CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VỐN
I. VỐN TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP:
1. Khái niệm về vốn trong doanh nghiệp :
Để tiến hành hoạt đọng sản xuất kinh doanh , bất cứ một doanh nghiệp nào cũng cần phải có vốn - vốn là điều kiện đầu tiên và có ý nghĩa quyết định đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .
Từ trước đến nay đã có rất nhiều định nghĩa về vốn và những định nghĩa này nói một cách chính xác hơn là nhữnh quan điểm về vốn kinh doanh - có những nét khác nhau gắn với
61 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1446 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng về hiệu quả sử dụng vốn sản Xuất kinh doanh của Công ty cổ phần thiết bị xăng dầu petrolimex (59tr), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
từng thời điểm lịch sử và từng góc độ xem xét đánh giá .
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học cổ điển thì : vốn là một trong những yếu tố đầu vào để sản xuất kinh doanh bên cạnh yếu tố lao động . Paulsamúeol , nhà kinh tế học nổi tiếng thuộc trường phái cổ điển phân chia “ đầu vào” của quá trình sản xuất ra làm ba loại : Đất - Lao động - Vốn , trong đó ông đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của vốn . Ông cho rằng vốn là sản phẩm được sản xuất ra để phục vụ cho sản xuất ( máy móc , thiết bị , nguyên vật liệu ... ) Quan niệm này của ông đã đặt nền móng lý luận về vốn kinh doanh và mở rộng hơn nữa về hình thaí biểu hiện của vốn không chỉ dưới dạnh tiền tệ mà còn dưới dạng hình thái vật chất . Tuy nhiên quan niệm của ông cũng vẫn chưa đề cập tới các tài sản khác , các giấy tờ có giá ... có thể đem lại lợi ích cho doanh nghiệp .
Đó là một số quan niệm của các nhà kinh tế học cổ điển . Còn các nhà kinh tế học hiện đại họ quan niệm như thế nào về vốn . Ta có thể đưa ra một số quan điển mang tầm khái quát lớn của Cac Mác : Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư ( ở đây “ tư bản” cũng chính là vốn ) . Định nghĩa này của Các Mác đã làm đầy đủ mọi bản chất và tác dụng của vốn . Nhưng trong bối cảnh lúc bấy giờ khi nền kinh tế chưa phát triển , Các Mác quan niệm chỉ có khu vực sản xuất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế .
Theo giáo trình tài chính học của trường Đại học tài chính kế toán Hà Nội thì : Vốn kinh doanh là một loại quỹ tiền tệ đặc biệt và tiền được gọi là “vốn” khi đó đồng thời thoả mãn các điều kiện sau :
+ Một là : Tiền phải đại diện cho một loại hàng hoá nhất định , hay nói cách khác , tiền phải được đảm bảo cho một lượng tài sản có thực .
+ Hai là : Tiền phải được tập trung tích tụ đến một lượng nhất định .
+ Ba là : Khi có đủ lượng tiền phải được vận động nhằm mục đích sinh lời. Trong điều kiện một và hai được coi là điều kiện ràng buộc để tiền trở thành vốn. Nếu tiền không vận động thì nó là đồng tiền chết , còn không vận động về mục đích sinh lời thì cũng không phải là vốn . Cách vận động và phương thức vận động của vốn do phương thức kinh doanh quyết định . Trên thực tế có ba phương thức vận động vốn là .
T – T’ : Là phương thức vận động của vốn trong các tổ chức chu chuyển trung gian ( ngân hàng , tổ chức tín dụng ... ) và các hoạt động đầu tư cổ phiếu trái phiếu .
T – H – T’ : Là phương thức vận động của vốn trong các doanh thương mại dịch vụ .
T – H – SX – H’ – T’ : Là phương thức vận động của vốn trong các doanh nghiệp sản xuất .
Ở đây chúng ta đi sâu nghiên cứu phương thức vận động của vốn trong các doanh nghiệp sản xuất.
TLSX
SLĐ
T - H
SX – H’ – T’
Quá trình vận động vốn bắt đầu từ hình thái tiền tệ ( T ) sang hình thái hàng hoá ( tư liệu sản xuất , sức lao động ) (H ) . khi doanh nghiệp đầu tư mua sắm “ đầu vào ” cho hoạt động sản xuất kinh doanh , trong quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm , lao vụ , dịch vụ . Vốn vẫn ở hình thái hàng hoá ( H ) . Cuối cùng chỉ tiêu thụ sản phẩm vốn lại từ hình thái hàng hoá chuyển sang hình thái tiền tệ ( T ) .
