Mục lục
Trang
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG THĂM DÒ- KHAI THÁC
1
DẦU KHÍ THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
3
I. Những đặc diểm của hoạt động thăm dò- khai thác dầu khí
trên thế giới.
3
1. Dầu khí là nguồn tài nguyên quý, không tái tạo được.
3
2. Tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí là hoạt động có nhiều
rủi ro mang tính mạo hiểm kinh tế.
5
3. Ngành công nghiệp Dầu khí đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn mà chủ
yếu là ngoại tệ mạnh.
5
4. Ngành công nghiệp Dầu khí đòi hỏi áp dụng công
113 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1424 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và triển vọng hoạt động đầu tư thăm dò- Khai thác dầu khí ở nước ngoài của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghệ cao.
7
5. Hoạt động dầu khí mang tính quốc tế hoá cao.
8
II. Tình hình thăm dò- khai thác dầu khí trên thế giới.
9
1. Trữ lượng.
9
2. Tình hình thăm dò- khai thác dầu khí trên thế giới.
17
III. Hoạt động thăm dò- khai thác dầu khí của Việt Nam.
21
1. Giai đoạn trước 1987.
21
2. Giai đoạn 1987 đến nay.
23
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ THĂM DÒ- KHAI THÁC
DẦU KHÍ Ở NƯỚC NGOÀI CỦA TỔNG CÔNG TY DẦU KHÍ VIỆT NAM.
31
I. Giới thiệu về Tổng công ty Dầu khí Việt Nam.
31
1. Sự hình thành của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam.
31
2. Nhiệm cụ của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam.
32
3. Các lĩnh vực hoạt động.
33
31. Lĩnh vực thượng nguồn.
33
3.2. Lĩnh vực trung nguồn.
34
3.3. Lĩnh vực hạ nguồn.
34
3.4. Lĩnh vực dịch vụ dầu khí.
36
3.5. Lĩnh vực nghiên cứu khoa học và công nghệ.
37
II. Thực trạng hoạt động đầu tư thăm dò- khai thác dầu khí
ở nước ngoài của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam.
37
1. Cơ sở pháp lý của hoạt động đầu tư thăm dò- khai thác dầu
khí ở nước ngoài.
37
2. Tiềm lực kinh tế kĩ thuật của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam.
3. Tình hình đầu tư thăm dò – khai thác dầu khí ở nước ngoài của
Tổng công ty Dầu khí Việt Nam.
43
48
3.1. Số dự án và vốn đầu tư.
48
3.2. Khu vực đầu tư.
49
3.3. Phương thức đầu tư.
52
III. Đánh giá hoạt động thăm dò- khai thác dầu khí ở nước ngoài
của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam
55
1. Những thành tựu đạt được.
55
1.1. Số lượng dự án tăng dần qua các năm.
1.2. Khu vực đầu tư có tiềm năng dầu khí lớn hứa hẹn mang lại lợi nhuận đầu tư lớn.
55
56
1.3. Bước đầu tạo dựng hình ảnh Petrovietnam trên thị trường thế giới.
57
1.4. Phát triển tốt các mối quan hệ hợp tác kinh doanh.
58
2. Những khó khăn và nguyên nhân.
58
2.1. Môi trường đầu tư dầu khí thế giới có nhiều biến động phức tạp.
58
2.2. Sự khác nhau về văn hoá, phong tục và tập quán kinh doanh.
59
2.3. Cơ chế chính sách chưa đồng bộ.
59
2.4. Khả năng cạnh tranh yếu. 60
CHƯƠNG III: TRIỂN VỌNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH ĐẦU TƯ THĂM DÒ- KHAI THÁC DẦU KHÍ Ở NƯỚC NGOÀI CỦA TỔNG
CÔNG TY DẦU KHÍ VIỆT NAM. 63
I. Triển vọng phát triển đầu tư thăm dò- khai thác dầu khí ở
nước ngoài của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam. 63
1. Phương hướng phát triển của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam. 63
2. Mục tiêu đảm bảo an ninh năng lượng. 66
3. Định hướng phát triển đầu tư thăm dò- khai thác dầu khí ở
nước ngoài của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam. 69
3.1. Tổng quan. 69
3.2. Phương thức thực hiện. 69
3.3. Khu vực ưu tiên đầu tư. 71
3.4. Hình thức triển khai. 75
II. Các giải pháp thúc đẩy đầu tư thăm dò- khai thác dầu khí ở
nước ngoài của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam. 76
1. Giải pháp vĩ mô. 76
1.1. Bổ sung và hoàn thiện hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động
đầu tư ra nước ngoài nói chung và trong lĩnh vực dầu khí nói riêng. 76
1.2. Tăng cường hợp tác dầu khí cấp chính phủ và nhà nước. 80
1.3. Lập quỹ dự phòng rủi ro. 81
2. Giải pháp vi mô. 81
2.1. Tăng cường công tác đào tạo đội ngũ cán bộ. 81
2.2. Thuê tư vấn nước ngoài. 82
2.3. Tăng cường năng lực tài chính và kỹ thuật. 83
KẾT LUẬN. 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO. PHỤ LỤC.
Phụ lục 1: Nghị định Số 22/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14 tháng 4 năm 1999 quy định về đầu tư ra nước ngoài của Doanh nghiệp Việt Nam.
Phụ lục 2: Thông tư Số 05/2001/TT-BKH của Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 30 tháng 8 năm 2001 Hướng dẫn hoạ tđộng đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam (không bao gồm bản phụ lục của thông tư này).
Phụ lục 3: Quyết định của thủ tướng Chính phủ Số 116/2001/QĐ-TTg ngày 02 tháng 8 năm 2001 Về một số ưu đãi, khuyến khích đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực hoạt động dầu khí.
Lời mở đầu
Dầu khí là một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước và trong nhiều năm qua đã nhận được sự quan tâm to lớn của Đảng và Nhà nước. Tổng sản lượng khai thác đã đạt trên 100 triệu tấn, đứng thứ ba ở khu vực Đông Nam Á về khai thác dầu thô.
Trên cơ sở kết quả thăm dò- khai thác tới nay và nghiên cứu đánh giá của Tổng công ty dầu khí Việt Nam và các công ty dầu quốc tế, trữ lượng dầu khí trong nước chỉ ở mức trung bình của khu vực và thế giới. Sản lượng dầu thô có thể được giữ ổn định ở mức 16-18 triệu tấn/năm đến năm 2015. Vì vậy việc tiếp tục tìm kiếm các nguồn trữ lượng mới, đặc biệt là dầu thô, ở cả trong và ngoài nước nhằm đảm bảo cung ứng tối đa nhu cầu năng lượng ngày càng tăng và an ninh năng lượng cho nền kinh tế quốc dân trở thành nhiệm vụ cấp bách. Được sự chỉ đạo và hỗ trợ của Nhà nước, Tổng công ty dầu khí Việt Nam bắt đầu tiến hành tìm kiếm và kí kết các dự án thăm dò- khai thác dầu khí ở nước ngoài từ năm
2001. Trong gần 3 năm qua hoạt động đầu tư thăm dò- khai thác dầu khí đã đạt được một số thành tựu đáng kể, số dự án và quy mô dự án ngày càng tăng song cũng có không ít khó khăn mà Tổng công ty phải vượt
qua.
Nhận thấy rằng việc nghiên cứu hoạt động đầu tư thăm dò- khai thác dầu khí ở nước ngoài là việc làm rất bổ ích đối với sinh viên ngoại thương nên em đã chọn đề tài “ Thực trạng và triển vọng hoạt động đầu tư thăm dò- khai thác dầu khí ở nước ngoài của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam” làm đề tài cho khoá luận của mình.
Trong quá trình thực hiện, em có sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê.
Khoá luận trình bày tình hình đầu tư thăm dò- khai thác dầu khí trên thế giới và ở Việt Nam, thực trạng đầu tư thăm dò- khai thác dầu khí ở nước ngoài trong thời gian qua để từ đó đánh giá triển vọng và đưa ra giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động này phát triển. Khoá luận gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan hoạt động đầu tư thăm dò- khai thác dầu khí thế giới và Việt Nam.
Chương II: Tình hình hoạt động đầu tư thăm dò- khai thác dầu khí
ở nước ngoài của Tổng công ty dầu khí Việt Nam.
Chương III: Triển vọng và các giải pháp đẩy mạnh đầu tư thăm dò- khai thác dầu khí ở nước ngoài của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam.
Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng, song do thời gian nghiên cứu và kiến thức còn hạn chế nên khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót, bất cập. Vì cậy em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp từ phía các thầy cô giáo và bạn đọc.
Nhân đây, em xin được bày tỏ sự cảm ơn chân thành đến cô giáo, Ths Nguyễn Thị Việt Hoa đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo cho em trong suốt quá trình thực hiện khoá luận tốt nghiệp này. Đồng thời em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thành viên trong gia đình đã không ngừng khích lệ, động viên cùng với chị Nguyễn Cẩm Tú và anh Đỗ Việt Dũng thuộc công ty Đầu tư Phát triển Dầu khí (PIDC) giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này.
Hà Nội 12/2003
Trần Tiến Linh
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG THĂM DÒ- KHAI THÁC DẦU KHÍ THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
I. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA HOẠT ĐỘNG THĂM DÒ- KHAI THÁC DẦU KHÍ
1. Dầu khí là nguồn tài nguyên quý, không tái tạo được.
Trên thế giới, tài nguyên dầu khí được phát hiện từ lâu nhưng mới bắt đầu khai thác mang tính công nghiệp từ nửa cuối thế kỷ 19. Đây là nguồn tài nguyên không có khả năng tái tạo. Dầu khí được tạo ra nhờ các quá trình biến đổi địa chất liên quan đến sự hình thành, chuyển hoá, di chuyển và tích tụ các vật chất hữu cơ (Hydrocacbon) và trong một khoảng thời gian rất dài, từ 10 triệu đến 100 triệu năm.
Các mỏ dầu khí phân bố không đồng đều giữa các vùng khác nhau trên trái đất. Điều này phụ thuộc vào cấu tạo địa chất cũng như khí hậu của từng vùng. Những mỏ dầu lớn nhất thế giới tập trung ở các nước Trung Cận Đông Arập-Xêut, Cô-oét, Irắc, Vênêzulêa, Nga, Mỹ... Việt Nam cũng được thiên nhiên ưu đãi có những mỏ dầu khí ở thềm lục địa, đó là nguồn tài nguyên quý giá đối với quá trình phát triển kinh tế đất nước.
Dầu mỏ và khí thiên nhiên là nguồn tài nguyên năng lượng quý thể hiện ở giá trị kinh tế cao của nó. Đây là nguồn năng lượng mới có những thuộc tính vượt trội so với các nguồn năng lượng khác. Dầu mỏ được chế biến thành các dạng năng lượng khác như xăng dầu đã được sử dụng rộng
rãi trong sản xuất và đời sống. Hơn nữa các sản phẩm chế biến từ dầu mỏ lại là nguyên liệu cho các ngành công nghiệp hoá chất và công nghiệp hàng tiêu dùng. Khí thiên nhiên ngày càng được ưa chuộng sử dụng như một loại năng lượng sạch có khả năng thay thế các loại chất đốt như than, dầu hoả. Bảng dưới cho thấy nhu cầu tiêu dùng năng lượng thế giới năm
2001:
Bảng 1: Nhu cầu năng lượng thế giới năm 2001
Nguồn năng lượng
Lượng tiêu thụ
(Triệu thùng/ngày quy dầu)
%
Dầu
76
40.2
Than
48
25.4
Khí thiên nhiên
45
23.8
Các nguồn NL khác
20
10.6
Tổng
189
100
(Nguồn IEA Monthly Oil Market Report- UN 20/4/2002)
Từ số liệu bảng trên ta thấy dầu khí chiếm tới 64% lượng tiêu thụ năng lượng thế giới trong đó 40% là dầu thô, nguồn nguyên liệu quan trọng nhất.
Trữ lượng dầu khí trên thế giới là có hạn, nó cạn kiệt dần theo quá trình khai thác. Do con người chưa tìm ra nguồn năng lượng thay thế nên dầu khí càng trở nên quý giá hơn khi trữ lượng ngày càng giảm. Theo tính toán dự báo thì với nhịp độ đầu tư khai thác dầu khí như hiện nay, trữ lượng của những quốc gia đã tìm thấy dầu tính đến cuối thế kỷ 20 sẽ chỉ
đủ khai thác trong vòng 50 năm tới. Nhiều nước ở Đông Nam Á hiện nay đang là nước xuất khẩu dầu mỏ như In-đô-nê-sia, Ma-lay-sia sẽ trở thành những nước nhập khẩu vào những năm sau 2010.
2. Tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí là hoạt động có nhiều rủi ro mang tính mạo hiểm kinh tế.
Trong lĩnh vực tìm kiếm thăm dò dầu khí, độ rủi ro cao trước hết phụ thuộc vào điều kiện địa chất. Xác suất thành công trung bình trong tìm kiếm thăm dò dầu khí trên thế giới hiện nay rất thấp, chỉ khoảng 10%.
Ngoài những rủi ro về địa chất ảnh hưởng đến xác suất phát hiện mỏ, rủi ro về kỹ thuật cũng rất lớn. Việc xây dựng và vận hành các đề án dầu khí luôn đi đôi với nguy cơ cháy, nổ làm tổn hại người, của và gây ô nhiễm môi trường sinh thái. Các chi phí cho những rủi ro này khó mà tưởng tượng được. Vào năm 1997, công ty Mobil (Mỹ) đã phải bồi thường tới 5 tỷ USD vì gây ô nhiễm môi trường. Chính vì độ rủi ro cao mà các nhà đầu tư trở nên mạo hiểm khi bỏ vốn lớn vào lĩnh vực này.
3. Ngành công nghiệp Dầu khí đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn mà chủ yếu là ngoại tệ mạnh.
Quy mô vốn đầu tư lớn là đặc trưng của ngành Dầu khí khác biệt với các ngành công nghiệp khác. Mỗi lĩnh vực hoạt động của ngành Dầu khí lại đòi hỏi lượng vốn đầu tư phù hợp để đạt được hiệu quả kinh tế cao. Do tính chất đặc thù chứa đựng nhiều rủi ro nên loại trừ những nước trữ lượng dầu khí lớn và xác suất thành công trong thăm dò- khai thác cao, còn lại giá thành khai thác một thùng dầu thường rất cao (Bảng 2).
