Thực trạng về lãi suất, tỷ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư ở VN

LỜI MỞ ĐẦU Năm 2007 kết thúc,kinh tế Việt Nam đã trải qua nhiều thăng trầm với những biến động đáng kể.. Hàng loạt sự kiện kinh tế, chính trị quan trọng đã thể hiện sự tự vươn lên của Việt Nam. Những bước đầu khi gia nhập WTO,chúng ta đã dần khẳng định được vị thế của mình trong nền kinh tế thế giới.Và để có thể leo lên được những bậc thang cao hơn, thì chúng ta cần phải có những chính sách nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển.Những lý luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng sự phát triển và tăng trư

doc53 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1785 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng về lãi suất, tỷ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư ở VN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ởng của một quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào quy mô vốn đầu tư. Vốn đầu tư chịu tác động của rất nhiều các nhân tố, trong đó lãi suất vốn vay và tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư là 2 yếu tố quan trọng nhất quyết định đến quy mô và cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội vậy ,lãi suất,tỷ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư tác động đến nhau như thế nào,và thực trạng ở Việt Nam về mối quan hệ này trong thời gian qua đã diễn ra như thế nào? từ đó có thể có những giải pháp nào để có thể thu hút và tăng cường sử dụng hiệu quả vốn đầu tư? Với mong muốn tìm hiểu về mối quan hệ đó, nhóm chúng tôi đã nghiên cứu,tìm tòi về quy mô đầu tư của Việt Nam trong khoảng thời gian qua.Từ đó sẽ rút ra được những bài học, những biện pháp để có thể sử dụng 1 cách hiệu quả vốn đầu tư và nâng cao hơn nữa vịêc thu hút nguồn vốn đầu tư nhất là trong thời gian tới. Chương I LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LÃI SUẤT VỐN VAY, TỶ SUẤT LỢI NHUẬN VỐN ĐẦU TƯ VÀ QUY MÔ VỐN ĐẦU TƯ A.các khái niệm liên quan.   I.Lãi suất     1. Khái niệm – vai trò của lãi suất   * Khái niệm            Lãi suất là một trong những chỉ tiêu quan trọng, nó có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đầu tư hay tiết kiệm của một cá nhân cũng như của tổ chức, doanh nghiệp, bên cạnh đó nó còn là một trong những công cụ của ngân hàng trung ương dùng để điều tiết lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế. Sự biến động, thay đổi của lãi suất ảnh hưởng lớn đến hoạt động đầu tư của nền kinh tế.            Lãi suất là chi phí phải bỏ ra cho việc vay tiền, là giá cả của quyền được sử dụng tiền tệ trong một khoảng thời gian nhất định, mà người sử dụng phải trả cho người sở hữu nó.            Thông thường, lãi suất được biểu thị bằng một tỷ lệ phần trăm (%) của tổng số tiền vay tính cho một đơn vị thời gian là tháng hoặc năm.            Việc duy trì và sử dụng công cụ lãi suất trong nền kinh tế hàng hóa là một tất yếu khách quan, song tác dụng của lãi suất đến mức nào lại là do sự vận dụng chính sách lãi suất.  Mức lãi suất sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế và chế độ quản lý kinh tế hiện tại, phù hợp với quy luật vận động khách quan của tín dụng trong mối quan hệ với các quy luật kinh tế trong nền kinh tế hàng hóa thì lúc đó lãi suất sẽ trở thành một chìa khóa thần kỳ để mở mang, thúc đẩy kinh tế phát triển.    Trong nền kinh tế thị trường thông thường ngân hàng trung ương ấn định khung lãi suất chung. Trong phạm vi khung lãi suất riêng theo quan hệ cung cầu trên thị trường.    Khung lãi suất chính là giới hạn tối đa của lãi suất cho vay và tối thiểu của lãi suất tiền gửi mà ngân hàng trung ương quy định để khống chế và quản lý chung về mặt lãi suất đối với các tổ chức tín dụng. Khung lãi suất được ngân hàng trung ương công bố và thay đổi tùy thuộc vào giá cả thị trường, sức mua của đồng tiền, cung cầu tín dụng và chính sách của nhà nước. Ví dụ Công điện của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Viêt Nam Nguyễn Văn Giàu ngày 26.2.2008 quyết định lãi suất huy động của các ngân hàng là 12%/năm.   * Vai trò của lãi suất             -Lãi suất là công cụ kích thích lợi ích vật chất để thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội tập trung vào quỹ tín dụng. Thông thường khi có một khoản tiền tiết kiệm, dân chúng thường nghĩ đến việc làm thế nào để có thể sinh lời trên khoản tiền đó như: đầu tư chứng khoán, bất động sản, mua vàng, gửi tiền vào tài khoản ở ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác,…Một trong những hình thức đầu tư có tính an toàn khá cao đối với người dân là gửi tiền vào ngân hàng. Để thu hút được nhiều khách hàng gửi tiền vào ngân hàng mình thì lãi suất là một trong những biện pháp hấp dẫn mà các ngân hàng thường sử dụng.            -Lãi suất là công cụ để đo lường “sự biến động ” của nền kinh tế: mỗi một sự biến động, dù là nhỏ nhất cũng ảnh hưởng đến hoạt động của mỗi cá nhân, tổ chức và của cả nền kinh tế. Ở các nước kinh tế phát triển, giá trái khoán và lãi suất được yết giá hàng ngày trên các tờ báo của cơ quan chính phủ. Người ta có thể căn cứ vào sự biến động của lãi suất để dự báo các yếu tố khác của nền kinh tế như: tính sinh lời của các cơ hội đầu tư, mức lạm phát dự tính, mức thiếu hụt ngân sách. Các yếu tố này hợp thành chỉ tiêu “sức khỏe” của nền kinh tế. Người ta có thể dựa vào lãi suất trong một thời kỳ để dự báo tình hình kinh tế trong tương lai. Trên cơ sở đó các doanh nghiệp lập kế hoạch chỉ tiêu trong tương lai của họ, trong khi đó ngân hàng và các nhà đầu tư cần dự báo lãi suất để quyết định xem chon mua tài sản nào.            - Lãi suất là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế: ngân hàng trung ương thay mặt chính phủ để thực hiện chính sách tiền tệ, và để thực hiện tốt chức năng đó ngân hàng trung ương phải sử dụng các công cụ điều tiết mà một trong số đó là lãi suất. Một khi ngân hàng trung ương muốn thực hiện chính sách mở rộng tiền tệ, nghĩa là “bơm” thêm tiền vào nền kinh tế nhằm giúp các dơn vị tổ chức có thêm vốn để mở rộng họat động kinh doanh của mình, ngân hàng trung ương sẽ hạ thấp lãi suất tín dụng, lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu. Ngược lại, khi ngân hàng trung ương thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, rút bớt tiền ra khỏi lưu thông, ngân hàng trung ương sẽ nâng cao tỷ lệ lãi suất tín dụng, lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu.      +Lãi suất góp phần giữ vững cân đối giữa sản suất và tiêu dùng.      +Lãi suất góp phần thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia kích thích đầu tư nền kinh tế.      +Lãi suất là công cụ tác động mạnh mẽ vào lạm phát.      +Lãi suất ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp 2. Phân loại lãi suất Khi nói đến khái niệm lãi suất, chúng ta thấy sẽ có rất nhiều loại lãi suất khác nhau và phạm vi hoạt động của chúng cũng khác nhau.   Theo nguồn sử dụng:   -Lãi suất huy động: là loại lãi suất quy định tỉ lệ lãi phải trả cho các hình thức nhận tiền gửi của khách hàng        -Lãi suất cho vay: là loại lãi suất quy định tỷ lệ lãi mà người đi vay phải trả cho người cho vay.        Theo nguyên tắc hoạt động của ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác mà hoạt động thường xuyên và chủ yếu của chúng là kinh doanh tiền tệ là lãi suất cho vay bao giờ cũng phải lớn hơn lãi suất huy động để đảm bảo ngân hàng có thể bù đắp được các chi phí hoạt động đã bỏ ra và có lợi nhuân. Thông thường, lãi suất cho vay và lãi suất huy động có mối quan hệ được xác định như sau: Lãi suất cho vay = Lãi suất huy động + Chi phí + Rủi ro tối thiểu + Lợi nhuận     Theo giá trị thực:             Hàng ngày chúng ta thường gặp các loại lãi suất được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng và nhiều cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức sử dụng một số loại lãi suất đó để làm đơn vị tính toán trong các hoạt động của mình. Tuy nhiên, hầu hết các loại lãi suất này là lãi suất chưa tính đến yếu tố lạm phát, và để xác định được giá trị thực của các loại lãi suất này, người ta phải tính thêm một yếu tố đó là tỷ lệ lạm phát dự tính.   -Lãi suất danh nghĩa: là loại lãi suất được xác định cho mỗi kỳ hạn gửi hoặc vay, thể hiện trên quy ước giấy tờ được thoả thuận trước. -Lãi suất thực: là loại lãi suất xác định giá trị thực của các khoản lãi được trả hoặc thu được. Lãi suất                  Lãi suất               Tỷ lệ   thực        =        danh nghĩa     -    lạm phát         Sự phân biệt giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa có ý nghĩa rất quan trọng, đối với người có tiền, nhờ đoán biết được lãi suất thực mà họ quyết định nên gửi tiền vào ngân hàng hay mang đi kinh doanh trực tiếp. Đối với người cần vốn, nếu dự đoán được tương lai có lạm phát và trong suốt thời gian đó lãi suất cho vay không đổi hoặc có tăng nhưng tốc độ tăng không bằng lạm phát tăng thì họ có thể yên tâm vay để kinh doanh mà không sợ lỗ vì trượt giá khi trả nợ.               Theo phương pháp tính lãi:   -Lãi suất đơn: là tỷ lệ theo năm, tháng, ngày của số tiền lãi so với số tiền vay ban đầu không gộp lãi vào tiền vay ban đầu để tính lãi thời hạn kế tiếp. -Lãi suất kép: là tỷ lệ theo năm, tháng, ngày của số tiền lãi so với số tiền vay, số tiền vay này tăng lên do có gộp lãi qua từng thời kỳ cho vay (lãi mẹ đẻ lãi con)       Theo loại tiền  -Lãi suất nội tệ: là loại lãi suất áp dụng để tính toán cho đồng nội tệ (kể cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay) -Lãi suất ngoại tệ: là lãi suất tính toán áp dụng cho đồng ngoại tệ . Theo độ dài thời gian:  Theo cách phân loại này, cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay, thời gian càng dài thì lãi  suất càng cao.       Cơ sở của cơ chế lãi suất này là ở chỗ thời gian thuê vốn (cả huy động và cho vay) càng dài thì lợi nhuận làm ra càng nhiều, đồng thời tính rủi ro mất vốn cũng càng cao.           -Lãi suất ngắn hạn: là loại lãi suất áp dụng cho các khoản huy động và khoản vay ngắn hạn, có thời hạn dưới 1 năm.          -Lãi suất trung hạn: là loại lãi suất áp dụng cho các khoản huy động và khoản vay có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm.         -Lãi suất dài hạn: là loại lãi suất áp dụng cho các khoản huy động và khoản cho vay có thời hạn trên 5 năm.       Lãi suất hoàn vốn      Đối với các khoản tín dụng mà việc trả vốn và lãi theo định kỳ hoặc trả một khoản cố định theo định kỳ, chẳng hạn trả cố định hoặc trái phiếu coupon thì người ta áp dụng một loại lãi suất gọi là lãi suất hoàn vốn. Đây là lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của tiền thanh toán nhận được từ một khoản tín dụng với giá trị hôm nay của tín dụng đó. Một trái phiếu cũng là một khoản tín dụng, vì vậy lãi suất hoàn vốn của nó là một tỷ lệ nào đó làm cho giá trị hiện tại của trái phiếu trên thị trường.      Như vậy, đo lường lãi suất hoàn vốn là một phép tính ngược từ việc chúng ta cân bằng giá trị hiện tại của số vốn đã đầu tư (cho vay) với giá trị hôm nay của số vốn đó.      3. Phân biệt lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa             Trên thực tế, những khoản thu nhập bằng tiền hay thu nhập danh nghĩa thường không phản ánh đúng giá trị thực của chính khoản thu nhập đó. Tỷ lệ lạm phát hay tỷ lệ trượt giá của đồng tiền trong một thời gian nhất định luôn làm cho giá trị thực trở nên nhỏ hơn giá trị danh nghĩa.Vì vậy lãi suất thực luôn nhỏ hơn lãi suất danh nghĩa bởi tỷ lệ lạm phát nói trên.             Thông thường trong những điều kiện tỷ lệ lạm phát (ig) không lớn hơn 10% thì lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa có lien hệ với nhau qua công thức đơn giản:             ir = in - ii             Trong đó, ir,in,ii lần lượt là lãi suất thực, lãi suất danh nghĩa và tỷ lệ lạm phát.             