Do sự lân chuyển không ngừng của vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh nên cùng một lúc vốn kinh doanh thường tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông – sự vận động liên tục không ngừng của vốn tạo ra quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn . Trong quá trình vận động ấy , tiền ứng ra lúc đầu ( T ) lại trở về điểm xuất phát của nó nhưng giá trị lớn hơn ( T’ ) . Đó cũng là nguyên lý đầu tiên sử dụng bảo toàn và phát triển vốn .
Từ những phân tích trên chúng ta có thể đi đến định nghĩa tổng quát về vốn : vốn kinh doanh của doanh nghiệp bằng tiền của toàn bộ tài sản được đầu tư vào sản xuất kinh doanh nhằm mục đích kiếm lời .
1.1. Vai trò của vốn :
Từ xa xưa các nhà kinh tế học đã nghiên cứu rất nhiếu và khẳng định tầm quan trọng của vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngày nay, trưowcs sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế thế giới , vai trò của vốn trong các doanh nghiệp ngày càng chiếm vị thế quan trọng quyết định cho sự tồn tại của doanh nghiệp , thể hiện cụ thể như sau :
Trước hết vốn là cơ sở cân thiết đầu tiên cho bất cứ một doanh nghiệp nào muốn tiến hành sản xuất kinh doanh . vốn là cơ sở đầu tư để có cơ sở hạ tầng máy móc thiết bị . Có được nguồn vốn lớn , doanh nghiệp có thể mua sắm cho mình những trang thiết bị hiện đại , có thể phát triển cơ sở hạ tầng tốt hơn , công tác nghiên cứu ứng dụng khoa học – kỹ thuật cũng được nâng cao và do vậy quá trính khai thác và quá trình sản xuất , nhờ có những lợi thế trên có thể tiết kiệm được chi phí , thu hút được nhân tài , lâng cao chất lượng sản phẩm .
Hiện nay thiếu vốn kinh doanh đang là một vấn đề bức súc đối với các nước đang phát triển , cũng từ cơ sở đó xuất hiện các phương thức đầu tư của các nhà đầu cơ có vốn mà đang đi tìm cơ hội kinh doanh , chẳng hạn như hình thức cổ phần , đầu tư trực tiếp nước ngoài .... dưới những hình thức đầu tư đó cả hai bên ( bên đầu tư và bên được đầu tư ) đều có được những loại thế nhất định cho riêng mình .
Riêng đối với mỗi doanh nghiệp muốn đi vào sản xuất kinh doanh đều phải có nhưng lượng vốn nhất định cho riêng mình , lượng vốn này càng nhiều thì doanh nghiệp càng có lợi thế , biểu hiện như : vốn cố định sẽ quyết định trình độ trang thiết bi , cơ sở vật chất kỹ thuật , công nghệ sản xuất , quyết định những việc ứng dụng thành tựu khoa học tiên tiến , là nhân tố quan trọng để tái sản xuất mở rộng và nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp .
Vốn lưu động sẽ đánh giá và phản ánh quá trình vận động của vật tư hàng hoá . Một cơ cấu vốn lưu động hợp lý sẽ tạo ra những mắt xích cho sản xuất kinh doanh làm cho quá trinhf vốn lưu động nhanh hơn, hiệu quả hơn. Các dự án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp dù khả thi đến mấy nhưng nếu thiếu vốn thì cũng không thực hiện được .
Qua đó ta thấy vốn có một vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung .
1.2. Phân loại vốn và nguồn vốn trong doanh nghiệp :
Tuỳ theo yêu cầu quản lý và đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanhcủa mỗi loại hình doanh nghiệp , có thể lựa chọn các căn cứ phân loại vốn khác nhau . Tuy nhiên , xét một cách tổng thể , để phân tích hiệu quả sử dụng vốnthì cần căn cứ vào vai trò đặc điểm chu chuyển của vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh . Dựa vào tiêu chí này , toàn bộ vốn kinh doanh của doanh nghiệp được chia thành hai bộ phận : Vốn cố định ( VCĐ ) và vốn lưu động ( VLĐ ) . Mỗi bộ phận có đặc điểm chu chuyển khác nhau và đều đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .
2. Vốn cố định.
Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận đầu tư ứng trước về tài sản cố định mà đặc biệt của nó là luân chuyển dần dần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng luân chuyển khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng .
Là vốn đầu tư ứng trước để mua sắm tài sản cố định ( TSCĐ ) nên quy mô vốn cố định nhiều hay ít sẽ quyết định quy mô tài sản vốn cố định lớn hay nhỏ ; từ đó mà ảnh hưởng rất lớn đến trình độ , trang bi kỹ thuật công nghệ và năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . Ngược lại , đặc diiểm vận động của tài sản cố định lại có ảnh hưởng chi phối đến đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển vốn cố định. Từ mối liên hệ đó ta có thể khái quát những đặc điểm cơ bản về sự vận động của vốn cố định trong quá trình sản xuất kinh doanh như sau :
* Vốn cố định tham gia nhiều chu kỳ sản xuất : có đặc điểm này là do tài sản cố định có giá trị lớn . Thời gian sử dụng dài và phát huy tác dụng trong nhiều chu kỳ sản xuất . Vì thế vốn cố định biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định – cũng tham gia vào chu kỳ sản xuất .
* Vốn cố định dịch chuyển giá trị dần dần , từng phần trong các chu kỳ sản xuất : Khi tham gia vào quá trình sản xuất , tài sản cố định khộng bị thay đổi hình thái hiện vật ban đầu nhưng tính năng công suất thì giảm dần , tức là nó bị “ hao mòn ” cùng với sự giảm dần về giá trị sử dụng của tài sản cố định cũng bị giảm đi . Theo đó , vốn cố định được tách thành hai bộ phận :
Bộ phận thứ nhất : Tương ứng với giá trị hao mòn được chuyển vào giá trị sản phẩm dưói hình thức chi phí khấu hao. Khi doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm và thu đựoc tiền bán hàng , một bô phận tiền bán hàng sẽ đựoc trích ra tương ứng cới giá trị hao mòn TSCĐ - đó là tiền khấu hao cơ bản TSCĐ. tiền khấu hao đựoc tích luỹ thành quỹ khấu hao cơ bản , quỹ này đựoc dùng đẻ tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tài sản cố định nhằm mục đích duy trì và tăng năng lực sản xuất cho doanh nghiệp .
Bộ phận thứ hai : Là phần giá trị còn lại đựoc “cố định “ trong hình thái vạt chất của VCĐ là TSCĐ . Sau mỗi chu kỳ sản xuất giá trị còn lại của TSCĐ ngày càng giảm đi trong khi phần vốn luân chuyển vào giá trị sản phẩm ngày càng tăng lên tương ứng với sự giảm dần giá trị sử dụng của TSCĐ .Kết thúc quá trình vận đọng cũng là lúc TSCĐ hết thời gian sử dụng ,VCĐ hoàn thành mộ vòng luân chuyển .
VCĐ là một bộ phận quan trọng thường chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ kinh doanh của doanh nghiệp , đặc điểm luân chuyển của nó lại tuân theo tính quy luật riêng ;do đó việc quản lý và sử dụng VCĐ có ảnh hưởng trực tiếp đén hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh cua doanh nghiệp .
2.1. Vốn lưu động .
Vốn lưu động một bộ phận vốn sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị tài sản lưu động và vốn lưu thông đẻ đảm bảo quá trình sản xuất và tái sản xuất của danh nghiệp đựoc tiến hành bình thưòng .VLĐ bao gồm giá trị tài sản lưu dộng như : nguyen vạt liệu chính ,nửa thành phẩm mua ngoài , vật liệu phụ , bao bì ,vật liệu bao bì , nhiên liệu và phụ tùng thay thế , công cụ lao động , sản phẩm dở dang nửa thành phẩm tự chế ngoài , thành phẩm , hàng hoá, dùng cho tiêu thụ sản phẩm , vật tư thuê ngoài chế biến , vốn cam kết ,vốn tiền mặt , thành phẩm trên đưòng gửi di. Qua mỗi chu kỳ sản xuất vốn lưu động trải qua nhiều hình thái khác nhau : Tiền tệ , đói tưọng lao động , sản phẩm dở dang , nửa thành phẩm , thành phẩm dở dang , thành phẩm trở lại hình thái tiền tệ sau khi tiêu thụ sản phẩm
* Căn cứ vào quá trình tuần hoàn và luân chuyển vốn lưu động người ta chia ra ba loại :
Vốn dự trữ : Là phần vốn dùng đẻ mua nguyên vật liệu . phụ tùng thay thế dự trữ và chuẩn bị đua vào sản xuất .
Vốn trong sản xuất : Là phần vốn trực tiếp phục vụ cho giai đoạn như sản phẩm dở dang , nửa thành phẩm tự chế , chi phí chờ phân bổ .
Vốn lưu động : Là phần vố trực tiếp phục vụ cho giai đoạn sản xuất như sản phảm , vốn tiền mặt
Căn cứ vào phương pháp xác định vốn người ta chia vốn lưu động thành hai loại .
+ Vốn lưu động định mức : Là số vốn lưu động có thể quy định mức tối thiểu , cần thiết thường xuyên cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doânh nghiệp . Nó bao gồm : Vốn dự trữ , vốn trọng sản xuất và thành phẩm hàng hoá mua ngoài dùng cho tiêu thụ sản phẩm vật tư thuê ngoài chế biến .