Bảng 2: Giá thành khai thác 1 thùng dầu
(Đơn vị: USD/Thùng)
Nước/Khu vực
Mỹ
ChâuMỹ
La tinh
Tây Âu
Trung Cận Đông
Đông Á- Đông Nam Á và Châu Phi
Giá thành khai thác trung bình
14.88
4.08
10.51
0.83
2.53
Giá thành thấp nhất
và cao nhất
2-20
3-15
5-20
0.4-4
2-12
Nguồn: Tạp chí dầu khí số 3-2001
Như vậy để tìm thấy một trữ lượng dầu khí thương mại ta phải chi hàng trăm triệu USD. Có thể tính toán một cách đơn giản để được một sản lượng 10 triệu thùng dầu ta phải đầu tư số tiền trung bình 148.8 triệu USD nếu là tại Mỹ, 40.8 triệu USD nếu là tại Châu Âu và 105.1 triệu USD nếu tại Tây Âu.
Công tác vận chuyển dầu khí vào bờ cũng đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn vì hầu hết các mỏ Dầu khí nằm rất xa bờ. Quá trình vận chuyển dầu khí vào bờ phải sử dụng hệ thống chuyên dụng, để thu gom và vận chuyển khí cần các phương tiện kỹ thuật hiện đại như giàn nén trung tâm cỡ lớn với vốn đầu tư trên 100 triệu USD. Một đề án xây dựng công trình đường ống dẫn khí từ mỏ vào đất liền cần một lượng vốn đầu tư trung
bình 1 triệu USD/km đường ống. Từng công trình nhỏ, từng hạng mục
đòi hỏi những khoản đầu tư khổng lồ nếu đem so sánh với các ngành khác.
Lĩnh vực chế biến dầu khí cũng cần một lượng vốn đầu tư ban đầu rất lớn bằng ngoại tệ nhưng thời gian thu hồi vốn rất dài. Các lĩnh vực hoá dầu, sản xuất dầu mỡ nhờn, chất dẻo, phân bón và các sản phẩm dầu khí khác cũng cần nhiều vốn đầu tư.
4. Ngành công nghiệp Dầu khí đòi hỏi áp dụng công nghệ cao.
Các mỏ dầu khí thường nằm ở dưới độ sâu hàng nghìn mét trong lòng đất. Ngoài thềm lục địa thì còn phải tính thêm độ sâu nước biển từ hàng chục đến hàng trăm mét. Vì vậy con người không thể trực tiếp tiếp cận các mỏ ở sâu trong lòng đất như thế được. Sự hiểu biết của con người về địa chất, về cấu tạo mỏ dầu khí, về sự chuyển dịch của các lưu thể lỏng: dầu, khí, nước... trong mỏ đều phải qua suy đoán, tính toán nhờ vào các phương tiện, máy móc kỹ thuật hiện đại kết tinh hàm lượng chất xám cao. Do đó, lĩnh vực tìm kiếm thăm dò và khai thác Dầu khí đòi hỏi phải áp dụng những tiến bộ mới nhất về khoa học và kỹ thuật.
Nhiều thành quả tiến bộ khoa học công nghệ đã được áp dụng cho công tác thăm dò, khai thác dầu khí. Những tín hiệu xung lượng phản hồi từ các tầng địa chất khác nhau sâu trong lòng đất từ 4 tới 5km thu lượm được phải nhờ đến những trung tâm điện tử với công suất tính toán lớn mới xử lý được.
Do điều kiện làm việc đặc thù ngoài biển khơi, mỗi giàn khoan hoạt động cần tới hơn 30 loại dịch vụ khác nhau. Từ hệ thống định vị vệ tinh, địa chất công trình biển, dự báo thời tiết, thông tin liên lạc kể cả truyền ảnh vệ tinh, máy bay trực thăng, tàu biển, dịch vụ lặn sâu đến các thiết bị máy móc phân tích mẫu thu được liên tục trong quá trình khoan…
Tất cả đều là những tiến bộ khoa học mới nhất áp dụng nhằm giảm thiểu các chi phí và rủi ro trong thăm dò tìm kiếm dầu khí.
5. Hoạt động dầu khí mang tính quốc tế hoá cao.
Vốn đầu tư lớn, độ rủi ro cao, áp dụng khoa học công nghệ hiện đại là lý do khiến các công ty dầu khí đa quốc gia, xuyên quốc gia mở rộng hoạt động đầu tư của mình ra ngoài chính quốc trên khắp năm châu và đại dương để giảm thiểu bất trắc. Yếu tố khách quan đáng lưu ý là hầu hết các nước có tài nguyên dầu khí (chủ yếu là Trung Cận Đông, Châu Phi, Mỹ Latinh) lại là những nước mà nền kinh tế còn nghèo nàn không đủ sức tự chịu rủi ro để tìm kiếm tài nguyên dầu khí. Điều đó tất yếu cần tới các công ty dầu khí ở các nước phát triển hơn tham gia vào tìm kiếm để chia sẻ rủi ro.
Hiện nay trên thế giới, không một nước nào kể cả Mỹ- cường quốc về dầu khí cũng không thể sản xuất tất cả các loại máy móc thiết bị cho hoạt động dầu khí. Bởi vậy, hoạt động dầu khí thường có nhiều công ty với nhiều quốc tịch cùng nhau tham gia đầu tư vào các khâu khác nhau trong tìm kiếm - thăm dò, khai thác một mỏ dầu khí. Các công ty cung cấp dịch vụ dầu khí cũng có những cơ sở trải khắp toàn cầu cùng với các trang bị kỹ thuật hiện đại. Ta có thể thấy các giàn khoan di động từ Châu Phi sang Châu Á rồi Châu Mỹ đã trở thành hiện tượng bình thường.
Trong xu hướng toàn cầu hoá, cạnh tranh quốc tế của các nước lân cận, khu vực và toàn cầu ngày càng gay gắt là điều phải tính đến trong chính sách thu hút đầu tư tìm kiếm thăm dò khai thác dầu khí của mỗi quốc gia. Tình hình biến động kinh tế thế giới hay khu vực đều có ảnh hưởng đến hoạt động dầu khí đặc biệt là thị trường dầu mỏ. Do đó, các nước xuất khẩu dầu thô khối lượng lớn đã liên kết thành tổ chức OPEC
(1960). Tổ chức này kiểm soát lượng cung dầu mỏ trên thị trường thế giới nhằm bảo vệ quyền lợi của các nước thành viên.
II. TÌNH HÌNH THĂM DÒ- KHAI THÁC DẦU KHÍ TRÊN THẾ GIỚI
1. Trữ lượng.
Như đã nói ở trên dầu khí được khai thác từ giữa thế kỉ 19 và nhanh chóng được sử dụng trong cuộc sống. Hiện nay trữ lượng thu hồi dầu thô toàn thế giới đạt khoảng 1032 tỷ thùng và khí đốt là 5457.1 tỷ fit khối (1 fit khối = 0.093m3).
Bảng 3: Trữ lượng dầu khí thế giới
Vùng
Lượng thu hồi
Dầu thô
Khí đốt
Tỷ tấn
% trữ
lượng toàn cầu
Nghìn tỷ fit khối
% trữ
lượng toàn cầu
Châu Mỹ
150.2
14.55
525.7
9.63
Tây Âu
17.3
1.68
160.7
2.94
Đông Âu và Liên
Xô cũ
58.4
5.49
1967.9
36.06
Trung Cận Đông
685.6
66.43
1974.6
36.18
Châu Phi
76.7
7.43
394.8
7.23
Châu Á và Úc
43.8
4.24
433.3
7.96
Tổng
1032.0
100
5457.1
100
Nguồn: Oil & Gas journal 24/10/2003
Từ bảng số liệu trên ta thấy trữ lượng dầu mỏ và khí đốt phân bố không đều. Khí đốt chủ yếu tập trung ở hai khu vực là Đông Âu- Liên Xô cũ và Trung Cận Đông với trữ lượng lần lượt 1967.9 tỷ fit và 1974.6 fit khối chiếm 36.06% và 36.18% trữ lượng toàn thế giới. Dầu mỏ tập trung chủ yếu ở vùng Trung Cận Đông với trữ lượng 685.6 tỷ thùng dầu thô chiếm hai phần ba trữ lượng dầu mỏ thế giới (66.43%), khu vực đứng thứ hai là Châu Mỹ với trữ lượng 150.2 tỷ thùng chiếm 14.55% toàn thế giới nhưng cũng chưa bằng 1/4 trữ lượng vùng Trung Cận Đông. Khu vực có trữ lượng dầu mỏ và khí đốt thấp nhất thế giới là Tây Âu chỉ chiếm
2.94% về trữ lượng khí và 1.68% trữ lượng dầu mỏ. Có thể thấy rõ hơn sự chênh lệch này qua biểu đồ dưới đây:
Biểu đồ 1: Phân bổ dầu mỏ trên thế giới
Châu Phi
7.43%
Châu Á và Úc
4.24%
Trung Cận Đông
5.49%
Châu Mỹ
14.55%
Tây Âu
1.68%
Đông Âu và
Liên Xô cũ
5.49%
Nguồn: Oil & Gas journal 24/10/2003
Ngay tại một khu vực trữ lượng dầu mỏ cũng phân bố không đều nhau. Bảng dưới cho biết trữ lượng các nước tại khu vực Trung Cận Đông:
Bảng 4: Trữ lượng dầu mỏ các nước Trung Cận Đông
Tên Nước
Trữ lượng (tỷ thùng)
% trong khu vực
Ba-han
0.1
0.014
I-ran
89.7
13.083
I-rắc
112.5
16.409
Cô-oét
96.5
14.075
Ô-man
5.5
0.802
Qua-ta
15.2
2.217
A-rập-Xê-ut
261.8
38.185
Sy-ri
2.5
0.364
Tiểu vương quốc A rập
97.8
14.265
Yê-men
4.0
0.583
Các nước khác
0
0
Tổng
685.6
100
Nguồn: Oil & Gas journal 24/10/2003
Đây là khu vực có trữ lượng dầu lớn nhất thế giới nhưng lượng dầu mỏ cũng chỉ tập trung ở một số nước đứng đầu như A-rập-Xê-ut 261.8 tỷ thùng chiếm 36.185% so với khu vực và 25.368% toàn thế giới, đứng thứ hai là I-rắc 112.5 tỷ thùng chiếm 16.409% so với khu vực và 10.901% thế giới. Trong khi đó một số nước như Ix-ra-en hay Ba-han trữ lượng dầu mỏ lại gần như không có gì.
Do có trữ lượng lớn như vậy nên những biến động dầu lửa tại khu vực này có ảnh hưởng lớn đến tình hình thị trường dầu lửa thế giới đặc biệt là các nước tư bản phát triển là những nước có khối lượng nhập khẩu dầu lớn. Thực tế cũng cho thấy những diễn biến chính trị tại khu vực này trong thời gian qua diễn ra rất phức tạp mà nguyên nhân chủ yếu là sự tranh giành quyền lợi dầu mỏ của các nước trên thế giới.
Khu vực có trữ lượng dầu mỏ đứng thứ hai sau Trung Cận Đông là
Châu Mỹ.
Bảng 5: Trữ lượng dầu mỏ các nước Châu Mỹ
Tên nước
Trữ lượng (tỷ thùng)
% trong khu vực
Ca-na-đa
4.9
3.262
Mê-hi-cô
26.9
17.909
Mỹ
22.4
14.913
Ác-hen-ti-na
3.0
1.997
Braxin
8.5
5.659
Cô-lôm-bi-a
1.8
1.198
Ê-cu-a-đo
2.1
1.397
Vê-nê-zu-ê-la
77.7
51.730
Các nước khác
2.9
1.930
Tổng
150.2
100
Nguồn: Oil & Gas journal 24/10/2003
Đứng đầu trong khu vực này là Vê-nê-zu-ê-la có trữ lượng 77.7 tỷ thùng chiếm 51.730% toàn khu vực, tiếp đến là Mê-hi-cô 26.9 tỷ thùng chiếm 17.909%, Mỹ- quốc gia có diện tích lớn thứ 4 thế giới cũng chỉ có trữ lượng 22.4 tỷ thùng chiếm 14.913% toàn khu vực và nếu tính trên toàn thế giới chỉ chiếm 2.17%.
Trữ lượng dầu mỏ đứng thứ ba thế giới là khu vực các nước Châu
Phi với 76.7 tỷ thùng chiếm 7.43% tổng trữ lượng dầu mỏ thế giới (Bảng
6). Đứng đầu khu vực này là Li-bi với trữ lượng 29.5 tỷ thùng chiếm
38.46% khu vực. Sau Li-bi là Ni-giê-ria 24 tỷ thùng chiếm 31.29% khu vực, tiếp theo là An-giê-ri 9.2 tỷ thùng chiếm 12% khu vực.
Bảng 6: Trữ lượng dầu mỏ khu vực Châu Phi
Tên nước
Trữ lượng (tỷ thùng)
% trong khu vực
An-giê-ria
9.2
12.00
Âng-gô-la
5.4
7.04
Hy-lạp
2.9
3.78
Li-bi
29.5
38.46
Ni-giê-ri-a
24
31.29
Các nước khác
5.7
7.43
Tổng 76.7 100
Nguồn: Oil & Gas journal 24/10/2003
Đứng sau khu vực Châu Phi là khu vực Đông Âu và Liên Xô cũ với trữ lượng 58.4 tỷ thùng chiếm 5.49% trữ lượng thế giới trong đó riêng Nga đã chiếm 83.23% trữ lượng khu vực với 48.6 tỷ thùng (Bảng 7).
Bảng 7: Trữ lượng dầu mỏ khu vực Đông Âu và Liên Xô cũ
Tên nước
Trữ lượng (tỷ thùng)
% trong khu vực
Ru-ma-ni
1
1.71
Ka-zăc-tan
5.4
9.24
Nga
48.6
83.23
Các nước khác
3.4
5.82
Tổng
58.4
100
Nguồn: Oil & Gas journal 24/10/2003
Đây là khu vực có trữ lượng dầu mỏ tuy không nhiều nhưng lại là khu vực tập trung nhiều khí đốt với trữ lượng 1967.9 tỷ fit khối chiếm tới
36.06% trữ lượng toàn thế giới. Trong khu vực này có Nga là nước có trữ
lượng khí lớn nhất thế giới đạt 1680 tỷ fit khối chiếm 85.37% khu vực và
30.78% thế giới.
Khu vực châu Á và Úc trữ lượng dầu mỏ không lớn lắm chỉ chiếm
4.24% trữ lượng dầu mỏ toàn thế giới, tập trung chủ yếu ở Trung Quốc
24 tỷ thùng chiếm 54.79% khu vực, tiếp đến là In-đô-nê-xi-a 5 tỷ thùng chiếm 11.41% khu vực (Bảng 8).
