LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Sau 20 năm tiến hành đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, nước ta đã có sự chuyển biến rõ rệt về đời sống kinh tế, xã hội trong đại bộ phận dân cư. Đặc biệt, sự kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO (7/11/2006) đã mở ra cho nền kinh tế nước nhà nhiều cơ hội cũng như thách thức mới. Và dưới tác động của nó, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và cả đô thị hóa cũng diễn ra ngày càng sâu rộng trên phạm vi cả nước. Cùng với xu hướng đ
84 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1406 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và phương hướng tiếp tục giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp sau khi bị thu hồi đất ở quận Cầu Giấy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó, quá trình xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhu cầu công cộng và lợi ích quốc gia cũng đang diễn ra rất nhanh chóng, đặc biệt là ở các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh.
Quận Cầu Giấy là một bộ phận hợp thành của Thủ đô Hà Nội. Tuy là Quận mới được thành lập từ các xã, thị trấn (năm 1997) nhưng quá trình đô thị hóa lại diễn ra rất nhanh chóng trong những năm qua. Quá trình đó đi liền với việc thu hồi đất, mà chủ yếu là đất nông nghiệp của một bộ phận dân cư. Đây là một quá trình tất yếu, có tính quy luật trong thời kỳ đầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Quá trình đó đã và đang kéo theo hàng loạt khó khăn trong việc giải quyết việc làm cho người lao động bị mất đất, để có thể ổn định an ninh – xã hội, chính trị…Tất cả đang trở thành vấn đề bức xúc, đòi hỏi sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cũng như quần chúng nhân dân để có thể đảm bảo được đời sống của người dân trên địa bàn Quận.
Để có thể đánh giá đúng thực trạng việc thu hồi đất cũng như ảnh hưởng của nó tới việc làm, đời sống của lao động nông nghiệp bị thu hồi đất, qua đó đề ra một số giải pháp nhằm giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp bị thu hồi đất trên địa bàn quận Cầu Giấy, tôi đã triển khai nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và phương hướng tiếp tục giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp sau khi bị thu hồi đất ở quận Cầu Giấy”.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của:
Phòng Kinh tế Kế hoạch quận Cầu Giấy.
PGS. TS. Phạm Văn Khôi - Phó Chủ nhiệm khoa Kinh tế Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Đề tài có ba mục tiêu chủ yếu sau:
Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về việc làm nói chung, việc làm cho lao động nông nghiệp bị thu hồi đất nói riêng trên địa bàn quận Cầu Giấy.
Đánh giá thực trạng đời sống và việc làm của lao động nông nghiệp bị thu hồi đất trong quá trình đô thị hóa.
Đề xuất các quan điểm, phương hướng và giải pháp để tiếp tục giải quyết việc làm, ổn định cuộc sống cho lao động nông nghiệp sau khi bị thu hồi đất trong quá trình đô thị hóa trong những năm tới.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Như tên đề tài đã chỉ rõ, đề tài tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng việc làm của lao động nông nghiệp có đất bị thu hồi trong quá trình đô thị hóa và ảnh hưởng của nó tới thu nhập và đời sống.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn như sau:
Về phạm vi không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng việc làm cho lao động nông nghiệp có đất bị thu hồi trên địa bàn quận Cầu Giấy
Về phạm vi thời gian:
+ Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng, việc làm cho lao động nông nghiệp có đất bị thu hồi từ năm 2001 đến nay (2006). Đây là thời kỳ đô thị hóa diễn ra rất nhanh chóng. Đồng thời, nhiều vấn đề bức xúc trong quá trình thu hồi đất cũng nảy sinh chủ yếu trong thời gian này.
+ Phạm vi thời gian cho các đề xuất trong đề tài là thời kỳ 2007 – 2010, đặt trong tầm nhìn đến năm 2020.
Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, phụ lục, kết luận, đề tài gồm các phần lớn sau đây:
Chương I: Việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp bị thu hồi đất trong quá trình đô thị hóa.
Chương II: Thực trạng việc thu hồi đất nông nghiệp và vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp có đất bị thu hồi ở quận Cầu Giấy.
Chương III: Những giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp sau khi bị thu hồi đất chuyển đổi mục đích sử dụng.
Chương 1
VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP BỊ THU HỒI ĐẤT TRONG QUÁ TRÌNH
ĐÔ THỊ HÓA
Khái niệm và vai trò của việc làm
Khái niệm về việc làm
Việc làm là phạm trù kinh tế xã hội biểu hiện khả năng kết hợp giữa sức lao động với tư liệu sản xuất nhằm tạo ra thu nhập, tạo ra của cải vật chất hoặc thỏa mãn những yêu cầu nào đó, phù hợp với những quy định của pháp luật.
Để hiểu rõ hơn khái niệm việc làm, cần phân biệt rõ 2 thuật ngữ: việc làm và làm việc. Đây là 2 thuật ngữ có sự biểu hiện khác nhau ở một số phương diện. Về nội hàm của thuật ngữ làm việc: có thể hiểu làm việc, đó chính là quá trình lao động, vì vậy có thể hiểu đó là sự kết hợp giữa sức lao động với tư liệu sản xuất. Trong khi đó, thuật ngữ việc làm chỉ phản ánh về khả năng của sự kết hợp đó. Ví dụ như một doanh nghiệp thiếu vốn sản xuất, khi doanh nghiệp được vay vốn sẽ mở ra khả năng thu hút thêm việc làm, hoạt động vay vốn đó đã tạo ra việc làm. Doanh nghiệp đó có thu hút được lao động và có triển khai được các hoạt động đó hay không, đặc biệt người lao động có triển khai các hoạt động đó hay không lại thuộc về phạm trù làm việc. Về ngữ pháp: Việc làm là danh từ, còn làm việc là động từ. Vì vậy, việc làm phản ánh ở dạng tiềm năng và làm việc biểu hiện sự khai thác của tiềm năng đó. Trên thực tế, người ta thường quan tâm nhiều đến kết quả cuối cùng, vì vậy sự thống nhất trên một phương diện nào đó giữa việc làm và làm việc là vấn đề cần lưu ý khi tạo việc làm. Bởi vì, tạo ra việc làm nhưng người lao động không làm việc hoặc làm việc không hiệu quả thì tạo việc làm sẽ không có ý nghĩa.
Khái niệm về người có việc làm: Người có việc làm là những người từ đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế đang làm công việc để nhận tiền lương, tiền công hoặc lợi nhuận bằng tiền hay hiện vật hoặc đang làm công việc không được hưởng tiền lương, tiền công hay lợi nhuận trong các công việc sản xuất kinh doanh của hộ gia đình. Khái niệm người có việc làm còn bao gồm những người có sức lao động, có việc làm nhưng chưa chấp nhận làm việc, hoặc chưa sẵn sàng làm việc, thậm chí không chịu làm việc. Trên thực tế, do phân biệt người có việc làm không chịu làm việc và người không có việc làm thực sự có những khó khăn nên những đối tượng này được liệt kê vào những người không có việc làm. Cách thức này tuy có tiện về thống kê, nhưng không phản ánh chính xác thực tiễn.
Trong số người có việc làm, căn cứ vào số giờ thực tế làm việc và nhu cầu làm thêm của người được coi là có việc làm, người ta lại chia ra thành người đủ việc làm và người thiếu việc làm.
Người đủ việc làm gồm những người có số giờ làm việc trong tuần lễ lớn hơn hoặc bằng 40 giờ; hoặc những người có số giờ nhỏ hơn 40, nhưng không có nhu cầu làm thêm; hoặc những người có số giờ làm việc nhỏ hơn 40, nhưng bằng hoặc lớn hơn giờ quy định đối với những người làm các công trình nặng nhọc, độc hại theo quy định hiện hành.
Người thiếu việc làm là những người có tổng số giờ làm việc trong 1 tuần dưới 48 giờ đến 8 giờ, hoặc có số giờ làm việc nhỏ hơn quy định đối với những người làm công việc nặng nhọc, độc hại theo quy định hiện hành của nhà nước, có nhu cầu làm thêm giờ và đã sẵn sàng làm việc nhưng không có việc để làm.
Thất nghiệp là sự tồn tại của một bộ phận lực lượng lao động có khả năng và sẵn sàng làm việc nhưng không tìm được việc làm.
Người thất nghiệp là người từ đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc đang tích cực tìm việc làm hoặc đang chờ được trở lại làm việc trong khoảng thời gian quy định (thường là 4 tuần).
Vai trò của việc làm
Việc làm có vai trò quan trọng quyết định đến sự phát triển kinh tế xã hội ở vùng nông thôn. Qua việc làm ta có thể đánh giá được sự phát triển của nông thôn về nhiều nghành nhiều lĩnh vực cụ thể như an ninh xã hội, trình độ phát triển của dân cư, trình độ học hành…Ở vùng nông thôn có tỷ lệ người có việc làm thường xuyên thì góp phần ổn định cuộc sống của người dân, giảm bớt các tệ nạn xã hội mang lại do lao động không có việc làm gây ra như chơi bời cờ bạc, nghiện hút ma tuý… Vì thế mà việc giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn sau khi bị thu hồi đất càng trở nên cần thiết. Giải quyết tốt vấn đề này không những góp phần phát triển kinh tế xã hội mà còn giúp người dân lao động nông thôn giảm bớt vào việc bị lôi kéo vào các hoạt động không lành mạnh của xã hội.
Việc làm thường xuyên giúp cho người dân có đời sống thu nhập ổn định, giúp cho họ có khả năng dễ dàng tiếp cận với khoa học công nghệ hiện đại, đồng thời nâng cao khả năng nhận thức của người dân.
Việc làm cho lao động nông thôn sẽ góp phần thúc đẩy cơ sở hạ tầng ngày càng phát triển theo hướng ngày càng hoàn thiện. Tạo ra sự thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn.
Sự cần thiết phải giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp sau khi bị thu hồi đất trong quá trình đô thị hóa
1.2.1. Đô thị hóa và tính tất yếu của đô thị hóa
1.2.1.1. Đô thị hóa
Đô thị là khu dân cư tập trung với mật độ cao, cơ sở hạ tầng thích hợp, là trung tâm chuyên ngành có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một huyện, tỉnh hoặc một vùng, miền lãnh thổ, cả nước.
Như vậy, một vùng, lãnh thổ được công nhận là đô thị khi nó là thành phố, thị xã, thị trấn được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập.
Để đánh giá trình độ của đô thị, ta có thể thông qua một số chỉ tiêu như:
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ là chủ yếu
Tổng thu ngân sách trên địa bàn
Thu nhập bình quân đầu người/năm
Mức tăng trưởng kinh tế trung bình/năm
Cân đối thu – chi ngân sách…
Đô thị hóa được xem như một quá trình đa dạng về các mặt kinh tế - xã hội, dân số, địa lý, v.v…dựa trên cơ sở của các hình thức phân công lao động xã hội theo ngành và phân công lao động xã hội theo lãnh thổ. Đây là quá trình tập trung, tăng cường, phân hóa các họat động trong đô thị và nâng cao tỷ lệ số dân thành thị trong các vùng, các quốc gia cũng như trên toàn thế giới. Đồng thời, đô thị hóa cũng là quá trình phát triển của các thành phố lớn và phổ biến rộng rãi lối sống thành thị trong dân cư. Trước kia, đô thị hóa chỉ tiến hành trong phạm vi các thành phố. Ngày nay, quá trình này bắt đầu phổ biến và xâm nhập vào các vùng nông thôn.
Đô thị hóa là một tiến trình rất đa dạng, chứa đựng nhiều hiện tượng và biểu hiện khác nhau trong quá trình phát triển.
Trên quan điểm một vùng, đô thị hóa là quá trình hình thành, phát triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị.
