Thực trạng về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Thanh Hoá trong thời kỳ 1996 đến 2002

Chương I Một số vấn đề Lý luận chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế I. Một số vấn đề lý luận chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 1. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu ngành kinh tế 1.1. Cơ cấu kinh tế Trong các tài liệu kinh tế có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm cơ cấu kinh tế. Các cách tiếp cận này thường bắt đầu từ khái niệm "cơ cấu". Là một phạm trù triết học, khái niệm cơ cấu được sử dụng để biểu thị cấu trúc bên trong,

doc95 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1890 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Thanh Hoá trong thời kỳ 1996 đến 2002, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tỷ lệ và mối quan hệ của các bộ phận hợp thành của một hệ thống. Cơ cấu được hiểu như là tập hợp các mối quan hệ liên kết hữu cơ, các yếu tố khác nhau của một hệ thống nhất định. Cơ cấu là thuộc tính của hệ thống, do đó khi nghiên cứu cơ cấu phải đứng trên quan điểm hệ thống. Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và lý thuyết hệ thống có thể hiểu: cơ cấu kinh tế là một tổng thể hợp thành bởi nhiều yếu tố kinh tế của nền kinh tế quốc dân, giữa chúng có những mối liên hệ hữu cơ, những tương tác qua lại cả về số lượng và chất lượng, trong những không gian và điều kiện kinh tế xã hội cụ thể, chúng vận động hướng vào những mục tiêu nhất định. Cơ cấu kinh tế bao gồm cơ cấu giữa các lĩnh vực sản xuất, trao đổi tiêu dùng; giữa các ngành kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, thương mại... Mỗi vùng, mỗi ngành lại có cơ cấu kinh tế riêng của mình tuỳ thuộc vào điều kiện tự nhiên, địa lý, kinh tế xã hội cụ thể. Một cách tiếp cận khác thì cho rằng:cơ cấu kinh tế hiểu một cách đầy đủ là một tổng thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau trong những không gian và thời gian nhất định, trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định, cả về số lượng và chất lượng phù hợp với các mục tiêu được xác định của nền kinh tế. Trong cơ cấu kinh tế có sự thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Theo Mác, cơ cấu kinh tế của xã hội là toàn bộ những quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất. Vì vậy có thể hiêủ: Cơ cấu kinh tế là tổng thể các quan hệ chủ yếu về chất lượng và số lượng tương đỗi ổn định của các yếu tố kinh tế hoặc các bộ phận của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Từ việc tiếp cận cơ cấu kinh tế theo cách trên, có thể thấy cơ cấu kinh tế có những đặc trưng sau: - Cơ cấu kinh tế mang tính khách quan, luôn luôn phản ánh và chịu sự tác động của các quy luật khách quan. Vai trò của các yếu tố chủ quan là thông qua nhận thức ngày càng sâu sắc những quy luật đó phân tích đánh giá những xu hướng phát triển khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau để tìm ra phương án thay đổi cơ cấu cho phù hợp với những điều kiện cụ thể của đất nước, cũng như của từng địa phương, từng vùng, từng ngành trong quá trình phát triển kinh tế. Đối với một quốc gia hay một ngành, một địa phương cơ cấu kinh tế được nhận thức và phản ánh dưỡi chiến lược phát triển kinh tế xã hội, ở các chương trình dự án, kế hoạch phát triển của nhà nước, của ngành hay của địa phương. - Cơ cấu kinh tế mang tính lịch sử xã hội, thực tế cho thấy nền kinh tế chỉ phát triển được khi đã xác định được một mối quan hệ cân đối giưã các bộ phận của quá trình tái sản xuất xã hội và phân công lao động xã hội. Cơ cấu kinh tế luôn gắn liền với sự biến đổi không ngừng của bản thân các yếu tố, các bộ phận trong nền kinh tế và mối quan hệ giữa chúng khì nào giải quyết tốt mới diễn ra trôi chảy và đạt hiệu quả cao. - Cơ cấu kinh tế luôn vận động và phát triển ngày càng hợp lý hơn, hoàn thiện và hoàn thiện và đạt hiệu quả hơn. Đó là sự vận động và phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội ngày càng ở trình độ cao hơn, phạm vi ngày mở rộng hơn. Khi tiến bộ khoa học và kỹ thuật công nghệ tác động làm cho lực lượng sản xuất và cấu trúc của nó có sự biến đổi về chất, khi đó sẽ tạo điều kiện cho con người ý thức để thực hiện có hiệu quả chiến lược phát triển đồng bộ, hợp lý trong quá trình tái sản xuất xã hội ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể. - Cơ cấu kinh tế vận động theo hướng ngày càng tăng cường mở rộng sự hợp tác, phân công lao động trong nước và quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường, sự vận động khách quan của cơ cấu kinh tế theo hướng mở rộng sự hợp tác và phân công lao động diễn ra không chỉ trong phạm vi mỗi ngành, mỗi ngành, mỗi vùng, mỗi quỗc gia mà còn mở rộng ra các nước trong khu vực và trên thế giới. Do đó, mỗi quốc gia muốn phát triển nhành cần xác định được cơ cấu kinh tế trên cơ sở xác định được lợi thế của mình gắn với thị trường trong nước và quốc tế, nhằm tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý, thúc đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá nền kinh tế quốc dân. Dựa trên sự nhìn nhận dưới các khía cạnh khác nhau của quá trình phân công lao động xã hội và tái sản xuất xã hội mà chúng ta có thể phân chia cơ cấu kinh tế theo các loại khác nhau. Mỗi loại cơ cấu đều thể hiện tính chất cũng như đặc trưng chủ yếu riêng có của nó, ở đây chúng ta có thể phân loại cơ cấu kinh tế như sau: - Xét trên sự phân công lao động theo ngành kinh tế ta có cơ cấu ngành kinh tế - Xét sự phân công lao động theo vùng kinh tế ta có cơ cấu vùng kinh tế. - Xét về quan hệ sở hữu ta có cơ cấu thành phần kinh tế - Xét về trình độ kỹ thuật ta có cơ cấu kinh tế kỹ thuật - Cơ cấu tái sản xuất ...... Trong đó ba loại cơ cấu: cơ cấu ngành, cơ cấu vùng kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế là những nội dung quan trọng nhất, phản ánh tập trung nhất trình độ phát triển của phân công lao động xã hội. Với phạm vi nghiên cứu của đề tài em xin đi sâu vào cơ cấu kinh tế ngành. 1.2. Cơ cấu ngành kinh tế Colin Clark, nhà kinh tế học người Anh, đã đưa ra phương pháp phân loại nền kinh tê theo ba ngành, ngành thứ nhất sản xuất những sản phẩm dựa trên sự khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bao gồm nông nghiệp và công nghiệp khai thác. Ngành thứ hai có chức năng gia công và chế biến sản phẩm có nguồn gốc từ ngành thứ nhất, đó là ngành công nghiệp chế biến. Hai ngành này đều là những ngành sản xuất của cải vật chất hữu hình. Còn ngành thứ ba là ngành sản xuất các sản phẩm vô hình. Cách phân loại của Clark có ảnh hưởng tương đối rộng rãi và đã được sử dụng phổ biến ở nhiều nước. Tuy vậy cũng còn nhiều cách phân loại khác nhau. Để thống nhất cách phân loại ngành. Liên Hợp Quốc đã ban hành "Hướng dẫn phân loại ngành theo tiêu chuẩn quỗc tế đối với hoạt động kinh tế" theo tiêu chuẩn này có thể gộp các ngành phân loaị thành ba khu vực. Khác với cách phân loại của Clark, theo tính chất công việc Liên Hợp Quốc xếp công nghiệp khai thác vào khu vực I- là khu vực công nghiệp. Như vậy, khu vực I là nông nghiệp và khu vực III là dịch vụ. Trong quá trình hoạt động sản xuất, các ngành có mối quan hệ tác động qua lại, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển. Quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp là mối quan hệ truyền thống, xuyên suốt mọi giai đoạn phát triển xã hội. Nông nghiệp yêu cầu cần có sự tác động của công nghiệp đối với tất cả các yếu tố đầu vào, cũng như tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Công nghiệp cung cấp cho nông nghiệp phân bón hoá học, thuốc trừ sâu, các công cụ sản xuất, máy móc thiết bị phục vụ cho việc cơ giới hoá sản xuất. Sản phẩm nông nghiệp qua chế biến sẽ được nâng cao chất lượng và hiệu quả: Làm cho sản phẩm trở nên đa dạng về mẫu mã, phong phú về khẩu vị, vận chuyển và dự trữ được thuận lợi. Ngược lại, nông nghiệp cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, thực phẩm cho công nhân lao động, cho mở rộng hoạt động sản xuất công nghiệp và nó còn là thị trường lớn tiêu thụ sản phẩm công nghiệp. Công nghiệp và nông nghiệp được gọi là các ngành sản xuất vật chất, thực hiện chức năng sản xuất trong quá trình tái sản xuất. Để những sản phẩm của hai ngành này đi vào tiêu dùng cho sản xuất hoặc tiêu dùng cho đời sống phải trải qua phân phối và trao đổi. Những chức năng này do hoạt động dịch vụ đảm nhận. Các hoạt động dịch vụ như thương mại, vận tải, thông tin, ngân hàng, bảo hiểm... đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được liên tục. Không có sản phẩm hàng hoá thì không có cơ sở cho các hoạt động dịch vụ tồn tại. Sản xuất hàng hoá càng phát triển, đời sống nhân dân càng nâng cao thì nhu cầu dịch vụ càng lớn. Như vậy, sự tác động qua lại giữa các ngành tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Mối quan hệ giữa các ngành không chỉ biểu hiện về mặt định tính mà còn được tính toán thông qua tỉ lệ giữa các ngành, thường được gọi là cơ cấu ngành. Như vậy, cơ cấu ngành là mối quan hệ tỉ lệ giữa các ngành trong toàn bộ nền kinh tế, mối quan hệ này bao gồm cả số lượng và chất lượng, chúng thường xuyên biến động và hướng vào những mục tiêu nhất định. Cơ cấu ngành là bộ phận rất quan trọng trong cơ cấu kinh tế, sự biến động của nó có ý nghiã quyết định đến sự biến động của nền kinh tế. 2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. 2.1. Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là sự thay đổi một cách có mục tiêu số lượng ngành kinh tế quốc dân và mối quan hệ của các ngành đó với nhau trên cơ sở phân tích đầy đủ căn cứ lý luận và thực tiễn, cùng với việc áp dụng đồng bộ các giải pháp cần thiết để chuyển dịch cơ cấu ngành từ trạng thái này sang trạng thái kia hợp lý và có hiệu quả hơn. Chuyển dịch cơ cấu ngành được coi là một nội dung cơ bản lâu dài trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nếu xác định phương hướng và các giải pháp chuyển dịch đúng sẽ đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội cao trong sự phát triển, ngược lại sẽ phải trả giá đắt cho sự phát triển về sau. Trong thời đại ngày nay, trước sự thay đổi nhanh chóng của nhu cầu thị trường và tiến bộ khoa học công nghệ, ở tất cả các nước đều đặt ra vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu ngành kinh tế nói riêng. Riêng đối với các nước đang phát triển, chuyển dịch cơ cấu ngành luôn gắn với công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Yêu cầu đặt ra là phải xác định được một cơ cấu ngành kinh tế hợp lý, vùng trọng điểm, mũi nhọn cho phù hợp với mỗi giai đoạn của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của nền kinh tế thành công hay thất bại đều phụ thuộc vào khâu quyết định chủ trương chuyển dịch và khâu tổ chức thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đã xác định. ở đây, vai trò của Nhà nước là quyết định là quyết định trong việc hoạch định các chủ trương và chính sách kinh tế vĩ mô, còn các doanh nghiệp lại có vai trò trong việc thực hiện các phương hướng và nhiệm vụ chuyển dịch. 2.2. Các lý thuyết chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Đã có rất nhiều học thuyết của các nhà kinh tế trên thế giới đã đề cập đến vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Sau đây, đề tài chỉ xin đề cập tới một số lý thuyết; Học thuyết của C.Max Vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế được C.Max đề cập chủ yếu trong nội dung của hai học thuyết đó là học thuyết về phân công lao động xã hội và học thuyết về tái sản xuất xã hội. C.Max cho rằng quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đạt hiệu quả khi có sưj chín muồi của các tiên đề sau: - Theo Max, trong xã hội hình thành hai cực rõ ràng, khu vực nông thôn và khu vực thành thị. Khu vực nông thôn chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, khu vực