Tuy nhiên nếu tỷ lệ lạm phát ii cao hơn 10% ví dụ là 35%; lãi suất danh nghĩa, ví dụ là 114% thì lãi suất thực không thể tính như trên mà phải tính theo công thức:                  in – ii           ir =       ------- hay ir = (144 – 35) / (35 + 100)                   ii + 1             Trong ví dụ này lãi suất thực xấp xỉ bằng 80,7 % và điều này cũng phản ánh đúng một xu hướng thực tế: tỷ lệ lạm phát càng cao lãi suất thực càng thấp.  4. Cấu trúc kỳ hạn và cấu trúc rủi ro của lãi suất   4.1 Cấu trúc rủi ro của lãi suất                 Có rất nhiều trường phái và lý thuyết khác nhau nghiên cứu về cấu trúc rủi ro của lãi suất hay là mối quan hệ giữa lãi suất và mức độ rủi ro của một món vay hay một dự án đầu tư. Và vấn đề được coi là thống nhất chung của tất cả các trường phái đó là mức độ rủi ro của món vay càng cao lãi suất của món vay đó càng cao.           4.2 Cấu trúc kỳ hạn của lãi suất            Cấu trúc kỳ hạn của lãi suất cũng phụ thuộc vào rất nhiều lý thuyết: lý thuyết về dự đoán về cấu trúc thời hạn, lý thuyết về tiền thưởng rủi ro và lý thuyết về phân đoạn thị trường. Tuy vậy có thể thấy rõ rang từ những kết quả phân tích mang tính quy luật và những bằng chứng thực nghiệm rằng: một món vay có thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao.  5. Các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất          5.1.Mức cung cầu tiền tệ              -Cung tiền tệ là tổng thể tiền tệ được sử dụng để giao dịch thanh toán trên thị trường. Các nhà kinh tế đã định nghĩa M là tiền giao dịch bao gồm: M1 là tổng số tiền kim khí và tiền giấy lưu thông bên ngoài ngân hàng cộng với tiền gửi ngân hàng có thể rút ra bằng séc và định nghĩa rộng hơn (M2) bao gồm những tài sản như tài khoản tiền gửi tiết kiệm ngoài tiền kim khí, tiền giấy và tiền gửi ngân hàng có thể rút ra bằng séc. Quyền kiểm soát mức cung tiền tệ được dành cho Chính phủ, bởi vì hạn chế mức cung tiền tệ là điều cần thiết để tiền có giá trị.            -Cầu tiền tệ là nhu cầu về tiền của cá nhân, đơn vị, tổ chức để làm phương tiện giao dịch, trao đổi, mua bán hàng hoá, dịch vụ… Đường thẳng đứng S biểu thị ngân hàng trung ương giữ cung cấp tiền tệ ở một lượng định trước gọi là M. Đường cong về mức cung tiền tệ được vẽ thẳng đứng vì việc cung cấp tiền tệ được định ra ở M cho mọi lãi suất. (Hình 1)              Đường thẳng đứng S biểu thị ngân hàng trung ương giữ cung cấp tiền tệ ở một lượng định trước gọi là M. Đường cong về mức cung tiền tệ được vẽ thẳng đứng vì việc cung cấp tiền tệ được định ra ở M cho mọi lãi suất. Công chúng (các gia đình và các hàng kinh doanh) muốn giữ lượng tiền M1 khác nhau ở những mức lãi suất khác nhau, lãi suất thấp thì số tiền dôi ra lớn hơn.              Giao điểm giữa cung và cầu trên đồ thị xác định lãi suất cân bằng. Đây là mức lãi suất ở điểm số lượng tiền do ngân hàng trung ương đề ra làm mục tiêu phù hợp với số tiền mà công chúng muốn nắm giữ.             Sự thay đổi cung cầu tiền tệ sẽ ảnh hưởng đến lãi suất.           *Chính phủ thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ:  Mức cung tiền tệ sẽ giảm đi, đường S dịch chuyển sang trái thành S’, lãi suất tăng. Trên đồ thị lãi suất chuyển từ i sang iA. Lãi suất tăng, mức đầu tư sẽ giảm, mức cầu tiền tệ giảm, các nhà doanh nghiệp và các gia đình cắt giảm lượng tiền mặt và tài khoản séc của họ, đường D dịch chuyển về bên trái tạo thành D’. Giao điểm giữa D’ và S’ là A’ với mức lãi suất cân bằng mới i’A.(hình 2)   Hình 2 *Chính phủ thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ: Mức cung tiền tệ sẽ tăng lên, lãi suất có xu hướng giảm xuống. Tín dụng trở nên dồi dào hơn, lãi suất trên đồ thị chuyển từ I sang iB. Kết quả là việc tiến hành các dự án đầu tư mới trở nên có lợi hơn, số tiền chi tiêu về nhà máy, thiết bị, kho hàng tăng lên, người tiêu dùng có khuynh hướng mua nhiều hàng hơn…Vón đầu tư tăng, tổng mức cầu tăng lên, dịch đường D sang phải tạo ra thăng bằng mới trên thị trường. (Hình 3) Hình 3 5.2 Lạm phát kỳ vọng      Khi mức lạm phát được dự đoán sẽ tăng lên trong một thời kỳ nào đó, lãi suất sẽ có xu hướng tăng. Thứ nhất, xuất phát từ mối quan hệ giữa lãi suất thực tế và lãi suất danh nghĩa cho thấy, để duy trì lãi suất thực không đổi, tỷ lệ lạm phát đòi hỏi lãi suất danh nghĩa phải tăng lên tương ứng. Thứ hai, công chúng dự đoán lạm phát tăng sẽ dành phần tiết kiệm của mình cho việc dự trữ hang hoá hoặc những dạng thức tài sản phi tài chính khác như vàng, ngoại tệ mạnh hoặc đầu tư vốn ra nước ngoài. Tất cả các điều này làm giảm cung quỹ cho vay và gây áp lực tăng lãi suất của các nhà băng cũng như trên thị trường. 