Trên quan điểm kinh tế quốc dân, đô thị hóa là một quá trình biến đổi về phân bố các lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cư những vùng những vùng không phải đô thị thành đô thị, đồng thời phát triển các đô thị hiện có theo chiều sâu. Đô thị hóa là quá độ từ hình thức sống nông thôn lên hình thức sống đô thị của các nhóm dân cư, gắn liền với những biến đổi sâu sắc về kinh tế - xã hội của đô thị và nông thôn trên cơ sở phát triển công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, dịch vụ, v.v…Đô thị hóa gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Trong các loại đô thị hóa thì vấn đề đô thị hóa nông thôn là vấn đề được quan tâm nhiều nhất, vì đô thị hóa nông thôn là xu hướng bền vững và mang tính quy luật không thể tránh khỏi. Thực chất, đô thị hóa nông thôn là quá trình phát triển nông thôn và phổ biến lối sống thành phố cho các vùng nông thôn (cách sống, hình thức nhà cửa, phong cách sinh hoạt…). Hay nói cách khác, đó là sự tăng trưởng đô thị theo hướng bền vững.
Đô thị hóa ngoại vi được hiểu là quá trình phát triển mạnh vùng ngoại vi của thành phố do kết quả phát triển công nghiệp, kết cấu hạ tầng…tạo ra các cụm đô thị, liên đô thị…góp phần đẩy nhanh đô thị hóa nông thôn.
Cần phân biệt được đô thị hóa thật sự với đô thị hóa giả tạo. Đô thị hóa giả tạo là sự phát triển thành phố do tăng quá mức dân cư đô thị và do dân cư từ các vùng khác đến, đặc biệt là từ nông thôn…dẫn đến nảy sinh các vấn đề xã hội như thất nghiệp, thiếu nhà ở, ô nhiễm môi trường, giảm chất lượng cuộc sống…
Từ các khái niệm trên, ta có thể thấy rằng, đô thị hóa mang tính xã hội và lịch sử; đó là sự phát triển về quy mô, số lượng dân số, tăng trưởng và phát triển kinh tế, nâng cao vai trò của đô thị trong khu vực và hình thành hệ thống các đô thị.
Tóm lại, đô thị hóa là quá trình phức tạp có thể định nghĩa từ nhiều góc độ khác nhau nhưng chung lại một cách tổng quát: Đô thị hóa là quá trình biến đổi và phân bố lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cư, hình thành và phát triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị, đồng thời phát triển đô thị hiện có theo chiều sâu trên cơ sở hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật và tăng quy mô dân số.
Vai trò của đô thị hóa: Đô thị hóa có vai trò đặc biệt quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
Bên cạnh nông thôn, đô thị là hình thái quần cư cơ bản thứ hai của xã hội loài người. Trên thế giới, đô thị ra đời rất sớm, nhưng chỉ thật sự phát triển mạnh mẽ từ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 cho đến nay, đô thị đã trở thành một hiện tượng xã hội, một hiện tượng kinh tế có ảnh hưởng hết sức quan trọng tới mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống kinh tế xã hội.
Đô thị là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Sự phát triển đô thị kích thích tăng trưởng và phát triển của các vùng lãnh thổ xung quanh và toàn bộ nền kinh tế thông qua quá trình phân bố lại các cơ sở kinh tế, lan truyền tiến bộ công nghệ, văn hóa, xã hội. Với sự phát triển của hệ thống các đô thị , nhiều nước đã từng bước hình thành được những vùng, lãnh thổ phát triển không chỉ đảm nhận chức năng động lực thúc đẩy sự phát triển toàn bộ nền kinh tế - xã hội đất nước mà còn đảm nhận chức năng hợp tác và hội nhập quốc tế, vừa đảm nhận vai trò tiếp nhận thông tin, các thành tựu về phát triển khoa học, công nghệ, kinh tế, văn hóa của thế giới rồi lan rộng ra các vùng xung quanh. Vai trò và tác động tích cực của phát triển đô thị được thể hiện cụ thể như sau:
Các đô thị có vai trò to lớn trong việc tạo ra thu nhập, tích lũy của nền kinh tế và nguồn thu cho ngân sách quốc gia. Theo số liệu thống kê năm 2004, chỉ tính riêng bốn thành phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng chiếm khoảng 14% dân số, tạo ra 36,4% GDP, 45,7% giá trị sản lượng công nghiệp, và gần 50% giá trị xuất khẩu của cả nước. Các đô thị này đã trở thành những vùng động lực có tốc độ tăng trưởng cao và có đóng góp quan trọng vào việc tăng quy mô của nền kinh tế, tăng giá trị công nghiệp, dịch vụ và xuất khẩu của cả nước.
Với quy mô sản xuất, diện tích, dân số lớn và không ngừng gia tăng, sự tập trung lớn các năng lực sản xuất, các đô thị cũng có khả năng cung cấp một khối lượng đáng kể các sản phẩm công nghiệp và dịch vụ với chất lượng tốt đáp ứng nhu cầu của nhiều vùng trong nước và nguồn hàng cho xuất khẩu.
Các đô thị lớn thực sự là các trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoc học kỹ thuật, thương mại của các vùng và cả nước. Các hoạt động dịch vụ quan trọng như xuất nhập khẩu, tài chính, tiền tệ, vận tải, du lịch, khoa học công nghệ từ các đô thị lớn bắt đầu có sức lan tỏa và thúc đẩy sự phát triển chung của các lãnh thổ trên phạm vi cả nước.
Các đô thị có ưu thế về nhân lực được đào tạo chất lượng cao, có khả năng nhanh chóng tiếp cận trình độ công nghệ tiên tiến, trên cơ sở đó tạo ra các công nghệ và các trang thiết bị hiện đại không chỉ phục vụ cho sự phát triển của bản thân đô thị mà còn đáp ứng cho nhu cầu của các vùng lãnh thổ khác trên toàn quốc.
Sự phát triển của đô thị góp phần nâng cao năng suất và chất lượng lao động cho toàn bộ nền kinh tế. Tại các đô thị của Việt Nam đã bước đầu hình thành đội ngũ lao động và cán bộ quản lý có trình độ và tác phong lao động công nghiệp hiện đại. Hầu hết lực lượng lao động có trình độ từ cao đẳng và đại học trở lên của cả nước tập trung tại các đô thị. Tay nghề của người lao động được nâng cao cùng các kinh nghiệm quản trị kinh doanh…được tiếp tục lan tỏa sang các lãnh thổ còn lại của đất nước thông qua việc phát triển các chi nhánh, các cơ sở sản xuất kinh doanh đặt tại các địa phương khác, góp phần từng bước nâng cao trình độ và hiệu quả quản lý kinh doanh, nâng cao năng suất và chất lượng lao động cho toàn bộ nền kinh tế nói chung, các vùng kém phát triển nói riêng.
Các đô thị lớn tập trung số lượng lớn các cơ sở đào tạo và khoa học, giữ vai trò đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước, góp phần từng bước nâng cao chất lượng nguồn lao động cho nền kinh tế.
Các đô thị còn là nơi tiêu thụ hàng nông sản chất lượng cao, tác động đến sự phát triển các cơ sở cung cấp nguyên liệu và dịch vụ, góp phần chuyển đổi tập quán sản xuất truyền thống của nhiều vùng nông thôn, mở ra khả năng nâng cao chất lượng và giá trị nông sản, mở rộng thị trường…Như vậy, sự phát triển của các đô thị sẽ tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp – nông thôn và của cả nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Sự phát triển của các đô thị đã tạo điều kiện để bổ sung nguồn vốn đầu tư cho sự phát triển của các vùng nông thôn, vùng kém phát triển. Thông qua việc thu hút lao động tới các đô thị, một phần đáng kể trong thu nhập của người lao động được đưa trở về các vùng nông thôn, vùng kém phát triển để giúp đỡ gia đình xây dựng, sửa sang nhà cửa, đường sá, phát triển kinh tế nông hộ, v.v…
Tóm lại, đô thị tượng trưng cho thành quả kinh tế, văn hóa, xã hội của mỗi quốc gia, là sản phẩm mang tính kế thừa của nhiều thế hệ cả về cơ sở vật chất kỹ thuật và văn hóa. CNH, HĐH tạo điều kiện để tiến hành quá trình đô thị hóa, ngược lại đô thị hóa cũng có tác động tích cực trở lại thúc đẩy quá trình CNH, HĐH diễn ra nhanh hơn. Bên cạnh đó, đô thị hóa diễn ra tạo ra sự đa dạng các ngành nghề, từ đó việc làm được tăng lên đáng kể, điều này tác động tích cực đến thu nhập và đời sống của người dân. Tác động lan tỏa của các đô thị được mở rộng cả về phạm vi không gianvà biến đổi về chất. Nhiều đô thị đã thực sự trở thành các hạt nhân động lực cho sự phát triển của nhiều vùng.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, những tác động tích cực mà đô thị hóa đem lại thì các đô thị cũng là nguyên nhân chính gây ảnh hưởng đáng kể đến môi trường và tài nguyên thiên nhiên, đến cân bằng sinh thái do tài nguyên đất bị khai thác triệt để cho xây dựng đô thị, ô nhiễm các chất thải công nghiệp và sinh hoạt, giảm diện tích cây xanh và mặt nước, bùng nổ giao thông cơ giới…Bên cạnh đó, qua thực tế phát triển cho thấy khoảng cảnh giữa nông thôn và thành thị ngày càng tăng. Thành phố sẽ có những ảnh hưởng mạnh mẽ đến nông thôn và trực tiếp là khu vực ngoại thành trong quá trình tiến hành đô thị hóa.
1.2.1.2. Tính tất yếu của đô thị hóa
Tiền đề cơ bản để tiến hành công cuộc đô thị hóa là sự phát triển công nghiệp, hay nói cách khác, công nghiệp hóa là cơ sở phát triển của đô thị hóa. Trên thế giới, đô thị hóa được coi là bắt đầu từ khi tiến hành cách mạng thủ công nghiệp, mà tiếp sau đó là cách mạng công nghiệp, mà điển hình nhất là sự thay thế lao động thủ công bằng lao động máy móc với năng suất lao động cao hơn và sự thay đổi về cơ cấu lao động xã hội trên cơ sở phân công lao động xã hội. Đồng thời, cách mạng công nghiệp đã tập trung hóa lực lượng sản xuất ở mức độ cao hơn dẫn đến hình thành đô thị hóa, mở rộng quy mô đô thị cũ.
Bên cạnh tiền đề phát triển công nghiệp thì sự phát triển của trung tâm dịch vụ, thương mại và du lịch cũng là tiền đề cho sự hình thànhh và phát triển của một số khu đô thị mới, cho sự mở rộng các khu đô thị hiện có, và sự hoàn thiện hơn các khu đô thị cũ.
Những vấn đề có tính quy luật thường phát sinh và đồng hành với quá trình CNH, HĐH và đô thị hóa là:
Hình thành nhanh chóng các điểm dân cư đô thị lớn, thậm chí cực lớn, gây mất cân đối trong sự phát triển hệ thống dân cư
Gia tăng áp lực đối với quy hoạch sử dụng đất đai đô thị
Thay đổi cơ cấu dân cư theo nhiều tiêu chí: độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, trình độ học vấn, tầng lớp xã hội
Gia tăng khoảng cách chênh lệch về mức sống và thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, hình thành các khi nhà ổ chuột và tầng lớp dân nghèo thành thị, gia tăng tình trạng vô gia cư và nạn thất nghiệp.
Áp lực thay đổi lối sống đô thị do sự du nhập lối sống của nhiều địa phương, nhiều vùng khác nhau.
Gia tăng stress và các tệ nạn xã hội, ảnh hưởng tới tất cả các tầng lớp dân cư trong đô thị.