+Vốn lưu động định mức : Là số vvốn cố định có thể phát sinh trong quá trính sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhưng không có căn cứ để tính toán định mức được (như thành phẩm trên đường gửi đi bán, vốn kết toán)
Căn cứ vào nguồn vốn lưu động người ta chia làm hai loại :
+ Vốn lưu động tự có : Là số vốn doanh nghiệp được nhà nước cấp không phải trả được sử dụng lâu dài theo chế độ của nhà nước quy định , vốn được bổ sung từ lợi nhuận , các khoản tiền phải trả nhưng chưa đến thời hạn trả như tiền lương , tiền nhà , điện , nước .
+ Vốn lưu động đi vay : Là bộ phận vốn doanh nghiệp đi vay của ngân hàng nhà nước , của các đơn vị kinh tế khác .
Ngoài ra trong nền kinh tế thị trường vốn của doanh nghiệp còn được biểu hiện dưới một số hình thái khác như :
Trình độ công nghệ
Trình độ nguồn nhân lực
Nhãn hiệu hàng hoá
2.2. Nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp :
Quan điểm khoa học phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác – xít đã chỉ ra rằng : Khi nghiên cứu một sự vật hiện tượng cần phải nghiên cứu nó trong mối quan hệ ràng buộc không thể tách rời với các sự vật hiện tượng khác . Do vậy không chỉ nghiên cứu vốn mà còn phải xem xét nguồn hình thành vốn trong doanh nghiệp .
Trong nền kinh tế thị trường vốn kinh doanh của doanh nghiệp được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau . Mỗi nguồn đều có những ưu nhược điểm nhất định . Để tổ chức và lựa chọn hình thức huy động vốn thích hợp , có hiệu quả , vẫn phải có sự phân loại nguồn vốn . Việc phân loại nguồn vốn được thực hiện dựa vào nhiều tiêu thức khác nhau . Dưới đây là 3 cách phân loại chủ yếu :
3. Căn cứ vào quan hệ sử dụng về vốn .
Theo tiêu thức này, nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp được chia thành 2 loai : nguồn vốn chủ sở hữu và nợ phải trả .
a. Nguồn vốn chủ sở hữu :
Là phần vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp . Doanh nghiệp có quyền chiếm hữu , sử dụng và định đoạt , bao gồm : Vốn điều lệ , vốn tự bổ sung , vốn do ngân sách nhà nước cấp ( nếu có ) trong đó :
Nguồn vốn điều lệ : Trong các doanh nghiệp tư nhân , vốn đầu tư ban đầu do chủ sở hữu đầu tư . Trong các doanh nghiệp nhà nước , vốn đầu tư ban đầu do nhà nước cấp một phần hoặc toàn bộ .
Nguồn vốn tự bổ sung : Bao gồm tất cả các nguồn mà doanh nghiệp tự bổ sung từ nội bộ doanh nghiệp như lợi nhuận để lại quỹ , quỹ khấu hao , quỹ dự phòng tài chính quỹ đầu tư phát triển .
Nguồn vốn chủ sở hữu : Là nguồn vốn quan trọng và có tính ổn định cao , nó thể hiện quyền tự chủ về tài chính của doanh nghiệp . Tỉ trọng về nguồn vốn này trong cơ cấu nguồn vốn càng lớn thì sự độc lập về tài chính càng cao và ngược lại .
b. Nợ phải trả :
Là tất cả các khoản nợ phát sinh trong quá trình kinh doanh nhà doanh nghiệp có trách nhiệm phải thanh toán cho các tác nhân kinh tế , bao gồm các vốn chiếm dụng và các khoản nợ vay .
Nguồn vốn chiếm dụng hợp pháp : Chỉ mang tính tạm thời , doanh nghiệp chỉ có thể sử dụng trong thời gian ngắn . Nhưng vì nó có ưu điểm nổi bật là doanh nghiệp không phải trả chi phí sử dụng vốn nên đòn bẩy tài chính luôn dương . Vì vậy , doanh nghiệp cần triệt để tận dụng nguồn vốn này trong giới hạn cho phép nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn mà vẫn đảm bảo kỷ luật thanh toán . Thuộc loại này có :
Các khoản nợ khách hàng chưa đến hạn trả
Các khoản phải nộp ngân sách nhà nước chưa đến hạn nộp
- Các khoản phải thanh toán với công nhân viên chưa đến hạn thanh toán
Nguồn vốn chiếm dụng chỉ mang tính chất tạm thời , doanh nghiệp chỉ có thể sử dụng trong thời gian ngắn nhưng vì nó có ưu điểm nổi bật là doanh nghiệp không phaỉ trả chi phí sử dụng vốn , đòn bẩy tài chính luôn dương , nên trong thực tế doanh nghiệp nên triệt để tận dụng nguồn vốn này trong giới hạn cho phép nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn mà vẫn đảm bảo kỷ luật thanh toán .
