức đóng bảo hiểm xã hội bằng 20% tổng quỹ lương cho thấy các doanh nghiệp chấp nhận được). Sau năm 2010 sẽ nghiên cứu để điều chỉnh tăng dần mức đóng bảo hiểm xã hội lên và trước hết là tăng phần tỷ lệ do người lao động đóng góp tương ứng với việc tăng tiền lương để đảm bảo tỷ lệ tương quan đóng bảo hiểm xã hội giữa người sử dụng lao động với người lao động. Ngoài mức thu bảo hiểm xã hội là 20% tổng quỹ tiền lương để chi cho 5 chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, dưỡng sức, chế độ hưu trí và tử tuất như đã nêu trên, nếu có quy định thêm chế độ trợ cấp thì phải quy định thêm mức đóng bảo hiểm xã hội để đảm bảo thực hiện cho chế độ đó. Quy định mức trần về tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội, đảm bảo mức đóng bảo hiểm xã hội không quá cao dẫn đến hưởng bảo hiểm xã hội cao vừa tạo nên chênh lệch về thu nhập từ bảo hiểm xã hội giữa những nhóm người lao động trong xã hội, đồng thời không ảnh hưởng đến cân đối quỹ bảo hiểm xã hội. - Về chi bảo hiểm xã hội: Khi thực hiện cải cách tiền lương, người lao động được cải thiện về tiền lương và thu nhập hàng tháng, nghiên cứu để điều chỉnh tỷ lệ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội cho phù hợp với mức đóng góp nhưng phải đảm bảo nguyên tắc không giảm số tuyệt đối về lương hưu và trợ cấp hàng tháng, đồng thời ngang bằng với việc tăng mức sống. Hiện nay, theo quy định thì người lao động có 30 năm tham gia bảo hiểm xã hội và đủ điều kiện tuổi đời được hưởng tỷ lệ lương hưu là 75% lương bình quân 5 năm cuối. Tỷ lệ này là cao, chưa phù hợp với mức đóng bảo hiểm xã hội, đa số các nước trên thế giới mức hưởng tối đa hiện nay là từ 60% đến 65%. Về tuổi nghỉ hưu: Trước mắt, giữ nguyên tuổi nghỉ hưu theo quy định của Bộ Luật lao động đối với nam là 60 tuổi, nữ 55 tuổi, không giảm tuổi nghỉ hưu với bất cứ loại hình lao động nào để thực hiện đúng mục đích của chế độ lương hưu và ảnh hưởng đến quỹ bảo hiểm xã hội do việc giảm tuổi nghỉ hưu (giảm 5 tuổi thì quỹ bảo hiểm xã hội không thu được 60 tháng, đồng thời phải chi thêm 60 tháng lương hưu, như vậy đã ảnh hưởng đến quỹ bảo hiểm xã hội là 10 năm). Sau đó tuỳ thuộc vào tình hình lao động, việc làm và tuổi thọ chung của xã hội để điều chỉnh tăng dần tuổi nghỉ hưu. Đề tài đề nghị không nên tăng tuổi nghỉ hưu ngay một lần một vài tuổi mà tăng dần mỗi năm 1/2 tuổi đến khi đạt độ tuổi nghỉ hưu đối với nam là 65 tuổi, đối với nữ là 60 tuổi. Trường hợp cá biệt do giảm biên chế hoặc xắp xếp lại lực lượng lao động mà phải giảm tuổi nghỉ hưu thì cần có chế độ tài chính riêng do ngân sách Nhà nước bảo đảm. - Nghiên cứu để có quy định lại về cách tính lương hưu, hiện nay mức tiền lương làm cơ sở để tính lương hưu là mức lương bình quân 5 năm cuối. Điều này không đảm bảo nguyên tắc đóng- hưởng và chênh lệch tăng tiền lương hưu khoảng 40% nếu so với cách tính lương hưu theo tiền lương đóng bảo hiểm xã hội toàn bộ quá trình tham gia. Đề tài đề nghị từng bước nghiên cứu để điều chỉnh quy định mức tiền lương làm cơ sở để tính lương hưu những đối tượng hiện tại tính bình quân 5 năm thì nghiên cứu trong thời gian tới có thể điều chỉnh bình quân 10 năm và tiến tới bình quân đóng bảo hiểm xã hội toàn bộ quá trình tham gia. - Các chế độ trợ cấp khác cũng nên giữ như những quy định hiện hành, trừ một vài khoản trợ cấp cần điều chỉnh lại cho hợp lý nhưng không tăng nhiều kinh phí nhằm bảo đảm cho quỹ không mất cân đối. - Loại khỏi chính sách bảo hiểm xã hội các nội dung của các chính sách khác