Kết cấu hạ tầng và các vấn đề môi trường (tắc nghẽn giao thông, ô nhiễm không khí, nước, chất thải rắn, thiếu nước sạch…)
Gia tăng áp lực về khối lượng và tính chất phức tạp của quản lý đô thị trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…
Ở Việt Nam, quá trình đô thị hóa nhanh chóng và mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu trong thời gian qua đã làm phát sinh những vấn đề cần giải quyết:
Mở rộng diện tích đất đô thị và thu hẹp diện tích đất nông nghiệp. Thực chất của quá trình này là sự thay đổi mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang xây dựng nhà ở, sản xuất công nghiệp, kinh doanh thương mại, dịch vụ. Quá trình này góp phần làm tăng hiệu quả sử dụng đất nhưng cũng gây ra không ít các vấn đề xã hội.
Việc làm cho nông dân nói chung, cho những hộ nông dân bị thu hồi đất do phát triển công nghiệp và xây dựng các công trình công cộng nói riêng, là vấn đề cần quan tâm và có những giải pháp nhanh chóng giải quyết.
Các vấn đề về môi trường, tài nguyên thiên nhiên và cân bằng sinh thái. Tài nguyên đất bị khai thác triệt để cho xây dựng đô thị, làm giảm diện tích cây xanh và mặt nước, gây ra ngập úng; Nhiều nhà máy, xí nghiệp gây ô nhiễm môi trường lớn trước đây nằm ở ngoại thành, nay rơi vào đúng khu dân cư đông đúc; Vấn đề tắc nghẽn giao thông trong những năm qua gây nhiều bức xúc, đặc biệt là ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh…
Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở khu vực ngoại thành. Trong quá trình đô thị hóa, cơ cấu các ngành kinh tế thay đổi theo xu hướng tích cực và tiến bộ: Tỷ trọng các hoạt động nông nghiệp giảm, tỷ trọng các hoạt động công nghiệp, thương mại và dịch vụ tăng mạnh. Vấn đề nảy sinh ở đây là chất lượng lao động tại chỗ thường không đáp ứng được yêu cầu của chuyển dịch cơ cấu kinh tế, gây ra những khó khăn và cản trở nhất định đối với quá trình này.
Vấn đề phát triển kết cấu hạ tầng. Một thực tế ở hầu hết các đô thị Việt Nam, các yếu tố kết cấu hạ tầng thường không được hình thành đồng bộ và phát triển chậm hơn so với nhu cầu thực tế của đô thị.
Vấn đề văn hóa – xã hội. Đô thị hóa góp phần nâng cao đời sống vật chất và văn hóa tinh thần cho dân cư, hình thành lối sống công nghiệp, xây dựng xã hội mới. Tuy vậy, phân hóa giàu nghèo cũng diễn ra ngày càng nhanh chóng hơn, tỷ lệ thất nghiệp và các vấn đề xã hội khác (trộm cướp, nghiện hút, mại dâm…) cũng gia tăng.
Thay đổi hình thái kiến trúc. Các tòa nhà thiết kế hiện đại, đầy đủ tiện nghi, các khu chung cư cao tầng đang dần thay thế các nhà mái ngói truyền thống. Tuy vậy, vẫn không tránh được tình trạng xây dựng manh mún, lấn chiếm không gian đô thị và các kiểu thiết kế nhà ở pha tạp nhiều loại hình kiến trúc làm ảnh hưởng xấu đến bộ mặt đô thị.
Những vấn đề về quản lý hành chính. Đô thị hóa theo chiều rộng dẫn đến sự biến động liên tục về ranh giới các đơn vị hành chính, gây khó khăn đối với bộ máy quản lý đô thị vẫn còn nhỏ yếu.
Những vấn đề có tính quy luật trong chuyển biến KT – XH của một quận mới thành lập từ các xã, thị trấn
Đô thị hóa là sự tăng lên tỷ lệ tổng dân số sống tại các khu đô thị. Nó bao gồm sự thay đổi cân bằng giữa dân số nông thôn và thành thị do sự di chuyển dòng người từ nông thôn ra thành thị và do sự khác nhau trong tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giữa hai vùng này.
Đô thị hóa là một quá trình phát triển tất yếu của việc chuyển xã, thị trấn ven nội thành quận nội thành. Nó đồng thời có tác động hai mặt tới bản thân đời sống kinh tế - xã hội của Quận. Một mặt, đô thị hóa đem lại những nhân tố mới, tạo điều kiện phát triển thị trường, phát triển kinh tế, ổn định xã hội, không những cải thiện đời sống vật chất mà văn hóa tinh thần của người dân cũng được nâng lên đáng kể. Mặt khác, nội dung và tiến trình đô thị hóa nếu không được định hướng và kiểm soát chặt chẽ, không có công tác quản lý, chính sách phát triển phù hợp sẽ dẫn đến tình trạng tự phát, gây hậu quả không lường trước được về quy hoạch và kiến trúc đô thị, về giải quyết việc làm của dân cư cũng như nảy sinh các vấn đề xã hội và môi trường.
Sự chuyển biến đầu tiên trong tiến trình chuyển xã, thị trấn ven nội thành quận nội thành là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đô thị hóa đòi hỏi phải có sự mở rộng quy mô đô thị làm cho diện tích đất nông nghiệp ngày càng giảm. Vì thế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp là điều tất yếu. Đây là quá trình thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
Cùng với quá trình đô thị hóa, các trung tâm kinh tế, khu công nghiệp tập trung, quy mô lớn được hình thành dẫn đến sự phát triển ngày càng cao của khu vực công nghiệp. Các nhà máy cần có một kết cấu hạ tầng dịch vụ, giao thông vận tải, phân phối, thông tin liên lạc, tài chính, bảo hiểm…rất rộng lớn. Các dịch vụ này phát triển rộng rãi, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển công nghiệp. Ngoài ra, các dịch vụ như xử lý thông tin, quảng cáo…trước đây được thực hiện trong nội bộ doanh nghiệp nay dần dần được đưa ký kết thực hiện với các doanh nghiệp trong khu vực dịch vụ. Do vậy, lĩnh vực dịch vụ phát triển mạnh.
Đối với các xã, thị trấn trong quá trình chuyển lên phường, quận, đô thị hóa diễn ra rất nhanh bởi đô thị hóa tạo điều kiện cho phát triển sản xuất và giao lưu hàng hóa, góp phần mở rộng các đô thị trên cơ sở đô thị hóa các phường, xã ven đô thị.
Những tác động tích cực của đô thị hóa đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quận thành lập từ các xã, thị trấn ven nội thành phát triển kinh tế - xã hội ổn định, theo kịp tiến trình phát triển của Thành phố và cả nước, với một cơ cấu kinh tế hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển chung của khu vực kinh tế thành thị.
Chuyển từ các thị trấn, xã ven nội thành quận nội thành là quá trình chuyển biến toàn diện cả về kinh tế - xã hội từ hình thái này sang hình thái khác. Sự khác biệt đó được biểu hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất, nông thôn là vùng sinh sống và làm việc của một cộng đồng bao gồm chủ yếu là nông dân, là vùng lấy sản xuất nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy sản) là chủ yếu. Ngược lại, đô thị là vùng sinh sống và làm việc của cộng đồng bao gồm một tập hợp các tầng lớp: công nhân, trí thức, công chức, tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ công, các nhà doanh nghiệp…, là vùng phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ và là trung tâm phát triển kinh tế, văn hóa, chính trị.
Thứ hai, đô thị so với nông thôn là vùng có cơ sở hạ tầng kinh tế, hạ tầng xã hội, trình độ tiếp cận thị trường, trình độ sản xuất hàng hóa cao hơn.
Thứ ba, đô thị là vùng có thu nhập và đời sống, trình độ văn hóa, trình độ khoa học – công nghệ cao hơn nông thôn. Trong một chừng mực nào đó, trình độ dân chủ, tự do và công bằng xã hội cũng cao hơn nông thôn.
Thứ tư, đối với một số ngành của nông thôn còn tồn tại trong các đô thị, tính chất đô thị hóa đã tạo nên sắc thái, đặc trưng mới, đặt ra những yêu cầu mới cho chúng. Trên thực tế, ngay cả những đô thị hiện đại đôi khi vẫn còn sự tồn tại của ngành nông nghiệp, nhưng tính chất và yêu cầu phát triển nông nghiệp đã khác hẳn. Đó là ngành nông nghiệp với các loại sản phẩm sản xuất cao cấp, giá trị kinh tế cao như: hoa sinh vật cảnh, các loại rau, quả cao cấp; Là ngành nông nghiệp với kỹ thuật sản xuất cao hơn, đảm bảo nghiêm ngặt về yêu cầu sạch của sản phẩm và môi trường sinh thái…
Những điểm khác biệt giữa nông thôn và thành thị như vậy đặt ra những khó khăn cho quá trình chuyển đổi. Đặc biệt đối với quận mới được thành lập từ các xã, thị trấn thì những khác biệt này càng rõ nét hơn. Thực tế, việc chuyển đổi kinh tế - xã hội trong quá trình đô thị hóa nằm trong sự vận động chung của nền kinh tế đất nước; Chuyển đổi theo hướng CNH, HĐH. Song, đối với một Quận mới được thành lập từ các xã, thị trấn ven nội sẽ có nhiều điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi cho phép quá trình đó diễn ra với tốc độ nhanh hơn so với các vùng khác trên phạm vi cả nước.
Bên cạnh đó, quá trình đẩy nhanh việc xây dựng các cơ sở hạ tầng: Giao thông, hệ thống cung cấp nước sạch và xử lý nước, các trung tâm thương mại, các cơ sở công nghiệp, các khu dân cư tập trung…theo những đặc trưng của một đô thị là một quy luật tất yếu khi chuyển từ xã, thị trấn thành phường, quận.
Ngoài ra, khi chuyển lên phường, quận thì việc đẩy mạnh phát triển sản xuất, giao lưu hàng hóa, mở rộng các hoạt động dịch vụ, tăng cường nâng cao dân trí, đẩy mạnh việc xây dựng các cấp chính quyền cơ sở cho tương xứng với vị trí, vai trò cấp Quận là đặc trưng chung của quá trình chuyển đổi.
Như vậy có thể thấy rằng, quá trình biến chuyển kinh tế - xã hội từ xã, thị trấn thành phường, quận gắn liền với các đặc điểm của quá trình chuyển đổi từ xã, thị trấn ven nội thành quận nội thành.
Sự cần thiết phải thu hồi đất nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa
Quá trình mở cửa nền kinh tế hội nhập với khu vực và thế giới đã và đang có những tác động đáng kể tới nền kinh tế, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, kéo theo sự thay đổi về cơ cấu lao động của các ngành, các lĩnh vực trong nền kinh tế, ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của người lao động nước ta. Đặc biệt, ngày 7/11/2006, nước ta đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO. Đây là một sự kiện trọng đại mang tính lịch sử, mở ra cho nước ta những thời cơ mới, thuận lợi mới, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình CNH, HĐH của đất nước.
Như đã trình bày ở trên, CNH, HĐH tất yếu kéo theo đô thị hóa. Tốc độ CNH càng nhanh thì trình độ đô thị hóa càng cao. Sự hình thành các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp tập trung với quy mô lớn, khu kinh tế mở, các công trình công cộng, các cơ sở hạ tầng…đòi hỏi phải dành một bộ phận lớn đất đai, trong đó chủ yếu là đất nông nghiệp. Như vậy, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo hướng CNH, HĐH, đô thị hóa thì sự giảm sút một bộ phận khá lớn đất nông nghiệp là một tất yếu khách quan.
Hơn nữa, thực hiện theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng ta là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ, do vậy diện tích đất nông nghiệp phải thu hẹp để mở rộng các ngành khác. Bởi vậy, thu hồi đất nông nghiệp chính là để phục vụ cho sự phát triển của các ngành khác.