Bảng 8: Trữ lượng dầu mỏ các nước Châu Á và Úc
Tên nước
Trữ lượng (tỷ thùng)
% toàn khu vực
Australia
3.5
8.00
Bru-nây
1.4
3.20
Trung Quốc
24
54.79
Ấn- độ
4.8
10.96
In-đô-nê-xi-a
5.0
11.41
Ma-lay-sia
3.0
6.84
Việt Nam
0.6
1.37
Các nước khác
1.5
3.42
Tổng
43.8
100
Nguồn: Oil & Gas journal 24/10/2003
Cuối cùng là các nước Tây Âu với trữ lượng dầu tập trung ít nhất
17.3 tỷ thùng chiếm 1.68% trữ lượng toàn thế giới và chưa bằng 1/15 nước có trữ lượng lớn nhất là A-rập-Xê-ut (Bảng 9).
Bảng 9: Trữ lượng dầu mỏ khu vực Tây Âu
Tên nước
Trữ lượng (tỷ thùng)
% toàn khu vực
Na-uy
9.4
54.33
Anh
4.9
28.32
Các nước khác
3
17.35
Tổng
17.3
100
Nguồn: Oil & Gas journal 24/10/2003
Ngoài ra OPEC (Organization of Petroleum Exporting Countries)- tổ chức lớn nhất thế giới trong lĩnh vực dầu khí- có ảnh hưởng mạnh mẽ tới tình hình cung cấp dầu của thế giới. Đây là tổ chức được thành lập nhằm đối phó với các nước công nghiệp phát triển là những nước nhập khẩu dầu chủ yếu.
Trữ lượng dầu của các nước OPEC rất lớn, chiếm hơn 3/4 trữ
lượng dầu của thế giới (Bảng 10).
Bảng 10: Trữ lượng dầu của các nước OPEC
Tên nước
Trữ lượng (tỷ
thùng)
% toàn thế giới
An-giê-ria
9.2
0.891
In-đô-nê-xi-a
5.0
0.484
I-ran
89.7
8.692
I-rắc
112.5
10.901
Cô-oét
96.5
9.350
Li-bi
29.5
2.860
Ni-giê-ri-a
24
2.325
Qua-ta
15.2
1.473
Tiểu vương quốc A rập
97.8
9.476
Vê-nê-zu-ê-la
77.7
7.530
A-rập-Xê-ut
261.8
25.368
Tổng
818.9
79.350
Nguồn: Oil & Gas journal 24/10/2003
2. Tình hình thăm dò- khai thác dầu khí trên thế giới.
Trong những năm gần đây do sự bất ổn của nền kinh tế thế giới và sự xáo trộn trên chính trường dẫn đến lượng tiêu thụ dầu mỏ có phần chững lại kéo theo sản lượng khai thác dầu gần như không đổi trong giai đoạn
1997-2002 (Bảng 11). Điều này trái ngược với tình hình khai thác dầu trên thế giới trong những năm đầu thập kỉ 90 của thế kỉ trước khi mức tăng sản lượng trong 10 năm 1990-2000 là 11.67% (sản lượng khai thác năm 1990 và 2000 lần lượt là 66 triệu thùng/ngày và 77 triệu thùng/ngày).
Bảng 11: Sản lượng khai thác dầu trên thế giới
(Đơn vị: triệu thùng/ngày)
Nước/Năm
1997
1998
1999
2000
2001
2002
OPEC OECD Mỹ
Ca-na-đa
Anh
Mê-hi-cô
Nauy
Ngoài OECD Liên Xô cũ Trung Quốc Ma-lay-si-a Ấn- Độ
Bra-xin
Ác-hen-ti-na Cô-lôm-bia Ô-man
Ai-cập
Ăng-gô-la
29.98
22.07
8.64
2.57
2.76
3.41
3.28
20.76
7.20
3.19
0.75
0.76
1.13
0.88
0.66
0.91
0.90
0.70
30.68
24.85
8.35
2.67
2.84
3.40
3.14
21.09
7.28
3.19
0.74
0.74
1.28
0.90
0.77
0.90
0.88
0.73
29.44
21.41
8.08
2.56
2.93
3.35
3.14
21.57
7.49
3.19
0.71
0.75
1.36
0.85
0.83
0.90
0.85
0.76
30.80
21.92
8.12
2.73
2.70
3.45
3.32
22.24
7.94
3.23
0.71
0.73
1.50
0.82
0.70
0.96
0.81
0.74
30.16
21.87
8.11
2.75
2.53
3.56
3.41
23.14
8.56
3.30
0.75
0.73
1.59
0.83
0.62
0.96
0.76
0.74
28.54
21.90
8.08
2.87
2.48
3.58
3.33
24.39
9.38
3.40
0.77
0.75
1.74
0.80
0.59
0.90
0.75
0.76
Toàn thế giới
74.35
74.05
74.09
76.67
76.91
76.58
Nguồn: Thông tin dầu khí thế giới số 1/2003
Bảng 12: Phần trăm sản lượng dầu OPEC so với thế giới
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Phần trăm
40.32
41.43
39.73
40.172
39.21
37.27
Nguồn: Thông tin dầu khí thế giới số 1/2003
Có thể thấy rằng sản lượng dầu thô của các nước OPEC luôn dao động ở mức cao khoảng 40% sản lượng dầu thế giới do các nước thành viên của tổ chức này nắm giữ một phần lớn trữ lượng dầu thế giới. Nắm trong tay nguồn tài nguyên khổng lồ nên tổ chức này có khả năng chi phối quan hệ Cung-cầu, tuy nhiên điểm yếu dễ thấy của tổ chức này là tính bất đồng nhất về quan điểm, về quyền lợi và về mối quan hệ với các nước tiêu thụ dầu. Có thể thấy trong những năm vừa qua những quyết định đưa ra của OPEC về hạn ngạch thường không kịp thời, khi có quyết định rồi lại không thực hiện hoặc thực hiện tuỳ tiện làm cho sức mạnh
của OPEC giảm đi rất nhiều.
năm.
Bảng dưới cho thấy sản lượng dầu thô các nước OPEC qua các
Bảng 13: Sản lượng dầu thô và khí lỏng các nước OPEC (Đơn vị: triệu thùng/ngày)
Nước/Năm
1997
1998
1999
2000
2001
2002
An-giê-ri
In-đô-nê-si-a
I-ran I-rắc Cô-oét Li-bi
Ni-giê-ria Qua-ta Arập-Xêut UAE
Vê-nê-zu-ê-la
0.86
1.37
3.7
1.53
2.08
1.44
2.11
0.64
8.68
2.28
3.23
0.82
1.29
3.61
2.11
2.01
1.39
2.11
0.66
8.19
2.28
3.12
0.76
1.27
3.50
2.52
1.94
1.38
1.95
0.63
7.81
2.07
2.79
0.81
1.20
3.69
2.57
1.98
1.41
2.02
0.68
8.31
2024
2.89
0.84
1.21
3.70
2.36
2.01
1.37
2.08
0.67
8.01
2.16
2.68
0.85
1.12
3.42
2.01
1.89
1.32
1.95
0.64
7.67
1.99
2.29
Tổng dầu thô
Khí lỏng
27.40
2.58
27.83
2.85
26.62
2.82
27.92
2.88
27.09
3.07
25.09
3.45
Nguồn: Thông tin dầu khí thế giới số 1/2003
Các nước nằm trong khối các nước phát triển (OECD) tuy sản lượng khai thác không cao (năm 2002 chỉ đạt 27.54% sản lượng thế giới) nhưng tiêu thụ phần lớn lượng dầu trên thế giới. Năm 2002 lượng tiêu thụ của các nước OECD đạt mức 47.69 triệu thùng/ngày chiếm 62.2% lượng tiêu thụ trên thế giới. Chỉ tính riêng Mỹ, nước chiếm 5% dân số thế giới và sản lượng chỉ đạt 8 triệu thùng/ngày lại tiêu thụ 20.07 triệu thùng/ngày (bảng 14) chiếm hơn 1/4 lượng tiêu thụ thế giới. Chính lượng tiêu thụ lớn cùng với khả năng sản xuất có hạn là nguyên nhân ràng buộc các nước Phát triển vào nguồn dầu mỏ của khu vực Trung Cận Đông và Trung Á .
Bảng 14: Lượng tiêu thụ dầu thô trên thế giới
(Đơn vị: triệu thùng/ngày)
Khu vực/ nước
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Châu Mỹ Ca-na-đa Mê-hi-cô Mỹ
Ac-hen-ti-na
Bra-xin
Tây Âu Pháp Đức
I-ta-li-a
Anh
Đông Âu và
Liên Xô cũ Trung Đông Châu Phi Châu Á TBD
Trung Quốc
Ấn- Độ
Nhật
27.20
1.98
1.90
18.97
0.46
1.80
14.78
2.03
3.03
2.04
1.83
5.42
4.21
2.23
19.71
3.88
1.71
5.87
27.73
1.98
1.99
19.25
0.49
1.87
15.05
2.10
3.04
2.05
1.82
5.33
4.38
2.25
19.36
4.01
1.78
5.66
28.43
2.05
2.00
19.87
0.47
1.93
14.95
2.06
2.96
1.96
1.84
5.18
4.53
2.35
20.22
4.22
1.97
5.75
28.75
2.07
2.05
20.07
0.45
1.95
14.85
2.04
2.88
1.93
1.81
5.14
4.53
2.39
20.49
4.46
2.02
5.66
28.56
1.98
2.04
20.02
0.45
1.95
15.03
2.07
2.93
1.94
1.80
5.37
4.64
2.41
20.66
4.65
2.04
5.57
28.5
1.98
1.98
20.07
0.45
1.95
14.97
2.03
2.85
1.95
1.79
5.33
4.66
2.42
20.90
4.88
2.02
5.45
Tổng
73.55
74.11
74.47
76.14
76.66
76.68
Nguồn: Oil & Gas Journal 24/2/2003
Theo cục quản lý thông tin năng lượng EIA (the Energy
Information Administration), nhu cầu dầu thô trên thế giới sẽ tăng
2.1%/năm trong 20 năm tới và đạt 117.4 triệu thùng/ngày vào năm 2020. Mức tăng này đáp ứng phần lớn nhu cầu tăng về vận tải. Nguồn cung
được dự báo tăng nhanh hơn, đạt 2.2%/năm nhưng trong 20 năm nữa mức tăng cung sẽ thấp hơn mức tăng cầu. Sản lượng dầu thô thế giới năm
2002 đạt 76.58 triệu thùng/ngày và vào năm 2020 là khoảng 120 triệu thùng/ngày. Trong con số dự báo sản lượng năm 2020 như trên thì khối OPEC chiếm 57.6 triệu thùng/ngày tức là khoảng 49% sản lượng toàn thế giới, cao hơn mức hiện nay là khoảng 40%. Sự tăng trưởng mạnh sản lượng ở các nước thuộc OPEC và ngoài OPEC là do công nghệ địa vật lý và khoan được nâng cao liên tục, điều này sẽ giảm mức giá thành thùng dầu khai thác trong các vùng địa lý khó khăn.
III. HOẠT ĐỘNG THĂM DÒ- KHAI THÁC DẦU KHÍ CỦA VIỆT NAM
So với các ngành công nghiệp khác trong nước, ngành Dầu khí được coi là phát triển sau. Tuy nhiên với sự hấp dẫn của nó và sự quan tâm ưu tiên đặc biệt của Đảng và Chính phủ, trong vòng 30 năm trở lại đây, ngành công nghiệp đặc thù này đã phát triển mạnh và trở thành một trong những ngành có vai trò quan trọng nhất trong nền kinh tế quốc dân hiện
nay.
Có thể tạm chia tiến trình phát triển của ngành Dầu khí Việt Nam theo các giai đoạn như sau:
1. Giai đoạn trước 1987.
Thời kì những năm 60 cho đến năm 1975, khi Tổng cục Dầu khí chưa được thành lập (ngày 3/9/1975 chính phủ quyết định thành lập Tổng cục Dầu mỏ và Khí đốt mà ngày nay trở thành Tổng công ty Dầu khí Việt Nam). Lúc đó các hoạt động thăm dò dầu khí là nhiệm vụ của Tổng cục Địa chất với sự tham gia của các nhà địa chất dầu khí Việt Nam và các chuyên gia Liên Xô. Trong thời gian này chủ yếu tìm kiếm, thăm dò ở miền Bắc, trên đất liền.
Các chuyên gia của Tổng cục Địa chất mà sau này là Liên đoàn Địa chất 35 đã khảo sát rất nhiều khu vực trên miền Bắc để thăm dò, tìm kiếm dầu khí, đã làm nhiều tuyến địa chất và đã khoan nhiều giếng khoan ở đồng bằng sông Hồng. Trên cơ sở dữ liệu vật lí địa chất, giếng khoan đầu tiên xấp xỉ 3000 m đã được khoan năm 1970. Kết quả tìm được trong thời gian này còn rất khiêm tốn. Cho tới năm 1975 chỉ phát hiện được một mỏ khí nhỏ ở tỉnh Thái Bình và hiện nay đang được khai thác.
Trong thời gian này tại miền Nam Việt Nam việc khảo sát địa vật lí đã được tiến hành vào cuối những năm 60 bởi chính quyền Ngụy Sài Gòn. Năm 1967 Cục nghiên cứu hải dương học của Mỹ tiến hành khảo sát toàn bộ lãnh thổ Nam Việt Nam từ độ cao 2000m hình thành 1 lô và
1 bản đồ tỉ lệ 1/250.000.
Trong những năm 1969-1970, Mandral đã chụp 1 lô 30×50 km dữ liệu địa chấn trên thềm kục địa Việt Nam với tổng 8000km các dải địa chấn. Năm 1974 CSI chụp 5000km các dải địa chấn phía Đông miền Trung Nam Việt Nam.
Trong năm 1973-1974 chính quyền Ngụy Sài Gòn mở hai cuộc đấu thầu quốc tế và có 9 tập đoàn dầu lửa quốc tế như Mobil Oil, Shell/Pecten Việt Nam, Esso, Marathon, Mobil/Kaiyo, Pecten/BHP, Union Texas… thắng thầu.
Trong thời gian này, Mobil và Pecten tiến hành khảo sát địa vật lí và đã khoan 6 giếng thăm dò ở biển Cửu Long và Nam Côn Sơn, 2 giếng ở ._.Bạch Hổ- IX với sản lượng 2400 thùng/ngày được phát hiện bởi Mobil và giếng Dua IX sản lượng 2230 thùng/ ngày do Pecten thực hiện.