5.3.Sự ổn định của nền kinh tế               -Ảnh hưởng đến cung tiền vay: khi nền kinh tế ổn định và phát triển, của cải tăng lên, công chúng chỉ muốn giữ một số tiền nhất định đủ cho nhu cầu sử dụng, họ muốn đầu tư vào những tài sản thay thế có lợi tức dự tính cao: đầu tư vào các trái khoán công ty. Bởi vì khi nền kinh tế ổn định, thị trường trái khoán trở nên ổn định hơn, rủi ro trái khoán giảm, trái khoán trở thành một tài sản hấp dẫn hơn, vì vậy cung tiền vay tăng lên, đường cung dịch chuyển về bên phải, lãi suất có xu hướng giảm.                -Ảnh hưởng đến cầu tiền vay: khi nền kinh tế đang phát triển nhanh nhất là trong giai đoạn phát đạt của một chu kỳ kinh doanh, các công ty càng có nhiều ý định vay vốn và tăng số dư nợ nhằm tài trợ cho các cuộc đầu tư được trông đợi là sinh lời. Cầu tiền vay tăng lên, đường cầu dịch chuyển về bên phải, lãi suất có xu hướng tăng lên.               Khi đường cung và đường cầu tiền vay tăng lên và dịch chuyển về bên phải, sẽ đạt được một điểm cân bằng mới về bên phải. Tuy nhiên nếu đường cung dịch chuyển nhiều hơn đường cầu thì lãi suất cân bằng mới có xu hướng giảm xuống, ngược lại, nếu đường cầu dịch chuyển nhiều hơn thì lãi suất cân bằng mới tăng lên. Trong nền kinh tế ổn định và có xu hướng phát triển, nhà nước nên sử dụng các công cụ lãi suất để tăng vốn đầu tư vào những lĩnh vực cần phát triển cho sự cân đối của nền kinh tế, đặc biệt từ các nguồn vốn trên thị trường trái khoán. 5.4 Các chính sách của Nhà nước *Chính sách tài chính:          Khi nhà nước thực hiện một chính sách tài chính mở rộng (tăng chi tiêu của Chính phủ và giảm thuế) sẽ ảnh hưởng đến thăng bằng của thị trường hàng hóa và thị trường tiền tệ, từ đó ảnh hưởng đến lãi suất.         Khi chi tiêu của chính phủ tăng trực tiếp làm tăng tổng cầu, đường cầu dịch chuyển về bên phải, khi chính phủ giảm thuế, làm cho nhiều thu nhập hơn được sẵn sang để chi tiêu và làm tăng tổng sản phẩm bằng cách tăng chi tiêu, tiêu dùng. Mức cao hơn của tổng sản phẩm làm tăng lượng cầu tiền tệ, đường cầu dịch chuyển về bên phải, lãi suất tăng.          Ngoài ra, thuế còn có thể tác động đến mức sản lượng tiềm năng, chẳng hạn việc giảm thuế đánh vào thu nhập từ đầu tư làm cho các ngành tăng đầu tư vào máy móc, nhà máy, tổng sản phẩm tiềm năng được tăng lên, tăng lượng cầu tiền tệ, đường cầu dịch chuyển về bên phải, lãi suất tăng lên.         *Chính sách tiền tệ: với tư cách ngân hàng của các ngân hàng, ngân hàng trung ương thực hiện vai trò chỉ huy đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng của một quốc gia. Với công cụ lãi suất, ngân hàng trung ương có thể điều tiết hoạt động của nền kinh tế vĩ mô bằng các phương pháp sau:            -Ngân hàng có thể quy định lãi suất cho thị trường, chủ động điều chỉnh lãi suất để điều chỉnh tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, hạn chế hoặc mở rộng hoạt động tín dụng nhằm thực hiện được mục tiêu giảm lạm phát và tăng trưởng kinh tế theo từng thời kỳ.            -Ngân hàng trung ương thực hiện chính sách lãi suất tái chiết khấu: Thông qua việc điều chỉnh lãi suất chiết khấu, ngân hàng trung ương có thể tác động gián tiếp vào lãi suất thị trường. Một lãi suất chiết khấu cao hay thấp sẽ làm thay đổi lượng vay của ngân hàng, tức lượng tiền cung ứng của ngân hàng cho nền kinh tế và cuối cùng sẽ làm thay đổi mức lãi suất thị trường.            -Ngân hàng trung ương thực hiện chính sách thị trường mở: để điều hòa cung cầu về các chứng phiếu có giá để tác động vào các ngân hàng thương mại trong việc cung cầu tiền tệ, cung ứng tín dụng, việc làm này cũng sẽ ảnh hưởng đến sự thay đổi của lãi suất.            -Ngân hàng trung ương tăng hay giảm mức dự trữ bắt buộc: khi đó cũng ảnh hưởng gián tiếp đến lãi suất trên thị trường.          *Chính sách thu nhập: đó là chính sách về giá cả và tiền lương. Nếu mức giá cả giảm mà cung tiền tệ không thay đổi làm lãi suất giảm. Ngược lại một mức giá cao hơn làm giảm cung tiền tệ theo giá trị thực tế, làm tăng lãi suất. Yếu tố cấu thành quan trọng nhất của chi phí sản xuất là chi phí tiền lương, khi tiền lương tăng làm chi phí sản xuất tăng, làm giảm lợi nhuận theo đơn vị sản phẩm tại một mức giá cả, giảm nhu cầu đầu tư, cầu tiền tệ giảm, lãi suất giảm.          *Chính sách tỷ giá.         Tỷ giá sẽ tác động đến quá trình sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu hàng hóa của một nước. Khi nhà nước tăng tỷ giá ngoại tệ sẽ làm tăng giá của hàng nhập khẩu, dẫn đến tăng chi phí đầu vào của các xí nghiệp, giá hàng hóa trong nước tăng lên, lợi nhuận giảm, nhu cầu đầu tư giảm, cầu tiền tệ giảm, lãi suất giảm. Mặt khác, khi tỷ giá ngoại tệ tăng, lượng tiền cung ứng để đảm bảo cân đối ngoại tệ cần chuyển đổi tăng lên, lãi suất giảm.          Khi tỷ giá ngoại tệ giảm, đồng tiền tăng giá, không kích thích xuất khẩu, nền công nghiệp trong nước có thể bị sự cạnh tranh của nước ngoài tăng lên, kích thích nhập khẩu. Lượng tiền tệ tăng do với một tỷ giá thấp, với một lượng vốn đầu tư nhất định, tài sản đầu tư sẽ nhiều hơn, kích thích đầu tư vào sản xuất, lãi suất tăng lên. II. Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư hay còn gọi là hệ số hoàn vốn (RR- Rate of return)   1.Khái niệm và công thức tính tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư tính cho từng năm (RRi) phản ánh mức lợi nhuận thu được từng năm tính trên một đơn vị vốn đầu tư hoặc phản ánh mức độ thu hồi vốn đầu tư ban đầu nhờ lợi nhuận thu được hàng năm.Trước tiên chúng ta tìm hiểu về lợi nhuận thuần. Chỉ tiêu lợi nhuận thuần(W-Worth) được tính cho từng năm,cho cả đời dự án hoặc bình quân năm của đời dự án. Lợi nhuận từng năm (kí hiệu là Wi) được xác định như sau: Wi = Oi – Ci Trong đó: Oi:Doanh thu thuần năm i Ci:các chi phí năm I bao gồm cả các khoản chi có liên quan đến sản xuất,kinh doanh năm i: chi phí sản xuất,chi phí tiêu thụ sản phẩm,chi phí quản lý hành chính,chi phí khấu hao, chi phí trả lãi vốn vay,thuế thu nhập doanh nghiệp và chi phí khác.             Công thức xác định tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư từng năm như sau:                                                 Wi                         RRi =   -----                                                   Io Trong đó:             Wi: Lợi nhuận thuần thu được năm i tính theo mặt bằng hiện tại (thời điểm dự án bắt đầu đi vào hoạt động)             Io: Vốn đầu tư tại thời điểm dự án bắt đầu đi vào hoạt động.             RRi có tác dụng so sánh giữa các năm của đời dự án. * Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư bình quân năm của đời dự án (RR) được xác định như sau:                                                              W                         RR = -------                                                               Io Trong đó: W - Lợi nhuận thuần bình quân năm của đời dự án theo mặt bằng hiện tại.             Trong thực tế ( trong nghiên cứu tiền khả thi) để tính RR người ta có thể lấy lợi nhuận thuần của một năm hoạt động ở mức trung bình trong đời dự án và áp dụng công thức tính RR giản đơn ( không xét đến yếu tố thời gian của tiền) sau đây:                                                                          W                         RR = ---------                                                               Ivo Trong đó: W - Lợi nhuận thuần năm hoạt động trung bình của đời dự án.             Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư còn có thể tính cho cả đời dự án. Nó phản ánh mức giá trị hiện tại của thu nhập thuần tính trên 1 đơn vị vốn đầu tư ban đầu.  2.Phân loại Tỷ suất lợi nhuận 2.1. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn     Là tỷ lệ của tổng số lợi nhuận trước thuế thu được từ các hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính và các hoạt động khác phát sinh trong năm của doanh nghiệp chia (:) cho tổng nguồn vốn bình quân năm của doanh nghiệp. Tổng nguồn vốn bình quân năm = Tổng nguồn vốn đầu năm + Tổng nguồn vốn cuối năm 2 Tỷ suất lợi nhuận trên vốn phản ảnh: Một đồng vốn bỏ ra trong một năm sinh lời được bao nhiêu đồng lợi nhuận. 2.2 Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu     Là tỷ lệ của tổng số lợi nhuận trước thuế thu được từ các hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính và các hoạt động khác phát sinh trong năm của doanh nghiệp chia (:) cho tổng doanh thu thuần của doanh nghiệp do tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, cung cấp các dịch vụ và các thu nhập khác.     Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu phản ảnh kết quả tiêu thụ được một đồng doanh thu thì có được bao nhiêu đồng lợi nhuận. 3.Những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận và ý nghĩa của việc tính tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư. Dựa vào công thức tính tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư , ta có thể nhận thấy rằng nó phụ thuộc vào lợi nhuận mà dự án đầu tư thu được hằng năm và tổng số vốn đầu tư ở thời điểm dự án đi vào hoạt động.Nếu vốn đầu tư ban đầu là cố định, thì nếu lợi nhuận qua các năm hoạt động càng cao , sẽ làm cho tỷ suất lợi nhuận cao.Khi tỷ suất lợi nhuận của dự án cao, hàm chứa một thông tin tích cực về hiệu quả hoạt động của dự án , đó là khả năng thu hồi vốn và thu lợi nhuận của dự án cao. Như vậy ,chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư phản ánh sức hấp dẫn của các dự án đầu tư.Tuy nhiên, Nhà đầu tư quyết định đầu tư không căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận thông thường mà căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận biên của vốn. Khi tỷ suất lợi nhuận biên lớn hơn lãi suất thì quyết định đầu tư,song tỷ suất lợi nhuận biên lại giảm dần khi tăng quy mô vốn đầu tư,do đó khi quyết định đầu tư cần xem xét tất cả các yếu tố liên quan. Ngoài ra , việc nghiên cứu và tính toán tỷ suất lợi nhuận còn có ý nghĩa to lớn đến quyết định đầu tư khi tỷ suất lợi nhuận giữa các ngành có sự khác biệt. Cùng một lượng vốn , nhưng nếu bỏ vốn để đầu tư vào ngành có tỷ suất lợi nhuận cao hơn sẽ giúp nhà đầu tư thu hồi vốn nhanh hơn và từ đó kiếm lời nhanh hơn.Do đó tỷ suất lợi nhuận không chỉ giúp nhà đầu tư lựa chọn giữa các dự án , mà còn giúp nhà đầu tư định hướng trong hoạt động đầu tư sao cho đạt hiệu quả cao nhất. III. Quy mô vốn đầu tư và các nhân tố ảnh hưởng  1.Khái niệm, nội dung vốn đầu tư và vai trò của vốn đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế:               Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư dưới nhiều góc độ khác nhau,dưới mồi góc độ nguồn vốn đầu tư có biểu hiện riêng. Tuy nhiên về bản chất thì các nguồn vốn đầu tư đều là phần tiết kiệm hay tích lũy của toàn bộ nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội nhằm tạo ra của cải vật chất thông qua hoạt động đầu tư. - Những đặc trưng của Vốn đầu tư +Vốn đại diện cho một lượng giá trị tài sản.Vốn được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản hữu hình và vô hình. +Vốn phải vận động sinh lời.Vốn được biểu hiện bằng tiền.