thành thị gồm các hoạt động của các ngành công nghiệp, thương mại và các ngành dịch vụ khác. Hai khu vực này có mối quan hệ khăng khít với nhau, trong quá trình sản xuất và giao lưu buôn bán hai khu vực có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, cùng hỗ trợ nhau phát triển. - Số lượng dân cư và mật độ dân cư. Các phương hướng chuyển dịch đưa ra nhằm khắc phục tình trạng di dân từ khu vực nông thôn thành thị ngày càng gia tăng nhưng đảm bảo sự phát triển của nền kinh tế và mối quan hệ phát triển giữa hai khu vực. - Năng suất lao động trong nông nghiệp được nâng cao đủ để cung cấp những sản phẩm thiết yếu cho cả những người lao động trong nông nghiệp cũng như người lao động thuộc các ngành nghề sản xuất khác. Trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế, nông nghiệp truyền thống chi phối các hoạt động kinh tế nhưng sự phát triển của nông nghiệp truyền thống này chưa đủ sức mạnh để thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển, trong xã hội chưa có sự chuyển biến lớn. Nhưng đến giai đoạn phát triển tiếp theo của nền kinh tế có sự chuyển dịch từ nền nông nghiệp truyền thống sang nền kinh tế công nghiệp- nông nghiệp- dịch vụ. Sự phát triển của ngành công nghiệp thúc đẩy sự phát triển của ngành nông nghiệp cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Sự phát triển của ngành nông nghiệp và công nghiệp tất yếu dẫn đến sự phát triển của ngành dịch vụ. Do nông nghiệp phát triển cho nên mưc sống của người dân ở khuvực nông thôn luôn được cải thiện theo hướng đi lên. Vì vậy, tình trạng di dân từ nông thôn ra thành thị ngày càng có xu hướng giảm. Sự phát triển của ngành công nghiệp và ngành dịch vụ không ngừng ảnh hưởng tới việc nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp, do vậy sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là động lực thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế quốc dân. Lý thuyết về các giai đoan phát triển của Rostow Rostow cho rằng quá trình phát triển kinh tế của bất cứ quốc gia nào cũng trải qua năm giai đoạn phát triển: - Xã hội truyền thống: Giai đoạn này sản xuất nông nghiệp giữ vai trò chủ yếu, sản xuất bằng công cụ thủ công, kỹ thuật chưa phát triển. Tuy vậy nền kinh tế không bị chững lại mà vẫn có sự tăng trưởng liên tục do áp dụng kỹ thuật vào nông nghiệp, đặc biệt là thuỷ lợi. - Giai đoạn chuẩn bị cất cánh: Công nghiệp bắt đầu được hình thành thời kỳ nông nghiệp- công nghiệp có tác động thúc đẩy nền kinh tế phát triển. - Giai đoạn cất cánh: Công nghiệp ra đời và phát triển, đây là thời kỳ công- nông nghiệp, nó cũng chính là giai đoạn trung tâm của sự phát triển. - Giai đoạn tăng trưởng: Thời kỳ công nghiệp phát triển mạnh, giai đoạn mà tỷ lệ đầu tư trên thu nhập quốc dân cao và xuất hiện nhiều cực tăng trưởng mới. - Giai đoạn mức tiêu dùng cao: Là giai đoạn kinh tế phát triển cao, sản xuất nông nghiệp hàng hoá, thị trường linh hoạt và có hiện tượng giảm nhịp độ tăng trưởng. Như vậy, quan điểm của Rostow cho rằng, nền kinh tế phát triển theo xu hướng chuyển dịch từ thời kỳ nông nghiệp truyền thống sang thời kỳ nông - công nghiệp, thời kỳ công - nông nghiệp và dịch vụ, thời kỳ công nghiệp phát triển mạnh. Lý thuyết nhị nguyên (hai khu vực phát triển) của Athus Lewis. Athus Lewis chia nền kinh tế thành hai khu vực cùng song song và tồn tại, đó là khu vực nông nghiệp và khu vực công nghiệp. Lý thuyết này đề cập đến mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp trong việc giải quyết lao động dư thừa ở nông thôn. Giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế, nông nghiệp phát triển chi phối các hoạt động kinh tế nhưng sau đó do sự dư thừa lao động cho nên năng suất lao động trong nông nghiệp có chiều hướng giảm. Bên cạnh đó do công nghiệp mới được hình thành cho nên cần nhiều lao động dẫn đến sự di chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp. Khoa học và kỹ thuật kết hợp với lao động thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp, công nghiệp phát triển tạo tiền đề cho nông nghiệp phát triển. Nền kinh tế có sự chuyển dịch từ thời kỳ nông nghiệp thuần tuý sang thời kỳ công - nông nghiệp phát triển. Lý thuyết cân đối liên ngành Theo lý thuyết này, tất cả các ngành kinh tế có liên quan chặt chẽ đến nhau trong chu trình "đầu ra của ngành này là đầu vào của ngành kia". Do vậy, muốn phát triển nền kinh tế phải phát triển cân đối các ngành. Lý thuyết cơ cấu ngành không cân đối hay "cực tăng trưởng" Lý thuyết này cho rằng nên duy trì một cơ cấu không cân đối vì nó phát huy được các nguồn lực, khai thác được các ngành có khả năng làm đầu tàu cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế và có sức lan toả rộng khắp cho các ngành khác. Mặt khác, nó khắc phục được tình trạng khan hiếm nguồn lực khi chỉ phải tập trung nguồn lực cho một số ngành nhất định. 2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế chịu tác động thường xuyên của nhiều yếu tố khác nhau. Những yếu tố này được phân chia thành ba nhóm yếu tố cơ bản: Nhóm các yếu tố tự nhiên, nhóm các yếu tố xã hội, nhóm các yêú tố chính trị. Việc nghiên cứu tác động của các nhóm yếu tố này đến quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nhằm xác định đúng hướng chuyển dịch thích hợp cho các ngành kinh tế trong quá trình tăng trưởng và phát triển. * Nhóm các yếu tố tự nhiên Bao gồm vị trí địa lý, khí hậu, đất đai, dân số và tài nguyên. Nhóm yếu tố này quyết định lợi thế nguồn lực tự nhiên của từng địa phương, chúng có mối quan hệ đan xen vào nhau, ảnh hưởng trực tiếp thường xuyên đến quá trình phát triển kinh tế của địa phương. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trước hết phải làm rõ các yếu tố này để từ đó nhìn nhận được các vấn đề thuận lợi cũng như khó khăn trong suốt quá trình chuyển dịch. - Vị trí địa lý: Tác động trực tiếp tới quá trình phát triển của tỉnh. Nếu một tỉnh là đầu mối giao lưu kinh tế của vùng, đất nước như đầu mối giao thông, cảng biển chính, cửa khẩu quan trọng...sẽ có điều kiện phát triển hơn các tỉnh khác không có được những lợi thế đó. Bởi vì, vị trí địa lý tạo khả năng giao lưu mạnh giữa các tỉnh nằm trong cùng một vùng với nhau, sự giao lưu này thể hiện ở chỗ trao đổi hàng hoá, sản phẩm sản xuất, các nguồn lực như lao động, vốn tài nguyên, khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý...giữa các tỉnh với nhau, các vùng với nhau. - Tài nguyên thiên nhiên: Bao gồm khí hậu, tài nguyên đất đai, khoáng sản, tài nguyên biển, tài nguyên rừng. Tài nguyên thiên nhiên đóng vai trò là nguồn nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp, là yếu tố quan trọng tác động tới nông nghiệp.Ví dụ như khí hậu và đất đai là hai yếu tố quan trọng nhất tác động đến sản xuất nông nghiệp. Tái nguyên khoáng sản, tài nguyên rừng, tài nguyên biển là những yếu tố quan trọng tạo nên sự phát triển mạnh các ngành công nghiệp sử dụng tài nguyên đó như: công nghiệp chế biến lâm, thuỷ hải sản, công nghiệp luyện thép... * Nhóm các yếu tố xã hội Đây là nhóm các yếu tố làm nên thị trường, thể hiện tầm quan trọng của các nhu cầu xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. - Nhân tố thị trường: Là nhân tố quan trọng tạo sự phát triển của các ngành kinh tế, nhân tố này thể hiện ở nhu cầu và tính cạnh tranh của thị trường, hai yếu tố này luôn luôn thay đổi theo thời gian. Chính nhu cầu, cơ cấu nhu cầu và xu thế vận động của nó cũng như tính cạnh tranh của thị trường đặt ra những mục tiêu phát triển của các ngành kinh tế, là cơ sở đảm bảo tính thực thi và hiệu quả của các phương án hình thành cơ cấu ngành kinh tế. - Nhân tố khoa học- công nghệ: Tác động mạnh tới quá trình hình thành và phát triển của cơ cấu ngảnh kinh tế. Chính sự phát triển của khoa học công nghệ đã hình thành nên các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, không chỉ dừng lại ở đó,khoa học công nghệ là điều kiện thúc đẩy sự phát triển các ngành kinh tế theo chiều sâu, các hình thức đa dạng hoá và chuyên môn hoá trong sản xuất. - Nhân tố sức lao động: Là một trong những nhân tô tác động tới quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nói riêng và cơ cấu kinh tế nói chung. Hiện nay, do đặc điểm của các nước cũng như của Thanh Hoá là: dân số trẻ, đông, nguồn lao động dồi dào và sản xuất chủ yếu là nông nghiệp mang tính thời vụ, Do đó, giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế Việt Nam nói chung và Thanh Hoá nói riêng phải tranh thủ lợi thế về lao động, giá nhân công rẻ để phát triển các ngành có khả năng thu hút nhiều lao động như: ngành dệt may, da giầy... tạo tiền đề cho sự phát triển trong thời kỳ tới. - Cơ sở hạ tầng: đây là nhân tố thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nếu như có được một cơ sở hạ tầng vững chắc, thuận tiện, có khả năng thu hút được vốn đầu tư tư bên ngoài. Nhưng sẽ là ngược lại, nó sẽ kìm hãm sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nếu như tỉnh không có được một cơ sở hạ tầng như vậy. * Nhóm các yếu tố chính trị Các yếu tố này chủ yếu như định hướng mục tiêu phát triển của đất nước, các chính sách quản lý kinh tế- xã hội của đất nước, các chính sách, giải pháp thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tê của tỉnh. Các nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh. Các định hướng mục tiêu phát triển cũng như các chính sách quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân của Nhà nước có vai trò quan trọng đến việc hình thành cơ cấu ngành kinh tế. Nếu như các mục tiêu phát triển và các chính sách quản lý đề cao vai trò của thị trường trong quá trình phát triển kinh tế thì sự hình thành cơ cấu kinh tế như mong muốn sẽ quá chậm, nhất là các ngành, các tổ chức kinh tế hoạt động trong lĩnh vực cung cấp hàng hoá công cộng. Ngược lại, nếu định hướng mục tiêu, chính sách quản lý vĩ mô không sát với thực tế khách quan, hoặc sự điều tiết của Nhà nước quá sâu vào các hoạt động kinh tế sẽ dẫn tới việc hình thành cơ cấu ngành kinh tế kém hiệu quả, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Các chính sách và giải pháp thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh. Mỗi tỉnh cần phải xây dựng cho riêng mình những chính sách giải pháp phù hợp nhất, tạo điều kiện cho quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đạt được mục tiêu đề ra của tỉnh cũng như góp phần đạt được mục tiêu phát triển của tổng thể nền kinh tế quốc dân. Như vậy cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh một mặt phải căn cứ vào định hướng mục tiêu phát triển và chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước, mặt khác phải tuỷ thuộc vào điều kiện cụ thể của tỉnh, các chính sách, giải pháp phát triển kinh tế của tỉnh mà chuyển dịch theo xu hướng phù hợp với mục tiêu chung cuả đất nước. 2.4. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế * Nguyên tắc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một quá trình kế thừa lịch sử và hướng tới sự phát triển tối ưu trong tương lai. Để đạt được mục tiêu đó quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phải tuân thủ theo các nguyên tắc: - Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phải bảo đảm phù hợp với mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nướ. - Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phải đảm bảo phù hợp với mục tiêu phát triển của mô hình đã lựa chọn. Mô hình kinh tế của chúng ta là mô hình kinh tế thị trường xã hội văn minh. Mô hình này chỉ đạt tới khi nền kinh tế tạo ra được thu nhập quốc dân và tích luỹ lớn trên cơ sở sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có được thu nhập thuần lớn và lợi nhuận cao. Chỉ trên cơ sở đó mới có khả năng tăng trưởng và phát triển kinh tế, mới có khả năng đáp ứng các yêu cầu về xã hội và sự phát triển văn minh con người. - Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phải đảm bảo nền kinh tế hoạt động với hiệu quả cao nhất. Để giải quyết tốt vấn đề này,điều quan trọng là cần phải giải quyết tôt ba vấn đề cơ bản của nền kinh tế đó là sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? - Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phải đảm bảo phát triển quy mô sản xuất hợp lý và từng bước áp dụng phương pháp công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Phát triển sản xuất kinh doanh với quy mô hợp lý sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao. Tính hợp lý của quy mô sản xuất kinh doanh thể hiện ở việc kết hợp chặt chẽ giữa quy mô lớn, quy mô vừa và quy mô nhỏ. Trong đó lấy quy mô vừa và nhỏ làm chính. Lựa chọn quy mô theo hướng đó sẽ cho phép khai thác tối đa khả năng của các thành phần kinh tế trong từng ngành kinh tế nhất định. Nhưng vấn đề cốt yếu là cần phải lựa chọn một cách hợp lý quy mô nào thuộc khu vực nào quản lý, có như vậy sự phát triển của nền kinh tế mới trở nên đồng bộ và nhịp nhàng. - Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phải đi đôi với việc khai thác và phát huy sức mạnh tổng hợp cuả các thành phần kinh tế trong từng ngành kinh tế nhất định. Kinh tế nhà nước có vai trò gương mẫu trong việc thực hiện các chính sách của Chính phủ, giúp Chính phủ trong quá trình thi hành chức năng quản lý vĩ mô đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Kinh tế nhà nước có nhiệm vụ đảm bảo những nhu cầu của các cân đối lớn nhất của nền kinh tế. Nhu cầu đẩy nhanh tiến bộ về khoa học công nghệ, nhu cầu về xã hội, phục vụ công cộng an ninh, quốc phòng, bảo vệ môi trường sinh thái, nhu cầu phát triển các vùng trọng điểm, ngành mũi nhọn, khu kinh tế đặc biệt, những lĩnh vực, hàng hoá độc quyền. Kinh tế tập thể, tư nhân, tư bản, tư bản nhà nước, kinh tế hộ gia đình bảo đảm các hàng hoá, dịch vụ theo nhu cầu tiêu dùng rộng rãi nhất của nhân dânnhư: ăn, ở, đi lại, vui chơi, giải trí... và những yêu cầu mà nền kinh tế nhà nước không đáp ứng được hay kinh tế nhà nước thực hiện kém hiệu qủa hơn. Kinh tế nhà nước cần có sự hợp tác của các thành phần kinh tế khác để thực hiện nhiệm vụ của mình. - Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phải đảm bảo khai thác triệt để khả năng và thế mạnh của các vùng kinh tế trong nước. Muốn khai thác triệt để và có hiệu quả khả năng và thế mạnh của từng vùng kinh tế, chúng ta phải bố trí đúng đắn cơ cấu các ngành sản xuất và các ngành thương mại, dịch vụ. Nhà nước cần có chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế cho từng vùng, từng địa phương. - Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phải đảm bảo mục tiêu ổn định chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường sinh thái và kinh tế. - Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phải phù hợp với sự phát triển các khả năng cung ứng của nền kinh tế và các quan hệ hợp tác quốc tế đa phương, đa dạng hướng về xuất khẩu. Nguyên tắc này nhằm làm rõ các yêu cầu cần thiết của nền kinh tế làm cơ sở cho việc xác định tổng cầu của nền kinh tế mà cơ cấu kinh tế mới phải thoã mãn. Nhưng mức độ thoả mãn tổng cầu đến đâu, khả năng chuyển dịch cơ cấu đến đầu lại phụ thuộc vào sự phát triển các khả năng cung ứng của nền kinh tế và sự phát triển các quan hệ hợp tác quốc tế của chúng ta. Như vậy trình độ phát triển và tăng trưởng kinh tế, hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quan hệ tỷ lệ giữa các ngành kinh tế, các thành phần kinh tế, các vùng kinh tế là véc tơ tổng hợp của hai véc tơ thành phần: véc tơ tổng cầu của nền kinh tế và véc tơ tổng cung của nền kinh tế. * Hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Cơ cấu ngành kinh tế có thể xét thấy trên nhiều góc độ. Với việc xem xét các yếu tố đầu vào là cơ cấu lao động, cơ câu kỹ thuật. Thông thường cơ cấu đầu ra tính theo giá trị sản xuất được sử dụng để phản ánh cơ cấu ngành. Sự chuyển dịch cơ cấu này mang tính quy luật, đó là khi thu nhập đầu người tăng lên thì tỷ trọng nông nghiệp trong tổng sản phẩm sẽ giảm xuống, còn tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng lên. Khi đạt đến trình độ nhất định, tỷ trọng của dịch vụ sẽ tăng nhanh hơn tỷ trọng của công nghiệp. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành đã được hai nhà kinh tế học là E. Engel và A. Fisher nghiên cứu khi đề cập đến sự thay đổi về nhu cầu chi tiêu và sự thay đổi cơ cấu lao động. Ngay từ cuối thế kỷ 19, E.Engel đã nhận thấy rằng, khi thu nhập của các gia đình tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu cho lương thực, thực phẩm giảm đi nên tất yếu dẫn đến tỷ trọng nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm đi khi thu nhập tăng lên. Quy luật E.Engel được nghiên cứu cho sự tiêu dùng lương thực, thực phẩm, nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng nghiên cứu tiêu dùng cho các loại sản phẩm khác. Các nhà kinh tế gọi lương thực, thực phẩm là sản phẩm thiết yếu, hàng công nghiệp là sản phẩm tiêu dùng lâu bền và việc cung cấp dịch vụ là hàng tiêu dùng cao cấp. Thực tế phát triển của các nước đã chỉ ra xu hướng chung là khi thu nhập tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu cho hàng tiêu dùng lâu bền tăng phù hợp với tỗc độ tăng thu nhập, còn chi tiêu cho hàng tiêu dùng cao cấp có tốc độ tăng nhanh hơn. Cùng với quy luật tiêu thụ sản phẩm E.Engel, quy luật tăng năng suất lao động của A.Fisher cũng làm rõ xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế qua việc phân bố lao động. Trong quá trình phát triển, việc tăng cường sử dụng máy móc và các phương thức canh tác mới đã tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động. Kết quả là, để đảm bảo lương thực, thực phẩm cho xã hội sẽ không cần đến lực lượng lao động như cũ, có nghĩa là tỷ lệ lao động trong nông nghiệp sẽ giảm. Ngược lại tỷ lệ lao động được thu hút vào công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng do tính co dãn về nhu cầu sản phẩm của hai khu vực và khả năng hạn chế hơn trong việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật để thay thế lao động, đặc biệt là hoạt động dịch vụ. 2.5. Các chỉ tiêu đánh giá sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Chỉ tiêu cơ cấu gía trị sản lượng. Ti= (GDPi/ ∑GDP)*100% Trong đó: Ti: là tỷ trọng giá trị sản lượng nghành i trong toàn ngành kinh tế của tỉnh. GDPi: giá trị sản lượng ngành i ∑GDP: tổng giá trị sản lượng của toàn ngành kinh tế của tỉnh. Chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo sản lượng đầu ra. * Chỉ tiêu cơ cấu lao động. TLĐi = (LDi/∑LD)*100% Trong đó: TLĐi: tỉ trọng lao động của ngành i trong toàn ngành kinh tế của tỉnh. LDi: Số lao động của ngành i ∑LD: tổng số lao động trong toàn ngành kinh tế quốc dân. Chỉ tiêu này dùng để đánh giá sự chuyển dịch cơ cấu theo lao động. * Chỉ tiêu cơ cấu vốn đầu tư. TVi = (Vi/∑Vi)* 100% Trong đó: TVi: tỷ trọng vốn đầu tư vào ngành i. Vi: Vốn đầu tư vào ngành i ∑Vi: tổng vốn đầu tư vào toàn ngành kinh tế tỉnh. Chỉ tiêu này cho biết vốn đầu tư vào mỗi ngành chiếm bao nhiêu % trong tổng số vốn đầu tư ban đầu. Cả 3 chỉ tiêu trên nếu có xu hướng đều tăng đối với ngành i là ngành công nghiệp và dịch vụ thì đó là chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng tích cực. II.Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Thanh Hoá. 1. Những đặc điểm, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của tỉnh Thanh Hoá ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. 1.1. Điều kiện tự nhiên. Tỉnh Thanh Hoá có diện tích tự nhiên 11.168,3 km², chiếm 3,3% tổng diện tích tự nhiên cả nước. Dân số toàn tỉnh 3,54 triệu người, chiếm tỷ lệ 4,54% tổng dân số cả nước, có các dân tộc Kinh, Mường, Thái, Tày, H'Mông, Dao, Thổ. Mật độ dân số 310 người/km². Về tổ chức hành chính, toàn tỉnh có 27 huyện, thị, thành phố bao gồm: 24 huuyện, 1 thành phố cấp 3 là thành phố Thanh Hoá, 2 thị xã Bỉm Sơn và Sầm Sơn. Vị trí địa lý. Thanh Hoá nằm trong khu vực ảnh hưởng của những tác động từ khu vực trọng điểm Bắc Bộ và những tác động từ vùng trọng điểm Trung Bộ và Nam Bộ. Phía Tây của tỉnh giáp phần Đông - Bắc Lào, đây là vùng đất hoang sơ chưa được khai thác. Đặc biệt phía Đông là dải bờ biển dai 102 km có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế biển. Đặc biệt có cảng nước sâu Nghi Sơn cho phép tàu trên 10 vạn tấn vào. Địa hình Địa hình Thanh Hoá tương đối phức tạp, thấp dần từ Đông sang Tây, chia thành 3 khu vực rõ rệt: - Vùng núi, tr._.ung du: Gắn liền với hệ núi cao Tây Bắc và hệ núi Trường Sơn phía Nam. Diện tích tự nhiên trên 800.000 ha (chiếm 2/3 của tỉnh).Độ cao trung bình vùng núi từ 600-700 m, độ dốc >25°, vùng trung du là 150-200m, 15- 20° - Vùng đồng bằng: Được bồi tụ bởi hệ thống sông Mã, sông Chu, sông Yên. Có độ cao trung bình từ 5-15m, xen kẽ các đồi núi đá vôi độc lập. Một số nơi có địa hình trũng độ cao 0 -1m. -Vùng ven biển: Chạy dọc theo bờ biển, có nhiều vùng sình lầy. Vùng vát ven biển phía trong các bãi cát có độ cao trung bình từ 3- 6m, ở phía Nam có dạng sống trâu do các dãy đồi kéo dài ra biển. Đặc điểm địa hình Thanh Hoá rất đa dạng và phong phú cho phép phát triển nông, lâm ngư nghiệp toàn diện, dễ dàng chuyền dịch cơ cấu trong nội bộ từng ngành. Tài nguyên khí hậu Thanh Hoá nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa đông lạnh và một thời kỳ khô nóng gió Tây vào mùa hạ gây bất lợi cho sản xuất và đời sống. Nhiệt độ trung bình năm vào khoảng 23-24°c ở vùng đồng bằng và giảm dần khi lên vùng núi. Lượng mưa phân bố không đều trên các vùng lãnh thổ, trung bình từ 1600- 2000mm, số ngày mưa từ 130- 150 ngày, các tháng có nhiều mưa lũ là từ tháng 8-10, tập trung đến 60-80% lượng mưa cả năm nên dễ dàng gây ra lũ lụt. Đặc điểm khí hậu thời tiết Thanh Hoá: lượng mưa lớn, nhiệt độ cao, ánh sáng dồi dào là điều kiện cho phát triển sản xuất như nông lâm ngư nghiệp. Song cũng cần chú ý các hiện tượng bất lợi như lụt, bão, nắng nóng... Tài nguyên đất Diện tích tự nhiên 1.116.833 ha của Thanh Hoá gồm 10 nhóm đất chính với 28 loại đất khác nhau, các nhóm đất có diện tích tương đối lớn gồm: -Nhóm đất đỏ vàng: diện tích 647.768 ha, chiếm 58% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, thích hợp cho phát triển cây công nghiệ dài ngày, cây ăn quả và cây lâm nghiệp. - Nhóm đất phù sa bồi tụ: phân bố chủ yếu ở các huyện vùng đồng bằng. Diện tích 144.729 ha, thích hợp cho trồng lúa, màu, cây công nghiệp ngắn ngày. - Nhóm đất mặn và đất cát: phân bố tập trung ở các vùng ven biển Ngoài ra còn có các loại nhóm đất khác như đất đỏ vàng trên núi, đất bạc màu, đất xói mòn... Hiện taị đã sử dụng vào sản xuất nông nghiệp đạt 22%, diện tích có rừng đạt 30% đất tự nhiên toàn tỉnh. Ngoài ra còn có các loại bãi bồi đã ổn định diện tích, bãi bồi đang lấn biển... Tóm lại, tài nguyên đất của Thanh Hoá đất đa dạng thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp toàn diện, đa dạng hoá sinh học cả nông lâm ngư nghiệp. Tài nguyên rừng Đến nay rừng Thanh Hoắ có 405.715 ha trong đó rừng tự nhiên chiếm 322.003 ha, rừng trồng chiếm 830710 ha. Rừng thanh Hoá chủ yếu là rừng lá rộng, có hệ thực vật phong phú đa dạng về họ loài, như lát, pưmu, luồng nứa, vầu... Động vật rừng có các loài như voi, bò tót, nai, hoẵng... các loài bò sát như trăn, rắn, rùa, tê tê... Nhìn chung rừng giàu và trung bình hiện nay còn phân bố trên các dãy núi cao ở biên giới Việt Lào ở độ cao trên 700-1200m. Các vùng rừng ở độ cao dưới 700m gần trục đường giao thông và khu dân cư thường là rừng nghèo vì bị khai thác quá mức. Đáng chú ý là vùng tre nứa phân bố ở các huyện miền núi thấp là nguồn nguyên liệu giấy, bao bì, các tông...cần được khai thác sử dụng. Trữ lượng rừng còn khá lớn, song điều kiện khai thác ngày càng khó khăn, kết hợp với chủ trương đóng cửa rừng của Nhà nước nên khả