Đối với Việt Nam, quá trình đô thị hóa tuy đã và đang được đẩy mạnh, song so với thế giới thì vẫn c._.òn thấp. Việc mở rộng quy mô diện tích các đô thị hiện có trên cơ sở hình thành các khu đô thị mới, các quận, phường mới là hình thức khá phổ biến đối với các đô thị của Việt Nam tỏng điều kiện kinh tế còn nhiều hạn chế. Việc hình thành các khu đô thị mới, các quận, phường mới được xem như là hình thức đô thị hóa theo chiều rộng và là sự mở đường của quan hệ sản xuất nhằm tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Với hình thức đô thị hóa theo chiều rộng như trên thì dân số và diện tích đô thị sẽ tăng lên một cách nhanh chóng. Mật độ dân cư ngày càng cao như vậy yêu cầu đòi hỏi phải có đất để xây dựng nhà ở. Vì vậy, thu hồi đất nông nghiệp là tất yếu.
1.2.4. Những vấn đề đặt ra của đô thị hóa đối với việc làm của những người bị thu hồi đất
1.2.4.1. Tác động của CNH, HĐH, đô thị hóa đối với lao động, việc làm của người có đất bị thu hồi.
Trong quá trình đô thị hóa, kinh tế ở các đô thị mới tăng trưởng nhanh chóng nhờ sự tập trung lực lượng sản xuất, tạo ra năng suất lao động cao, cách tổ chức lao động hiện đại. Thực chất quá trình tăng trưởng kinh tế đô thị là quá trình tăng việc làm ở các đô thị. Quá trình đó vừa làm tăng việc làm, vừa làm chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong đô thị. Ngược lại, việc chuyển đổi cơ cấu các ngành kinh tế đô thị làm tăng trưởng kinh tế đô thị theo chiều sâu, tăng năng suất lao động xã hội, tăng GDP bình quân đầu người tại đô thị.
Từ góc độ lao động và việc làm, đô thị hóa là quá trình chuyển đổi cơ cấu lao động và việc làm từ các hoạt động nông nghiệp sang các hoạt động công nghiệp và thương mại, dịch vụ. Khi đô thị mở rộng ra các vùng ngoại vi nhằm giải quyết vấn đề quá tải dân số, các khu dân cư đô thị ở ngoại vi hình thành và các hoạt động thương mại, dịch vụ sẽ phát triển. Ngoại thành là nơi có sự thay đổi mạnh mẽ về các hoạt động thương mại và dịch vụ, một phần để đáp ứng yêu cầu của phát triển công nghiệp, một phần để đáp ứng các nhu cầu dịch vụ giải trí cho dân cư nội thành.
Những người nông dân trước đây gắn bó với ruộng vườn, sau khi trở thành dân cư đôt thị, họ bị mất phần lớn đất canh tác. Với số tiền được Nhà nước đền bù hoặc tiền bán đất cho các cư dân mới, họ dùng để tạo nghề mới, tìm việc làm mới … Tuy vậy, lao động trong đô thị đòi hỏi có trình độ chuyên môn hóa cao hơn và do vậy, giá cả lao động ở đô thị cũng cao hơn so với ở nông thôn.
Sự phát triển của các đô thị một mặt tạo ra một lượng lớn việc làm cho lao động tại đô thị, đồng thời thu hút và làm giảm đáng kể lượng lao động nông nhàn ở các vùng nông thôn, kém phát triển, góp phần làm tăng năng suất lao động tại các vùng này. Chỉ riêng 4 thành phố lớn là Hà Nội, TP Hồ Chí Mính, Đà Nẵng và Hải Phòng trong năm 2004 đã giải quyết việc làm cho khoảng 363.000 lao động. Ngoài số lao động làm việc chính thức tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, còn phải kể đến một lực lượng lớn lao động làm việc trong các ngành dịch vụ, xây dựng cơ bản… và các khu vực phi chính thức khác phục vụ cho phát triển các đô thị này.
Tuy nhiên, nhìn từ góc độ khác thì khi gia tăng quy mô thành phố bằng các giải pháp mở rộng không gian, hình thành các quận, phường mới sẽ làm cho một lực lượng đáng kể lao động nông nghiệp bị mất việc làm, gây khó khăn cho đời sống của họ. Bởi thời gian trung bình để người lao động có việc làm mới sau khi bị thu hồi đất là 11 tháng đối với nghề sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; 10 tháng đối với nghề buôn bán dịch vụ; 6 tháng đối với nghề chăn nuôi; 4 tháng đối với nghề xây dựng và 8 tháng đối với các hoạt động dịch vụ khác.
Bên cạnh đó, dòng di chuyển quá lớn của lao động nông thôn ra thành phố trong khi số lượng việc làm tại các khu đô thị không thể tăng nhanh để có thể thu hút hết sự tăng lên của dân số trong độ tuổi lao động và do di dân cũng là một nguyên nhân gây ra tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm với tỷ lệ khá cao.
Vấn đề lao động và việc làm được quan tâm thường xuyên bởi vì quá trình đô thị hóa diễn ra thường xuyên và với tốc độ ngày càng nhanh. Dự kiến đến năm 2010, diện tích đất đô thị toàn quốc sẽ là 243.200 ha, chiếm khoảng 0,74% diện tích đất tự nhiên của cả nước. Đến năm 2020, con số này tương ứng sẽ là 460.000 ha và 1,4% diện tích cả nước. Diện tích đất đô thị tăng lên chủ yếu là do chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang. Điều này chắc chắn sẽ dẫn đến gia tăng nhu cầu về lao động và việc làm cho dân cư đô thị. Vấn đề đào tạo, tạo việc làm mới, chuyển đổi nghề và giải quyết thất nghiệp cần trở thành một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện tại và thời kỳ tới.
1.2.4.2. Một số vấn đề bức xúc trong việc giải quyết việc làm cho những người bị thu hồi đất
Mặc dù đã có tác động rất tích cực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội như đã nêu khái quát ở trên, nhưng cho đến nay, thu hồi đất đang là vấn đề “nóng”, bức xúc ở nhiều địa phương. Bên cạnh những kết quả đạt được thì việc thu hồi đất ở nước ta đang còn tồn tại rất nhiều vấn đề cần được giải quyết một cách đồng bộ.
Thu hồi đất đã đẩy hàng triệu người, trong đó chủ yếu là nông dân lâm vào cảnh không có việc làm, đời sống gặp nhiều khó khăn.
Phải nói rằng chủ trương thu hồi đất của Đảng và Nhà nước ta là đúng đắn, tuy nhiên, đã làm cho diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp lại, yêu cầu chuyển đổi nghề nghiệp cho lao động nông nghiệp cần thiết hơn bao giờ hết.
Trong giai đoạn 2001 – 2005, tại 14 tỉnh, thành phố kể trên, diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi là 20.361,4 ha, tương ứng số lao động bị mất việc làm trong nông nghiệp là 265.709 người.
Đại bộ phận những hộ dân, những người lao động bị thu hồi quyền sử dụng đất đều là những hộ thuần nông, cuộc sống chủ yếu dựa vào nguồn thu từ canh tác trên đất nông nghiệp và chăn nuôi quy mô nhỏ. Việc thu hồi đất đã khiến cho nhiều người nông dân bị mất một phần hoặc toàn bộ tư liệu sản xuất dẫn đến mất việc làm, gặp phải khó khăn trong tìm và tạo việc làm mới. Có thể tìm được việc làm mới nhưng thu nhập thấp, không đảm bảo được đời sống hoặc việc làm không phù hợp với khả năng và tay nghề. Người nông dân khi chuyển sang làm việc trong ngành nghề phi nông nghiệp không phải là điều có thể thực hiện được ngay trong một sớm một chiều bởi trình độ hầu như không có. Ở Hà Nội, khi một số huyện ngoại thành được chuyển thành quận ngoại thành và diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi càng nhiều thì số người nông dân trở thành “thị dân thất nghiệp” cũng ngày càng đông đảo.
Biểu 1. Tình hình lao động bị mất việc làm trong nông nghiệp do thu hồi đất giai đoạn 2001 – 2005
Đơn vị: Người
STT
Tỉnh
2001 – 2005
1
Hà Nội
104000
2
Hải Phòng
17600
3
Hà Tây
52838
4
Hải Dương
12000
5
Nam Định
8000
6
Thái Bình
17045
7
Ninh Bình
2500
8
Lào Cai
6875
9
Vĩnh Phúc
8000
10
Bắc Ninh
7500
11
Đà Nẵng
20000
12
Phú Yên
3351
13
Đồng Tháp
5000
14
Cần Thơ
1000
Cộng
265709
Nguồn: Bộ Lao động – Thương binh và xã hội
Với thực tế là lao động nông thôn của nước ta gần như chưa hề được đào tạo gì. Theo kết quả điều tra nông thôn, nông nghiệp do Tổng cục Thống kê công bố đầu năm 2004, cả nước có 93% số lao động nông nghiệp chưa qua đào tạo, chỉ có 2,3% lao động được đào tạo tay nghề theo trình độ sơ cấp hoặc công nhân kỹ thuật, 2,4% có trình độ trung cấp kỹ thuật, 0,8% có trình độ cao đẳng, 0,7% có trình độ đại học và tương đương (Thời báo Kinh tế Việt Nam, ngày 23/3/2005). Vì vậy, các khu công nghiệp thu hút được rất ít lao động nông thôn. Tình hình đó đặt ra vấn đề cấp thiết là cần phải đào tạo tay nghề cho lao động nông nghiệp. Tuy vậy, thực tế thì số người được đi đào tạo nghề, được giải quyết việc làm tại các khu công nghiệp là rất ít.
Chủ trương thu hồi đất nông nghiệp để phát triển các khu công nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng, v.v…là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Nhìn tổng thể, phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị mới, cơ sở hạ tầng, nhất là giao thông đã thu hút được nhiều lao động có tay nghề, làm ra sản phẩm chất lượng và giá trị kinh tế cao hơn nhiều so với làm nông nghiệp và là yêu cầu tất yếu trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, nâng cao sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên, cũng cần có chính sách và giải pháp căn bản, có tầm chiến lược đảm bảo thu nhập, điều kiện sống và việc làm cho người lao động nông nghiệp khi bị thu hồi đất.
Chương 2
THỰC TRẠNG VIỆC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP BỊ THU HỒI ĐẤT Ở QUẬN CẦU GIẤY
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội ảnh hưởng đến việc làm của quận Cầu Giấy
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
2.1.1.1. Vị trí địa lý
Quận Cầu Giấy là một bộ phận hợp thành của Thủ đô Hà Nội. Đây là Quận mới được thành lập (ngày 03/09/1997), bao gồm 4 thị trấn Nghĩa Tân, Nghĩa Đô, Mai Dịch, Cầu Giấy và 3 xã Yên Hòa, Trung Hòa, Dịch Vọng của huyện Từ Liêm cũ. Tổng diện tích đất tự nhiên của Quận là 1.204,5 ha với dân số 127.700 người (theo kết quả tổng điều tra dân số Quận đến ngày 31/12/1999).
Quận nằm ở cửa ngõ phía Tây, một trong những khu phát triển chính của Thành phố Hà Nội, cách trung tâm Thành phố chừng 6 km, phía Bắc giáp quận Tây Hồ, phía Nam giáp quận Đống Đa, phía Đông giáp quận Ba Đình và phía Tây tiếp giáp thị trấn Cầu Diễn, huyện Từ Liêm.
Nằm trên trục đường giao thông nối sân bay Nội Bài với Hà Nội và trên trục đường chính nối Hà Nội với chuỗi đô thị vệ tinh Hòa Lạc – Sơn Tây), Cầu Giấy là đầu mối giao thông tạo điều kiện thuận lợi giao lưu kinh tế, lưu thông hàng hóa và tiếp nhận các thành tựu khoa học kỹ thuật.