Sau khi đất nước thống nhất, Tổng cục Dầu khí được thành lập ngày 3/9/1975, cho đến đầu những năm 80 là thời kì chúng ta được sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô tiếp tục tìm kiếm và thăm dò dầu khí trên toàn bộ đất nước bao gồm cả trên đất liền cũng như ngoài biển. Tại
miền Bắc tiếp tục thăm dò ở đồng bằng sông Hồng. Tại miền Nam Tổng cục Dầu khí kí hợp đồng thăm dò với Công ty Địa vật lý Quốc tế (CGG) thăm dò khảo sát 2275km nhiều dải địa chấn dọc các nhánh sông Mêkông và các vùng nước cạnh. Khảo sát trọng lực với bản đồ tỉ lệ 1/200.000 được Tổng cục Dầu khí thực hiện. Trên cơ sở dữ liệu đó, 2 giếng đã được khoan thăm dò.
Năm 1978 Tổng cục Dầu khí đã kí 3 hợp đồng phân chia sản phẩm dầu khí (PSC) với Diminex (Block 15), Agip (Block 04 và 12) và Bowvalley (Block 28 và 29) khảo sát thăm dò trên thềm lục địa phía Nam Việt Nam và đã được khoan tại 12 vị trí nhưng kết quả các hợp đồng cũng bị gián đoạn. Kết quả thăm dò dầu khí của thời gian này chỉ thu thập được nhiều số liệu, kể cả số liệu của đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long nhưng vẫn chưa phát hiện ra một mỏ dầu nào mới.
Năm 1986 đánh dấu bước ngoặt trong sự phát triển của ngành dầu khí Việt Nam bằng việc kí kết hiệp định Liên Chính Phủ giữa CHXHCN Việt Nam và Liên bang CHXHCN Xô Viết về việc thành lập Xí nghiệp liên doanh Việt Xô (VietSopetro) tiến hành thăm dò địa chất và khai thác dầu khí tại thềm lục địa Việt Nam. Hàng loạt các hoạt động thăm dò địa chất, địa vật lí được tiến hành bởi liên doanh và đã xác định lô địa chấn
16×32 km tại hầu hết các khu vực bể trầm tích tại thềm lục địa Việt Nam với tổng 50.000km các giải địa chất. Chúng ta đã phát hiện được dầu khí tại mỏ Bạch Hổ 1985 và tiếp theo là mỏ Đại Hùng và Rồng. Năm 1986 chúng ta có những tấn dầu thô đầu tiên từ mỏ Bạch Hổ của VietSopetro với sản lượng khai thác đạt 40.000 tấn dầu thô/năm.
2. Giai đoạn 1987 đến nay.
Với việc ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1987) và chính sách mở cửa kinh tế của Đảng và Nhà nước, ngành Dầu khí Việt Nam đã
bước vào một thời kì phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là đối với công tác thăm dò- khai thác.
Tổng cục Dầu khí được chuyển đổi thành Tổng công ty \Ddầu khí Việt Nam (Petrovietnam) với tư cách là một Công ty Dầu khí Quốc Gia, đã tiến hành hàng chục hợp đồng hợp tác kinh doanh thăm dò dầu khí với các công ty dầu khí danh tiếng trên thế giới .
Hệ thống luật pháp điều chỉnh hoạt động dầu khí trong nền kinh tế thị trường đã được hoàn thiện, đảm bảo cho việc đầu tư được ổn định (Luật Dầu Khí, Luật Thuế, Luật Lao Động…).
Sau hơn 10 năm tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí, Petrovietnam đã hợp tác đầu tư với các công ty dầu khí nước ngoài triển khai một khối lượng rất lớn các công việc nghiên cứu, tìm kiếm, thăm dò và đã phác thảo rõ nét hơn bức tranh dầu khí. Từng bước chính xác hoá tiềm năng, trữ lượng và phát hiện một số khu vực có trữ lượng dầu khí. Kết quả là xác định được các bể trầm tích có tiềm năng dầu khí như:
- Bể sông Hồng, Phú khánh, Cửu long, Nam Côn Sơn, Malay - Thổ
Chu, Hoàng Sa và nhóm bể Trường Sa (đối với thềm lục địa và vùng biển
đặc quyền kinh tế).
liền).
- Trũng Hà Nội và một phần trũng Cửu Long (đối với phần đất
Phía nước ngoài đã tham gia tìm kiếm- thăm dò dầu khí tập trung ở các bể: Cửu Long, Nam Côn Sơn, Malay-Thổ Chu. Một số vùng đã có các phát hiện dầu khí là:
- Bể Cửu Long: Phát hiện dầu.
- Bể Nam Côn Sơn, Malay - Thổ chu: Phát hiện dầu và khí, trong
đó chủ yếu là khí thiên nhiên.
- Bể sông Hồng: phát hiện khí, trong đó những phát hiện khí ở vùng biển Quảng Nam, Đà Nẵng có trữ lượng rất lớn nhưng hàm lượng CO2 cao (60-90%).
- Trũng Hà Nội: phát hiện dầu và khí với trữ lượng nhỏ.
Những nghiên cứu bước đầu đánh giá được trữ lượng xác minh và tiềm năng dầu khí của từng bể với tổng tiềm năng dự báo khoảng 3 tỷ tấn dầu quy đổi trong đó chủ yếu là khí. Trữ lượng đã phát hiện khoảng 1 tỷ tấn dầu quy đổi, trong đó có khoảng 250 tỷ m3 khí ở bể Sông Hồng có hàm lượng CO2 cao, tổng trữ lượng các mỏ nhỏ khoảng 100 triệu tấn dầu quy đổi. Trữ lượng dầu và khí của các mỏ đã được phát hiện khẳng định tiềm năng dầu khí của nước ta là tương đối lớn. Tuy nhiên, cho đến nay ta mới chỉ phát hiện được khoảng 33% trữ lượng tiềm năng.
Bên cạnh mỏ Bạch Hổ do Vietsopetro đang khai thác, các nhà thầu đã khoan thẩm lượng và đưa 5 mỏ mới vào khai thác: Đại Hùng, Rồng, Rạng Đông, Ruby, Bunga Kekwa. Tổng sản lượng khai thác lên tới 98 triệu tấn dầu và 3.9 tỷ m3 khí. Tổng sản lượng khai thác dầu thô ngày càng tăng qua các năm thể hiện qua biểu đồ dưới đây:
Biểu đồ 2: sản lượng khai thác dầu thô của Việt Nam qua các năm
(Đơn vị: triệu tấn/năm)
18
16
14
12 9.96
10
8
6
4
2
0
12.32
15.22
15.86
17.01
17.097
17.61
'97 '98 '99 '00 '01 '02 '03 (¦íc)
Nguồn: Báo cáo Dầu Khí 7/2003
Như vậy, các hoạt động dầu khí trong giai đoạn 1987-2002 đã tạo nên bước phát triển mới của ngành Dầu khí nước ta, xây dựng nền tảng đầu tiên của ngành trên cơ sở khai thác dầu khí ở thềm lục địa, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu dầu mỏ. Điều đó thể hiện ở sự gia tăng sản lượng dầu thô xuất khẩu. Năm 1988: xuất khẩu 0.69 triệu tấn dầu thô. Năm 2002: xuất khẩu 17.0971 triệu tấn dầu thô, gấp 24.8 lần năm 1988.
Khối lượng dầu thô xuất khẩu đã đem lại nguồn ngoại tệ rất lớn cho Nhà nước. Chính vì giá trị xuất khẩu lớn như vậy mà dầu thô đã đứng đầu trong số 5 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Dầu thô chiếm tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu lớn, có vai trò to lớn trong việc cân đối cán cân xuất nhập khẩu của nước ta. Trong 10 năm trở lại đây, tỷ trọng giá trị
xuất khẩu của dầu thô đạt mức cao nhất vào năm 2000 (25.84%), sau đó tỷ trọng này giảm dần do tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của các sản phẩm khác cao hơn tương đối so với dầu thô. Đến năm 2002, tỷ trọng giá trị xuất khẩu dầu thô đạt 19.55%. Bảng sau đây minh hoạ cho ta thấy điều đó.
Bảng 15: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu dầu thô giai đoạn 1995-2002
Năm
Sản lượng dầu thô xuất khẩu (triệu tấn)
Giá trị dầu thô xuất khẩu (tỷ USD)
Tổng giá trị xuất khẩu (tỷ USD)
Tỷ trọng giá trị dầu thô (%)
1995
7.652
1.155
5.449
21,20
1996
8.705
1.353
7.256
18,65
1997
9.638
1.440
9.269
15,54
1998
12.122
1.25
9.356
13,36
1999
14.750
2.017
11.532
17,49
2000
16.291
3.472
14.482
25.84
2001
16.828
3.139
15.027
20.89
2002
16.627
3.232
16.530
19.55
7/2003
9.894
2.1699
11.404
19.02
Nguồn: www.vneconomy.com.vn
Cùng với dầu mỏ, các phát hiện về khí cũng rất lớn. Đây là cơ sở cho phát triển một ngành công nghiệp mới ở Việt Nam - công nghiệp Khí. Công nghiệp Khí nước ta thực sự khởi động vào đầu những năm
1990 khi sản lượng dầu thô của mỏ Bạch Hổ đã đạt trên 5 triệu tấn một năm và cùng với nó là một lượng khí đồng hành tương đối lớn, gần 1 tỷ m3 khí/năm, không được sử dụng và phải đốt bỏ gây lãng phí và ô nhiễm môi trường. Chính vì vậy, Chính phủ đã quyết định phải có phương án sử dụng khí đồng hành đó cho sản xuất điện và các nhu cầu công nghiệp, dân dụng khác. Chính phủ đồng thời quyết định để Petrovietnam tự xây dựng đường ống dẫn khí từ mỏ Bạch Hổ vào bờ để dùng cho phát điện. Sản lượng khí thu gom được nhờ đó tăng nhanh qua các năm. Năm 1997 sản lượng khí gom được là 563 triệu m3 thì năm 2002 lên tới 2170 triệu
m3. Tổng số khí khai thác được là gần 9 tỷ m3 .
Biểu đồ 3: Sản lượng khai thác khí của Việt Nam qua các năm
(Đơn vị: triệu m3)
3000
2825
2500
2000
1500
1000
500
563
1039
1435
1724
1598
2170
0
'97 '98 '99 '00 '01 '02 '03 (¦íc)
Nguồn: Báo cáo Dầu Khí 7/2003
Cùng với sự tăng trưởng của sản lượng khí khai thác, doanh số thu
được từ việc bán khí cho các hộ tiêu thụ, nhà máy điện cũng ngày càng
tăng, năm 2002 đạt được 1887 tỷ đồng. Doanh thu bán khí các năm gần
đây thể hiện qua bảng sau.
Bảng 16: Doanh thu bán khí giai đoạn 1997-2002 (Đơn vị: tỷ đồng)
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
(Ước)
Doanh thu
635
1075
1775
1239
1497
1887
3264
Nguồn: Báo cáo Dầu khí 7/2003
Tháng 5/1995, nhà máy khí hoá lỏng đầu tiên của Việt Nam được Petrovietnam xây dựng tại Dinh Cố để chuyển một phần khí sang trạng thái lỏng (LPG) trước khi đưa vào nhà máy điện Bà Rịa, Phú Mỹ. Với sản lượng 300.000 tấn LPG/năm không những góp phần thay đổi cơ cấu nhiên liệu trong công nghiệp và tiêu dùng, còn giúp ta tiết kiệm ngoại tệ (khoảng 80 triệu USD/năm để nhập khẩu mặt hàng này).
Mới có 8 năm thu gom khí đồng hành từ mỏ Bạch Hổ, ta đã tiết kiệm được một khối lượng khí lớn hàng vài tỷ m3 khí không phải đốt bỏ góp phần bước đầu thay đổi cơ cấu đầu vào của ngành điện. Bên cạnh nhà máy nhiệt điện truyền thống dùng dầu FO, than đá thì nay có thêm nhà máy nhiệt điện dùng tuốc bin khí.
Bên cạnh khí đồng hành, nguồn khí đốt thiên nhiên có tính thương mại cũng đã được các Nhà thầu phát hiện ra tại mỏ Lan Tây-Lan Đỏ (lô
06-l, Nhà thầu BP/STATOIL/ONGC) vào năm 1993 với trữ lượng trên 2
TCF (2 ngàn tỷ feet khối - khoảng 60 tỷ mét khối), Mỏ Rồng Đôi (lô ll-2, Nhà thầu PEDCO) vào năm 1995. Hai mỏ Lan Tây - Lan Đỏ và Rồng Đôi đã đi vào khai thác trong năm 2000.
Những năm tới, khi khai thác các mỏ khí thiên nhiên, ngành công nghiệp Khí của Việt Nam sẽ khởi sắc. Nhiều ngành công nghiệp theo đó sẽ có đà phát triển mạnh. Chính phủ đã phê duyệt dự án xây dựng 4 nhà máy điện dùng khí tại Phú Mỹ với công suất 3500-4000MW (gấp hai lần công suất của nhà máy thủy điện Sông Đà). Một liên hợp điện đạm cũng sẽ được ra đời tại đó. Các nhà máy sản xuất methanol, PVC, PS, PP, phân Urê... cũng có điều kiện ra đời từ việc sử dụng khí. Như vậy, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam không chỉ khai thác được tài nguyên dầu khí, làm tăng giá trị của nó qua chế biến mà còn góp phần thúc đẩy phát triển một số ngành công nghiệp mới làm thay đổi cơ cấu ngành kinh tế.
Theo các số liệu về tình hình khai thác dầu khí trên đây, ta có thể thấy rằng tổng sản lượng khai thác dầu và khí hàng năm không ngừng tăng lên. Doanh thu từ dầu khí tăng trưởng hàng năm khoảng 25% đã đóng góp rất lớn vào Ngân sách Nhà nước. Sự tăng trưởng như vậy đã thể hiện hiệu quả của sự nỗ lực toàn Ngành trong việc ký kết và triển khai nhiều hợp đồng tìm kiếm-thăm dò, khai thác dầu khí với nước ngoài. Ta đã có nhiều phát hiện dầu khí và đẩy mạnh khai thác sản phẩm, đầu tư công nghệ kỹ thuật mới, hoàn thành và đưa vào sử dụng nhiều công trình và giếng khoan khai thác. Điều đó chứng tỏ hoạt động của Petrovietnam đạt hiệu quả đầu tư cao. Đây là dấu hiệu đáng mừng cho nền kinh tế.