như giảm tuổi nghỉ hưu cho lao động nặng nhọc, độc hại, có thời gian công tác ở chiến trường, trợ cấp cho các biện pháp kế hoạch hoá dân số... 2.Kiến nghị về công tác quản lý quỹ bảo hiểm xã hội: Để đảm bảo cho quỹ bảo hiểm xã hội cân đối được lâu dài, ngoài các biện pháp nêu trên thì việc quản lý tốt quỹ bảo hiểm xã hội đóng vai trò quan trọng. Do nguồn quỹ bảo hiểm xã hội nước ta hiện nay còn nhỏ và yêu cầu quỹ phải đảm bảo thu đủ để chi, nên cần phải tăng cường công tác quản lý thu bảo hiểm xã hội, chi từ quỹ bảo hiểm xã hội và công tác giám sát tài chính của hệ thống bảo hiểm xã hội cụ thể là: - Quản lý chặt chẽ về đối tượng thuộc diện bắt buộc tham gia bảo hiểm xã hội để thu vào quỹ bảo hiểm xã hội đủ về số lượng, nhất là các đối tượng lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. - Quản lý chặt về mức tiền lương và thu nhập làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội. - Thu bảo hiểm xã hội phải kịp thời, đúng theo quy định, tránh hiện tượng đóng bảo hiểm xã hội chậm hoặc nợ đọng kéo dài làm ảnh hưởng đến thu và đầu tư tăng trưởng của quỹ. - Quản lý chặt chẽ hồ sơ của từng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, nhất là các đối tượng có thời gian công tác trước 1/1995 để thực hiện việc ghi thời gian được tính hưởng bảo hiểm xã hội vào sổ bảo hiểm xã hội đầy đủ, chính xác. - Quản lý chặt chẽ hồ sơ hưởng bảo hiểm xã hội, nhất là các đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm xã hội hàng tháng để tránh hiện tượng hưởng nhầm, sai. Thực hiện chi trả đúng đối tượng, đúng chế độ và thực hiện việc cắt giảm các đối tượng đã thôi hưởng hoặc hết thời hạn hưởng chế độ đầy đủ, kịp thời. - Tăng cường công tác giám sát tài chính bảo hiểm xã hội thường xuyên trong quá trình huy động, sử dụng các nguồn tài chính của quỹ bảo hiểm xã hội đối với toàn bộ các hoạt động và thực hiện giám sát cả việc tuân thủ, giám sát hiệu quả và giám sát chất lượng. Ngoài ra để đảm bảo cho quỹ bảo hiểm xã hội cân đối được lâu dài thì quỹ bảo hiểm xã hội phải được quản lý tập trung thống nhất trong cả nước và thực hiện thu- chi cho mọi loại hình lao động, loại hình bảo hiểm xã hội (nếu có loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện) như hiện nay đang thực hiện. Có như vậy mới vừa bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa các loại hình lao động, vừa có khả năng điều tiết và tích luỹ dài hạn. Quỹ bảo hiểm xã hội đảm bảo cân đối được lâu dài còn phụ thuộc vào một yếu tố cơ bản đó là vấn đề đầu tư tăng trưởng phần quỹ bảo hiểm xã hội nhàn rỗi. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, để hoạt động đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội đạt hiệu quả, nhằm đảm bảo và tăng trưởng quỹ, đảm bảo sự an toàn và đủ nguồn tài chính kịp thời chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cần phải nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện về cơ chế, chính sách đối với hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội, cụ thể ở một số điều sau: + Tạo hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội, Chính phủ cần xem xét việc phân cấp cụ thể quyền quyết định trong việc sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội tạm thời nhàn rỗi để đầu tư đảm bảo bảo tồn và tăng trưởng theo các nội dung: lĩnh vức đầu tư, hình thức đầu tư và lãi suất tối thiểu khi đầu tư vào từng lĩnh vực, từng hình thức, từng dự án cũng như quy trình xây dựng, thẩm định, quyết định phương án đầu tư và quản lý đầu tư. + Chính phủ có chính sách khuyến khích và ưu đãi đối với hoạt động đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội vào những ngành, những lĩnh vực đảm bảo an toàn quỹ, có lãi suất cao để thực hiện việc bảo tồn và tăng trưởng. + Xác định rõ vốn nhàn rỗi từ quỹ bảo hiểm xã hội dùng để đầu tư vào các tài sản tài chính (ngắn hạn, dài hạn) nhằm mang lại lợi nhuận và phục vụ cho việc bảo toàn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội. Có thể chia nguồn vốn đầu tư của quỹ bảo hiểm xã hội thành nguồn vốn đầu tư dài hạn và nguồn vốn đầu tư ngắn hạn theo nguyên tắc: nguồn vốn dài hạn được phép đầu tư vào tài sản tài chính dài hạn hoặc ngắn hạn, còn nguồn vốn ngắn hạn chỉ Subject:được đầu tư và các tài sản tài chính ngắn hạn. + Quy định rõ danh mục đầu tư và hạn mức đầu tư cho từng danh mục, để thực hiện đầu tư an toàn và có lãi suất cao. Ngoài những danh mục đầu tư theo chỉ định của Chính phủ, cần cho phép Bảo hiểm xã hội Việt Nam được quyền xem xét, lựa chọn những dự án đầu tư thích hợp. Tuy nhiên, phải đảm bảo nguyên tắc: an toàn, hạn chế rủi ro trong quá trình đầu tư; ưu tiên đầu tư trọng nhiều vào các lĩnh vực có lãi suất cao và thu hồi vốn nhanh; mức cho vay hoặc đầu tư đối với từng danh mục không vượt quá tỷ lệ quy định trong tổng nguồn vốn nhàn rỗi từ quỹ bảo hiểm xã hội. + Đa dạng hoá các loại hình đầu tư và công cụ đầu tư, bên cạnh các hoạt động đầu tư đã có Chính phủ cần ưu tiên cho quỹ được đầu tư vào các dự án lớn có tầm chiến lược quốc gia theo hình thức liên doanh góp vốn vào các ngành: khai thác, chế biến dầu khí, điện tử viễn thông, công trình sự nghiệp xã hội (xây dựng nhà ở, dự án sản xuất cung cấp điện, nước sinh hoạt). Tuy nhiên, việc đầu tư vào các dự án này thời gian thu hồi vốn dài, nên phần vốn đầu tư phải là khoản nhàn rỗi trong thời gian tương đối dài. + Phải có sự phân tích, đánh giá kỹ lưỡng, tính toán và có so sánh một số phương án đầu tư có tính khả thi, có hiệu quả để chọn phương án tối ưu nhất khi quyết định đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội vào một lĩnh vực, một dự án. + Thành lập một tổ chức chuyên trách thực hiện đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội trực thuộc Bảo hiểm xã hội Việt Nam và bao gồm các chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực phân tích kinh tế tài chính, toán bảo hiểm, kinh tế đầu tư… kếT LUậN Nghiên cứu lịch sử phát triển Nhà nước theo các thời kì , chế độ chính trị kinh tế xã hội khác nhau , chúng ta có nhận định chung là : Dù xã hội nào,có chế độ kinh tế như thế nào thì nhà nước của chế độ , của xã hội đó cũng đều phải có những qui định về chế độ bảo hiểm xã hội. Bởi vì nó là một chính sách quan trọng của mỗi quốc gia vì nó liên quan đến hàng triệu người lao động. Bảo hiểm xã hội đã và đang được phát triển ở hầu khắp các nuớc trên thế giới không chỉ bởi mục đích an sinh xã hội mà còn góp phần quan trọng trong việc phát triển, ổn định nền kinh tế đất nước. Bảo hiểm xã hội có mối liên hệ mật thiết với nền kinh tế quốc dân. Ngày nay không ai phủ nhận vai trò tích cực của bảo hiểm xã hội đối với nền kinh tế. Ngược lại điều kiện kinh tế quyết định các chế độ hưởng bảo hiểm xã hội. Nền kinh tế quốc dân càng phát triển, đời sống con người càng cao thì hoạt động bảo hiểm xã hội càng phong phú. Từ khi Chính phủ ban hành Nghị định 12/CP ngày26/01/1995 kèm theo Điều lệ bảo hiểm xã hội cùng với Nghị định 19/CP ngày 16/02/1995 về việc thành lập Bảo hiểm xã hội Việt Nam, quỹ bảo hiểm xã hội đã thể hiện được