Các khoản nợ vay : Bao gồm vốn vay ngắn – trung – dài hạn của ngân hàng , nợ trái phiếu và các khoản nợ khác . Vay ngắn hạn , dài hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng có đặc điểm là doanh nghiệp phải trả chi phí sử dụng vốn dưới hình thức lãi vay và phải đảm bảo các điều kiện ràng buộc như phải có tài sản thế chấp hay phương án kinh doanh khả thi ... Nếu doanh nghiệp có uy tín và có mối quan hệ tốt với ngân hàng , việc thực hiện các khoản vay nợ sẽ trở nên dễ dàng hơn . Nợ vay thực sự là nguồn vốn rất quan trọng có thể đáp ứng nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp ở mức độ lớn .
Phát hành trái phiếu : Vay nợ bằng trái phiếu là một hình thức huy động vốn đặc trưng của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường . Đây là biện pháp tạo vốn kinh doanh chủ yếu ở các nước phát triển . Ở nước ta , theo nghị định 72 / CP ngày 26/7/1994 chính phủ cho phép các doanh nghiệp nhà nước phát hành trái phiếu để huy động vốn và luật doanh nghiệp năm 1999 cũng đã mở rộng thêm kênh huy động vốn bằng phát hành trái phiếu cho loại hình công ty TNHH . Nhưng trên thực tế việc sử dụng nguồn vốn này ở các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay còn rất hạn chế .
Trong điều kiện hiện nay , khi mà nhu cầu vốn kinh doanh của các doanh nghiệp không ngừng gia tăng thì vai trò của nguồn vốn nợ phải trả ngày càng trở nên quan trọng . Tuy nhiên , khi sử dụng nguồn vốn này cần phải xem xét tính hợp lý của hệ số nợ , không thể chủ trương “ vay được càng nhiều càng tốt ” hay “ vay với bất kì giá nào ” vì hệ số nợ nào càng lớn , độ rủi ro càng cao . Khi hệ số nợ lớn , chủ sở hữu doanh nghiệp có lợi ở chỗ chỉ phải đóng góp một lượng vốn nhỏ mà được sử dụng một lượng tài sản lớn đặc biệt trong trường hợp đòn bẩy kinh tế dương ( tức là khi doanh nghiệp tạo ra lợi nhuận trên tiền vay lớn hơn lãi vay phải trả ) , doanh lợi vốn chủ sở hữu sẽ gia tăng rất nhanh . Ngược lại , nếu tổng tài sản không có khả năng sinh ra một tỷ lệ lãi đủ lớn để bù đắp lãi vay thì doanh lợi vốn chủ sở hữu sẽ giảm sút rất mạnh . Khi đó doanh nghiệp có khả năng phải đối mặt với nguy cơ mất khả năng thanh toán và khả năng phá sản cũng rất gần .
Thông thường , một doanh nghiệp phải phối hợp cả hai nguồn vốn chủ sở hữu và nợ phải trả để đảm bảo nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh . Sự kết hợp giữa hai nguồn này phụ thuộc vào đặc điểm của ngành mà doanh nghiệp đang hoạt động cũng như quyết định làm thế nào để lựa chọn được một cơ cấu tài chính tối ưu ? đó chính là câu hỏi luôn làm trăn trở các nhà quản lý tài chính doanh nghiệp bởi sự thành công hay thất bại của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc vào sự khôn ngoan hay khờ dại của doanh nghiệp đó khi lựa chọn cơ cấu tài chính .
3.1. Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn
Theo tiêu thức này , nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp được chia thành : nguồn vốn thường xuyên và nguồn vốn tạm thời .
a. Nguồn vốn thường xuyên :
Đây là nguồn vốn có tính chất ổn định mà doanh nghiệp có thể sử dụng trong thời gian dài , bao gồm : nguồn vốn chủ sở hữu và các khoản nợ dài hạn . Nguồn vốn này thường được sử dụng đầu tư tài sản cố định và một bộ phận tài sản lưu động thường xuyên , cần thiết .
b. Nguồn vốn tạm thời :
Là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn ( dưới một năm ) mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng các nhu cầu về vốn có tính chất tạm thời , bất thường phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . Cách phân loại nay giúp cho người quản lý doanh nghiệp xem xét huy động các nguồn vốn một cách phù hợp với thời gian sử dụng , lập kế hoạch tài chính và hình thành những dự định tổ chức vốn trong tương lai .