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ THĂM DÒ- KHAI THÁC DẦU KHÍ Ở NƯỚC NGOÀI CỦA TỔNG CÔNG TY DẦU KHÍ VIỆT NAM
I. GIỚI THIỆU VỀ TỔNG CÔNG TY DẦU KHÍ VIỆT NAM
1. Sự hình thành Tổng công ty Dầu khí Việt Nam.
Tổng công ty Dầu khí ra đời gắn liền với sự hình thành và phát triển của ngành công nghiệp Dầu khí. Từ Đoàn Địa chất 36 trực thuộc Tổng cục Địa chất làm nhiệm vụ tìm kiếm thăm dò dầu khí, được thành lập năm
1961, trở thành Tổng công ty Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) như hiện nay là cả một quá trình phát triển liên tục gắn bó với từng giai đoạn phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Năm 1975, Tổng cục Dầu khí được thành lập trên cơ sở Liên Đoàn Địa chất 36 của Tổng cục Địa chất và một số bộ phận thuộc Tổng cục Hoá chất. Tổng cục Dầu khí đã được tổ chức và hoạt động như một cơ quan ngang Bộ. Các hoạt động tìm kiếm thăm dò trong thời kỳ đầu chủ yếu được tiến hành trên các bể trầm tích ở đồng bằng sông Hồng với sự hợp tác và trợ giúp kỹ thuật của Liên Xô (cũ) sau đó đã từng bước mở rộng tìm kiếm thăm dò ở đồng bằng sông Cửu Long.
Tháng 4/1990, Tổng cục Dầu khí được sát nhập vào Bộ Công nghiệp nặng. Đến tháng 2/1992, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã quyết định tách Tổng công ty Dầu khí khỏi Bộ Công nghiệp nặng và trực thuộc Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ).
Từ tháng 7/2003 Tổng công ty một lần nữa được sát nhập vào Bộ Công nhiệp. Với cơ chế này, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã có điều kiện hoạt động thuận lợi, phù hợp với tính đặc thù của ngành Dầu khí.
Ngành Dầu khí được đánh giá là ngành mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân. Phù hợp với điều đó, tháng 5/1995, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định tiến hành xây dựng, hoàn thiện tổ chức cơ chế quản lý của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam theo mô hình tập đoàn kinh doanh (mô hình Tổng công ty 91). Tổng công ty có tên giao dịch quốc tế là Vietnam Oil and Gas Corporation, viết tắt là PETROVIETNAM. Hiện nay tổ chức của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã được kiện toàn phù hợp với mô hình quản lý mới.
2. Nhiệm vụ của Tổng công ty Dầu khí.
Tổng công ty Dầu khí Việt Nam là Tổng công ty Nhà nước có nhiệm vụ sản xuất kinh doanh dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ, chịu sự quản lý Nhà nước của các Bộ, Ngành về những nội dung thuộc chức năng quản lý Nhà nước của mình.
Tổng công ty Dầu khí có nhiệm vụ nhận và sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn, bao gồm cả phần vốn đầu tư vào các doanh nghiệp khác, nhận và sử dụng có hiệu quả tài nguyên, đất đai, vùng biển và các nguồn lực khác trong lĩnh vực công nghiệp Dầu khí do Nhà nước giao để thực hiện nhiệm vụ kinh doanh và những nhiệm vụ khác được giao. Ngoài ra, Tổng công ty có nhiệm vụ tổ chức quản lý công tác nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong ngành Dầu khí cũng như thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công nhân viên trong Tổng công ty.
Các đơn vị thành viên của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam bao gồm: doanh nghiệp Nhà nước hạch toán độc lập, đơn vị hạch toán phụ
thuộc và các đơn vị sự nghiệp. Các đơn vị thành viên có điều lệ, quy chế tổ chức và hoạt động riêng do Hội đồng quản trị của Tổng công ty Dầu khí phê chuẩn.
3. Các lĩnh vực hoạt động.
Tổng công ty Dầu khí Việt Nam được phép tiến hành các hoạt động dầu khí trên toàn lãnh thổ, lãnh hải, thềm lục địa, hải đảo và vùng đặc quyền kinh tế thuộc chủ quyền nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các hoạt động của ngành Dầu khí Việt Nam rất đa dạng được phân thành hai khâu là khâu đầu và khâu sau. Khâu đầu bao gồm các hoạt động nằm trong lĩnh vực thượng nguồn, khâu sau chỉ các hoạt động không phải khâu đầu và bao gồm các lĩnh vực trung nguồn, hạ nguồn, các hoạt động dịch vụ dầu khí và nghiên cứu khoa học công nghệ.
3.1. Lĩnh vực thượng nguồn (Upstream).
Lĩnh vực thượng nguồn bao gồm các hoạt động tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí. Hoạt động tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí có độ rủi ro cao, đòi hỏi vốn đầu tư lớn và phải sử dụng công nghệ kỹ thuật hiện đại. Lĩnh vực hoạt động này là đặc biệt quan trọng, nó quyết định sự tồn tại và hướng phát triển của ngành Dầu khí Việt Nam. Nền kinh tế nước ta còn nghèo nàn không đủ sức gánh chịu các rủi ro do đó việc kêu gọi đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này là giải pháp bắt buộc và tối ưu. Hơn chục năm qua, Petrovietnam đã hợp tác với nhiều công ty dầu khí nước ngoài để cùng triển khai hoạt động này.
Các loại hợp đồng trong khâu thượng nguồn mà Petrovietnam đã ký với các nhà đầu tư nước ngoài trong thời gian qua gồm có: hợp đồng chia sản phẩm PSC (Production Sharing Contract), hợp đồng liên doanh điều hành chung JOC (Joint Operating Contract), hợp đồng hợp tác kinh
doanh BCC (Business Co-operation Contract), hợp đồng khảo sát địa chấn không độc quyền, hợp đồng nghiên cứu chung.
3.2.. Lĩnh vực trung nguồn (Midstream).
Lĩnh vực trung nguồn bao gồm các hoạt động tàng trữ, sơ chế và vận chuyển dầu khí từ mỏ đến các hộ tiêu thụ. Từ trước đến nay, do ta chưa có đủ khả năng về vốn để xây dựng hoàn thiện một nhà máy lọc dầu nào (nhà máy lọc dầu số 1 mới đang ở giai đoạn thi công ban đầu) nên toàn bộ dầu thô đã khai thác đều được tàng trữ trong trạm rót dầu không bến với công suất 100.000-150.000 tấn và được tàu chở dầu nước ngoài đến tiếp nhận để xuất khẩu. Trong tương lai, ngành Dầu khí sẽ tổ chức một đội tàu chở dầu thô phục vụ xuất khẩu, chuyên chở dầu cho nhà máy lọc dầu và vận tải sản phẩm dầu khí đến các hộ tiêu thụ. Hiện nay, Petrovietnam đang hướng dẫn các công ty Petechim (thuộc Petrovietnam), Falcon (thuộc Cục Hàng Hải) và NT&T (Nhật Bản) đàm phán, hoàn thiện hồ sơ dự án để trình Bộ Kế hoạch và Đầu tư duyệt và cấp giấy phép thành lập một công ty liên doanh chuyên về vận tải dầu thô xuất khẩu.
3.3. Lĩnh vực hạ nguồn (Downstream).
Lĩnh vực hạ nguồn bao gồm các hoạt động liên quan đến chế biến gồm lọc dầu và hoá dầu, phân phối và kinh doanh sản phẩm dầu khí hoặc sản phẩm dẫn xuất từ dầu khí.
* Lọc dầu
Ngay sau khi Việt Nam khai thác tấn dầu thô đầu tiên vào năm 1986 từ mỏ Bạch Hổ thì đồng thời một kế hoạch xây dựng nhà máy lọc dầu công suất khoảng 6,5 triệu tấn/ năm đã được triển khai nghiên cứu. Nhưng do có sự biến động về tình hình chính trị xã hội ở Liên Xô vào năm 1990 nên kế hoạch này đã không thực hiện được.
Trong giai đoạn 1990-1996 cùng với việc sản lượng khai thác dầu hàng năm và nhu cầu tiêu thụ sản phẩm trong nước liên tục tăng thì việc xây dựng nhà máy lọc dầu trở nên cấp thiết hơn. Petrovietnam đã được Chính phủ chỉ đạo kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài hợp tác liên doanh xây dựng nhà máy lọc dầu số 1.
Đầu năm 1997, thực hiện chỉ thị của Chính phủ, Petrovietnam đã tiến hành triển khai kế hoạch xây dựng nhà máy lọc dầu số 1 tại Dung Quất-Quảng Ngãi. Một hướng hợp tác mới đã mở ra khi Petrovietnam và Zarubezhneftj của Nga ký hợp đồng liên doanh thành lập công ty liên doanh Vietross để triển khai xây dựng nhà máy lọc dầu số 1 này. Hiện nay, công ty Vietross đang tích cực triển khai đề án: san lấp mặt bằng, chuẩn bị các tài liệu gọi thầu thiết kế, xây dựng... Mục tiêu có sản phẩm đầu tiên vào cuối năm 2007. Tuy nhiên, dự báo nhu cầu tiêu thụ và hướng phát triển của nền kinh tế quốc dân, Petrovietnam đã trình Chính phủ phương án xây dựng nhà máy lọc dầu số 2.
* Hoá dầu
Công nghiệp hoá dầu là một ngành rất mới ở Việt Nam. Do nền kinh tế còn chưa phát triển nên Việt Nam chưa có điều kiện để xây dựng một liên hợp lọc hoá dầu hoàn chỉnh. Để đáp ứng dần dần nhu cầu thị trường trong nước, Petrovietnam đã hợp tác với các công ty nước ngoài để triển khai các đề án như: đề án liên doanh sản xuất nhựa PVC với Petronas, đề án liên doanh sản xuất phụ gia hoá dẻo DOP với LG, Vinachem. Các dự
án khác còn đang ở giai đoạn đàm phán hoặc chờ đợi một số điều kiện thuận lợi về đầu tư như dự án sản xuất PP, dự án liên doanh sản xuất nhựa PS với Marubeni, dự án methanol trên bờ với Lurgi, Ancom, dự án methanol nổi với GCS, Ugland, dự án sản xuất phụ gia tẩy rửa (LAB).
Nói chung các dự án về hoá dầu còn gặp nhiều khó khăn vì chưa khẳng định được dự báo của thị trường hoặc sự thiếu chắc chắn của việc cung cấp nguyên liệu ban đầu từ nhà máy lọc dầu hoặc từ nguồn khí.
* Phân phối và kinh doanh sản phẩm dầu khí
Vì Chính phủ Việt Nam chưa cho phép các công ty nước ngoài tham gia đơn thuần hoạt động phân phối sản phẩm xăng dầu nên trong hoạt động này chưa có dự án có vốn đầu tư nước ngoài nào được ký kết ngoại trừ việc phân phối sản phẩm của dự án chế biến dầu khí và hoá dầu. Thời gian qua, Petrovietnam rất tích cực tranh thủ vốn đầu tư nước ngoài qua các đề án phân phối sản phẩm dầu khí được phép khác như: Liên doanh Vinagas đóng bình và phân phối khí hoá lỏng với PTT (Thái Lan) và Total (Pháp), Liên doanh Thăng Long đóng bình và phân phối khí hoá lỏng với Petronas (Malayxia).
3.4. Lĩnh vực dịch vụ dầu khí.
Dịch vụ dầu khí là một lĩnh vực rộng, trong đó đa phần mang tính chuyên ngành cao đòi hỏi đầu tư lớn. Ngoài ra, do tính quốc tế hoá của ngành Dầu khí mà sự có mặt của các công ty dịch vụ dầu khí nước ngoài tại Việt Nam sẽ thúc đẩy sự phát triển công nghiệp dịch vụ trong nước.
Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương thúc đẩy việc đầu tư phát triển năng lực dịch vụ trong nước nhằm từng bước giảm sự phụ thuộc vào nước ngoài đồng thời phát huy lợi thế của nước chủ nhà trong các hoạt
động dịch vụ kỹ thuật dầu khí. Nhận thức được điều đó, Petrovietnam đã thành lập Công ty Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí và Công ty Dịch vụ Du lịch Dầu khí. Đây là hai công ty được tập trung đầu tư lớn: nhiều tàu dịch vụ, bãi kho chứa vật tư, bến cảng... đã mang lại nguồn thu lớn hàng nghìn tỷ đồng cho Petrovietnam. Tuy nhiên, lĩnh vực này còn nhiều tiềm năng vì cho tới nay, tổng doanh thu từ dịch vụ của Việt Nam mới thu về 15-20% tổng đầu tư, còn lại 80-85% vốn đầu tư nước ngoài vẫn do dịch vụ từ Singapo, Mỹ, Tây Âu cung cấp.
e. Lĩnh vực nghiên cứu khoa học và công nghệ.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác nghiên cứu khoa học công nghệ, an toàn và bảo vệ môi trường trong việc phát triển ngành Dầu khí, Petrovietnam đã xây dựng một số đơn vị nghiên cứu khoa học công nghệ bao gồm: Viện dầu khí, Trung tâm Nghiên cứu phát triển và chế biến dầu khí, Trung tâm An toàn và Môi trường dầu khí, Viện NIPI (Vietsovpetro). Ngoài ra một phần công tác nghiên cứu khoa học công nghệ còn được thực hiện ở các phòng chức năng của Petrovietnam và các đơn vị thành viên cũng như hợp tác với các đơn vị nghiên cứu ngoài ngành.
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ THĂM DÒ- KHAI THÁC DẦU KHÍ Ở NƯỚC NGOÀI CỦA TỔNG CÔNG TY DẦU KHÍ VIỆT NAM
1. Cơ sở pháp lý của hoạt động đầu tư thăm dò- khai thác dầu khí ở
nước ngoài.
Khác với các hoạt động đầu tư trong nước và hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt nam, văn bản pháp lý có giá trị cao nhất tại thời điểm hiện nay điều chỉnh các hoạt động đầu tư ở nước ngoài chỉ dừng ở mức Nghị
định, đó là Nghị định 22/1999 của Chính phủ quy định về đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam. Nhằm cụ thể hoá và hướng dẫn thực hiện các quy định của Nghị định 22, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Thông tư số 05/2001/TT-BKH ngày 30/8/2001. Ngoài ra, trong quá trình triển khai các dự án đầu tư ở nước ngoài, các doanh nghiệp Việt nam phải tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành đối với từng lĩnh vực cụ thể như quản lý ngoại hối (Nghị định số 63/1998/NĐ-CP ngày
17/08/1998 và 05/2001/NĐ-CP ngày 17/01/2001 của Chính phủ và thông tư số 01/1999/TT-NHNN ngày 16/04/1999 và 01/2001/TT-NHNN ngày
19/01/2001 của Ngân hàng Nhà nước). Bên cạnh đó, các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực dầu khí sẽ được hưởng một số ưu đãi về thuế quy định tại Quyết định số 116/2001/QĐ-TTg ngày 02/08/2001 của Thủ tướng Chính phủ về một số ưu đãi, khuyến khích đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực hoạt động dầu khí.