năng khai thác trong những năm tới sẽ bị hạn chế, chủ yếu là rừng trồng (khoảng 100.000m³ gỗ tròn/năm). Tài nguyên nước Thanh Hoá có hệ thống sông suối dày đặc với 4 hệ thống sông chính là sông Mã, sông Bạng, sông Yên và sông Hoạt với tổng lượng nước trữ trung bình hàng năm là 19,52 tỷ m³. Riêng hệ thống sông Mã, trữ lượng điện năng lý thuyết đạt tới 12 tỷkw/h. Tuy nhiên hiện nay việc khai thác nguồn nước mặt đang gặp phải nhiều khó khăn do nguồn nước mặt bị hạn chế, đôi khi chính nó còn gây ra tác hại như úng, lụt. Nguồn nước ngầm qua một số thăm dò của các huyện thị xã như thành phố Thanh Hoá, thị xã Bỉm Sơn...cho thấy chất lượng và trữ lượng nước ngầm đảm bảo sử dụng tôt cho sản xuất công nghiệp và sinh hoạt. Đánh giá chung nguồn nước ở Thanh Hoá là dồi dào, bao gồm cả tiềm năng nước mặt và nước ngầm, có thể sử dụng tốt cho phát triển công nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải và sinh hoạt của nhân dân. Tài nguyên biển Thanh Hoá có 102 km bờ biển hình cánh cung, chạy dài tứ Cửa Đáy (tỉnh Ninh Bình) đến Đông Hồi (Tĩnh Gia) và vùng lãnh hải rộng lớn, diện tích 1,7 vạn km². Dọc bờ biển có 7 cửa lạch lớn nhỏ tạo điều kiện cho giao thông thuỷ, tàu thuyền đánh cá ra vào, tụ điểm giao lưu kinh tế, trung tâm nghề cá của tỉnh, ở những cửalạch là những bãi bồi bùn, cát rộng hàng chục ngàn ha để nuôi trồng hải sản, cói, cây chắn sóng.... Đáy biển gần bờ có độ dốc thoải và bằng phẳng, có điều kiện thiên nhiên thuận lợi với các loại đặc sản hải sản quý hiếm. Theo số liệu điều tra và qua thực tế từ năm 1986 đến nay có thể đánh giá về nguồn lợi thuỷ sản như sau: nguồn lợi cá nổi từ 50.000 -60.000 tấn, chủ yếu là cá nục, ngừ, thu, chim... khả năng khai thác hàng năm 20.000-25.000 tấn, nguồn lợi cá đáy có trữ lượng 30.000-40.000 tấn, hàng năm khai thác được từ 15.000- 20.000 tấn, tập trung chủ yếu ở vùng ngoài khơi, tôm 30000 tấn, mực 10.000 tấn... Diện tích nước mặn khoảng 10.000 ha phân bố chủ yếu ở vùng đảo Mê, Biện Sơn có thể nuôi cá song, cá cam, trai ngọc, tôm hùm... Tài nguyên khoáng sản Khoáng sản Thanh Hoá rất đa dạng, có tởi 42 loại, nhiều loại có trữ lượng lớn so với cả nước như đá vôi làm xi măng, đá ốp lát, sét, crôm... Là tỉnh giàu về nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng và nguyên liệu làm gốm sứ, thuỷ tinh, như đá vôi làm xi măng370 triệu tấn, sét làm xi măng 80 triệu tấn, đá ốp lát 2-3 tỷ m³, cao lanh 1 triệu m³... Khoáng sản kim loại: bao gồm cả kim loại đen và kim loại màu, quý. Kim loại đen có quặng sắt mangan, quặng ti tan trữ lượng khoảng 80 nghìn tấn. Quặng crôm trữ lượng 21,898 triệu tấn và là duy nhất của cả nước. Kim loại màu có các loại như thiếc, đồng, vàng sa khoáng, vàng gốc trữ lượng trên 10 tấn nhưng chưa được khảo sát tìm kiếm đúng mức. Khoáng sản dùng làm nguyên liệu cho phân bón, trợ dung, hoá chất và các nguyên liệu khác như: phốtphorit trữ lượng 1 triệu tấn, chất lượng trung bình. Secpentin, trữ lượng 15 triệu tấn, chất lượng khá tốt. Đôlômit trữ lượng 4,7 triệu tấn. Khoáng sản than: trữ lượng than đá thấp, chỉ phát triển được những mỏ nhỏ, chất lượng thấp, non. Trữ lượng than bùn lớn, có trên 2 triệu tấn phân bố rãi rác trong tỉnh, tương lai là nguyên liệu chính sản xuất phân bón vi sinh. Tài nguyên du lịch. Khá phong phú và đa dạng, có thể đáp ứng nhu cầu cho khách du lịch trên nhiều mặt: thiên nhiên kỳ thú, nhiều danh lam thắng cảnh có từ miền núi đến đồng bằng, ven biển và hải đảo. Đó là những bảo tàng thiên nhiên ít nơi có được như vườn quốc gia Bến En, sân chim Tiến Nông, Sầm Sơn... Về lịch sử, đây là miền đất có nền văn hoá Đông Sơn, có nhiều danh nhân văn hoá đã để lại nhiều dấu ấn và di tích. Có di tích đã được Chính Phủ phê duyệt cho trùng tu tôn tạo ở quy mô cấp quốc gia như khu di tích Lam kinh, Hàm rồng- Nam Ngạn... Sự gắn bó giữa thiên nhiên kỳ thú với các địa danh và di tích lịch sử, các vùng kinh tế và các khu công nghiệp tập trung đang hình thành là động lực thúc đẩy ngành công nghiệp không có khói của Thanh Hoá phát triển. 1.2. Kinh tế xã hội Nguồn nhân lực. Dân số: theo kết quả điều tra dân số cả nước (1/4/99) dân số Thanh Hoá có tới 3,467 triệu người, dân số trung bình năm 2001 là 3,592 triệu người.Trong đó nam chiếm 48,6% nữ chiếm 51,14%, thành thị chiếm 9,27%, nông thôn chiếm 90,13%; miền núi chiếm 28,5% miền xuôi chiếm 71,5%. Phân bố dân cư không đồng đều giữa các vùng, đồng bằng và đô thị mật độ dân số cao. Lao động: năm 200 dân số trong độ tuổi lao đông có 1,948 triệu người, chiếm tỷ lệ 54,6% tổng dân số toàn tỉnh, trình độ văn hoá và chuyên môn kỹ thuật của người lao động thấp. Theo kết quả điều tra lao động việc làm năm 2000 tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân của tỉnh có 1,503 triện người thì tỷ lệ lao động chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học là 13,26%, tốt nghiệp tiểu học và trung học cơ sở là 70,11%, tốt nghiệp phổ thông trung học chỉ có 16,63%. Theo kết quả điều tra năm 2000 lực lượng lao động có trình độ chuyên môn của tỉnh mới đạt 19,18% trong đó: - Đại học, cao đẳng và trung họ chuyên nghiệp: 9% - Công nhân kỹ thuật có nghề: 10,18% Nguồn lao động trẻ dồi dào, lao động dưới 30 tuổi chiếm tỷ lệ cao. Là tỉnh có đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ khá, tuy nhiên trong cơ chế thị trường tỉnh vẫn thiếu các nhà doanh nghiệp giỏi kể cả trong và ngoài quốc doanh. Hơn nữa chấtlượng lao động không đồng đều giữa các vùng miền trong tỉnh, vì vậy cần có chính sách đào tạo và đào tạo lại nguồn lao động để có thể tiếp cận và thích nghi với cơ chế thị trường, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hoá của tỉnh. Trình độ phát triển kinh tế Cùng với nhịp độ phát triển chung cả nước, từ nam 1990 đến nay Thanh Hoá đã có những thay đổi đáng kể trên các lĩnh vưc phát triển kinh tế. Nhìn nhận chung cho thấy: Giai đoạn 1986-1990 tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm, sản xuất không ổn định, có năm giảm sút. Giai đoạn 1991-1995 có tốc độ tăng trưởng khá, tăng trưởng GDP bình quân năm đạt 7%. Từ năm 1996 đến nay mặc dù gặp không ít khó khăn nhưng tốc độ tăng trưởng bình quân vẫn đạt mức 7,3%. Các ngành dịch vụ tăng nhanh hơn các ngành sản xuất vật chất. Kinh tế quốc doanh tăng chủ yếu ở các doanh nghiệp có quy mô lớn. Quốc doanh địa phương phát triển không vững chắc, nhiều cơ sở sản xuất không ổn định. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh quy mô nhỏ bé, cơ sở vật chất nghèo nàn, sản phẩm làm ra chất lượng thấp kém, không đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường truy được khuyến khích nhưng còn chậm. Đây là vấn đề chủ yếu sự tăng trưởng kinh tế cao của Thanh Hoá. Kết cấu hạ tầng Mạng lưới giao thông: Thanh Hoá là tỉnh có hệ thống giao thông tương đối đa dạng, bao gồm: giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ. - Đường bộ: toàn tỉnh có 7725 km đường bộ bao gồm đường quốc lộ và đường tỉnh lộ, đường lên liên xã, mật độ đường bộ là 69km/100 km² và2,21 km/1000 dân. Mật độ phân bố không đồng đều, chưa đáp ứng được nhu cầu cho phát triển. - Đường thuỷ: mạng lưới giao thông đường thuỷ rất thuận tiện cho việc vận chuyển giao lưu hàng hoá. Toàn tỉnh có 4 hệ thống sông với chiều dài 1.768km, 6 cửa lạch lớn nhỏ và 102 km đường bờ biển. Hiện tại Thanh Hoá chưa có cảng lớn chỉ có 1 cảng sông 300.000 tấn/năm. Ngoài ra Thanh Hoá còn có 82 km đường sắt và quốc lộ 1A dài 98 km xuyên suốt chiều dài của tỉnh là điều kiện thuận lợi cho giao thông buôn bán. Mạng lưới điện: đã phát triển khá, trên địa bàn có 1 trạm 220kv Ba Chè với công suất 125MVA, 4trạm 110 kv đang vận hành với tổng công suất 160 MVA, 105km đường dây 110kv. Ngoài ra còn có đường dây 550 kv đi qua. Nhìn chung thuận lợi về nguồn điện, điện áp và đường dây. Tuy nhiên mạng lưới điện hạ thế cũ, hư hỏng nhiềutỷ lệ thất thoát lớn, chưa đáp ứng được nhu cầu điện cho sản xuất và đời sống nhân dân trong tỉnh. Thông tin liên lạc: đang từng bước hiện đại hoá phục vụ cho phát triển kinh tế và nâng cao đời sống. Hệ thống bưu chính viễn thông những năm gần đây được đổi mới nhanh chóng, bổ sung nhiều trang thiết bị hiện đại. Do vậy, các dịch vụ thông tin, liên lạc đảm bảo thuận tiện, kịp thời và thông suốt. Nhìn chung kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội trong những năm vừa qua đã được tỉnh quan tâm đầu tư, cải tạo nâng cấp, song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển và nâng cao đời sống của dân. So với các tỉnh thành trong cả nước thì còn thấp kém, phân bố không đều. Đây là vấn đề cần được quan tâm giải quyết và tập trung đầu tư trong thời gian tới. 1.3. Tiềm năng và hạn chế Những lợi thế so sánh - Thanh Hoá có vị trí địa lý tương đối thuận lợi, là cửa ngõ nối liền Bắc Bộ với Trung Bộ và Nam Bộ, có quốc lộ 1A đi qua.... là điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế. - Là tỉnh có 4 vùng sinh thái rõ rệt: vùng ven biển, vùng đồng bằng, vùng trung du và miền núi sẽ tạo cơ sở cho sự phong phú, đa dạng về sản phẩm, tạo thế bổ sung lẫn nhau giữa các vùng miền trong tỉnh, phát triển thương mại, dịch vụ ít nhất là trong phạm vi nội tỉnh. - Tài nguyên thiên nhiên phong phú đa dạng. Khả năng mở rộng diện tích sản xuất nông- lâm- ngư nghiệp còn lớn. Giàu nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng, nguyên liệu giấy, sợi, lương thực, thực phẩm. - Thanh Hoá là 1 tỉnh đông dân, có nguồn lao động dồi dào, trình độ dân trí đã được nâng lên, đội ngũ cán bộ khoa học quản lý đông đảo, có hệ thống giáo dục toàn diện toàn tỉnh từ mần non đến đại học, nếu được phát huy sử dụng tốt sẽ là nguồn động lực cho sự phát triển. - Thanh Hoá là một trong số ít tỉnh trong cả nước đạt sản lượng lương thực trên 1 triệu tấn/năm. Căn bản tự túc lương thực bước đầu có lương thực hàng hoá là điều kiện thuận lợi để tiến hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát huy hiệu quả trong kinh tế thị trường. Những khó khăn và thách thức - Tài nguyên thiên nhiên phong phú đa dạng, song mức độ còn thấp. Nền kinh tế của tỉnh còn nặng tính "thuần nông". Trong khi tỷ trọng nông nghiệp trong GDP của cả nước năm 2000 là 24,3% thì Thanh Hoá là 39,9%, dân số nông thôn theo số liệu điều tra dân số ngày 1/4/1999 cả nước chiếm 76,5% còn Thanh Hoá là 90,8%. - Điểm xuất phát kinh tế thấp, thể hiện ở mức bình quân GDPđầu người đến năm 2000 mới đạt 292 USD trong khi bình quân chung của cả nước là 390USD. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn chậm, chưa có tích luỹ đáng kể từ nội bộ kinh tế. Tổng thu mới đáp ứng được trên 50% chi, còn lại trung ương hỗ trợ. - Là tỉnh có dân số đông, tốc độ tăng tự nhiên còn cao đang là áp lực lớn trong khi nền kinh tế phát triển chậm. Đội ngũ lao động có tay nghề cao còn quá ít, lao động thiều và không có việc làm ngày càng cao, đời sống nhân dân tuy có bước cải thiện song số hộ nghèo, đói vẫn còn cao trong tỉnh. - Kết cấu hạ tầng xã hội thấp kém, đặc biệt là vùng miền núi phức tạp, chia cắt mạnh, hệ thống điện đường trường trạm còn gặp nhiều khó khăn, đến nay vẫn còn 2 huyện miền núi chưa có điện quốc gia. - Nằm tiếp giáp với vùng trọng điểm Bắc bộ là thách thức lớn đối với Thanh Hoá về khả năng cạnh tranh, gọi vốn đầu tư, tìm kiếm thị trường. Yếu tố thông tin kinh tế còn hạn chế so với các trung tâm kinh tế lớn như Hà Nội, Hải Phòng... 2. Thực trạng cơ cấu kinh tế của tỉnh Thanh Hoá đòi hỏi phải chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Trong những năm qua, Thanh Hoá đã có những giải pháp chính sách phát triển trương đối phù hợp với tình hình kinh tế của tỉnh, tuy nhiên quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế diễn ra còn chậm. Sự chuyển dịch trong nông nghiệp, công nghiệp không đáng kể, dịch vụ có sự phát triển nhưng nói chung chưa phù hợp với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cơ cấu ngành kinh tế hiện nay của Thanh Hoá vẫn là nông- công nghiệp- dịch vụ. Trong những năm tới Thanh Hoá phải hết sức nỗ lực để thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá tỉnh. Ngành công nghiệp là ngành giữ vị trí quan trọng nhưng nó lại chưa thực sự phát triển, có thể nói là kém. Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp hiện nay mới chỉ chiếm 29,8% trong tổng GDP của toàn tỉnh. Cơ cấu công nghiệp đã hình thành các ngành như: công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến, công nghiệp điện nước... đã có sự phát triển nhưng tốc độ còn rất thấp so với các tỉnh khác và so với tốc độ phát triển của cả nước. Vốn đầu tư cho công nghiệp vẫn còn nhiều bất cập so với nhu cầu phát triển, khả năng quản lý yếu kém và thu hồi vốn đầu tư trong công nghiệp là khó khăn. Ngành nông nghiệp là ngành có vai trò chủ đạo trong kinh tế của Thanh Hoá, tuy tỷ trọng nông nghiệp trong tổng thu nhập quốc dân của tỉnh là lớn, hiện nay nó chiếm 37% trong tổng GDP của tỉnh, nhưng năng suất lao động thấp, xu hướng chuyển đổi giống cây trồng chậm, chưa rộng rãi, cơ cấu nội bộ ngành chưa hợp lý. Trong nông nghiệp ngư nghiệp mặc dù có tiềm năng lớn nhưng chưa được đầu tư phát triển mạnh, sản xuất ngư nghiệp chủ yếu dựa vào khai thác thuỷ sản chiếm 65%, nuôi trồng thuỷ sản chưa phát triển mạnh chỉ chiếm có 23%. Ngành dịch vụ có sự phát triển, chiếm tỷ trọng 33,2% năm 2002 trong tổng sản phẩm quốc dân trong tỉnh. Nhưng chủ yếu vẫn là buôn bán thương mại (trao đổi hàng hoá dịch vụ), các dịch vụ sản xuất thực hiện vai trò thúc đẩy các ngành khác chưa phát triển, các dịch vụ thương mại khác đều chưa phát triển mạnh, du lịch đã hình thành các khu nghỉ dưỡng nhưng chưa thật sự thu hút được nhiều khách tham quan. Trước những thực trạng đó đặt ra yêu cầu là thúc đẩy hơn nữa quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Thanh Hoá theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì mới có thể phát triển được, thoát khỏi vòng nghèo nàn lạc hậu, tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế so với các tỉnh khác và so với cả nước, và đặc biệt là đối với tiềm năng phong phú, Thanh Hoá cũng cần phải xác định cho mình một cơ cấu ngành hợp lý để khai thác tối đa và hiệu quả các tiềm năng, tài nguyên thiên nhiên của tỉnh. III. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của một số địa phương. Chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng tích cực có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp phát triển kinh tế của một quốc gia nói chung và của từng địa phương nói riêng. Từ những năm đổi mới nền kinh tế, Đảng và Nhà nước ta đã đề cao vấn đề này. Trong những năm qua từng địa phương cùng với cả nước ra sức thực hiện, từng địa phương đã đạt được kết quả nhất định, nhưng bên cạnh đó vẫn còn những yếu kém cùng song song và tồn tại đây là một điều không thể tránh khỏi đối với một quốc gia nào, hay địa phương nào. Để từ đó rút ra được kinh nghiệm cho mình và cho các tỉnh bạn. Với số lượng tài liệu có hạn, đề tài xin nêu ra một số kinh nghiệm từ việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của 2 tỉnh đó là tỉnh Nghệ An và tỉnh Hà Nam, đây là 2 tỉnh mà có điều kiện tự nhiên gần với tỉnh Thanh Hoá nhất. 1. Tỉnh Nghệ An. Đây là tỉnh nằm tiếp giáp với Thanh Hoá về phía Nam, cũng là tỉnh đất rộng người đông, xuất phát điểm của nền kinh tế thấp. Trong những năm qua mặc dù gặp nhiều khó khăn trong công tác quản lý vĩ mô, phân bổ đầu tư cũng như thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài và đặc biệt là lũ lụt miền trung... nhưng với sự nỗ lực phấn đấu của các cấp lãnh đạo cùng toàn thể nhân dân trong tỉnh, quá trình phát triển kinh tế tỉnh Nghệ An có xu hướng đi lên tuy nhiên vẫn còn ở một mức độ nhất định. Cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh đã có sự thay đổi đúng hướng: tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 49,15 năm 1995 xuống còn 44,27% năm 2000, tương ứng với nó là sự gia tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ tăng từ50,9% năm 1995 (công nghiệp 14,23%, dịch vụ 36,69%) lên 55,7% năm 2000 (công nghiệp 18,6%, dịch vụ 37,11%). Các ngành và các lĩnh vực chủ yếu đều tăng trưởng và có sự chuyển dịch cơ cấu nội ngành theo hướng tích cực. Kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn có nhiều chuyển biến khá. Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân hàng năm là5,3%. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã có bước chuyển dịch đúng hướng: nông nghiệp đạt 82%, ngư nghiệp 7%, lâm nghiệp 11%. Bước đầu hình thành sản xuất hàng hoá theo hướng tập trung. Công nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm giai đoạn 1996-2000 là 13,3%, trong đó công nghiệp tăng 13,1%, xây dựng tăng13,6%. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP đạt 18,6% vào năm 2000. Thời gian qua công nghiệp phát triển đúng hướng, tỉnh đã chú trọng phát triển mạnh một số ngành công nghiệp có lợi thế so sánh. Dịch vụ Nghệ An có nhịp độ tăng trưởng hàng năm là 7,1% (cả nước là 7%), kinh tế hàng hoá phát triển, thị trường được mở rộng. Năng lực kinh doanh khá, đáp ứng cơ bản và kịp thời dịch vụ cho sản xuất và đời sống của nhân dân trong tỉnh. Các mối quan hệ thương mại, dịch vụ trong và ngoài nước có sự khởi sắc. 2. Tỉnh Hà Nam Hà Nam là một tỉnh thuộc đồng bằng Bác Bộ, cách thủ đô Hà Nội gần 60 km về phía Nam. Trong những năm qua cùng với nhịp độ tăng trưởng cả nước, Hà Nam tuy mới được thành lập nhưng cũng đã có nhiều sự chuyển biến tích cực rõ rệt trong nền kinh tế. Cùng với đó là sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đã có sự tiến bộ đáng kể. Tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm tương đối trong giai đoạn 1995- 2000 từ 52,645 xuống còn 40,3%. Tuy nhiên với tỷ trọng này thì nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng khá cao, gây cản trở cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng ngành công nghiệp mới chỉ chiếm 24,3% vào năm 2000. Nổi bật lên trong công nghiệp là sự tăng nhanh của công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm, công nghiệp vật liệu xây dựng. Tỷ trọng ngành dịch vụ chiếm 35,4%. Tuy nhiên sự thay đổi của ngành này trong giai đoạn vừa qua là không đáng kể nhưng không có nghĩa là ngành này không tăng trưởng mà nó còn tăng trưởng mạnh qua các năm nhất là các hoạt động thương mại và các dịch vụ vận tải, bưu chính viễn thông, khách sạn nhà hàng... Trong những năm qua các tỉnh đều có sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế một cách hiệu quả, đạt được kết quả như vậy là do các tỉnh đã xác định được các hướng đi cho các ngành kinh tế: - Đối với nông nghiệp: phát triển nông nghiệp trong khả năng cho phép đảm bảo an toàn lương thực và tạo cơ sở cho ngành công nghiệp chế biến, phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa. - Đối với công nghiệp: đầu tư vào những ngành nghề có hiệu quả kinh tế cao, tạo giá trị lớn, có thị trường tiêu thụ và đặc biệt là thị trường xuất khẩu. Ưu tiên những ngành nghề khai thác được tiềm năng tài nguyên, tạo nguyên liệu và sản phẩm phong phú, giải quyết được nhiều việc làm cho dân. - Đối với dịch vụ: phát triển mạnh ngành thương mại, đẩy nhanh hoạt động xuất khẩu của tỉnh, phát triển du lịch trên cơ sở khai thác đồng thời phát triển các loại hình dịch vụ khác như tài chính ngân hàng, thông tin viễn thông, giao thông vận tải... - Cải tạo và nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng: điện khí hoá nông thôn, thực hiện kiên cố hoá kênh mương, nâng cấp hệ thống đường giao thông nông thôn.... Với hướng đi cho các ngành như vậy nên trong thời gian qua cơ cấu ngành kinh tế của các tỉnh đã có những chuyển biến tích cực và tiến bộ. Bên cạnh đó vẫn còn nhiều tồn tại khó khăn cần khắc phục. Chương II Thực trạng về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế củatỉnh Thanh Hoá trong thời kỳ 1996 đến 2002 I.Tình hình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Thanh Hoá. 1. Tăng trưởng kinh tế. Sau năm 1991, nền kinh tế của cả nước đã đi vào ổn định và có tăng trưởng khá, từng bước hoà nhập và phát triển theo cơ chế thị trường có sự định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những năm đầu của mở cửa, Thanh Hoá đã đạt được tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 6,7%, giải quyết cơ bản vấn đề lương thực, thu ngân sách đã đạt 500 tỷ đồng, thu hút được các dự án đăng kỹ đầu tư nước ngoài: 500 triệu USD. Phát huy được những thành tựu đạt được, nền kinh tế của tỉnh tiếp tục tăng trưởng: 1996-2000 đạt 7,3%/năm. Song do xuất phát điểm thấp, GDP bình quân đầu người của Thanh Hoá mới chỉ bằng 70-75% mức trung bình cả nước, nên nếu duy trì tốc độ tăng trưởng như trên sẽ tụt hậu so với cả nước. Do vậy đến năm 2002 tốc độ tăng trưởng GDP của tỉnh đạt 9,25%, nó báo hiệu theo chiều hướng tốt cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. 2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cũng như nhiều tỉnh ở phía Bắc, lịch sử phát triển kinh tế của Thanh Hoá đã để lại một cơ cấu kinh tế không mấy thuận lợi cho sự phát triển nhanh với một cơ cấu kinh tế hiện nay: 37 % GDP là từ nông nghiệp, công nghiệp với sự giới hạn về số lượng xí nghiệp và quy mô chỉ chiếm 29,8% GDP, còn dịch vụ chiếm 33,2% so với tổng sản phẩm (GDP) của tỉnh. Trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng bình quân về nông nghiệp và công nghiệp của tỉnh Thanh Hoá đã từng bước đuổi kịp mức trung bình của cả nước, nhưng chưa đạt tốc độ cao và đồng bộ. Do vậy nó hạn chế đến sự phát triển nhanh của ngành dịch vụ. Cơ cấu kinh tế của tỉnh đã có bước chuyển dịch theo xu hướng chung của cả nước là giảm tỷ trọng GDP nông lâm ngư, tăng tỷ trọng GDP công nghiệp, xây dựng và dịch vụ song tốc độ chuyển đổi còn chậm, cơ cấu chưa thật hợp lý. 3. Đầu tư phát triển. Tổng vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh thời kỳ 1996-2000 là 14.620 tỉ đồng. Đến năm 2002 tổng đầu tư trên địa bàn là 35.000 tỷ đồng. Cơ cấu huy động vốn đầu tư có những thay đổi đáng kể, tỷ lệ huy động đầu tư ngoài ngân sách ngày một tăng. Cùng với sự thay đổi của cơ cấu huy động vốn là sự thay đổi của cơ cấu vốn đầu tư. Trước kia, khi mới bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới đầu tư chủ yếu tập trung cho các công trình sản xuất chiếm 75%; tập trung cho cơ sơ hạ tầng chiếm 74% tổng vốn đầu tư; thời kỳ 1996-2000 tập trung cho sản xuất công nghiệp chiếm tỉ lệ 61%, đầu tư một tỷ lệ thoả đáng cho cơ sở hạ tầng.Cơ cấu đầu tư chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, tạo thêm năng lực sản xuất mới đáp ứng ngày càng tốt hơn đời sống của nhân dân. Sự thay đổi cơ cấu vốn đầu tư đã bước đầu góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đưa kinh tế của tỉnh Thanh Hóa dần dần hoà nhập với xu thế chung của cả nước và các tỉnh . Công tác đầu tư nhìn chung đúng hướng, nhiều công trình đã phát huy được hiệu quả, thu hồi được vốnvà đã có đóng góp cho ngân sách. Tuy vậy bên cạnh đó còn những tồn tại yếu kém: tổng vốn đầu tư chưa đạt với mục tiêu đề ra, tiến độ thi công các công trình còn chậm nên hiệu quả chưa cao, một số công trình hiệu qủa thấp. 4. Hoạt động xuất nhập khẩu. Giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2000 đạt 34,5 triệu USD, năm 2002 ước tính là 57,5 triệu USD. Những năm gần đây tỉnh có xuất khẩu được một số mặt hàng nhưng nhìn chung hoạt động xuất khẩu vẫn là trì trệ kéo dài chỉ đạt 18% so với mục tiêu đề ra, mặt hàng xuất khẩu không vững chắc, thị trường còn nhỏ. Thương nhân tham gia xuất khẩu còn ít. Đầu tư cho các cơ sở sản xuất kinh doanh và chế biến hàng xuất khẩu chưa được như ý đúng mức, các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu chưa nhiều. Mặt hàng xuất khẩu còn nghèo nàn, nặng về thu gom, chưa có mặt hàng chủ lực, phần lớn là nông sản chưa qua chế biến. Thời gian trước đây, giá trị nhập khẩu liên tục tăng, các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là ô tô, sắt thép, xe máy, phân đạm, máy thu thanh, dầu thực vật..., trong tổng kim ngạch nhập khẩu tỉnh đã giành 82,5% để nhập khẩu tư liệu sản xuất. Đến giai đoạn 1996-2000 tổng kim ngạch nhập khẩu của tỉnh có tăng lên đôi chút, bình quân năm trong giai đoạn này đạt 25,76 triệu USD/năm. Trong những năm qua kinh tế Thanh Hoá tuy đã có sự chuyển dịch theo cơ chế thị trường, song mức độ trao đổi hàng hoá của kinh tế Thanh Hoá đối với thị trường còn thấp (kể cả trong nước) đặc biệt là thị trường quốc tế. 5. Thu chi ngân sách. Thu ngân sách trên địa bàn tỉnh tăng đều qua các năm: năm 1990 tổng thu 113 tỷ đồng, năm 1995 là 512,8 tỷ đồng, năm 2000 đạt 565 tỷ đồng, năm 2002 ước tính là 651,2 tỷ đồng. Nguồn thu chủ yếu là từ kinh tế quốc doanh chiếm tới 60%-70%, trong đó doanh nghiệp nhà nước trung ương thu gấp 3 đến 4 lần doanh nghiệp nhà nước địa phương. Nguồn thu từ thuế công thương nghiệp từ 8-10%, còn nguồn thu từ thuế sử dụng đất nông nghiệp chiếm khoảng 11%-13%. Các ngành công nghiệp, dịch vụ có tỉ lệ nộp ngân sách và tỉ lệ động viên tài chính trong GDP lớn, còn các ngành khác thì thấp hơn. Trong những năm gần đây, lĩnh vực thu khá như là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, thuế công thương nghiệp ngoài quốc doanh, thu cấp quyền sử dụng đất, thu phí và lệ phí. Tổng chi ngân sách trên địa bàn hàng năm trong thời kỳ 1996-2000 là trên 1000 tỷ đồng, bằng 1,4 lần tổng thu ngân sách: thu không đủ chi. Cũng trong thời kỳ này do tỉnh đầu tư nhiều cho xây dựng cơ sở hạ tầng, một số công trình hoàn thành chậm, các chính sách về thu có những thay đổi... nên thu ngân sách thấp, có năm còn giảm., không tăng cùng chiều với phát triển kinh tế. Trong đó nhu cầu chi ngân sách địa phương ngày một tăng, phải vào ngân sách trung ương trợ cấp ngày càng lớn. 6. Đời sống kinh tế và xã hội Đời sống nhân dân trong tỉnh Thanh Hoá nhìn chung ngày càng ổn định và từng bước được cải thiện do sản xuất phát triển, giá cả thị trường ổn định; các mặt văn hoá xã hội ngày càng được phát triển phục vụ đời sống tinh thần văn hoá ngày càng được nâng cao. Năm 1994 tỷ lệ hộ đói nghèo chiếm tỷ lệ 23,6% đến cuối năm 2000 tỷ lệ hộ đói nghèo còn 14%. Mức sống dân cư trong tỉnh theo thu nhập bình quân đầu người hiện tại vẫn ở dưới mức trung bình của cả nước. Thu nhập bình quân của các tầng lớp dân cư giữa các khu vực thành thị và nông thôn, giữa vùng đồng bằng và miền núi có khoảng chênh lệch khá lớn. Tỷ lệ hộ đói nghèo chủ yếu ở nông thôn và ở miền núi. II. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Thanh Hoá từ năm 1996 đến năm 2002. 1.Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nói chung. Để đánh giá đúng thực trạng cơ cấu ngành kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, đề tài sẽ đi phân tích thực trạng cơ cấu ngành và sự chuyển dịch của nó trên các mặt sau: 1.1. Cơ cấu ngành kinh tế theo GDP. Trong những năm qua, các ngành kinh tế của tỉnh Thanh Hoá đã có sự chuyển dịch đúng hướng: Nâng cao tỷ trọng và tốc độ phát triển công nghiệp (công nghiệp và xây dựng) và dịch vụ, giảm tỷ trọng của nông nghiệp. Nhưng giá trị sản lượng nông nghiệp vẫn tăng lên. Số liệu ở bảng 1 phần nào thể hiện xu thế biến đổi tích cực của cơ cấu ngành kinh tế ở Thanh Hoá. Bảng 1: Cơ cấu ngành kinh tế của Thanh Hoá trong thời kỳ 1996-2002 Đơn vị: % 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Tổng số 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 1. Nông nghiệp 44 43,2 41,9 42,9 39,9 36,8 37,0 2. Công nghiệp 21,9 22,5 24,5 22,7 26,4 30,5 29,8 3. Dịch vụ 34,1 34,3 34,6 34,4 33,7 32,7 33,2 Nguồn: Cục thống kê Thanh Hoá Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế được thể hiện trên cơ sở có sự tăng trưởng khá và đều của toàn bộ nền kinh tế quốc dân và của cả ba ngành. Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy ngành nông nghiệp liên tục giảm tỷ trọng từ 44% năm 1996 xuống còn 37% vào năm 2002. Tỷ trọng ngành công nghiệp trong GDP tăng từ 21,9% lên đến 29,8%. Ngành dịch vụ liên tục tăng từ năm 1996 đến ._.00 tấn giấy và 50000tấn bột giấy/ năm, tổng vốn đầu tư 1469 tỷ đồng. + Dự án: Dệt, nhuộm, may. Tại khu công nghiệp Lễ Môn, với công suất 50.000 tấn/năm, tổng đầu tư 2000 tỷ đồng. + Dự án: Khu du lịch Sầm Sơn. Gồm khu nghỉ mát an dưỡng Sầm Sơn, khu du lịch văn hoá Trường Lệ, cụm du lịch sinh thái Quảng Cư. Tổng đầu tư: 255 tỷ đồng. + Khu du lịch Hàm Rồng. Năng lực công trình 500 ha, tổng đầu tư 400 tỷ đồng. + Đường Hồ Chí Minh qua Thanh Hoá. Đoạn đường thi công dài 116 km với tổng đầu tư 330 tỷ đồng. + Đường quốc lộ 10. Thực hiện với đoạn đường dài 43 km, tổng đầu tư 100 tỷ đồng. + Cảng biển Nghi Sơn. Được xây dựng tại nam đảo Nghi Sơn- huyện Tĩnh Gia với năng lực công trình 15 triệu tấn/năm, tổng đầu tư 2500 tỷ đồng. + Xây dựng đập thuỷ lợi sông Lèn. Tại huyện Hậu Lộc- Nga Sơn, năng lực công trình 16500ha,vốn 190 tỷ đồng. + Hồ đập thuỷ lợi- thuỷ điện Cửa Đạt Công trình được thực hiện trên sông Chu, tại huyện Thường Xuân. Năng lực công trình 78000ha, vốn đầu tư 5000 tỷ đồng. Công trình này đã được thực hiện đến năm 2000 là 10 tỷ đồng. + Trường Đại học Hồng Đức Năng lực công trình 8000 học sinh, tổng đầu tư 350 tỷ đồng, thực hiện từ năm 1998 đến 2010, đến năm 2000 thực hiện 20 tỷ đồng. + Trùng tu khu di tích Lam kinh, thành Nhà Hồ. Tổng đầu tư 100 tỷ đồng, đã thực hiện từ năm 1996 và đến năm 2000 đã thực hiện được 6 tỷ đồng. 2. Vốn đầu tư Chính sách đầu tư là một nhân tố quan trọng trong việc thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư. Vì vậy, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phải hoàn thiện chính sách này. Chính sách đầu tư bao gồm các nội dung: tạo vốn cho đầu tư phát triển, điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho phù hợp với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của nhà nước trong quá trình huy động và sử dụng các loại nguồn vốn khác nhau. 2.1. Trong khâu tạo vốn đầu tư cho chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế bao gồm có hai nguồn chính: - Huy động vốn trong nước: Cần có chính sách phù hợp để tạo vốn trong tỉnh, đây là nguồn vốn có ý nghĩa quyết định lâu dài, đảm bảo có đủ năng lực nội tại để đón nhận, lựa chọn và tham gia bình đẳng trong quan hệ hợp tác, đầu tư với nước ngoài. Hướng chính của tạo vốn trong nước là phải xây dựng cơ chế tiết kiệm trong tiêu dùng để đầu tư cho sản xuất, có biện pháp tích cực khuyến khích tất cả các thành viên kinh tế đầu tư để phát triển sản xuất, tăng dần tỷ lệ tích luỹ cho cơ sở hạ tầng trong cơ cấu chi ngân sách của tỉnh. Xây dựng định chế để hỗ trợ phát trỉên các doanh nghiệp vừa và nhỏ về các lĩnh vực tín dụng, tiếp thị, đào tạo, thông tin kinh tế. Đa dạng hoá các hình thức tạo vốn, đẩy mạnh việc cổ phần hóa và đa dạng các hình thức sở hữu trong các doanh nghiệp, huy động mọi nguồn tài nguyên, tài sản, tiền nhàn rỗi và tiềm năng của mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư để đầu tư vào sản xuất kinh doanh, sinh lời và phát triển kinh tế xã hội. Nguồn vốn trong nước có thể huy động bao gồm vốn của các doanh nghiệp, vốn từ các tổ chức phi doanh nghiệp và vốn của dân. Trong ba nguồn này thì nguồn từ các doanh nghiệp và dân cư là những chủ thể cần được đặc biệt khuyến khích trong những năm tới. - Huy động vốn nước ngoài: Vốn đầu tư bên ngoài có vị trí quan trọng,nhất là khi nguồn tích luỹ trong tỉnh còn thấp. Mở rộng các hình thức liên doanh theo luật đầu tư nước ngoài, trong đó chú trọng phát triển hình thức BOT. Nghiên cứu triển khai thí điểm phát hành trái phiếu, cổ phiếu ra nước ngoài và vay vốn tổng hợp của các định chế tài chính quốc tế. Cải thiện môi trường đầu tư, đơn giản hoá các thủ tục, quy trình thẩm định đầu tư, xét duyệt dự án đầu tư theo hướng một cửa..tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài vào làm việc dễ dàng, thuận tiện. Chuẩn bị tốt các dự án phát triển, các chương trình đầu tư và danh mục công trình cụ thể để tranh thủ nguồn vốn tín dụng của nước ngoài, vốn ODA, vay với lãi suất ưu đãi các tổ chức tài chính quốc tế: IMF, WB, ADB...tích cực kêu gọi Việt Kiều ta ở nước ngoài đầu tư về quê hương bằng nhiều hình thức. Việc thu hút đầu tư từ nước ngoài không chỉ tạo vốn mà còn là cơ hội để đổi mới công nghệ, đào tạo cán bộ kỹ thuật, lao động, quản lý hiện đại và mở rộng thị trường. Kiến nghị Nhà nước cho phép tỉnh có chính sách ưu tiên ưu đãi để tăng sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Trong những năm tới, để phục vụ cho mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nhanh, Thanh Hoá cần chú trọng khai thác các nguồn sau: + Nguồn vốn đầu tư tập trung từ ngân sách nhà nước. + Nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp. + Huy động vốn trong dân ( bằng các chính sách, chế độ hợp lý...) + Phát triển các hoạt động hợp tác quốc tế, liên doanh liên kết kinh tế để thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài. Quan điểm chung trong huy động vốn phục vụ chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là: Tranh thủ tối đa mọi nguồn lực để khai thác, đa dạng hoá hình thức huy động vốn, coi trọng khai thác nguồn vốn nội lực và dùng nội lực để lôi kéo ngoại lực vào phục vụ chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. 2.2. Trong khâu sử dụng vốn: Cần có chính sách sử dụng vốn của toàn xã hội có hiệu quả, nâng cao nhanh trình độ công nghệ và cơ sở vật chất nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu kinh tế xã hội. Coi trọng việc huy động khả năng về vốn trong tỉnh để phát triển mạnh các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhưng đồng thời cần đẩy nhanh hơn tích tụ và tập trung các nguồn vốn trong nước cũng như ngoài nước vào những ngành mũi nhọn của tỉnh và khu vực trọng điểm tạo ra sức bật nhanh cho toàn bộ nền kinh tê. Phải đầu tư thích đáng hơn cho xây dựng kết cấu hạ tầng để trong một thời gian ngắn khắc phục được tình trạng thiếu thốn và lạc hậu về cơ sở hạ tầng. Ngoài ra trong điều chỉnh cơ cấu đầu tư cần xem xét thường xuyên các ngành mũi nhọn, các ngành tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá để chuyển hướng mạnh mẽ từ đầu tư theo chiều rộng sang đầu tư theo chiều sâu trong tất cả các ngành kinh té, đưa nhanh tiến bộ kỹ thuật mới và các thiết bị máy móc mới vào sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường nội địa và bên ngoài. Nâng cao hiệu quả đầu tư có trọng điểm và dứt điểm vào các ngành then chốt, các ngành kết cấu hạ tầng... tạo đà phát triển bền vững ở giai đoạn sau, đồng thời đầu tư phát triển vào sản phẩm, ngành nghề có truyền thống như đá mỹ nghệ, đúc gia công kim loại. Việc xác định các ngành kinh tế trọng điểm mũi nhọn của Thanh Hoá có thể xem xét căn cứ vào điều kiện tự nhiên của tỉnh và trên cơ sở đó dự báo nhu cầu thị trường. Có thể xác định được một số ngành trọng điểm muĩ nhọn là: - Ngành công nghiệp chế biến từ các nguyên liệu của nông nghiệp như mĩa đường và sau đường, hoa quả tươi, giấy và bột giấy, chế biến thuỷ hải sản bao gồm cả tươi sống và đông lạnh. Theo đó để phát triển ngành công nghiệp chế biến cần đầu tư toàn diện cho nông nghiệp, đặc biệt là ngành cung cấp nguyên liệu. Đưa công nghệ vào nuôi trồng và khai thác các sản phẩm từ rừng, mở rộng diện tích các loại cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày, đồng thời đầu tư vào nghiên cứu tạo ra giống mới cho năng suất và chất lượng hiệu quả cao hơn. Tiếp tục đầu tư đồng bộ và có hiệu quả các đội tàu đánh bắt xa bờ theo chương trình đã được phê duyệt. Đẩy mạnh hình thức nuôi bán thâm canh, nuôi tôm công nghiệp theo Chương trình của Bộ Thuỷ sản. - Công nghiệp vật liệu xây dựng, trong đó mũi nhọn là xi măng, đá ốp lát. - Công nghiệp gia công xuất khẩu, sử dụng nhiều lao động như công nghiệp may và công nghiệp dệt, công nghiệp giày, giả da. Đối với Thanh Hoá đây là một lợi thế vì có nhiều lao động và nguyên liệu da cho công nghiệp da, giả da phát triển. Hướng tới cần tăng cường đầu tư mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng dệt may xuất khẩu, đầu tư xây dựng mới các xí nghiệp giày da và giày vải, xí nghiệp dệt kim tại thành phố Thanh Hoá, phục hồi nghề dệt lụa tơ tằm. 2.3. Tăng cường quản lý, Kiểm tra, kiểm soát của nhà nước đối với quá trình huy động và quản lý sử dụng vốn đầu tư trong quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. 