3.2. Căn cứ vào phạm vi huy động vốn :
Dựa vào tiêu thức này , nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp được chia thành hai loại là : nguồn vốn bên trong và nguồn vốn bên ngoài
a. Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp :
Là nguồn vốn có thể huy động được từ bản thân doanh nghiệp bao gồm : tiền khấu hao tài sản cố định , lợi nhuận để lại , các khoản dự phòng , thu từ thanh lý , nhượng bán tài sản cố định ...
Trong việc huy động vốn , nguồn vốn bên trong luôn giữ vai trò quan trọng vì nó phát huy được nội lực của doanh nghiệp , doanh nghiệp không phải lo trả tiền lãi vay định kì và tiền gốc . Huy động tối đa nguồn vốn bên trong tức là giảm bớt chi phí đầu tư đến mức thấp nhất , mặt khác sử dụng nguồn vốn này sẽ tạo ra thế chủ động thế vững chắc về tài chính cho doanh nghiệp .
b. Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp :
Là nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động từ bên ngoài bao gồm : vốn vay ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác , vốn liên doanh , liên kết , vốn huy động do phát hành trái phiếu , nợ người cung cấp và các khoản nợ khác .
Huy động nguồn vốn từ bên ngoài có lợi thế tạo cho doanh nghiệp một cơ cấu tài chính linh hoạt hơn nhưng nhược điểm của nó là nếu doanh nghiệp vay nợ , doanh nghiệp phải trả tiền lãi vay và phải hoàn trả nợ gốc đúng thời hạn ; nếu doanh nghiệp sử dụng vốn kém hiệu quả hoặc bối cảnh nền kinh tế thay đổi theo chiều hướng bất lợi cho doanh nghiệp thì việc hoàn trả lãi vay và nợ gốc sẽ thành một gánh nặng và doanh nghiệp phải chịu rủi ro lớn .
Huy động vốn bằng con đường bên ngoài rất phong phú , mỗi hình thức huy động lại có ưu nhược điểm riêng . Do đó , người quản lý phải cân nhắc , thận trọng trong công việc lựa chọn hình thức huy động vốn cho hiệu quả mang lại cao nhất , chi phí sử dụng vốn thấp nhất và giảm thiểu được khả năng rủi ro .
Từ việc nghiên cứu các phương pháp phân loại nguồn vốn kinh doanh ta thấy vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp hiện nay là đi đôi với việc tăng cường quản lý và sử dụng hiệu quả số vốn hiện có , doanh nghiệp cần phải chủ động tạo lập , khai thác nguồn vốn từ các nguồn , phối hợp điều hoà các nguồn vốn một cách hợp lý nhằm mục đích phục vụ tốt nhất cho quá trình sản xuất kinh doanh .
4. Các chỉ tiêu đánh giá khái quát tình hình tài chính và phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp .
4.1. Đánh giá khái quát tình hình tài chính .
Để có thể đánh giá được tình hình tài chính của doanh nghiệp phải sử dụng tài liệu chủ yếu là các báo cáo tài chính . Ở đây ta có thể sử dụng bảng cân đối kế toán , báo cáo kết quả kinh doanh .
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính phản ánh tổng quát tình hình tài sản của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định dưới hình thái tiền tệ theo giá trị tài sản . Kết cấu của bảng gồm hai phần :
- Phần phản ánh giá trị tài sản gọi là “ Tài sản ”
- Phần phản ánh nguồn hình thành tài sản gọi là “ Nguồn vốn ” hay “Vốn chủ sở hữu và công nợ ”
Mỗi phần đều có số tổng cộng và số tổng cộng của hai phần bao giờ cũng bằng nhau vì phản ánh cùng một lượng tài sản , tức là : Tài sản = Nguồn vốn.
Tình hình tài chính của doanh nghiệp còn thể hiện rõ nét qua khả năng thanh toán . Sau đây là một số chỉ tiêu :
Tỷ suất thanh toán tạm thời =
Tỷ suất này cho thấy khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp
Tỷ suất thanh toán tức thời=
Tỷ suất này nếu lớn hơn 0.5 thì tình hình thanh toán tương đối khả quan còn nếu nhỏ hơn 0.5 thì doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc thanh toán công nợ.
4.2. Một số quan điểm về hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung về lý luận cũng như thực tiễn đều coi giá trị thặng dư là kết quả của lao động sáng tạo , lẫn lộn giữa hiệu quả và chỉ tiêu hiệu quả , làm cho các nhà quản lý kinh tế đánh giá sai hiệu quả sử dụng vốn , hậu quả là doanh nghiệp bị mất vốn , lãng phí vốn kinh doanh .