Nghị định 22
Nghị định được ban hành nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, góp phần mở rộng và nâng cao hiệu quả của hợp tác kinh tế, kỹ thuật, thương mại với nước ngoài.
Phạm vi áp dụng của Nghị định bao gồm các hoạt động đầu tư trực tiếp ở nước ngoài bằng tiền và các tài sản khác của doanh nghiệp Việt nam ngoại trừ các hoạt động đầu tư dưới hình thức cho vay tín dụng, mua cổ phiếu và đầu tư trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm.
Đối tượng áp dụng của Nghị định bao gồm các doanh nghiệp thành lập theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước, Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp và các Hợp tác xã được thành lập theo Luật Hợp tác xã.
Để có thể đầu tư ra nước ngoài, Doanh nghiệp Việt Nam cần phải bảo đảm về tính khả thi của dự án, có đủ năng lực tài chính để có thể triển
khai dự án và phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam. Doanh nghiệp được sử dụng các tài sản và quyền tài sản hợp pháp và được chuyển ra nước ngoài theo quy định của pháp luật để đầu tư bao gồm máy móc, thiết bị, bộ phận rời, vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu, giá trị quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ kỹ thuật và ngoại tệ. Trong trường hợp đầu tư bằng máy móc, thiết bị, Doanh nghiệp sẽ được hưởng chế độ miễn thuế xuất khẩu theo quy định của pháp luật về thuế xuất khẩu và nhập khẩu. Trong trường hợp đầu tư bằng tiền và tài sản, Doanh nghiệp phải tuân thủ chặt chẽ các quy định hiện hành về quản lý ngoại hối, quy định về xuất khẩu và chuyển giao công nghệ.
Thẩm quyền quyết định đầu tư ra nước ngoài bao gồm Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong đó Thủ tướng Chính phủ quyết định đối với những dự án của doanh nghiệp do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập hoặc vốn đầu tư cảu doanh nghiệp nhà nước có giá trị từ 1.000.000 đô la Mỹ trở lên. Các dự án còn lại sẽ thuộc thẩm quyền quyết định của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Ngoài ra, Bộ Kế hoạch và Đầu tư còn có chức năng thẩm định các dự án đầu tư để trình Thủ tướng xem xét và quyết định đối với các dự án thuộc thẩm quyền quyết định của Thủ tướng.
Khi muốn đầu tư ra nước ngoài, các doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhưng có vốn đầu tư ra nước ngoài có giá trị từ 1.000.000 đô la Mỹ trở lên phải tuân thủ quy định xin phép đầu tư ra nước ngoài bằng việc lập hồ sơ đầu tư ra nước ngoài gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư bao gồm:
- Đơn xin đầu tư ra nước ngoài;
- Bản sao quyết định thành lập doanh nghiệp;
- Văn bản cho phép đầu tư do cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu tư cấp hoặc hợp đồng, bản thoả thuận với bên ngoài về dự án đầu tư;
- Giải trình về mục tiêu của dự án, nguồn gốc các khoản vốn đầu tư của doanh nghiệp, hình thức đầu tư, phương thức chuyển vốn, phương thức chuyển lợi nhuận về nước;
- Tình hình tài chính của doanh nghiệp;
- Văn bản chấp thuận đầu tư ra nước ngoài của cơ quan ra quyết định thành lập doanh nghiệp (nếu là doanh nghiệp nhà nước).
Các doanh nghiệp khác chỉ cần đăng ký tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư
theo mẫu quy định.
Thời hạn thẩm định cấp Giấy phép đầu tư ra nước ngoài không quá
30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ. Cụ thể, trong thời hạn 05 ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư gửi hồ sơ dự án để xin ký kiến của các Bộ, Ngành liên quan và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các cơ quan này phải gửi ý kiến bằng văn bản đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư về những vấn đề của dự án thuộc phạm vi quản lý của mình trong thời hạn 10 ngày. Đối với những dự án thuộc thẩm quyền quyết định của Thủ tướng Chính phủ, chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phải trình Thủ tướng Chính phủ ý kiến thẩm định để Thủ tướng xem xét và quyết định. Đối với các dự án còn lại, sau khi nhận được ý kiến bằng văn bản của các Bộ, ngành, Bộ Kế hoạch và Đầu tư thông báo quyết định cho doanh nghiệp. Trong trường hợp có ý kiến khác nhau, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Doanh nghiệp chỉ được phép triển khai hoạt động đầu tư ở nước ngoài sau khi được cấp Giấy phép đầu tư và dự án đầu tư được cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu tư chấp thuận.
Khi triển khai đầu tư ra nước ngoài, doanh nghiệp phải mở một tài khoản tại ngân hàng được phép hoạt động tại Việt Nam. Mọi giao dịch chuyển tiền ra nước ngoài, lợi nhuận và các khoản thu nhập chuyển về Việt Nam (chậm nhất là 6 tháng kể từ khi kết thúc năm tài chính của nước tiếp nhận đầu tư) liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp phải được thực hiện thông qua tài khoản này. Trường hợp muốn sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư, doanh nghiệp phải được Bộ Kế hoạch và Đầu tư chấp thuận và đăng ký với Ngân hàng Nhà nước.
Thông tư 05
Nội dung chủ yếu của Thông tư 05 là cụ thể hoá các quy định của Nghị định 22 về việc lập hồ sơ dự án theo quy trình đăng ký cấp Giấy phép đầu tư ra nước ngoài, hồ sơ thẩm định cấp Giấy phép đầu tư. Ngoài ra, Thông tư còn quy định một số vấn đề về điều chỉnh giấy phép đầu tư, đăng ký thực hiện dự án và chế độ báo cáo.
Trong quá trình triển khai dự án đầu tư ở nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam có thể đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư điểu chỉnh các điều khoản được quy định tại Giấy phép đầu tư cho phù hợp với hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong các trường hợp:
- Có sự thay đổi mục tiêu đầu tư ra nước ngoài;
- Mở rộng quy mô đầu tư ra nước ngoài;
- Chuyển nhượng vốn đầu tư ở nước ngoài.
Trong trường hợp muốn điều chỉnh Giấy phép đầu tư, doanh nghiệp phải lập hồ sơ điều chỉnh Giấy phép đầu tư nộp Bộ Kế hoạch và Đầu tư xem xét.
Trong vòng 60 ngày kể từ ngày dự án đầu tư được nước tiếp nhận
đầu tư phê duyệt, doanh nghiệp phải nộp bản sao quyết định phê duyệt
hoặc các giấy tờ có giá trị tương đương cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư và báo cáo đăng ký thực hiện dự án. Trường hợp dự án đầu tư không được nước tiếp nhận đầu tư phê chuẩn hoặc không triển khai hoạt động trong vòng 6 tháng kể từ khi được cấp Giấy phép đầu tư, doanh nghiệp phải báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư để xem xét và gia hạn hoặc thu hồi Giấy phép đầu tư, tuỳ từng trường hợp.
Quyết định 116
Đối tượng áp dụng của Quyết định bao gồm các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức đầu tư 100% vốn hoặc góp vốn tham gia trong lĩnh vực hoạt động dầu khí bao gồm tìm kiếm, thăm dò, phát triển mỏ và khai thác dầu khí, bao gồm các hoạt động dịch vụ phục vụ trực tiếp cho các hoạt động dầu khí.
Khi xác định số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp tại Việt Nam, doanh nghiệp được trừ số thuế thu nhập doanh nghiệp đã nộp ở nước ngoài hoặc đã được nước tiếp nhận đầu tư trả thay với điều kiện số thuế đã nộp ở nước ngoài này không vượt quá số thuế thu nhập tính theo thuế suất quy định tại khoản 3 Điều 10 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp ngày
10/03/1997. Quy định này cũng được áp dụng tương tự đối với trường hợp xác định thuế thu nhập cá nhân.
Các thiết bị, phương tiện, vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu thuộc đối tượng chịu thuế xuất khẩu và thuế giá trị gia tăng khi xuất khẩu ra nước ngoài để thực hiện dự án dầu khí được miễn thuế xuất khẩu và được áp dụng thuế suất thuế giá trị gia tăng bằng không (0%). Tương tự, các mẫu vật, tài liệu kỹ thuật nhập khẩu nhằm mục đích nghiên cứu, phân tích để thực hiện dự án dầu khí được miễn thuế nhập khẩu và không thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng. Các thiết bị, vật tư chuyên dụng cho hoạt động dầu khí mà trong nước chưa sản xuất được, khi tạm nhập khẩu để gia
công, chế biến, sau đó tái xuất khẩu để thực hiện dự án dầu khí thì được miễn thuế nhập khẩu, thuế xuất khẩu và không thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng.
Sau khi đã hoàn thành các nghĩa vụ thuế theo quy định của Nhà nước Việt Nam, doanh nghiệp tiến hành các dự án dầu khí ở nước ngoài được sử dụng lợi nhuận sau thuế để tái đầu tư ở nước ngoài phù hợp với nội dung, mục tiêu của._.ông tác đào tạo. Lượng kinh phí đào tạo phải đủ để tạo ra một sự đồng bộ thì mới đảm bảo yêu cầu và chất lượng của công tác đào tạo. Nguồn này cần được huy động từ nhiều nguồn khác nhau như ngân sách của Tổng công ty, từ phần dành cho đào tạo trong các hợp đồng với nước ngoài, kinh phí nhà nước… Để chủ động về thời gian và nội dung chương trình cũng như hình thức đào tạo, trong thời gian tới Tổng công ty cần có chế độ quản lý tập trung quỹ đào tạo trong các đơn vị của Tổng công ty, sử dụng quỹ đào tạo của Tổng công ty với tinh thần hiệu quả và tiết kiệm.
Về các khoá đào tạo: hiện nay các khóa đào tạo được thực hiện dưới hai hình thức: tổ chức các khoá trong nước và nước ngoài. Về các khoá đào tạo nước ngoài, do chưa có một quy trình đào tạo cụ thể nên hiệu quả đào tạo chưa cao dẫn đến tình trạng thấy thiếu mới cử đi đào tạo hoặc đào tạo rồi về không dùng đúng mục đích. Đầu tư ra nước ngoài là một lĩnh vực mới và nguồn cán bộ có kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực này còn mỏng do đó để khắc phục cần có một chiến lược đào tạo, đưa người ra nước ngoài theo đúng mục tiêu công việc trong tương lai. Đi đôi với việc đào tạo đội ngũ cán bộ ở nước ngoài, Tổng công ty cũng phải
tăng cường công tác đào tạo trong nước. Điều này một phần giúp giảm thiểu nguồn kinh phí đào tạo lại tận dụng được kiến thức và kinh nghiệm của các bộ trong nước. Tuy nhiên để thực hiện được điều này cần có các chương trình đạo tạo cụ thể tiếp thu được các công nghệ mới của nước ngoài, thực hiện đào tạo đến đâu, đạt kết quả tốt đến đó, không nên chấp vá, đào tạo làm nhiều lần, nhiều giai đoạn.
Việc lựa chọn đối tượng đào tạo: Lựa chọn đối tượng trên cơ sở kết hợp giữa việc tạo công bằng cho mọi cán bộ công nhân viên trước cơ hội được đào tạo và sự tuyển chọn đào tạo những người có năng lực để đáp ứng yêu cầu công việc đòi hỏi có trình độ quản lý hoặc chuyên môn cao.
2.2. Thuê tư vấn nước ngoài.
Như đã nói ở trên đầu tư ra nước ngoài là một lĩnh vực mới vì vậy trong giai đoạn này việc thiếu các cán bộ có kinh nghiệm là điều tất yếu. Để giải quyết vấn đề này, ngoài việc nhanh chóng đào tạo đội ngũ cán bộ đồng thời tuyển dụng các cán bộ có kinh nghiệm và có thể công tác ở nước ngoài, Tổng công ty cần nhanh chóng thuê các chuyên gia nước ngoài có kinh nghiệm. Điều này một mặt giải quyết được những khó khăn về mặt nhân lực trước mắt, vừa tạo điều kiện cho các cán bộ của ta có thể học hỏi kinh nghiệm trong thời gian làm việc cùng các chuyên gia nước ngoài.
2.3. Tăng cường năng lực tài chính và kỹ thuật.
Về năng lực tài chính: do tính chất của hoạt động đầu tư thăm dò- khai thác dầu khí đòi hỏi vốn lớn mà thời gian thu hồi vốn lâu, thông thường với một dự án dầu khí đã có phát hiện thương mại thời gian thu hồi vốn cũng phải lên tới 7-10 năm. Vì vậy trong quá trình mới bắt đầu hoạt động đầu tư thăm dò- khai thác dầu khí ở nước ngoài, khi các dự án chưa đi
vào triển khai và thu lợi nhuận thì vẫn cần thiết phải có vốn đầu tư để đầu tư vào các dự án có tính khả thi cao. Ngoài các biện pháp mang tính vĩ mô như cơ chế cho vay từ các ngân hàng thương mại hay lập quỹ dự phòng rủi ro, Petrovietnam cũng nên xem xét lại cách điều phối vốn sao cho hợp lý tránh tình trạng có dự án khả thi lại không có tiền đầu tư.
Về năng lực kỹ thuật: Petrovietnam nên xây dựng chương trình tổng thể
phát triển công nghiệp tự động hoá, công nghệ thông tin của ngành.
Nghiên cứu tiếp nhận, làm chủ các công nghệ tự động hoá, công nghệ thông tin tiên tiến của thế giới đã và sẽ lắp đặt trong các công trình dự án dầu khí.