Để biến tiền thành vôn thì tiền phải thayy đổi hình thái biểu hiện,vận động và có khả năng sinh lời. +Vốn phải được tích tụ và tập trung đến 1 mức nhất định mới có thể phát huy tác dụng. +Vốn phải gắn với chủ sở hữu.Khi xác định rõ chủ sở hữu,đồng vốn sẽ được sử dụng hiệu qủa. +Vốn có giá trị về mặt thời gian.Vốn luôn vận động sinh lời và giá trị của vốn biến động theo thời gian -Những nội dung cơ bản của Vốn đầu tư phát triển trên phạm vi nền kinh tế +Vốn đầu tư xây dựng cơ bản.Vốn đầu tư xây dựng cơ bản là những chi phí bằng tiền để xây dựng mới, mở rộng , xây dựng lại hoặc khôi phục năng lực sản xuất của tài sản cố định trong nền kinh tế quốc dân. +Vốn lưu động bổ sung.Vốn lưu động bổ sung bao gồm những khoản đầu tư dung mua sắm nguyên nhiên vật liệu, thuê mướn lao động … làm tăng them tài sản lưu động trong kỳ của toàn bộ xã hội. +Vốn đầu tư phát triển khác.Vốn đầu tư phát triển khác là tất cả các khoản đầu tư khác của xã hội nhằm gia tăng năng lực phát triển của xã hội, nâng cao trình độ dân trí, cải thiện chất lượng môi trường … -Vai trò của vốn đầu tư: Tổng cầu nền kinh tế: AD = C + I + G + IM Trong đó: C: chi tiêu hộ gia đình I: đầu tư nền kinh tế G: chi tiêu chính phủ IM: xuất khẩu ròng     Đầu tư là bộ phận trong tổng cầu của nền kinh tế. Do đó những thay đổi trong đầu tư có thể tác động lớn đối với tổng cầu và do đó tác động tới sản lượng và công ăn, việc làm. Khi đầu tư tăng lên, có nghĩa là nhu cầu về chi tiêu để mua sắm máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, vật liệu xây dựng …tăng lên. Sự thay đổi này làm cho đường tổng cầu dịch chuyển, sau thời gian nhất định đầu tư đó lại tác động đến tổng cung. Kết quả cuối cùng là sản lượng của nền kinh tế được nâng lên.             Vốn đầu tư là yếu tố quan trọng để tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp noi riêng và của nền kinh tế nói chung, mà còn là điều kiện tất yếu để nghiên cứu và phát triển công nghệ mới để hiện đại hóa nền kinh tế. Đồng thời, Việc tăng vốn đầu tư cũng góp phần vào việc giải quyết công ăn việc làm và tạo viêc làm mới cho người lao động khi tiến hành mở rộng quy mô sản xuất. Mặt khác,cơ cấu sử dụng vốn đầu tư tac động mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu trong nền kinh tế. 2. Các yếu tố tác động đến cầu vốn đầu tư   Đầu tư nói chung là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó.             Cầu đầu tư là dự đinh đầu tư của chủ đầu tư nhằm thay thế và tăng thêm giá trị tài sản cố định hay dự trữ tài sản lưu động. Giá trị của những tài sản này là để đáp ứng yêu cầu của sản xuất trong tương lai. Cầu đầu tư phụ thuộc những yếu tố sau: 2.1 Lãi suất tiền vay 2.2 Tỷ suất lợi nhuận  2.3.Môi trường đầu tư   Trong bất kỳ hoạt động nào môi trường là một yếu tố quan trọng, Trong hoạt động đầu tư cũng vậy, để có thể thu hút được đầu tư vào nền kinh tế, chúng ta cần xây dựng một môi trường đầu tư hấp dẫn.Bởi vì hoạt động đầu tư luôn mang tính rủi ro đi cùng lợi nhuận. Do vậy, đầu tư luôn đòi hỏi một môi trường thích hợp, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, với xu thế cạnh tranh ngày càng gay gắt. Một nền chính chính trị ổn định; một hành lang pháp lý thông thoáng ; một nền kinh tế phát triển lành mạnh và các chính sách về tài chính, đất đai, lao động,… hợp lý theo hướng khuyến khích đầu tư phát triển ; cùng cơ sở hạ tầng , giao thông phát triển với sẽ làm gia tăng nguồn vốn đầu tư, kích thích đầu tư.    2.4. Chu kỳ kinh doanh            Chu kỳ kinh doanh là chuỗi các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.Nó gồm 3 công đoạn:công đoạn cung ứng ,trong đó doanh nghiệp bỏ vốn ra để chuẩn bị những điều kiện kinh doanh như cung cấp đủ nguyên liệu hàng hóa , sức lao động và những dịch vụ cần thiết cho hoạt động thương mại của mình; công đoạn sản xuất,trong đó doanh nghiệp chuyển hóa các thứ trên thành thành phẩm; công đoạn thương mai,trong đó doanh nghiệp bán các sản phẩm ra ngoài và thu hồi vốn .Rút ngắn chu kỳ kinh doanh có ý nghĩa to lớn co ý to lớn đối với việc nâng cao hiệu quả kinh doanh và đối với việc thu hút vốn đầu tư . Ở vào mỗi thời kỳ khác nhau của chu kỳ kinh doanh sẽ phản ánh các mức nhu cầu đầu tư khác nhau.             Khi chu kỳ kinh doanh ở vào thời kỳ đi lên, quy mô của nền kinh tế mở rộng, nhu cầu đầu tư tăng.             Trái lại, khi chu kỳ kinh doanh ở vào thời điểm đi xuống quy mô của nền kinh tế bị thu hẹp lại, nhu cầu đầu tư giảm xuống. 2._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24691.doc