Chuyển sang cơ chế thị trường , mọi quyết định sản xuất đều dựa vào nhu cầu của thị trường chứ không dựa vào mệnh lệnh cấp trên hay chủ quan của doanh nghiệp . Khác với quan điểm trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung , nền kinh tế thị trường vốn coi là một trong những nhân tố tạo ra giá trị thặng dư . Vì vậy , về bản chất hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là một mặt biểu hiện của hiệu quả sản xuất kinh doanh . Việc xem xét , đánh giá hiệu quả sử dụng vốn có thể dựa vào tiêu chuẩn khác tuỳ theo quan điểm và gốc độ đánh gía của mỗi người . Chẳng hạn : Với nhà đầu tư trực tiếp , tiêu chuẩn và hiệu quả sử dụng vốn là tỷ suất lợi nhuận trên một đồng vốn chủ sở hữu ; với nhà đầu tư gián tiếp , họ quan tâm đến tỷ suất lợi tức vốn vay và sự bảo toàn giá trị thực tế của đồng vốn vay qua thời gian ; đối với đơn vị nhà nước , đó là tỷ trọng về thu nhập mới sáng tạo ra các khoản thu ngân sách , số chỗ việc làm mới tăng thêm ... Mặc dù tồn tại nhiều quan điểm khác nhau , nhưng đứng trên góc độ chung nhất để đánh giá thì hiệu quả sử dụng vốn phải được xem xét trên cả hai phương tiện :
* Thứ nhất là : Kết quả ( lợi ích ) do sử dụng vốn đưa lại phải thoả mãn và đáp ứng được lợi ích của doanh nghiệp đó , các nhà đầu tư đồng thời nâng cao lợi ích kinh tế xã hội .
* Thứ hai là : phải tối thiểu hoá được lượng vốn sử dụng và thời gian sử dụng vốn .
Như vậy , về bản chất : hiệu quả sử dụng vốn là chỉ tiêu biểu hiện một mặt về hiệu quả kinh doanh , phản ánh trình độ quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp trong việc tối đa hoá kết quả lợi ích , tối thiểu hoá lượng vốn và thời gian sử dụng theo các điều kiện về nguồn lực xác định phù hợp với mục tiêu kinh doanh .
4.3.Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
4.4.Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn sản xuất .
Hiệu suất sử dụng TSCĐ =
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng nguyên giá tài sản cố định đem lại mấy đồng doanh thu thuần .
Hiệu suất sử dụng TSLĐ =
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động làm ra mấy đồng doanh thu thuần .
4.5. Chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời của vốn sản xuất .
Hệ số sinh lời vốn sản xuất =
Trong công thức này , chỉ tiêu lợi nhuận ròng trước thuế hoặc lợi tức gộp . Còn vốn kinh doanh có thể là tổng số nguồn vốn hay vốn vay .
Qua chỉ tiêu này ta thấy một đồng vốn kinh doanh đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận .
Hệ số sinh lời vốn cố định =
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định làm ra mấy đồng lợi nhuận thuần hay lãi gộp trong kì .
Hệ số sinh lời vốn lưu động =
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động làm ra mấy đồng lợi nhuận thuần hay lãi gộp trong kì .
4.6.Chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển vốn lưu động
Ngoài các chỉ tiêu trên ta có thể sử dụng số vòng quay của vốn lưu động và hệ số đảm nhiệm vốn lưu động để thấy được hiệu quả sử dụng vốn , số vốn tiết kiệm của doanh nghiệp .
Số vòng quay vốn lưu động =
( hệ số luân chuyển )
Chỉ tiêu này cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kì . Nếu số vòng quay chứng tỏ hiệu quả sử dụng tăng và ngược lại .
Hệ số đảm nhiệm VLĐ =
Qua chỉ tiêu này ta thấy được doanh nghiệp sử dụng vốn có tiết kiệm và hiệu quả không .
+ VLĐ bình quân trong kì =
+ Tổng số doanh thu thuần = tổng số doanh thu bán hàng trong kì - ( tổng số thuế doanh thu hoặc thuế tiêu thụ đặc biệt , hay thuế VAT , thuế xuất khẩu phải nộp + chiết khấu hàng bán + giảm giá hàng bán + doanh thu hàng bán bị trả lại )
5. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường .
Hoạt động trong cơ chế thị trường , việc tổ chức sử dụng có hiệu quả nguồn lực vốn là yêu cầu khách quan đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . Điều này xuất phát từ những lý do chủ yếu sau :
+ Xuất phát từ vai trò và tầm quan trọng của vốn kinh doanh .