Mặc dù trình độ ứng dụng công nghệ tự động hoá, công nghệ thông tin của ngành Dầu khí trong nhưng năm qua có bước tiến vượt bậc, hàng loạt các dự án, dây chuyền hoạt động được trang bị các hệ thống điều khiển bằng máy vi tính có trình độ tích hợp cao, sử dụng các giải pháp điều khiển tổng thể, tiện dụng, nhưng thực chất quá trình ứng dụng các công nghệ hiện đại của ngành trong những năm qua mới dừng lại ở mức độ thụ động tiếp nhận và vận hành bên cạnh sự trợ giúp của các chuyên gia nước ngoài. Do đó nên nghiên cứu tiếp nhận có tính chủ động tiến đến làm chủ các công nghệ nhằm khai thác hiệu quả cho công tác thăm dò- khai thác ở nước ngoài.
Kết luận
Đầu tư thăm dò- khai thác dầu khí ở nước ngoài là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, là yêu cầu cần thiết để đảm bảo nhu cầu năng lượng ngày càng tăng và an ninh năng lượng cho nền kinh tế quốc dân. Ngoài ra, sự phát triển của hoạt động đầu tư thăm dò- khai thác dầu khí ở nước ngoài là một tất yếu khách quan phù hợp với xu thế quốc tế hoá hoạt động dầu khí trên thế giới và nằm trong phương hướng phát triển Petrovietnam thành một tập đoàn kinh tế mạnh.
Trong quá trình hoạt động gần 3 năm qua Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã không ngừng nỗ lực trong việc tìm kiếm và kí kết các dự án đầu tư, tiến hành đầu tư có trọng điểm vào các khu vực có tiềm năng dầu khí lớn và dần dần tạo dựng được hình ảnh công ty trên thế giới. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động cũng có không ít khó khăn xuất phát từ môi trường đầu tư thiếu ổn định, cơ chế chính sách chưa đồng bộ, sự khác biệt về văn hoá, phong tục tập quán và tập tục kinh doanh cộng với các khó khăn trong nội bộ Tổng công ty. Vì vậy, để hoạt động đầu tư thăm dò- khai thác dầu khí ở nước ngoài có thể phát triển hơn nữa trong những năm tới cần có những điều chỉnh hợp lý từ phía Chính phủ cũng như từ phía Tổng công ty Dầu khí Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
1. IEA Monthly Oil Market Report- UN 20/4/2002.
2. Tạp chí dầu khí số 1/2000, 4/2000, 5/2000, 3/2001, 1/2002,
3/2002, 4/2002, 8/2002, 10/2002, 3/2003, 6/2003.
3. Tạp chí Oil & Gas journal số 24/10/2003, 24/2/2003.
4. Tạp chí Thông tin dầu khí thế giới số 3/2002, 4/2002, 6/2002,
7/2002, 8-2002, 1/2003, 7/2003, 8/2003,
5. Báo cáo Dầu Khí 2002, 7/2003.
6. World Bank 2001.
7. www.vneconomy.com.vn.
8. www.pidc.com.vn.
9. Quy định pháp luật về đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp, tổ chức kinh tế Việt Nam – Lưu Quang sưu tầm, tuyển chọn- NXB Lao Động- 2002.
Phụ lục
Phụ lục 1: Nghị định Số 22/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14 tháng 4 năm 1999 quy định về đầu tư ra nước ngoài của Doanh nghiệp Việt Nam
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Nhằm tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, góp phần mở rộng và nâng cao hiệu quả của hợp tác kinh tế, kỹ thuật, thương mại với nước ngoài;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
NGHỊ ĐỊNH:
Điều 1.
1. Đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam là việc Doanh nghiệp Việt Nam đưa vốn bằng tiền, tài sản khác ra nước ngoài để đầu tư trực tiếp ở nước ngoài theo quy định của Nghị định này;
2. Nghị định này không điều chỉnh việc đầu tư của Doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài dưới các hình thức cho vay tín dụng, mua cổ phiếu; đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm.
Điều 2.
1. Doanh nghiệp Việt Nam được đầu tư ra nước ngoài bao gồm:
a) Doanh nghiệp được thành lập theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước;
b) Hợp tác xã được thành lập theo Luật Hợp tác xã;
c) Doanh nghiệp được thành lập theo Luật Công ty;
d) Doanh nghiệp thành lập theo Luật Doanh nghiệp tư nhân.
(Các doanh nghiệp nêu tại khoản này sau đây gọi tắt là Doanh nghiệp
Việt Nam).
2. Đầu tư ra nước ngoài của Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các Bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh theo quy định riêng của Chính phủ.
Điều 3. Doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài phải có đủ
các điều kiện sau:
1. Dự án đầu tư ra nước ngoài có tính khả thi;
2. Có năng lực tài chính đáp ứng yêu cầu đầu tư ra nước ngoài;
3. Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước.
Điều 4. Doanh nghiệp Việt Nam được đầu tư ra nước ngoài bằng:
1. Máy móc, thiết bị, bộ phận rời; vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu;
2. Giá trị quyền sở hữu công nghiệp; bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ kỹ thuật;
3. Tiền nước ngoài;
4. Các quyền tài sản khác trừ những quyền tài sản không được phép chuyển ra nước ngoài theo quy định của pháp luật.
Điều 5.
1. Việc chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài bằng tiền, tài sản nêu tại Điều 4 của Nghị định này phải tuân thủ các quy định hiện hành về quản lý ngoại hối, quy định về xuất khẩu và chuyển giao công nghệ;
2. Việc miễn thuế xuất khẩu đối với các tài sản đầu tư ra nước ngoài của Doanh nghiệp nêu tại điểm 1 Điều 4 của Nghị định này được thực hiện theo quy định của pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Bộ Thương mại xác nhận danh mục hàng hóa miễn thuế nói trên; Tổng cục Hải quan căn cứ vào văn bản xác nhận danh mục đó để miễn thuế xuất khẩu.
Điều 6.
1. Doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài phải tuân thủ quy định xin phép đầu tư ra nước ngoài nêu tại các Điều 7, 8, 9 và 10 của Nghị định này gồm:
a) Doanh nghiệp Nhà nước;
b) Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhưng có vốn đầu tư
ra nước ngoài có giá trị từ 1.000.000 đô la Mỹ trở lên.
2. Đối với những trường hợp đầu tư không thuộc khoản 1 điều này, Doanh nghiệp chỉ cần đăng ký tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư theo mẫu quy định.
Điều 7. Hồ sơ đầu tư ra nước ngoài gửi đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư
bao gồm:
1. Đơn xin đầu tư ra nước ngoài;
2. Bản sao Quyết định thành lập Doanh nghiệp;
3. Văn bản cho phép đầu tư do cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu tư cấp hoặc hợp đồng, bản thỏa thuận với bên nước ngoài về dự án đầu tư;
4. Giải trình về mục tiêu của dự án, nguồn gốc các khoản vốn đầu tư của Doanh nghiệp; hình thức đầu tư, phương thức chuyển vốn, phương thức chuyển lợi nhuận về nước;
5. Tình hình tài chính của Doanh nghiệp;
6. Văn bản chấp thuận đầu tư ra nước ngoài của cơ quan ra quyết định thành lập Doanh nghiệp (nếu là Doanh nghiệp Nhà nước).
Điều 8. Sau khi nhận được hồ sơ dự án, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ
chức thẩm định dự án về những nội dung chủ yếu sau:
1. Năng lực tài chính của Doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài;
2. Hiệu quả của dự án (các khoản nộp ngân sách, khả năng mở rộng thị
trường).
Điều 9. Thẩm quyền quyết định đầu tư ra nước ngoài được quy
định như sau:
1. Thủ tướng Chính phủ quyết định đối với những dự án của Doanh nghiệp do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập hoặc vốn đầu tư của Doanh nghiệp Nhà nước có giá trị từ 1.000.000 đô la Mỹ trở lên;
2. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư quyết định đối với những dự án còn lại.
Điều 10. Việc thẩm định dự án đầu tư ra nước ngoài được quy định như sau:
1. Doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài lập hồ sơ quy định tại Điều 7 của Nghị định này thành 8 bộ (trong đó có 1 bộ gốc) gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư;
2. Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư gửi hồ sơ dự án lấy ý kiến của Bộ và ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có liên quan;
3. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ, các cơ quan nêu trên gửi ý kiến bằng văn bản đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư về những vấn đề của dự án thuộc phạm vi quản lý của mình;
4. Đối với những dự án thuộc thẩm quyền quyết định của Thủ tướng Chính phủ, chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ ý kiến thẩm định kèm theo hồ sơ dự án và ý kiến của các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có liên quan để Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư thông báo quyết định cho Doanh nghiệp;
5. Đối với những dự án còn lại, sau khi nhận được ý kiến bằng văn bản của các Bộ, ngành và ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có liên quan, Bộ Kế hoạch và Đầu tư thông báo quyết định cho Doanh nghiệp. Trong trường hợp có ý kiến khác nhau, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định;
6. Trường hợp đơn xin đầu tư được chấp thuận, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy phép đầu tư cho Doanh nghiệp và gửi bản sao đến các Bộ, ngành và ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có liên quan.
Trường hợp đơn xin đầu tư không được chấp thuận, Bộ Kế hoạch và Đầu tư thông báo quyết định của mình cho Doanh nghiệp và nêu rõ lý do.
7. Thời hạn thẩm định cấp Giấy phép đầu tư ra nước ngoài không quá
30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ.
Điều 11. Doanh nghiệp chỉ được phép triển khai các thủ tục liên quan đến việc chuyển tiền, tài sản đầu tư ra nước ngoài để thực hiện dự án sau khi được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy phép và dự án đầu tư được cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu tư chấp thuận.
Điều 12. Để thực hiện dự án đầu tư ra nước ngoài, Doanh nghiệp phải mở một tài khoản tại ngân hàng được phép hoạt động tại Việt Nam.
Mọi giao dịch chuyển tiền ra nước ngoài và vào Việt Nam liên quan đến hoạt động của Doanh nghiệp phải được thực hiện thông qua tài khoản này.
Điều 13. Lợi nhuận và các khoản thu nhập của Doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài phải được chuyển về nước trong thời gian chậm nhất là 6 tháng kể từ khi kết thúc năm tài chính của nước tiếp nhận đầu tư. Trường hợp quá thời hạn nêu trên phải nêu rõ lý do chậm cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Điều 14. Doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài nếu sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư ở nước ngoài phải được Bộ Kế hoạch và Đầu tư chấp thuận và đăng ký với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Điều 15. Khi kết thúc dự án đầu tư ở nước ngoài đúng thời hạn hoặc trước thời hạn. Doanh nghiệp phải tiến hành các thủ tục thanh lý và chuyển về nước toàn bộ các khoản thu được qua thanh lý trong thời hạn chậm nhất là 6 tháng kể từ ngày kết thúc việc thanh lý.
Điều 16. Doanh nghiệp hoạt động đầu tư ở nước ngoài phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính và nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật hiện hành.
Nếu việc đầu tư được tiến hành tại nước đã ký Hiệp định tránh đánh thuế trùng với Việt Nam thì các nghĩa vụ về thuế của Doanh nghiệp được thực hiện theo các quy định của Hiệp định.
Điều 17. Hàng năm, trong vòng 6 tháng kể từ khi kết thúc năm tài chính của nước tiếp nhận đầu tư, Doanh nghiệp phải báo cáo về tình hình
hoạt động và báo cáo tài chính có chứng nhận của cơ quan kiểm toán hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu tư cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và cơ quan ra quyết định thành lập Doanh nghiệp.
Điều 18. Trong phạm vi chức năng của mình, các cơ quan quản lý Nhà nước quản lý Doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài có tài sản thuộc sở hữu Nhà nước chịu trách nhiệm quản lý, giám sát Doanh nghiệp trong quá trình đàm phán, ký kết và triển khai hoạt động nhằm bảo toàn và phát triển vốn.
Điều 19. Doanh nghiệp, cá nhân vi phạm các quy định nêu tại các Điều 11, 12, 13, 14, 15, 16 và 17 của Nghị định này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Điều 20. Nghị định này có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày ký. Doanh nghiệp đã được cấp Giấy phép đầu tư ra nước ngoài trước ngày Nghị định này có hiệu lực được tiếp tục hoạt động theo quy định của Giấy phép đầu tư và phải tuân thủ các quy định của Nghị định này.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn thi hành Nghị định này.
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm thi hành Nghị định này.
Phụ lục 2: Thông tư Số 05/2001/TT-BKH của Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 30 tháng 8 năm 2001 Hướng dẫn hoạ tđộng đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam (không bao gồm bản phụ lục của thông tư này).
Căn cứ Nghị định 22/1999/NĐ-CP ngày 14/4/1999 của Chính phủ quy
định vè đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam.
Căn cứ Nghị định số 75/CP ngày 01 tháng 11 năm 1995 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành Thông tư hướng dẫn thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài như sau:
Điều 1. Đối tượng, phạm vi áp dụng
1. Doanh nghiệp Việt Nam được đầu tư ra nước ngoài thuộc đối tượng
điều chỉnh của Thông tư này bao gồm:
a. Doanh nghiệp được thành lập theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước;
b. Hợp tác xã được thành lập theo Luật Hợp tác xã;
c. Doanh nghiệp được thành lập theo Luật Doanh nghiệp. (Sau đây gọi chung là doanh nghiệp Việt Nam).
2. Thông tư này chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức đưa vốn bằng tiền hoặc các tài sản được phép khác ra nước ngoài để đầu tư trực tiếp theo quy định của Nghị định số
22/1999/NĐ-CP ngày 14 tháng 4 năm 1999 của Chính phủ.
3. Thông tư này không áp dụng đối với các trường hợp sau đây:
a. Đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
b. Đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam dưới các hình thức cho vay tín dụng; mua cổ phiếu; đấu thầu quốc tế; đầu tư ra nước ngoài trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm.
Điều 2. Cấp Giấy phép đầu tư ra nước ngoài
1. Doanh nghiệp Việt Nam chỉ được phép đầu tư ra nước ngoài sau khi
được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy phép đầu tư ra nước ngoài.
2. Việc xem xét cấp giấy phép đầu tư ra nước ngoài được thực hiện theo quy định tại Điều 6 Nghị định số 22/1999/NĐ-CP ngày 14 tháng 4 năm
1999 của Chính phủ trên cơ sở phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ và được thực hiện theo một trong hai quy trình sau đây:
a. Đăng ký cấp giấy phép đầu tư.
b. Thẩm định cấp giấy phép đầu tư.
Điều 3. Hồ sơ đăng ký cấp giấy phép đầu tư.