Tiếp giáp với quận Tây Hồ, quận Ba Đình và huyện Từ Liêm – những khu vực có nhiều tiềm năm du lịch, những lợi thế của quận Cầu Giấy sẽ tạo thành quần thể du lịch thu hút khách du lịch trong và ngoài nước.Vì thế, trong tương lai, nếu được sự quan tâm đầu tư của Trung ương và Thành phố trong quá trình thực hiện quy hoạch, khai thác các tiềm năng, lợi thế một cách hợp lý thì đây sẽ là một hướng tạo việc làm, phát triển kinh tế khá quan trọng của Quận.
Quận Cầu Giấy là nơi tập trung nhiều trung tâm nghiên cứu khoa học lớn, nhiều trường Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp, nhiều cơ quan hành chính sự nghiệp của Trung ương và Quận; Là nơi có tiềm năng lớn về trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ, cùng lực lượng cán bộ trí thức dồi dào tiêu biểu cho thế mạnh lao động bằng chất xám.
Như vậy, xét về mặt địa lý, quận Cầu Giấy có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, trong đó phải kể đến những điều kiện thuận lợi để phát triển thương mại, du lịch và công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp là biểu hiện rõ nét nhất. Đây là một trong những vấn đề được quan tâm nhất, vì nếu phát triển các ngành này sẽ thu hút được một lực lượng lớn lao động.
2.1.1.2. Đất đai và địa hình
Cầu Giấy là Quận có diện tích đứng thứ 3 trong số 9 Quận nội thành. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, diện tích đất nông nghiệp của Quận giảm mạnh dưới tác động của quá trình đô thị hóa. Năm 2000, diện tích đất nông nghiệp của Quận là 362 ha, nhưng đến năm 2004, chỉ còn 175 ha. Theo thống kê của Quận ngày 31/01/2007 thì toàn Quận còn 81,67 ha đất nông nghiệp. Trong Quận, tuy số diện tích đất chưa sử dụng không còn nhiều nhưng đây là nguồn quý để tạo điều kiện cho Quận phát triển. Việc chuyển đổi đất nông nghiệp sang dùng vào mục đích khác đã làm cho hàng chục nghìn lao động trong lĩnh vực nông nghiệp và một số ngành kinh doanh dịch vụ và sản xuất bị mất việc làm do mất đất. Không những thế, quá trình đô thị hóa gây ra không ít khó khăn, ảnh hưởng lớn đến quá trình sản xuất nông nghiệp do hệ thống tưới tiêu bị ách tắc, nước thải sinh hoạt từ các khu dân cư làm chết cây trồng, chuột bọ sâu bệnh phá hoại dẫn tới năng suất cây trồng thấp làm cho diện tích đất bỏ hoang nhiều.
Nhìn chung, chất lượng đất đai của quận Cầu Giấy thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và xây dựng các cơ sở hạ tầng và các công trình đô thị. Tuy nhiên, hiện nay do quá trình đô thị hóa nên diện tích đất nông nghiệp còn lại là rất ít ỏi. Trong đó, diện tích đất canh tác ngày càng giảm mạnh, hệ số sử dụng đất lại thấp, với dân số ngày càng tăng dẫn tới diện tích bình quân một nhân khẩu ngày càng giảm, gây khó khăn về vấn đề việc làm, đời sống của lao động nông nghiệp (đặc biệt là lao động nông nghiệp thuần túy). Vấn đề đặt ra hiện nay là với số diện tích đất nông nghiệp ít như vậy làm sao để sản xuất có hiệu quả. Tuy diện tích đất ít, nhưng đây là quỹ đất quý để phát triển nông nghiệp đô thị với những nét đặc trưng của nông nghiệp sinh thái, tính sản xuất hàng hóa cao, tính văn hóa kết hợp với tính kinh tế và yếu tố môi trường thể hiện sự văn minh đô thị, tạo nên sự độc đáo trong phát triển kinh tế mà các Quận khác không có.
2.1.2. Dân số lao động
Cầu Giấy là Quận có lượng dân cư đông và phân bố tuơng đối đồng đều trên 7 phường. Tuy Quận mới thành lập nhưng quá trình đô thị hóa diễn ra rất nhanh, quy mô dân số và nguồn nhân lực trong những năm tới sẽ biến động rất phức tạp. Đặc biệt, với tốc độ tăng cơ học nhanh và có sự gia tăng nhanh về lực lượng lao động, cả về số lượng cũng như chất lượng. Dân số trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ khá lớn.
Quy mô dân số và nguồn nhân lực dự kiến sẽ phát triển trong những năm tới, trước khi bước vào giai đoạn ổn định do các cụm đô thị lân cận đã được hình thành, làm trung hóa bớt các luồng di dân vào địa bàn Quận.
Năm 2000, dân số trên địa bàn Quận là 132.500 người, đến năm 2004 là 149.500 người và đến nay là 160.053 người. Như vậy, giai đoạn 2000 – 2006 tăng 27.553 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên giảm dần qua các năm từ 2000 – 2006. Nhìn chung lao động trong độ tuổi khá lớn, từ 85.000 người năm 2004 tăng lên 88.000 người năm 2006 với tỷ lệ tương ứng là 56,9% và 55%. Lực lượng lao động dồi dào, chiếm 63,5% năm 2004 và 71,7% năm 2006. Ta có thể thấy dân số Quận khá đông, tỷ lệ tăng dân số vẫn còn tương đối lớn.
Biểu 2. Dân số và lao động quận Cầu Giấy
Đơn vị: 1000 người
Chỉ tiêu
2000
2004
2006
1. Dân số trung bình
132,5
149,5
160,0
2. Mật độ dân số trung bình
11,075
12,54
14,2
3. Số tăng tự nhiên
- Tỷ lệ tăng tự nhiên (0/00)
- Tỷ lệ tăng cơ học (0/00)
1,33
10,05
28
1,5
10,02
18,11
1,62
10,0
24
4. Lao động trong độ tuổi
- Tỷ lệ lao động trong độ tuổi (%)
72,72
54,8
85
56,9
88
55
5. Lực lượng lao động
- Tỷ lệ lực lượng lao động (%)
91,22
68,8
95
63,5
114,7
71,7
6. Dân số trong độ tuổi hoạt động kinh tế
- Tỷ lệ dân số trong độ tuổi hoạt động kinh tế (%)
56,63
42,7
67
44,8
81,03
50,6
Nguồn: Phòng Kinh tế - Kế hoạch, quận Cầu Giấy
Cầu Giấy là Quận có đặc điểm về dân số và lao động rất phức tạp. Điều này chủ yếu là do vị trí của Quận và các yếu tố lịch sử của Quận chi phối. Ngoài lực lượng lao động cư trú trên địa bàn, Quận còn lượng dân cư ở các trường Đại học và Cao đẳng…đóng tại Quận với số lượng lớn. Đây là điểm khác biệt với một số Quận và là điểm lưu ý trong khai thác và quản lý.
Nguồn lao động của Quận rất dồi dào và tăng nhanh qua các năm. Đến năm 2006, toàn Quận có 160.053 người, phân bố tương đối đều trên 7 phường của Quận:
Biểu 3. Nguồn lao dộng quận Cầu Giấy
Đơn vị: Người
STT
Phường
Lao động
Nam
Nữ
1
Nghĩa Đô
21.693
10.630
11.063
2
Nghĩa Tân
19.490
9.550
9.940
3
Quan Hoa
21.553
10.561
10.992
4
Mai Dịch
24.459
11.985
12.474
5
Dịch Vọng
33.957
16.640
17.317
6
Yên Hòa
20.093
9.846
10.247
7
Trung Hòa
18.808
9.216
9.592
Nguồn: Phòng Kinh tế - Kế hoạch, quận Cầu Giấy
Trong cơ cấu lao động, lao động trong độ tuổi chiếm tỷ trọng lớn (68%) và được phân bổ ở các ngành theo thứ tự: Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp – Thương mại, dịch vụ - Nông nghiệp. Bên cạnh đó, còn có một lượng tương đối lớn lao động không có việc làm và số lượng lớn học sinh phổ thông, sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trung học…đến tuổi lao động nhưng đang còn đi học và sinh hoạt tại nhà. Đây là nguồn lực rất lớn cần quản lý và sử dụng. Ngoài ra, còn một số lượng lớn công chức cư trú, làm việc tại Quận hoặc các cơ quan Trung ương hay Thành phố. Chất lượng nguồn lao động xét theo trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn của chủ hộ và chủ doanh nghiệp trên địa bàn Quận tương đối cao.
Số lao động không có việc làm là 6.082 người, đây là một con số khá lớn mà Quận cần phải giải quyết. Ở các doanh nghiệp, số lao động gián tiếp hầu hết là cán bộ có bằng cấp, trong đó số cán bộ quản lý hầu hết tốt nghiệp cao đẳng, đại học và trên đại học. Điều đáng chú ý là, các doanh nghiệp tư nhân, các công ty trách nhiệm hữu hạn có bộ máy quản lý gọn nhẹ, đội ngũ quản lý có trình độ chuyên môn cao, lao động phục vụ được đào tạo ở trình độ cần thiết, nên việc sử dụng lao động gián tiếp tương đối hiệu quả. Trong khi đó, ở các doanh nghiệp Nhà nước, đội ngũ lao động gián tiếp rất đông, vì vậy diễn ra tình trạng sử dụng lãng phí lao động quản lý ở các doanh nghiệp Nhà nước. Trên địa bàn Quận, số lượng HTX chiếm khá nhiều, trong khi trình độ lao động của các xã viên lại không cao do tính chất sản xuất của ngành.
Qua phân tích tình hình trên, ta thấy quận Cầu Giấy có nhiều lợi thế để phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện Quận có số lượng lao động dồi dào, chất lượng đảm bảo yêu cầu cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, dân số và lao động đã và đang đặt ra những vấn đề về bố trí lao động, tạo việc làm để khai thác nguồn lực quý, đồng thời đặt ra những vấn đề về quản lý nguồn lao động đang có xu hướng gia tăng dưới sự tác động của quá trình đô thị hóa.
2.1.3. Quá trình đô thị hóa của Quận trong những năm qua
Đô thị hóa trên địa bàn Quận nói riêng và Thành phố nói chung là một quá trình phát triển tất yếu và diễn ra nhanh hay chậm còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, đồng thời có tác động hai mặt đến bản thân đời sống kinh tế - xã hội của Quận. Một mặt, nội dung và tiến trình đô thị hóa nếu không được định hướng và kiểm soát chặt chẽ, không có công tác quản lý, chính sách phát triển phù hợp sẽ dẫn đến tình trạng tự phát, gây hậu quả không lường trước được về quy hoạch và kiến trúc đô thị, về giải quyết việc làm của dân cư, cũng như nảy sinh các vấn đề về xã hội và môi trường. Mặt khác, đô thị hóa đem lại những nhân tố mới, tạo ra các cơ hội cải thiện đời sống của dân cư trên địa bàn, tạo điều kiện phát triển thị trường, phát triển kinh tế, ổn định xã hội đáp ứng các yêu cầu phát triển nhanh và toàn diện của Quận trong tương lai.