vai trò quan trọng của mình. Nó là một yếu tố quyết định khả năng hoạt động và tồn tại của ngành bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện quỹ bảo hiểm xã hội đã gặp không ít những khó khăn khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến hoạt động thu, chi bảo hiểm xã hội của quỹ. Nhưng quỹ luôn phải đảm bảo vai trò quan trọng của mình, đồng thời cần đổi mới và hoàn thiện quỹ để phát huy tiềm năng vốn có của nó trong việc bảo tồn, tăng trưởng và phát triển quỹ phù hợp với tình hình thực tế và giai đoạn phát triển của đất nước. Mục lục Lời mở đầu……………………………………………………...1 Chương I:Lý luận chung về BHXH và quỹ BHXH…………..3 I.Một số vấn đề tổng quan về BHXH……………………………..3 1.Sự cần thiết và tác dụng của BHXH……………………………3 1.1 Sự cần thiết của BHXH………………………………………….3 1.2 Tác dụng của BHXH……………………………………………4 2.Khái niệm và bản chất của BHXH……………………………..5 2.1 Khái niệm BHXH……………………………………………….7 2.2 Bản chất của BHXH…………………………………………….8 3.Nội dung cơ bản của BHXH…………………………………...11 a.Đối tượng của BHXH……………………………………………12 b.Các loại chế độ BHXH…………………………………………..12 c.Mức đóng và mức hưởng………………………………………...12 II.Khái niệm chung về quỹ BHXH……………………………...12 1.Sự cần thiết của quỹ BHXH…………………………………...12 2.Khái niệm về quỹ BHXH………………………………………14 3.Nguồn hình thành quỹ BHXH…………………………………14 4.Phân loại quỹ BHXH…………………………………………...16 5.Quản lý quỹ BHXH…………………………………………….17 III.Tình hình thực hiện BHXH ở một số quốc gia trên thế giới……………………………………………………….18 1.Mỹ……………………………………………………………….18 2.Pháp……………………………………………………………..19 3.ở một số nước Đông á…………………………………………20 CHƯƠNG II:Thực trạng về quỹ BHXH ở Việt Nam………24 I.Sơ qua về BHXH và quỹ BHXH ở Việt Nam………………….24 1.Thời kỳ thực hiện BHXH trước năm 1961……………………24 2.Thời kỳ thực hiện BHXH theo điều lệ tạm thời(1961-1995)…25 3.Thời kỳ thực hiện BHXH theo Bộ luật lao động(1995-2003)...31 II.Thực trạng về thu chi BHXH và quản lý quỹ BHXH từ khi thực hiện điều lệ(1995-2003)……………………………………..35 1Thực trạng về thu BHXH………………………………………35 2.Thực trạng về chi BHXH………………………………………43 3.Thực trạng về quỹ BHXH……………………………………...51 4.Phân tích đánh giá về tình hình thực hiện thu-chi BHXH và quản lý quỹ BHXH……………………………………………….54 CHƯƠNG III:Một số kiến nghị nhằm đảm bảo cân đối quỹ BHXH Được lâu dài…………………………………………….60 I.Dự tính cân đối quỹ BHXH theo chính sách hiện hành……...60 1.Căn cứ để làm cơ sở cho việc tính toán quỹ BHXH………….60 2.Những dự báo phục vụ cho việc tính toán quỹ BHXH……….64 3.Kết quả tính toán quỹ BHXH………………………………….66 4.Nhận xét về kết quả tính toán quỹ BHXH……………………69 II.Những kiến nghị nhằm đảm bảo cân đối quỹ BHXH được lâu dài…………………………………………………………………70 1.Kiến nghị về chế độ chính sách………………………………..70 2.Kiến nghị về công tác quản lý quỹ BHXH……………………72 Lời cảm ơn Trong quá trình thực tập và làm chuyên đề này ,được sự giúp đỡ ,hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo Nguyễn Thị Hải Đường và thầy Nguyễn Hùng Cường phụ trách phòng chế độ, ban chế độ chính sách BHXH Việt Nam, em đã hoàn thành chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn! Xác nhận của cơ quan thực tập …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. Nhận xét của giáo viên hướng dẫn thực tập …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. …………………………………………………………………….. Danh mục tài liệu tham khảo 1.Giáo trình Kinh tế bảo hiểm –Trường ĐHKTQD Hà Nội 2.Giáo trình Quản trị Kinh doanh bảo hiểm-Trường ĐHKTQD Hà Nội ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36784.doc