1. Đối với những dự án đầu tư ra nước ngoài mà chủ đầu tư không thuộc thành phần kinh tế Nhà nước và có vốn đầu tư dưới 1.000.000 đô la Mỹ được quy định tại Khoản 2 Điều 6 Nghị định số 22/1999/NĐ-CP ngày 14 tháng 4 năm 1999 của Chính phủ, doanh nghiệp Việt Nam lập hồ sơ dự án theo quy trình đăng ký cấp giấy phép đầu tư ra nước ngoài gửi cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư gồm các tài liệu sau đây:
a. Đơn đăng ký đầu tư ra nước ngoài.
b. Bản sao giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp (có công chứng);
c. Văn bản chấp thuận đầu tư do cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu tư cấp (nếu có); hợp đồng, bản thoả thuận với bên nước ngoài về dự án đầu tư (đối với trường hợp liên doanh hoặc các loại hình đầu tư khác có bên nước ngoài tham gia).
d. Báo cáo tình hình tài chính của doanh nghiệp trong 01 năm gần nhất
(có kiểm toán).
2. Hồ sơ đăng ký cấp giấy phép đầu tư được lập thành 5 bộ, trong đó ít nhất có 1 bộ gốc. Đơn đăng ký đầu tư ra nước ngoài thực hiện theo Mẫu 1 của Phụ lục 1 kèm theo Thông tư này.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện thủ tục đăng ký cấp giấy phép đầu tư
trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ.
Điều 4. Hồ sơ thẩm định cấp giấy phép đầu tư.
1. Đối với những dự án đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Nhà nước không phân biệt quy mô và mục đích đầu tư và các dự án đầu tư của các thành phần kinh tế khác có vốn đầu tư từ 1.000.000 đô la Mỹ trở lên được quy định tại khoản 1 Điều 6 Nghị định số 22/1999/NĐ-CP ngày 14 tháng
4 năm 1999 của Chính phủ, doanh nghiệp Việt Nam lập hồ sơ dự án theo quy trình thẩm định cấp giấy phép đầu tư ra nước ngoài gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Hồ sơ dự án thẩm định cấp giấy phép đầu tư bao gồm các tài liệu sau đây:
a. Đơn xin đầu tư ra nước ngoài.
b. Bản sao giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp (có công chứng);
c. Giải trình về dự án đầu tư;
d. Văn bản chấp thuận đầu tư do cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận đầu tư cấp (nếu có); hợp đồng, bản thoả thuận với bên nước ngoài về dự án đầu tư (đối với trường hợp liên doanh hoặc các loại hình đầu tư khác có bên nước ngoài tham gia).
e. Báo cáo tình hình tài chính của doanh nghiệp trong 01 năm gần nhất
(có kiểm toán).
g. Văn bản chấp thuận đầu tư ra nước ngoài của cơ quan ra quyết định thành lập doanh nghiệp (nếu là doanh nghiệp Nhà nước) hoặc của Uỷ ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi doanh nghiệp đăng ký kinh doanh (nếu là doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác).
2. Hồ sơ thẩm định cấp giấy phép đầu tư được lập thành 08 bộ, trong đó ít nhất có 01 bộ gốc. Đơn xin đầu tư ra nước ngoài và giải trình về dự án đầu tư thực hiện theo Mẫu 2 và 3 Phụ lục 1 kèm theo Thông tư này.
3. Quy trình và nội dung thẩm định theo quy định tại Điều 10 Nghị định số 22/1999/NĐ-CP ngày 14 tháng 4 năm 1999 của Chính phủ
Điều 5. Sửa đổi, bổ sung hồ sơ dự án.
1. Trường hợp hồ sơ dự án nêu tại Điều 3 và Điều 4 của Thông tư này chưa hợp lệ hoặc chưa đầy đủ thì trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án. Bộ Kế hoạch và Đầu tư có văn bản yêu cầu doanh nghiệp bổ sung, sửa đổi hồ sơ dự án.
2. Trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu sửa đổi, bổ sung hồ sơ, doanh nghiệp có trách nhiệm gửi cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư các văn bản sửa đổi, bổ sung; nếu quá thời hạn nêu trên mà doanh nghiệp không có văn bản trả lời hoặc văn bản trả lời không đáp ứng được yêu cầu, đơn xin cấp giấy phép đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp được coi là hết giá trị xem xét.
Điều 6. Điều chỉnh giấy phép đầu tư
Trong quá trình đầu tư ra nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài có thể đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư điều chỉnh các điều khoản được quy định tại giấy phép đầu tư cho phù hợp với hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong các trường hợp sau đây:
a. Có sự thay đổi mục tiêu đầu tư ra nước ngoài;
b. Mở rộng quy mô đầu tư ra nước ngoài;
c. Chuyển nhượng vốn đầu tư ở nước ngoài;
Điều 7. Quy trình điều chỉnh giấy phép đầu tư
1. Doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài phải lập hồ sơ điều chỉnh giấy phép đầu tư gồm các tài liệu sau đây:
a. Đơn xin điều chỉnh giấy phép đầu tư;
b. Giải trình về lý do, nội dung điều chỉnh.
c. Báo cáo tình hình hoạt động đầu tư ra nước ngoài cho đến thời điểm
điều chỉnh giấy phép đầu tư.
2. Hồ sơ điều chỉnh giấy phép đầu tư được lập thành 03 bộ, trong đó ít nhất có 01 bộ gốc. Hồ sơ điều chỉnh giấy phép đầu tư thực hiện theo Mẫu
4 và 5 của Phụ lục 1 kèm theo Thông tư này.
Điều 8. Đăng ký thực hiện dự án
1. Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày dự án đầu tư của doanh nghiệp được chuẩn y theo pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư, doanh nghiệp phải nộp bản sao quyết định chuẩn y (hoặc các giấy tờ có giá trị tương đương) cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư và báo cáo đăng ký thực hiện dự án.
2. Nội dung báo cáo đăng ký thực hiện dự án bao gồm:
a. Tên, địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp; chi nhánh, văn phòng đại diện (nếu có);
b. Mục tiêu, ngành nghề kinh doanh;
c. Vốn điều lệ của công ty; phần vốn tham gia của doanh nghiệp Việt
Nam;
d. Họ tên, địa chỉ thường trú của người đại diện của doanh nghiệp Việt
Nam ở nước ngoài và người đại diện của doanh nghiệp ở Việt Nam.
3. Khi thay đổi các nội dung nêu trên, doanh nghiệp Việt Nam phải thực hiện báo cáo đăng ký lại tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong thời hạn 30 ngày làm việc kể từ khi có sự thay đổi.
4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm gửi bản sao giấy phép đầu tư và bản sao báo cáo đăng ký thực hiện dự án cho cơ quan thuế, Ngân hàng, cơ quan quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật tương ứng để thực hiện quản lý Nhà nước trong phạm vi chức năng của mình.
5. Trong thời hạn 6 tháng kể từ khi được cấp giấy phép đầu tư ra nước ngoài dự án đầu tư không được nước tiếp nhận đầu tư chấp thuận hoặc dự án đầu tư không triển khai hoạt động thì doanh nghiệp phải báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Tuỳ từng trường hợp cụ thể, nếu có cơ sở xác định lý do của việc không triển khai hoặc không được nơi tiếp nhận đầu tư chấp thuận là không khách quan, Bộ Kế hoạch và Đầu tư ra quyết định thu hồi giấy phép đầu tư và thông báo quyết định này cho các cơ quan nêu tại khoản 4 của Điều này.
Trường hợp có lý do chính đáng, doanh nghiệp phải báo cáo với Bộ Kế hoạch và Đầu tư để xin gia hạn và phải được Bộ Kế hoạch và Đầu tư chấp thuận.
Điều 9. Chế độ báo cáo
1. Doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài phải thực hiện chế độ báo cáo định kỳ theo quy định tại Điều 17 Nghị định số 22/1999/NĐ-CP ngày 14 tháng 4 năm 1999 của Chính phủ.
2. Trong trường hợp cần thiết, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có thể yêu cầu doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài phải báo cáo về tình hình hoạt động đầu tư ở nước ngoài.
3. Báo cáo về tình hình hoạt động đầu tư của doanh nghiệp được lập theo
Phụ lục II kèm theo Thông tư này.
Điều 10. Chấm dứt hoạt động đầu tư ra nước ngoài
1. Doanh nghiệp Việt Nam chấm dứt hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong các trường hợp sau đây:
a. Doanh nghiệp Việt Nam kết thúc dự án đầu tư ra nước ngoài theo quy định tại Điều 15 Nghị định số 22/1999/NĐ-CP ngày 14 tháng 4 năm 1999 của Chính phủ;
b. Doanh nghiệp thành lập ở nước ngoài bị giải thể hoặc phá sản theo quy
định của pháp luật nước ngoài;
c. Doanh nghiệp Việt Nam không thực hiện các chế độ báo cáo đăng ký thực hiện, báo cáo hoạt động theo quy định của Thông tư này.
2. Trong trường hợp nêu trên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư ra quyết định chấm dứt hoạt động đầu tư ra nước ngoài, thu hồi giấy phép đầu tư và thông báo cho các cơ quan có liên quan.
Điều 11. Khen thưởng và xử lý vi phạm
1. Doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài và các cá nhân có thành tích xuất sắc trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài được khen thưởng theo quy định của pháp luật.
2. Việc xử lý vi phạm trong hoạt động đầu tư ra nước ngoài thực hiện theo quy định tại Điều 19 Nghị định số 22/1999/NĐ-CP ngày 14 tháng 4 năm 1999 của Chính phủ, Thông tư này và các quy định khác có liên quan của pháp luật Việt Nam.
Điều 12. Điều khoản thi hành
1. Thông tư này có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày ký.
2. Các dự án đầu tư ra nước ngoài được cấp giấy phép đầu tư trước ngày Thông tư này có hiệu lực phải thực hiện ngay việc báo cáo đăng ký thực hiện dự án theo quy định tại Điều 8 của Thông tư này với Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
3. Trong quá trình thực hiện dự án đầu tư ở nước ngoài và thực hiện Thông tư này nếu có vướng mắc, doanh nghiệp cần kịp thời phản ánh đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư để xem xét và có điều chỉnh phù hợp, nếu cần thiết.
Phụ lục 3: quyết định của thủ tướng Chính phủ Số 116/2001/QĐ-TTg ngày 02 tháng 8 năm 2001 Về một số ưu đãi, khuyến khích đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực hoạt động dầu khí.
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Căn cứ Luật Dầu khí ngày 06 tháng 7 năm 1993, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dầu khí ngày 09 tháng 6 năm 2000, Nghị định số
48/2000/NĐ-CP ngày 12 tháng 9 năm 2000 của Chính phủ, quy định chi tiết thi hành Luật Dầu khí;
Căn cứ Nghị định số 22/1999/NĐ-CP ngày 14 tháng 4 năm 1999 của Chính phủ quy định về đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam; Theo đề nghị của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. áp dụng một số ưu đãi, khuyến khích đối với doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức đầu tư 100% vốn hoặc góp vốn theo tỷ lệ tham gia trong lĩnh vực hoạt động dầu khí bao gồm : tìm kiếm, thăm dò, phát triển mỏ và khai thác dầu khí, kể cả các hoạt động phục vụ trực tiếp cho các hoạt động dầu khí, sau đây gọi tắt là dự án dầu khí.
Điều 2. Doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài trong các dự án dầu khí (sau đây gọi tắt là doanh nghiệp), ngoài việc được hưởng những ưu đãi quy định tại Nghị định số 22/1999/NĐ-CP ngày 14 tháng 4 năm 1999 của Chính phủ quy định về đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam, doanh nghiệp còn được hưởng một số ưu đãi quy định tại các Điều 3, 4 Quyết định này.
Điều 3.
1. Khi xác định số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp tại Việt Nam đối với các dự án dầu khí đầu tư ra nước ngoài, doanh nghiệp được trừ số thuế thu nhập doanh nghiệp đã nộp ở nước ngoài hoặc đã được nước tiếp nhận đầu tư trả thay (có chứng từ hợp lệ), nhưng số thuế thu nhập được trừ không vượt quá số thuế thu nhập tính theo thuế suất quy định tại khoản 3 Điều 10 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp ngày 10 tháng 5 năm
1997.
2. Cá nhân làm việc cho các dự án dầu khí phải nộp thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao theo quy định của pháp luật. Khi xác định số thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao phải nộp tại Việt Nam, được trừ số thuế thu nhập cá nhân đã nộp ở nước ngoài hoặc được nước tiếp nhận đầu tư trả thay (có chứng từ hợp lệ), nhưng số thuế được trừ không vượt quá số thuế thu nhập phải nộp đối với người có thu nhập cao theo quy định của pháp luật Việt Nam về thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao.
3. Thiết bị, phương tiện, vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu thuộc đối tượng chịu thuế xuất khẩu và thuế giá trị gia tăng của doanh nghiệp xuất khẩu ra nước ngoài để thực hiện dự án dầu khí đầu tư ra nước ngoài được miễn thuế xuất khẩu và được áp dụng thuế suất thuế giá trị gia tăng bằng không (0%).
4. Mẫu vật, tài liệu kỹ thuật (băng từ, băng giấy...) nhập khẩu nhằm mục đích nghiên cứu, phân tích để thực hiện dự án dầu khí được miễn thuế nhập khẩu và không thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng.
5. Các thiết bị, vật tư chuyên dụng cho hoạt động dầu khí mà trong nước chưa sản xuất được, khi tạm nhập khẩu để gia công, chế biến, sau đó tái xuất khẩu để thực hiện dự án dầu khí thì được miễn thuế nhập khẩu, thuế xuất khẩu và không thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng.
Điều 4.
1. Sau khi đã hoàn thành các nghĩa vụ thuế theo quy định của Nhà nước Việt Nam, doanh nghiệp tiến hành các dự án dầu khí ở nước ngoài được sử dụng lợi nhuận sau thuế để tái đầu tư ở nước ngoài phù hợp với nội dung, mục tiêu của dự án dầu khí đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, nhưng phải đăng ký với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và báo cáo định kỳ với Bộ Kế hoạch và Đầu tư về tình hình sử dụng lợi nhuận sau thuế để tái đầu tư ở nước ngoài.
2. Trong trường hợp số ngoại tệ trên tài khoản của doanh nghiệp không đủ để đầu tư theo tiến độ của dự án đã được phê duyệt, doanh nghiệp được mua số ngoại tệ còn thiếu tại các ngân hàng được phép hoạt động ngoại hối ở Việt Nam.
1. Lãi vốn vay ngân hàng đối với số vốn đầu tư ra nước ngoài được khấu trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
Điều 5. Quyết định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày ký.
Điều 6. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8350.doc