Xuất phát từ vị thế Thủ đô, từ vị thế của Quận trong quy hoạch tổng thể chung của Thành phố, và tính đến các xu hướng phát triển của thành phố, của cả nước, cũng như xem xét các điều kiện tự nhiên, xã hội thực tế và tiềm năng của Quận, có thể khẳng định rằng trong khoảng 5 – 10 năm tới, quá trình đô thị hóa trên địa bàn quận Cầu Giấy sẽ diễn ra rất nhanh và đặc biệt mạmh mẽ tại các khu đất trống. Dưới tác động của quá trình đô thị hóa, quá trình thu hồi đất sẽ cũng được đẩy mạnh. Diện tích đất nông nghiệp, cơ cấu đất của Quận sẽ biến đổi lớn. Trong thời gian ngắn vừa qua, hệ thống cơ sở vật chất hạ tầng kỹ thuật đô thị mới được hình thành trên địa bàn Quận nhanh hơn so với những nơi khác trên cơ sở những điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội sẵn có và những lợi thế phát sinh do quá trình phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng đô thị theo quy hoạch chung của toàn Thành phố. Hiện nay, Cầu Giấy đã có một dáng vóc đô thị, với những lợi thế riêng của mình, chắc chắn tương lai, Quận sẽ là một điểm sáng về cảnh quan đô thị của Thủ đô. Quá trình đô thị hóa đã và đang được đẩy nhanh với một số đơn vị hành chính mới chuyển từ xã thành phường như phường Dịch Vọng, Trung Hòa, Yên Hòa, Mai Dịch, Nghĩa Tân, Nghĩa Đô, Quan Hoa.
2.2. Thu hồi đất nông nghiệp phục vụ cho quá trình CNH – HĐH và quá trình đô thị hóa ở quận Cầu Giấy
Thực trạng chung về thu hồi đất của cả nước
Đất đai là tài sản đặc biệt của quốc gia, là nguồn nội lực quan trọng và là nguồn vốn to lớn của đất nước. Đối với người nông dân, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế được trong sản xuất nông nghiệp. Bởi vậy mà chính sách đất đai có ý nghĩa cả về mặt kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội.
Tổng quỹ đất tự nhiên của nước ta là 33.204,22 ngàn ha, trong đó quỹ đất nông nghiệp năm 2000 có 9.394,97 ngàn ha chiếm 28,38%. Nước ta là nước có diện tích đất tự nhiên không lớn, xếp thứ 60 trên thế giới và xếp hàng thứ 4 trong các nước Đông Nam Á. Như vậy cùng với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước theo hướng CNH – HĐH, đô thị hoá kéo theo sự giảm sút một bộ phận khá lớn đất nông nghiệp là một tất yếu khách quan. Sự giảm sút này kéo theo một số vấn đề kinh tế xã hội khác nhau như thu nhập, việc làm, đặc biệt là ở khu vực nông thôn .
Trong 10 năm trở lại đây (1999 – 2000), đất chuyên dùng và đất ở không ngừng tăng lên, năm 1990 tổng diện tích đất chuyên dùng và đất ở là 1.219 ngàn ha, trong đó đất chuyên dùng là 972 ngàn ha, đất ở là 318 ngàn ha(gồm cả đất nông thôn và đô thị), đến năm 1995 tương ứng là 1.127 ngàn ha và 440 ngàn ha, đến năm 2000 các con số đó là 1976 ngàn ha, 1533 ngàn ha và 443 ngàn ha. Bình quân hàng năm đất đai dùng vào mục đích chuyên dùng và nhà ở tăng 68.610 ha. Tỷ trọng hai loại đất này theo mục đích sử dụng so với tổng diện tích tự nhiên cũng tăng lên từ 3,9% năm 1990 lên 5,2% năm 1995 và 6% năm 2000. Dự tính quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 tổng diện tích của hai loại đất này là 2637,5 ngàn ha và chiếm 8% diện tích tự nhiên của cả nước, đồng nghĩa là tăng hơn 2 lần so với năm 1990 và tăng 33,48% so với năm 2000. Như vậy trong 20 năm từ năm 1990 – 2010 bình quân mỗi năm diện tích đất phi nông nghiệp tăng bình quân là 67400 ha bằng diện tích của tỉnh Ninh Bình, phần lớn là những đất này được chuyển bíên từ đất nông nghiệp. Theo Bộ lao động Thương binh và Xã hội thì từ năm 1990 đến năm 2003 số diện tích đất bị thu hồi để phục vụ cho các mục đích lên đến 697.410 ha và bình quân 1 ha đất bị thu hồi sẽ làm cho 13 lao động nông nghiệp bị mất việc, riêng vùng đồng bằng sông Hồng là 15 người. Từ năm 2001 – 2004 số người bị mất việc do bị thu hồi đất phục vụ cho nhu cầu trên ở Hà Nội là gần 80.000 người, Hà Nam: 12.360 người, Hải Phòng: 13274 người, Hải Dương: 11.964 người, Bắc Ninh: 2.222 người, Tiền Giang: 1.459 người, Quảng Ninh 997 người …
Các khu công nghiệp, các khu chế xuất đã đang và sẽ được xây dựng trên các địa phương. Bình quân quy mô một khu công nghiệp, khu chế xuất là 198 ha. Lớn nhất là 954 ha (khu công nghiệp Phú Mỹ I – Bà Rịa Vũng Tàu), khu nhỏ nhất là 28 ha (khu công nghiệp Bình Chiểu – Thành phố Hồ Chí Minh). Đến năm 2010 thì trên phạm vi của cả nước có 125 khu công nghiệp và khu chế xuất, trong đó Đồng bằng sông Hồng có 29 khu, Đông Nam Bộ 46 khu, Duyên hải miền Trung 27 khu với tổng diện tích các khu công nghiệp theo quy hoạch là 5.048 ha. Diện tích đất đai của các khu công nghiệp, các khu chế xuất là khá lớn, chủ yếu là diện tích đất nông nghiệp.
Theo như kết quả điều tra mẫu đại diện của trung tâm tin học (Bộ LĐ TBXH) năm 2003 trong diện 18 xã thuộc các tỉnh (Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hưng Yên, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương và Đồng Nai) trong tổng số 541 hộ được điều tra thì có :
22,18% số hộ có diện tích đất thu hồi chiếm < 30% tổng diện tích đất sản xuất của hộ .
10,91% số hộ bị thu hồi từ 30 - < 50%
12,8% số hộ bị thu hồi đât từ 50 - < 70%
54,53% số hộ bị thu hồi từ 70% trở lên
Trong số các tỉnh được khảo sát thì các tỉnh phía Nam có tới 69,37% số hộ bị thu hồi từ 70% trở lên, ở các tỉnh phía Bắc tỷ lệ này chiếm 39,63% . Tính chung cho các hộ được khảo sát bình quân số lao động/hộ là 2,6 người và hầu như không có sự chênh lệch giữa các tỉnh phía Bắc so với các tỉnh phía Nam (2,65 người/ hộ so với 2,64 người/hộ).
*Diện tích đất đai bị thu hồi ở một số tỉnh, thành phố
Diện tích đất bị thu hồi ở mỗi địa phương là khác nhau. Điều đó phụ thuộc vào nhu cầu sử dụng đất, vào điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi tỉnh, thành phố, nhất là quỹ đất hiện có bình quân của mỗi hộ. Ngoài ra, sự khác nhau về diện tích đất bị thu hồi giữa các địa phương còn phụ thuộc vào đất ở nông thôn hay đất ở thành thị. Đất ở nông thôn thường có diện tích lớn. Hơn nữa, mục đích thu hồi đất cũng khác nhau.
Biểu 4. Diện tích đất thu hồi bình quân mỗi hộ phân theo loại đất
Đơn vị tính: m2
Địa phương
Diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi
Hà Nội
562,8
Hải Phòng
878,0
Bắc Ninh
1.375,4
Hà Tây
1.246,4
Đà Nẵng
1.428,1
TP Hồ Chí Minh
110,0
Bình Dương
7.643,9
Cần Thơ
3.817,8
Bình quân chung
2.220,3
Nguồn:Đề tài khoa học: “Thực trạng thu nhập, đời sống việc làm của người có đất bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhu cầu công cộng và lợi ích quốc gia” – Đại học Kinh tế Quốc dân
- Thực trạng thu hồi đất ở các huyện ngoại thành Hà Nội
Hà Nội có 5 huyện ngoại thành, bao gồm các huyện Thanh Trì, Từ Liêm, Đông Anh, Sóc Sơn, Gia Lâm. Các huyện này là những huyện có kinh tế chậm phát triển hơn so với các quận nội thành. Song, trong khoảng 10 năm trở lại đây thì các huyện này lại có tốc độ đô thị hoá rất nhanh chóng, đặc biệt là các huyện sau: Gia Lâm và Từ Liêm. Quá trình đô thị hóa, công nghiệp hoá và hiện đại hoá, việc phát triển các cơ sở hạ tầng, các cơ sở công nghiệp, dịch vụ… có nhiều biến động to lớn ảnh hưởng đến biến động đất đai theo mục đích sử dụng .
Biểu 5. Biến động đất nông nghiệp của các huyện ngoại thành Hà Nội
Đơn vị: ha
Năm 1992
Năm 1995
Năm 2000
Năm 2002
Sóc Sơn
12.954
12.408
14.539
14.334
Đông Anh
10.034
9.870
9.947
9.920
Gia Lâm
9.149
9.105
9.139
9.098
Từ Liêm
5.325
4.858
4.201
4.009
Thanh Trì
5.559
5.648
5.190
5.025
Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội, Cục Thống kê Hà Nội
Đất nông nghiệp của các huyện đô thị hoá, công nghiệp hoá quy mô lớn hơn thì xu hướng giảm nhanh hơn. Đất nông nghiệp năm 2002 so với năm 1992 của huyện Thanh Trì giảm 9,61% (534 ha), Từ Liêm giảm 24,71% (1316 ha), Gia Lâm giảm 0,56 % (51 ha). Đất nông nghiệp của Sóc Sơn tăng là do đất chưa đưa vào sử dụng trong nông nghiệp. Đất nông nghiệp giảm chủ yếu vào mục đích là phát triển các khu đô thị, các khu công nghiệp mới, sáp nhập thành lập quận mới, xây dựng cơ sở hạ tầng của các huyện, xã …
Ngoài đất nông nghiệp giảm thì đất lâm nghiệp cũng đã giảm từ 6.647 ha vào năm 1995 xuống còn 6.125 ha năm 2000 (giảm 7,85%) để sử dụng vào mục đích xây dựng cơ sở hạ tầng, hình thành các khu du lịch nghỉ ngơi cuối tuần, chăn nuôi gia súc, trồng màu…
Thực trạng thu hồi đất ở Thành phố Hồ Chí Minh
Đất nông nghiệp bị thu hồi ở Thành phố Hồ Chí Minh khá lớn. Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế phát triển nhất của cả nước, tốc độ phát triển kinh tế cao. Cùng với đó là tình hình đô thị hoá diễn ra ngày càng nhanh, diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp lại. Từ năm 2001 đến nay trong quá trình phát triển công nghiệp, đô thị, phát triển công trình kết cấu hạ tầng, thành phố Hố Chí Minh đã tiến hành thu hồi đất và giao đất cho 1975 dự án với tổng diện tích là 15.330 ha, trong đó có khoảng 80% là diện tích đất nông nghiệp. Riêng trong 2 năm 2004 – 2005, Thành phố đã triển khai và thực hiện 1.007 dự án trong đó 32.706 hộ giải toả một lần, 36.832 hộ giả toả trắng.
*Mục đích sử dụng đất thu hồi
Đất thu hồi được sử dụng vào những mục đích khác nhau, nhưng chủ yếu xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng các cơ sở hạ tầng, các công trình công cộng và các mục đích khác. Tuy nhiên, trong số các mục đích xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị và các cơ sở hạ tầng chiếm tỷ trọng lớn. Đặc biệt, đối với Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ, tỷ lệ đất bị thu hồi sử dụng vào các đô thị và nhà ở là rất lớn (48,7% đối với Hà Nội; 59,7% đối với Đà Nẵng; 47,5 đối với Cần Thơ). Đây cũng là điều hợp lý bởi vì đây là các thành phố đang có tốc độ mở rộng đô thị cao, nhiều đơn vị nội đô mới được thành lập. Ngược lại, một số tỉnh khác như Bắc Ninh, Hà Tây và Bình Dương là những tỉnh có tỷ lệ đất thu hồi sử dụng vào xây dựng các khu công nghiệp rất cao (50,8% với Bắc Ninh; 52,5% với Hà Tây và 49,8% đối với Bình Dương). Đây cũng là những tỉnh trong diện điều tra có tốc độ chuyển dịch cơ cấu nhanh, tốc độ phát triển công nghiệp cao. Riêng Thành phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ đất thu hồi sử dụng vào xây dựng các cơ sở hạ tầng rất cao, chiếm tới 92,5%.
Sự khác nhau về tỷ lệ đất thu hồi khác nhau giữa các tỉnh và thành phố sẽ đặt ra những vấn đề và khả năng giải quyết các vấn đề một cách khác nhau. Những địa phương có diện tích thu hồi sử dụng vào mục đích xây dựng công nghiệp sẽ tạo ra khả năng thu hút việc làm ở các khu công nghiệp mới hình thành. Những địa phương có tỷ lệ thu hồi đất cao cho mục đích xây dựng các khu đô thị sẽ có khó khăn hơn trong việc tạo việc làm từ nguồn đất đai bị thu hồi. Đây là vấn đề cần lưu ý đối với mỗi loại đất sử dụng để có thể chủ động khai thác ngay từ khi lập các dự án đầu tư xây dựng trên đất đai bị thu hồi ở địa phương.
Một số nhận xét chung về việc thu hồi đất trong những năm qua
Một là, thu hồi đất nông nghiệp là một trong những xu hướng chủ yếu trong sự biến động đất đai, trong xu thế đô thị hóa hiện nay. Thu hồi đất đã làm cho diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp một cách đáng kể. Điều này tác động tới thu nhập, đời sống của lao động theo những chiều hướng và mức độ khác nhau. Trong đó, giải quyết việc làm cho các hộ có đất bị thu hẹp là một trong những vấn đề cấp bách hiện nay.
Hai là, diện tích đất nông nghiệp nói riêng và các loại đất nói chung bị thu hồi là khác nhau giữa các địa phương. Mức độ thu hồi tùy thuộc vào nhiều yếu tố như: vị trí đất, vào mục đích quy hoạch chung của tỉnh, thành phố…
Bà là, đất đai bị thu hồi được sử dụng vào những mục đích khác nhau, nhưng được sử dụng vào 3 mục đích chính: Xây dựng các cơ sở hạ tầng, các khu công nghiệp và khu đô thị. Tỷ lệ đất thu hồi cho các mục đích này cũng có sự khác nhau giữa các địa phương. Sự khác nhau về mục đích sử dụng đất một mặt tạo khả năng khai thác đất, mặt khác cũng tạo những khả năng khác nhau về giải quyết thu nhập, đời sống, việc làm của các hộ bị thu hồi đất. Đây cũng là điểm cần lưu ý giải quyết trên thực tế.
Thực trạng thu hồi đất ở quận Cầu Giấy
Biến động đất đai của quận Cầu Giấy giai đoạn 1997 – 2006
Theo báo cáo chỉ tiêu kinh tế Quận thực hiện 2000 – 2006, quận Cầu Giấy có tổng diện tích đất tự nhiên khoảng 1.204,5 ha.
Trong đó diện._.chất là thực hiện việc phân bổ lại nguồn lực đất đai giữa các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, để sử dụng hợp lý hơn, hiệu quả hơn nguồn lực quý giá này, bảo đảm nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững, sớm thực hiện được nghị quyết do đại hội Đảng lần thứ IX đề ra là đến năm 2020 về cơ bản nước ta thành một nước công nghiệp.
Nguồn lực đất đai đã được chuyển dịch và phân bố theo hướng CNH - HĐH và đô thị hoá, do vậy phương hướng để giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp có đất bị thu hồi của quận Cầu Giấy là cũng phải được thực hiện theo hướng đó, tức là tạo cho họ có việc làm đòi hỏi chuyên môn, kỹ thuật cao hơn trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ với thu nhập cao hơn, ổn định ơn, đồng thời, có cuộc sống đầy đủ hơn, văn minh và hiện đại hơn.
Với chủ trương đó, trong thời gian qua, quận Cầu Giấy đã đưa họ đến khu tái định cư ở những khu đô thị mới. Cảnh quan đô thị Quận đã thay đổi rất nhiều so với trước đây. Cầu Giấy ngày càng mang dáng dấp của một đô thị văn minh, hiện đại với những khu chung cư cao tầng.
Thứ hai, đảm bảo hài hòa giữa các lợi ích: Lợi ích quốc gia, lợi ích của người dân có đất bị thu hồi và lợi ích của các doanh nghiệp, các cơ sở kinh doanh cơ sở hạ tầng, trong đó, lợi ích quốc gia là chủ đạo, lợi ích của người dân là cơ sở xuất phát, lợi ích của các doanh nghiệp, các cơ sở kinh doanh cơ sở hạ tầng là quan trọng.
Như đã nói, để có sự phát triển, trong quá trình thu hồi đất, cần có chính sách để đảm bảo lợi ích thỏa đáng. Việc thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhu cầu công cộng và lợi ích quốc gia có liên quan đến nhiều mối quan hệ lợi ích.
Về phía người dân bị thu hồi: Vấn đề thu hồi đất là vì lợi ích của quốc gia, của Thành phố, của Quận, thế nhưng thu hồi đất lại ảnh hưởng đến lợi ích cơ bản và có thể nói là vấn đề sống còn của mỗi người dân có đất bị thu hồi. Họ không còn ruộng để sản xuất, không có việc làm truyền thống quen thuộc của họ. Tuy được di chuyển đến những căn hộ chung cư sang trọng nhưng dù sao cuộc sống của họ cũng bị xáo trộn. Do vậy, nếu không đảm bảo cho họ được việc làm, có thu nhập thường xuyên và ổn định thì sẽ lâm vào cảnh khó khăn. Chính vì vậy, trong quá trình thu hồi đát để phục vụ khu công nghiệp, khu đô thị, giải quyết việc làm cho người dân có đất bị thu hồi là vấn đề đặt ra hàng đầu.
Về phía nhà đầu tư, có thể đó là Nhà nước với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các công trình công cộng và lợi ích quốc gia, có thể đó là chủ các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau do mua quyền sử dụng đất của dân nên sẽ có đất để phát triển khu công nghiệp, khu đô thị, phát triển các doanh nghiệp tiến hành sản xuất – kinh doanh, thu lợi nhuận cao hơn khi chưa vào khu công nghiệp, khu đô thị.
Quá trình thu hồi đất diễn ra thành công hay không phụ thuộc vào việc giải quyết các mối quan hệ lợi ích này có đúng đắn hay không. Nhận thức rõ về mối quan hệ này, Quận luôn ưu tiên giải quyết lợi ích cho lao động nông nghiệp có đất bị thu hồi, coi đó là gốc rễ thắng lợi của chủ trương thu hồi đất để phục vụ CNH – HĐH. Quận cũng đã có công văn xuống các phường chỉ đạo việc thu hồi đất, nêu rõ là cán bộ địa phương cần công tâm, trong sạch, liêm khiết.
Thứ ba, cần theo nguyên tắc thị trường, đồng thời, Quận cần tạo môi trường và thực hiện điều tiết để đảm bảo việc làm, ổn định đời sống cho lao động nông nghiệp bị thu hồi đất
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên giải quyết việc làm cho người dân có đất bị thu hồi để phục vụ quá trình CNH – HĐH và đô thị hóa phải được thực hiện theo cơ chế kinh tế thị trường, nguyên tắc pháp luật và chính sách phù hợp. Do vậy, việc bồi thường, đền bù, thu hồi đất, xây dựng các khu tái định cư, giải quyết việc làm cho người dân bị thu hồi đất cần tuân thủ theo nguyên tắc thị trường. Điều này thể hiện trước hết ở giá cả đền bù giải tỏa và giá đất, giá nhà các khu tái định cư phải được hình thành trên nguyên tắc thỏa thuận giữa Nhà nước với người dân, giữa các doanh nghiệp với người dân.
Đồng thời, theo nguyên tắc thị trường, cũng đòi hỏi người lao động phải nâng cao tính chủ động trong việc tìm việc làm, sử dụng tiền đền bù để có thu nhập ổn định, và sớm ổn định đời sống của bản thân và gia đình.
Bên cạnh đó, Quận cũng phải tăng cường vai trò điều tiết của mình, giúp các phường thực hiện một cách đồng bộ, hợp lý, vừa giải quyết được lợi ích của người dân, của doanh nghiệp; vừa tuân theo quy định của pháp luật, theo chủ trương quy hoạch của Thành phố Hà Nội.
3.2. Một số giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp sau khi bị thu hồi đất
Vấn đề việc làm là vấn đề cơ bản và lâu dài để phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Đối với quận Cầu Giấy, đây vừa là vấn đề cấp bách trước mắt, vừa là vấn đề có tính lâu dài. Bởi lẽ, hiện nay, số lượng lao động chưa có việc làm ở quận Cầu Giấy ngày càng gia tăng. Mặc dù hàng năm, Quận đã giải quyết được một số lượng lớn công việc cho người lao động nhưng vẫn chưa thể đáp ứng nhu cầu việc làm ngày càng tăng. Nhất là đội ngũ lao động nông nghiệp, sau khi Quận tiến hành thu hồi đất đai, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, thương mại hay để xây dựng các khu đô thị…Lao động nông nghiệp bị mất đất, yêu cầu phải chuyển sang lĩnh vực khác nhưng họ lại chưa thực sự thích ứng được với công việc mới. Trong thời gian qua, Quận đã có nhiều biện pháp để giải quyết vấn đề khó khăn này, tuy vậy, vẫn chưa thực sự có hiệu quả. Sau đây là một số giải pháp chủ yếu tiếp tục giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp sau khi bị thu hồi đất.
3.2.1. Nhóm giải pháp về công tác tổ chức và quản lý
3.2.1.1. Công tác quy hoạch kinh tế, xã hội, quy hoạch đất đai, tổ chức tái định cư
Thực tiễn những năm qua cho thấy, công tác dự báo, quy hoạch, kế hoạch phát triển đô thị, các khu công nghiệp có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Do công tác dự báo, quy hoạch và kế hoạch chưa tốt nên việc đảm bảo việc làm cho người dân có đất bị thu hồi trong những năm qua được thực hiện một cách thụ động. Do đó, thứ nhất, về dài hạn và trên tổng thể nền kinh tế cần phải có sự gắn kết giữa chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Quận nói chung, chiến lược phát triển các ngành kinh tế kỹ thuật, các vùng kinh tế trọng điểm, các khu vực kinh tế, các khu công nghiệp, khu đô thị…với chiến lược phát triển, phân bố và sử dụng nguồn nhân lực, chiến lược đào tạo ngành nghề để chuẩn bị một đội ngũ lao động phù hợp với yêu cầu của việc thu hồi đất ở từng địa phương, từng vùng.
Thứ hai, cần nắm rõ thực trạng tình hình lao động, việc làm ở những khu vực có đất bị thu hồi, từ đó xây dựng kế hoạch đào tạo lao động thật chi tiết, cụ thể. Cần xây dựng đề án phát triển nguồn nhân lực tầm dài hạn cho đến 2020 để tạo việc làm cho dân cư.
Thứ ba, khắc phục tình trạng “quy hoạch treo”, đất đã được thu hồi nhưng không triển khai dự án theo đúng tiến độ, hoặc chủ đầu tư nhận đất nhưng cũng không triển khai xây dựng dẫn đến dân mất đất không có việc làm, còn doanh nghiệp cũng không thu hút được lao động vào làm việc. Đây là hiện tượng phổ biến và gây làng phí lớn, dân rất bất bình.