3. Chuyển dịch cơ cấu lao động. Con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển. Trong những giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Thanh Hoá không thể thiếu giải pháp về đào tạo và sử dụng nguồn lao động. Cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố quyết định cho sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Trên thực tế, chúng ta chưa có sự ưu tiên nào cho đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực cả về số lượng, cơ cấu và chất lượng. Với Thanh Hoá, trình độ dân trí còn thấp, đặc biệt là vùng núi và vùng biển dân trí còn quá thấp thì việc đẩy mạnh giáo dục nhằm nâng cao dân trí càng có ý nghĩa hơn, cần được quan tâm và tập trung hơn nữa. Mặc dù trong những năm qua đã có những cố gắng và tiến bộ quan trọng trong phát triển nguồn nhân lực chưa được khai thác và quản lý tốt. Để chủ động phát triển nguồn nhân lực trong chiến lược, phải giải quyết đồng bộ mối quan hệ mật thiết với nhau cả 3 mặt: giáo dục, đào tạo con người; sử dụng con người và tạo việc làm. Trong những năm tới cần quan tâm đến chất lượng phổ cấp, thực hiện giáo dục cơ bản cho mọi người, tạo nên mặt bằng dân trí cho mở rộng đào tạo nhân lực. Phấn đấu đạt mặt bằng dân trí ở trình độ trung học cơ sở trên địa bàn tỉnh. 3.1 Chuyển dịch cơ cấu lao động phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Để đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá thì ngoài việc đáp ứng yêu cầu về vốn đầu tư và tăng nhanh nguồn vốn đầu tư, trang bị kỹ thuật hiện đại công nghệ cao, thì mặt khác cũng phải có một cơ cấu lao động hợp lý giữa các ngành. Thực tế cơ cấu lao động ở Thanh Hoá thời gian qua còn nhiều bất cập, tỷ trọng lao động làm việc trong ngành công nghiệp và dịch vụ quá nhỏ bé, lao động tập trung chủ yếu ở nông thôn là chính. Do vậy cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và chuyển dịch cơ cấu nguồn nhân lực theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá đảm bảo các yêu cầu: - Dịch chuyển cơ cấu nguồn lực phải gắn bó hữu cơ và phục vụ mục tiêu chuyển dịch cơ cấu lao động. Cơ cấu lao động hợp lý là điều kiện hợp lý để chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế hợp lý và đảm bảo tăng trưởng nhanh. - Chuyển dịch cơ cấu nguồn lực vừa đảm bảo yêu cầu phát triển các ngành, các lĩnh vực (cơ cấu ngành nghề), yêu cầu lao động kỹ thuật, tạo điều kiện phân bố và sử dụng lao động hợp lý. - Chuyển dịch cơ cấu nguồn lực phải nhằm nâng cao chất lượng lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh. Xuất phát từ yêu cầu trên, chuyển dịch cơ cấu nguồn nhân lực ở Thanh Hoá cần tập trung vào: - Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành, phải bám sát mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành của tỉnh.Theo đó lao động nông nghiệp và nông thôn giảm mạnh cả về tương đối và tuyệt đối để bổ sung lực lượng lao động cho công nghiệp, dịch vụ. - Song song với chuyển dịch cơ cấu số lượng là sự chuyển dịch cơ cấu về theo trình độ theo yêu cầu của ngành nghề mới, đặc biệt là các ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn. - Chuyển dịch cơ cấu phải đi liền với phân công sử dụng lao động chuyên môn kỹ thuật, phù hợp với mục tiêu phát triển và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. 3.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Mặc dù Thanh Hoá được công nhận là tỉnh hoàn toàn phổ cập giáo dục tiểu học và chống mù chữ và đang từng bước đưa mặt bằng dân trí lên trung học cơ sở trên địa bàn toàn tỉnh. Nâng cao dân trí để nâng cao chất lượng nguồn nhân lao động phục vụ chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.Do vậy phải đổi mới căn bản công tác đào tạo nguồn nhân lựctheo các hướng: - Tạo sự gắn bó tốt hơn giữa đào tạo và sử dụng, giữa đào tạo và thị trường lao động. Gắn giáo dục đào tạo với thị trường sức lao động, thực hiện xã hội hóa sự nghiệp đào tạo. Giành nguồn lực thích đáng, kể cả vốn vay để tập trung vào một số khâu, lĩnh vực giáo dục cần thiết, đồng thời có chính sách thu học phí và huy động sự đóng góp của những người sử dụng sức lao động được đào tạo, của cộng đồng, của những tổ chức kinh tế xã hội theo nguyên tắc: ai bỏ chi phí đào tạo thì được quyền sử dụng lao động đào tạo trong một thời gian nhất định. Nếu người được đào tạo không chấp hành buộc phải hoàn trả kinh phí đào tạo. - Củng cố và phát triển các trường dạy nghề, các trung tâm dạy nghề và xúc tiến việc làm, phát triển các trường đại học, trung học chuyên nghiệp. Phát triển mạnh mẽ hệ thống đào tạo thích hợp, có mục tiêu nội dung, phương pháp và quy mô thích hợp, có mục tiêu nội dung, phương pháp và quy mô thích hợp với yêu cầu phát triển hiện nay và trong tương lai gần, nhằm tạo nên lực lượng lao động cần thiết cho sự phát triển kinh tế xã hội của cả nước, góp phần giải quyết công ăn việc làm. cần ưu tiên đào tạo cho các ngành mũi nhọn, tạo những dịch chuyển lớn có chất lượng về cơ cấu lao động. - Điều chỉnh cơ cấu đào tạo theo hướng tăng cường đào tạo công nhân kỹ thuật, nhất là đối với những ngành nghề mới. Mở rộng đào tạo nghề dưới nhiều hình thức, tăng nhanh về số lượng và đa dạng hoá các loại hình trường lớp theo hướng xã hội hoá công tác đào tạo nghề. Coi trọng công tác đào tạo lại đối với cán bộ khoa học kỹ thuật và công nhân, có chính sách đưa một số lao động có năng lực, trình độ và phẩm chất đạo đức tốt đi học tập, đào tạo ở nước ngoài tiếp thu khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, đủ sức vận hành và làm chủ các kỹ thuật và công nghệ mới. - Tổ chức lại mạng lưới các trường trung học chuyên nghiệp, dạy nghề. tập trung đầu tư xây dựng một số trung tâm đào tạo nghề, triển khai các hoạt động về doanh nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, du lịch, bảo vệ môi trường, chuyển giao công nghệ gắn với hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học của trường Đại Học Hồng Đức. - Việc làm phụ thuộc vào sự thu hút và việc phân bổ vốn đầu tư trong toàn xã hội phù hợp với các định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình nghiệp hoá - hiện đại hoá. Nhà nước nên có chính sách khuyến khích mọi tổ chức mọi cá nhân đầu tư vào sản xuất, dịch vụ , để tạo việc làm. thực hiện có hiệu quả các hỗ trợ việc làm trong xã hội. 4. ứng dụng khoa học công nghệ. Phát triển khoa học công nghệ là một yếu tố, một cơ sở quan trọng của phát triên kinh tế xã hội. Chuyển dịch cơ cấu ngạnh kinh tế bao hàm trong mình sự nâng cao trình độ và đổi mới cơ cấu công nghệ. Để Thanh Hoá không rơi vào tụt hậu thì trước hết không thể lạc hậu về khoa học công nghệ. Trong thời gian tới cần tập trung vào: - Huy động các nguồn vốn đầu tư cho phát triển công nghệ, ở nước ta nói chung và Thanh Hoá nói riêng cho đến nay vốn đầu tư dành cho hoạt động khoa học công nghệ còn tách rời vốn cho phát triển kinh tế. Vốn cho khoa học công nghệ chủ yếu là từ nguồn vốn nhà nước và của nước ngoài. Nguồn vốn cho phát triển khoa học công nghệ hiện nay nói chung vẫn trông chờ vào nhà nước, chưa phải là miối quan tâm của toàn xã hội, đặc biệt là từ các doanh nghiệp. Do vậy cần đa dạng hóa nguồn vốn cho công tác nghiên cứu và phát triên đổi mới khoa học công nghệ, có chính sách khuyến khích thúc đẩy khoa học công nghệ, cụ thể như sau + Quy định tỷ lệ tối thiểu và khuyến khích dành tỷ lệ cao hơn phần vốn dành cho khoa học công nghệ trong các dự án phát triển kinh tế xã hội của địa phương. + Xây dựng ngân hàng khoa học công nghệ, các khoản tín dụng, các quỹ hỗ trợ tài chính cho phát triển khoa học công nghệ trong hệ thống ngân hàng và tài chính để mở rộng nguồn vốn vay cho các cá nhân và tổ chức. + Quy định mức lãi suất thấp đối với khoản vay tín dụng cho việc nghiên cứu, áp dụng, thích nghi cải tiến hoặc sáng tạo công nghệ mứi, tiên tiến ở các doanh nghiệp. + Miễn giảm thuế đối với các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao và là kết quả nghiên cứu, triển khai của doanh nghiệp, cụ thể miễn thuế 3 năm đầu và giảm 50% thuế cho 2 năm tiếp theo (như Trung Quốc đã áp dụng). - Trong chuyển giao công nghệ, thực hiện tích cực việc chuyển giao công nghệ tiên tiến, thích hợp từ bên ngoài vào, kết hợp tăng cường nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng trong nội địa. Đối với công nghệ nhập, khuyến khích chuyển giao công nghệ tiên tiến, hiện đại, phù hợp với quá trỉnh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. ở giai đoạn những nỗ lực chủ yếu nên tập trung vào các khâu lựa chọn làm chủ, thích nghi và nhân rộng các công nghệ nhập, nâng cấp hiện đại hoá công nghệ truyền thống. Cần tập trung có trọng điểm, đồng bộ cho các nhiệm vụ, chương trình dự án mới và phát triển công nghệ theo hướng dự án ưu tiên đã được lựa chọn, hoàn thiện và tăng cường hạ tầng công nghệ của tỉnh. Tập trung đầu tư nâng cấp, hiện đại hoá các cơ sở nghiên cứu ứng dụng, các trung tâm giống cây, con, các trạm hiện có của tỉnh để phục vụ cho phát triển và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, trước hết là cho nông nghiệp hình thành được giống cây, con giống có năng suất cao, chất lượng phù hợp với đặc điểm sinh thái của từng vùng miền trong tỉnh. Có chính sách và biện pháp phát triển mạnh nguồn nhân lực cho khoa học công nghệ. Thực hiện đồng bộ các biện pháp trẻ hoá đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ ở cơ sở nghiên cứu. Có chế độ đặc biệt ưu đãi các nhân tài và đào tạo cán bộ đầu ngành, các công trình sư cho ngành, công nghệ then chốt. Trong thời gian tới, cần tiếp tục xây dựng và tổ chức thực hiện một số chương trình trọng điểm về đổi mới công nghệ cho các xí nghiệp, các lĩnh vực quan trọng của tỉnh để taọ cục diện mới. Nhanh chóng xây dựng chính sách khoa học công nghệ cho tỉnh để đảm bảo phát triển khoa học gắn chặt với sản xuất, phát triển các loại cây công nghiệp tiên tiến. Đầu tư xây dựng một số cơ sở sản xuất mới dựa trên kỹ thuất công nghệ hiện đại; phát trển và ứng dụng rộng rãi công nghiệp phục vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn và kinh tế nông nghiệp, phục vụ đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế của tỉnh. 5. Cơ chế chính sách. Trong những năm vừa qua, chúng ta đã có nhiều đổi mới về cơ chế và chính sách, do đó đã tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển các ngành kinh tế trọng yếu. Tuy nhiên, các chính sách còn chưa đồng bộ và khi chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ xây dựng đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá dòi hỏi chúng ta phải hoàn thiện cơ chế và chính sách. Để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, đòi hỏi Thanh Hoá phải trên cơ sở vận dụng cơ chế chính sách chung của nhà nước, phải có cơ chế chính sách về tài chính tiền tệ để hỗ trợ các doanh nghiệp; cơ chế chính sách để phát triển thị trường tiêu thụ hàng hoá của tỉnh; sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích phát triển các doanh nghiệp nhà nước... 5.1. Hoàn thiện chính sách tài chính tiền tệ - Chính sách tài chính: hàng năm tỉnh phải dành một phần thoả đáng trong nguồn thu ngân sách của tỉnh để hỗ trợ các doanh nghiệp. Cụ thể: + Miễn giảm thuế thu nhập từ khu vực doanh nghiệp để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tích luỹ tái đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, để nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu. Dùng thuế như một công cụ để khuyến khích phát triển và tăng khả năng hội nhập với các ngành nghề, lĩnh vực cần phát triển. + Miễn giảm thuế hợp lý đối với hoạt động xuất nhập khẩu nguyên liệu, vật tư... trong tỉnh cũng sản xuất được để khuyến khích phát triển các sản phẩm, các ngành nghề chủ chốt phục vụ xuất khẩu, tạo đà hội nhập có hiệu quả. Miễn hoặc áp dụng thuế suất thấp đối với các máy móc thiết bị nhập phục vụ cho chiến lược chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nông nghiệp và nông thôn. + Hỗ trợ một phần lãi suất vốn vay tín dụng để khuyến khích các doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư, xây dựng các công trỉnh kết cấu hạ tầng, phát triển các ngành trọng điểm mũi nhọn, tạo ra sự thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế . Hình thành một số quỹ hỗ trợ phát triển như: Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, quỹ hỗ trợ xuất khẩu... + Dùng thuế để khuyến khích phát triển các sản phẩm mới, các ngành nghề mới, lĩnh vực khoa học công nghệ mũi nhọn, phù hợp với xu thế tiến bộ của khoa học kỹ thuật. - Chính sách tín dụng (bao gồm cả cơ cấu vốn, vốn tín dụng và chính sách lãi suất) Vấn đề quan trọng trong chính sách tín dụng có tác động trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là phải xác định được vốn đầu tư trên cơ sở nguồn vốn huy động và phương thức thực hiện đầu tư có hiệu quả. Cần tập trung vốn vào hướng chuyển dịch cơ cấu trọng tâm (các ngành trọng điểm, mũi nhọn, hướng cần ưu tiên đầu tư...). Trong những năm tiếp theo, để đẩy nhanh quấ trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, chính sách tín dụng nên tập trung giải quyết các vấn đề theo hướng sau đây: + Tín dụng trung và dài hạn nên tập trung vào các dự án lớn nhăm tạo năng lực và sản xuất lớn, các dự án thuộc các lĩnh vực trọng điểm như điện lực, cơ khí, trồng rừng, các dự án trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng kỹ thuật...Về phương thức cho vay: Thực hiện cho vay theo dự án được duyệt và khả năng hoàn trả vốn của dự án đó. + Tín dụng ngắn hạn tập trung chủ yếu cho thu mua hàng xuất khẩu. Phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, quay vòng vốn nhanh như may mặc, da giày... + Tín dụng phục vụ phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. + Chính sách tín dụng ưu đãi vì mục đích xã hội trong quá trình phát triển và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế như tín dụng cho người nghèo, khai thác tiềm năng.... Định hướng điều hành chính sách lãi suất trong thời gian tới góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế không nghiêng về quan điểm hỗ trợ lãi suất thấp mà xác định lãi suất theo cung cầu của nền kinh tế nhăm hạn chế sự méo mó của nguồn lực tài chính do ảnh hưởng của chính sách lãi suất ưu đãi được xác định thận trọng nghiêm ngặt và chỉ dành cho các mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trọng điểm và các mục tiêu xã hội. 5.2. Chính sách phát triển thị trường. Hiện nay, cả thị trường trong nước và ngoài nước đều đang là những yếu tố quan trọng nhất, cũng là thách thức lớn nhất đối với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Thanh Hoá. Thông qua hoạt động lưu thông hàng hoá, thị trường có tác động tích cực đến phát triển sản xuất. Mọi phương án sản xuất trước hết phải xuất phát từ nhu cầu thị trường tiêu thụ. Người sản xuất nắm được nhu cầu thị trường và thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đáp ứng nhu cầu đó thì sẽ tồn tại và phát triển. Thực tiễn thời gian qua, thị trường Thanh Hoá cũng có những thuận lợi cơ bản, ngoài thị trường trong tỉnh còn có các thị trường ở khu vực lân cận như Bắc Bộ, khu vực Bắc miền Trung, thị trường ngoài nước cũng có tương lai khá khả quan. Tuy nhiên thị trường Thanh Hoá vẫn còn gặp nhiều khó khăn và nhiều vấn đề cần lưu ý. Về cơ bản, ở Thanh Hoá vẫn là thị trường sản xuất nhỏ, manh mún, sức mua của người dân thấp. Thị trường đầu vào còn thiếu ổn định, hiện tượng hàng giả trôi nổi trên thị trường. Thị trường đầu ra ứ đọn, chưa được phát triển mở rộng thị trường. Từ thực tiễn trên và xác định thị trường là nhân tố tác động mạnh đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Để phát triển và mở rộng thị trường đối với Thanh Hoá cần tập trung vào một số giải pháp sau: - Phát triển đồng bộ các loại thị trường: sản phẩm, nguyên vật liệu, công nghệ thông tin, lao động, vốn. Cùng với phát triển các loại thị trường cần tăng cường hoạt động nghiên cứu dự báo thị trường đi đôi với xúc tiến thương mạ. Hoạt động này ở Thanh Hoá trong thời gian qua hâù như là chưa có. Vì vậy cần tăng cường công tác hoạt động nghiên cứu dự báo thị trường, đặc biệt là các loại thị trường ở nông thôn kể cả thị trưởng sử dụng đất và thị trường bất động sản, phát triển các loại thị tứ, các trung tâm thương mại ở cụm xã, sử dụng các biện pháp thích hợp để kích thích sức mua của người dân, nhất là vùng nông thôn. Tiếp tục mở rộng hình thức thông tin kinh tế thị trường tạo điều kiện thúc đẩy mở rộng thị trường, tăng khả năng tiếp thị cho người sản xuất. - Nhà nước tác động đến thị trường trên các khía cạnh; + Xây dựng và thực hiện cơ chế chính sách khuyến khích giao lưu hàng hoá. + Xây dựng chính sách bảo vệ người tiêu dùng. + Đặt hàng cho các doanh nghiệp sản xuất và cung ứng một số loại hàng hoá, dịch vụ. + Kí kết các hiệp định nước ngoài - Phát triển ngành thương mại dịch vụ, củng cố và khuyến khích phát triển các tổ chức thương mại. Để năng cao sức mua của thị trường nông thôn rộng lớn, phải đổi mới chính sách đối với nông nghiệp và nông thôn, phát triển mạnh công nghiệp hoá nông thôn và có chính sách hỗ trợ về thị trường. - Để mở rộng thị trường xuất khẩu, trước hết phải là xuất phát từ nhu cầu thị trường, đi đôi với việc tích cực tìm kiếm thị trường mới đồi với các mặt hàng xuất khẩu. Hàng năm tỉnh phải dành một khoản ngân sách để hỗ trợ cho việc tìm kiếm và mở rộng thị trường, đặc biệt là thị trường nước ngoài để đẩy mạnh xuất khẩu, tăng cường khả năng cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu trong tỉnh thông qua việc đổi mới công nghệ, cải tiến mẫu mã bao bì, hạ giá thành sản phẩm. - Công khai hoá cung cấp các thông tin cần thiết về thương mại về kinh tế của tỉnh cho bên ngoài, đồng thời phải tổ chức tốt việc thu thập và cung cấp thông tin kinh tế trong và ngoài nước. Phát triển các tổ chức làm dịch vụ thăm dò nghiên cứu giới thiệu thị trường và bạn hàng. Bằng mọi cách thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế, đồng thời chiếm lĩnh thị trường trong tỉnh và trong nước. 5.3. Sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích dân doanh, phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Kiên quyết sắp xếp lại kinh tế nhà nước theo đúng hướng bảo đảm cho các doanh nghiệp nhà nước hoạt động hiệu quả, thực sự phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Chúng ta không tư nhân hoá kinh tế nhà nước, nhưng phải thị trường hoá nền kinh tế, không bao cấp bù lỗ tràn lan, chấp nhận cạnh tranh và từng bước cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. - Giảm tỷ trọng kinh tế nhà nước trong mọi ngành nghề theo nguyên tắc ngành nghề nào kinh tế tập thể, tư nhân, cá thể có thể làm tốt, có lợi cho nền kinh tế thì tạo điều kiện cho nó phát triển. - Đối với hợp tác xã, cần có biện pháp củng cố theo nguyên tắc tự nguyện mở rộng các hình thức liên doanh giữa nhà nước, hợp tác xã Ngoài việc thực hiện các chính sách trên, cũng cần hoàn thiện một số cơ chế chính sách như: - Giải quyết tốt vấn đề kết hợp quản lý ngành và lãnh thổ trong phát triển kinh tế. Thực hiện xoá bỏ cơ quan chủ quan đối với quản lý các cơ sở sản xuất kinh doanh. - Đổi mới quản lý chất lượng sản phẩm và dịch vụ theo hướng áp dụng các quan điểm và phương hướng hiện đại nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ. - Tiếp tục đổi mới chính sách kinh tế đối ngoại trên các mặt: + Có chiến lược thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài một cách đúng đắn, chỉ thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào những ngành và lĩnh vực cần thiết quan trọng mà tỉnh chưa có điều kiện phát triển. + Không liên doanh những ngành, những sản phẩm mà tỉnh có khả năng sản xuất. Phát triển và mở rộng các đối tác là các nước phát triển ở Châu Âu, Bắc Mỹ. Đặt chiến lược đầu tư trực tiếp nước ngoài vào chiến lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. + Khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ hàng xuất khẩu. - Bảo hộ sản xuất trong nước đối với những mặt hàng cần khuyến khích và gặp khó khăn trong phát triển. Xác định thời hạn bảo hộ và mức bảo hộ đúng đắn để khuyến khích các ngànn này phải vươn lên trong cạnh tranh. 6. Giải pháp tổ chức thực hiện. Thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh phải dựa trên các giải pháp, chính sách, năng lực của tỉnh, các cơ chế chính sách khuyến khích sự tham gia của mọi người dân , tổ chức xã hội, các ngành các cấp. - Phân công nhiệm vụ giữa các ngành, các cấp. Việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành cần có sự chỉ đạo tập trung và có sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong toàn tỉnh: uỷ ban nhân dân tỉnh, sở kế hoạch đầu tư, sở nông nghiệp, sở công nghiệp, sở thương mại, sở tài chính, ngân hàng... các huyện thị trong tỉnh. Sở kế hoạch và đầu tư chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan tổ chức hướng dẫn các ngành, các huyện, thị xã, thành phố xây dựng các kế hoạch phát triển của mình và báo cáo hàng năm với uỷ ban nhân tỉnh. - Khuyến khích sự tham gia của mọi người dân, tổ chức xã hội tham gia trong việc tổ chức thực hiện, giám sát, dánh gia sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến về mục tiêu phát triển, định hướng phát triển của các ngành kinh tế trong quảng đại quần chúng nhân dân. Thể chế hoá quá trình tham vấn về chiến lược phát triển các ngành trong các ngành, mọi người, các tổ chức xã hội... - Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát. Phải tổ chức giám sát, đánh giá về tình hình thay đổi của các ngành nhằm đảm bảo mục tiêu đề ra với tiến độ thời gian, nguồn lực của tỉnh. Đánh giá tình hình huy động nguồn lực, đánh giá các chính sách giải pháp đã thực hiện., đánh giá kết quả của sự chuyển dịch các ngành... - Quan tâm củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực điều hành của chính quyền các cấp: + Giao cho Ban tổ chức chính quyền chủ trì phối hợp các ngành liên quan nghiên cứu triển khai phương án sắp xếp bộ máy tinh giảm biên chế ở các sở ban ngành. + Chỉ đạo tổng kết cải cách hành chính theo mô hình một cửa để rút kinh nghiệm chỉ đạo theo hướng thống nhất đầu mối và đề cao trách nhiệm của tổ chức và cá nhân trong việc giải quyết các thủ tục hành chính. + Chỉ đạo thực hiện tốt quy định về phân cấp quản lý các ngành, tăng cường công tác kiểm tra, chấn chỉnh việc thực hiện quy chế dân chủ ở các cấp các ngành. + Các cấp, các ngành cần đề cao trách nhiệm trong việc xây dựng các đề án và cơ chế chính sách mới khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh, hoàn chỉnh các chính sách đối với phát triển vùng nguyên liệ, thu hút đầu tư, khuyến khích mọi thành phần kinh tế mở mang sản xuất kinh doanh và các chính sách xã hội hoá các hoạt động văn hoá xã hội. Tiếp tục thực hiện phân cấp cho các sở ban ngành, UBND các huyện thị trong việc quản lý đầu tư xây dựng, quản lý cơ sở hạ tầng độ thị. Mục lục Lời nói đầu Kết luận Tài liệu tham khảo ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docG0002.doc
Tài liệu liên quan