Vốn là tiền tệ , là điểm xuất phát của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường sẽ không có bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào nếu không có vốn . Thật vậy , quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình kết hợp các yếu tố : Tư liệu lao động , dịch vụ . Vốn là cơ sở đầu tiên và tối cần thiết phải đảm bảo thực các hoạt động sản xuất kinh doanh theo mục tiêu đã định . Muốn quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục , các doanh nghiệp phải có đủ vốn để đầu tư các giai đoạn khác nhau của quá trình sản xuất . Muốn thực hiện đổi mới máy móc thiết bị , công nghệ , mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh , nâng cao sức cạnh tranh cũng đòi hỏi phải có vốn . Vốn là nền tảng vật chất để biến mọi ý tưởng kinh doanh thành hiện thực . Vốn quyết định quy mô đầu tư , quyết định mức độ trang thiết bị cơ sở vật chất kỹ thuật và quyết định cả thời cơ kinh doanh của doanh nghiệp . Thực tế đã chứng minh , không ít các doanh nghiệp có khả năng về yếu tố con người , có cơ hội đầu tư nhưng vì thiếu vốn mà đành phải bó tay , bỏ lỡ cơ hội kinh doanh . Với vai trò quan trọng đó , việc tổ chức vốn đảm bảo cho nhu cầu sản xuất kinh doanh trở thành một đòi hỏi bức bách đối với mọi doanh nghiệp đặc biệt đối với các công ty liên doanh . Tuy nhiên , đảm bảo vốn đầy đủ , kịp thời mới chỉ là yêu cầu , mục tiêu cần đạt tới của các doanh nghiệp là sử dụng vốn như thế nào cho hiệu quả .
+ Xuất phát từ ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh :
Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp khác nhau thì khác nhau , nhưng bản chất của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều là một , để hướng tới mục tiêu cao nhất là tối đa hoá lợi nhuận . Để đạt được mục tiêu đó , đòi hỏi các doanh nghiệp phải phối hợp tổ chức thực hiện đồng bộ mọi hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh , tăng cường công tác tổ chức và quản lý sản xuất – trong đó vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu . Bởi một đồng vốn sử dụng có hiệu quả là một đồng vốn được tận dụng triệt để và sinh lời với tỉ lệ cao .
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng , nâng cao hiệu quả sử dụng vốn không chỉ mang lại lợi ích trước mắt cho doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa lâu dài với sự phát triển của doanh nghiệp . Khi đồng vốn được sử dụng có hiệu quả cũng đồng nghĩa với doanh nghiệp làm ăn có lãi , bảo toàn và phát triển được vốn- đó là cơ sở để doanh nghiệp tiến hành tái sản xuất theo cả bề rộng và chiều sâu .
+ Xuất phát từ thực trạng quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp : Chúng ta đã biết trong cơ chế cũ , các doanh nghiệp ( chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước ) coi nguồn cấp phát của ngân sách nhà nước đồng nghĩa với việc “cho không ” nên tìm mọi cách để “ xin ” được nhiều vốn và khi sử dụng thì không mấy quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn . Sản phẩm tốt hay sấu đã có nhà nước bao tiêu , kinh doanh thua lỗ đã có nhà nước bù đắp – kết quả là : vốn trong khu vực kinh tế nhà nước chiếm lớn nhưng vấn đề đáng quan tâm là hiệu quả sử dụng vốn nói chung thấp . Đối với tài sản cố định , mới huy động vào sử dụng khoảng 50 % công suất hiện có , tình trạng phổ biến là tài sản cố định chỉ hoạt động 1 ca / ngày . Vốn lưu động luân chuyển chậm . Lỗi phải chăng là do cơ chế ? hay vấn đề nằm ở chính bản thân doanh nghiệp ? câu hỏi đó được đặt ra bởi lẽ chúng ta thấy rằng hiệu quả sử dụng vốn thấp không chỉ tồn tại trong cơ chế cũ mà còn diễn ra phổ biến ở hầu hết các doanh nghiệp khi chuyển sang cơ chế thị trường .
Nhìn lại chặng đường phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh hơn 10 năm qua chúng ta không thể phủ nhận những thành tựu vượt bậc cùng những đóng góp to lớn của khu vực kinh tế này đối với sự tăng trưởng kinh tế đất nước . Để khơi dậy tiềm lực và phát huy vai trò quan trọng của nền kinh tế quốc dân các doanh nghiệp không còn con đường nào khác là phải tự bứt phá đi lên – mà bước đi đầu tiên chính là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh .
Tóm lại , xuất phát từ vai trò của vốn kinh doanh , xuất phát từ ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh và từ thực trạng quản lý và sử dụng vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp hiện nay có thể khẳng định rằng : vấn ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NH403.doc