3.2.1.2. Tăng cường vai trò và trách nhiệm của chính quyền các cấp trong việc thu hồi, tạo việc làm cho người dân bị mất đất
Đây là một trong những yếu tố quyết định đến thành công của công tác giải phóng mặt bằng để xây dựng khu công nghiệp, khu đô thị…Muốn vậy, mọi cam kết với dân cần phải được thực hiện một cách nghiêm túc. Chính quyền phải cùng dân tháo gỡ những khó khăn trong quá trình thực hiện. Trong đó, cán bộ lãnh đạo cấp cao của Quận nên trực tiếp đối thoại để giải quyết những vấn đề gay cấn nhất trong việc thu hồi, đền bù, giải tỏa, cũng như trong việc giải quyết việc làm, tổ chức đời sống cho người dân thì việc giải phóng mặt bằng sẽ tiến hành thuận lợi.
Trước khi giải phóng mặt bằng, cán bộ Ban đền bù, cán bộ các ban ngành có liên quan của địa phương xuống với dân, động viên, giải thích mọi vướng mắc để người dân chấp thuận nhận tiền đền bù, tạo điều kiện giải phóng mặt bằng nhanh. Sau giải phóng mặt bằng, giải tỏa, cán bộ công chức các ngành có liên quan cần tiếp tục đến với dân ở khu tái định cư, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị của người dân, để có những giải pháp kịp thời phù hợp, kiến nghị với các cấp có thẩm quyền để giải quyết.
3.2.1.3. Đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn lao động nông nghiệp
Như đã phân tích ở trên, hiện nay chất lượng nguồn lao động trong Quận còn thấp, nhất là đội ngũ lao động nông nghiệp bị mất đất. Do vậy, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn lao động là vấn đề cấp bách hiện nay, đòi hỏi sự nỗ lực của toàn Quận.
3.2.1.4. Thông tin, tuyên truyền và giáo dục
Cần làm cho người dân hiểu rõ sự cần thiết và ý nghĩa quan trọng của việc thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhu cầu công cộng và lợi ích quốc gia. Cần làm cho người dân hiểu rõ, từ nước nông nghiệp truyền thống muốn trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, thì phải đẩy mạnh CNH đất nước và chỉ như thế thì mới đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân mới được nâng cao. Rõ ràng việc thu hồi đất trong những năm qua để phát triển các khu công nghiệp, khu đô thị đã có tác động rất tích cực đối với quá trình CNH, đô thị hóa. Vì thế, cần làm cho người dân thấy rõ tác động này và có thái độ thực hiện nghiêm túc Chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc thu hồi đất.
Bên cạnh đó, cần sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền sâu rộng cho nhân dân hiểu rõ mục tiêu, các bước tiến hành, các thủ tục phải thực hiện và chính sách của Nhà nước trong việc thu hồi đất. Nên có chương trình phát thanh truyền hình tuyên truyền cho người dân về vấn đề này để cung cấp cho người dân thông tin về quy hoạch các khu công nghiệp, khu đô thị, về tiến độ thời gian thực hiện, về cơ hội nghề nghiệp cho người dân.
Ngoài ra, cũng nên tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục từ các cơ quan đoàn thể để hỗ trợ.
3.2.1.5. Công tác giải phóng mặt bằng
Phải đồng bộ và nhất quán trong công tác chỉ đạo thực hiện các cơ chế, chính sách thu hồi đất giải phóng mặt bằng một cách phù hợp với thực tế
Cần đảm bảo sự đồng bộ trong việc giải quyết giữa thu hồi đất với việc làm của người dân có đất bị thu hồi.
Đảm bảo sự đồng bộ trong chính sách giữa chính sách thu hồi với chính sách tái định cư, giữa giá đất thu hồi và giá đất áp dụng cho thuê, giao đất
Đảm bảo sự đồng bộ trong xây dựng các khu tái định cư
Đảm bảo sự đồng bộ về chất lượng và thời gian tiến hành các công việc chủ yếu trong toàn bộ quá trình thu hồi đất.
Đảm bảo sự đồng bộ giữa tái định cư với giải phóng mặt bằng
Phải đảm bảo sự đồng bộ giữa đội ngũ cán bộ làm công tác thu hồi đất với quy mô và tốc độ thu hồi đất nhằm thực hiện các dự án.
3.2.1.6. Xuất khẩu lao động
Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động trong đó chú trọng tuyển lao động nông nghiệp đã qua đào tạo nghề.
Tăng cường đầu tư, hỗ trợ tài chính và khuyến khích người lao động tham gia vào các khoá học giáo dục hướng nghiệp và đào tạo nghề trước khi tham gia xuất khẩu lao động để đảm bảo chất lượng nguồn lao động để xuất khẩu. Chú trọng ưu tiên đào tạo những lao động sau khi bị thu hồi đất nông nghiệp, những lao động trẻ ở độ tuổi từ 18 – 24. Thực hiện liên thông, liên kết giữa các doanh nghiệp xuất khẩu lao động với các cơ sở đào tạo và chính quyền Quận để tạo nguồn cung lao động cho các hoạt động xuất khẩu lao động cũng như đầu ra cho lao động nông nghiệp có đất bị thu hồi đã tham gia các khóa đào tạo nghề, đáp ứng nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài.
Bên cạnh việc xúc tiến mở rộng thị trường xuất khẩu lao động chất lượng cao, cần đẩy mạnh việc khai thác thị trường lao động truyền thống, các thị trường có nhu cầu tuyển dụng lao động chất lượng thấp, lao động giản đơn để lao động nông nghiệp có cơ hội tham gia vào hoạt động xuất khẩu lao động. Nghiên cứu xây dựng chính sách, các biện pháp quản lý, giám sát hoạt động xuất khẩu lao động phù hợp và có hiệu quả. Trong đó cần có các chế tài đủ mạnh để xử lý những trường hợp vi phạm kỷ luật về xuất khẩu lao động nhằm hạn chế những tiêu cực phát sinh gây thiệt hại về kinh tế đối với người lao động, làm mất trật tự an toàn xã hội, đảm bảo uy tín của Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế cũng như hiệu quả của hoạt động này dối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của nước ta.
Nhà nước cần sớm ban hành và triển khai thực hiện Luật xuất khẩu lao động làm cơ sở thuận tiện cho việc quản lý cũng như tạo sự minh bạch, rõ ràng nghiêm minh trong hoạt động xuất khẩu lao động. Đặc biệt cần quan tâm đào tạo nghành nghề cho người lao động xuất khẩu để đáp ứng yêu cầu của thị trường xuất khẩu lao động, hết hạn hợp đồng xuất khẩu lao động về nước được tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh ở trong nước nhằm sử dụng nguồn vốn và các kỹ năng lao động trong quá trình tham gia lao động ở nước ngoài, qua đó phát huy được hiệu quả hoạt động xuất khẩu lao động đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội.
3.2.1.7. Công tác tổ chức thực hiện
Cần huy động và có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan chức năng trong thu hồi đất, giải quyết việc làm thu nhập và đời sống cho người dân.
Tăng cường đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai, tổ chức các khu tái định cư
Những năm gần đây, khối lượng quy mô thu hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất tăng lên nhanh chóng. Và trong những năm tới, dự án quy hoạch tổng thể trên toàn Quận là sẽ không còn diện tích đất nông nghiệp, do vậy, công tác đào tạo cho đội ngũ cán bộ này là hết sức cần thiết. Cần có các lớp đào tạo ngắn ngày, bồi dưỡng nghiệp vụ có liên quan cho đội ngũ này. Đặc biệt, cần có cơ chế chính sách về tiền lương, thu nhập cho đội ngũ cán bộ chuyên trách trong công tác này, cũng như có cơ chế thưởng phạt nghiêm minh, sao cho tiền lương của họ đảm bảo được cuộc sống bình thường theo mặt bằng giá cả để họ yên tâm công tác, đồng thời, khuyến khích họ hăng hái nhiệt tình, có trách nhiệm cao trong công việc và có đủ điều kiện để giữ phẩm chất của người cán bộ.
3.2.2. Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách
3.2.2.1. Chính sách về tạo việc làm cho người bị thu hồi đất
Trước hết, trong hệ thống chính sách liên quan đến thu hồi và chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai, thì trách nhiệm của Nhà nước đối với chính sách việc làm chưa thực sự thỏa đáng. Do đó, Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống chính sách liên quan đến vấn đề này. Sau đó là trách nhiệm của Quận. Quận có nhiệm vụ triển khai, vận dụng chính sách Nhà nước một cách linh hoạt, phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của Quận, với tình hình thực tế thị trường hiện nay.
Chính sách hỗ trợ bằng tiền là chưa đủ, bởi lẽ không phải bất cứ lao động nông nghiệp có đất bị thu hồi, nhờ vào tiền hỗ trợ cũng có thể học được nghề mới, tìm được chỗ làm việc mới. Trong điều kiện chất lượng lao động của Quận thấp, trình độ văn hóa thấp, thiếu thông tin về nhu cầu nghề nghiệp và nhiều lý do khác nhau đã hạn chế cơ hội tìm được nghề nghiệp mới. Do đó, mặc dù nhận được tiền để chuyển đổi nghề nghiệp, nhưng số người chuyển đổi được nghề nghiệp, tìm được việc làm mới trong Quận là chưa nhiều.
Đối với độ tuổi thanh niên, việc thu hút lực lượng lao động này vào các khu công nghiệp có điều kiện thuận lợi hơn, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn. Trong Quận đã quy định mỗi ha đất thu hồi phục vụ cho dự án, chủ doanh nghiệp phải đào tạo và sử dụng một lực lượng lao động nhất định của địa phương. Trên thực tế, có doanh nghiệp tuyển dụng lao động tại chỗ, nhưng sau một thời gian lại phải thải hồi, hoặc vì số lao động này không đáp ứng được nhu cầu công việc, hoặc vì không quen với yêu cầu của lao động công nghiệp nên xin ra khỏi nhà máy, xí nghiệp…Kết quả là lao động trẻ vẫn không có việc làm.
Khó khăn lớn nhất là đối với số lao động lớn tuổi (từ 35 tuổi trở lên). Mặc dù rất có kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp, song khi bị thu hồi đất thì lao động này rất khó thích nghi với môi trường mới. Tuổi lại cao, khó được tuyển vào các doanh nghiệp, việc tham gia các khóa đào tạo chuyển nghề đối với họ là rất khó khăn so với lao động trẻ, nên nguy cơ thất nghiệp toàn phần và kéo dài đối với họ là rất lớn.
*Một số giải pháp cụ thể về chính sách tạo việc làm cho người bị thu hồi đất
Thứ nhất, với tình hình trên, trong quá trình xây dựng các dự án đô thị hóa cần xác định vị trí xứng đáng của chỉ tiêu số nơi làm việc có thể tạo ra được cụ thể là:
Số việc làm có thể tạo ra của khu vực đô thị hóa
Số lao động có thể thu hút vào việc làm tại các gia đình bị mất đất
Số việc làm gián tiếp có khả năng tạo ra được do quá trình đô thị hóa
Trong điều kiện chất lượng lao động của Quận thấp như vậy và trong sự cạnh tranh mạnh mẽ, cần chú ý tới số việc làm được tạo ra gián tiếp từ các khu vực công nghiệp, dịch vụ. Theo một số kết quả nghiên cứu sự tác động của các khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có thể tạo ra việc làm gián tiếp là trên 1,95, cá biệt có trường hợp doanh nghiệp có tỷ lệ 1/59. Có nghĩa là 1 người có việc thì có 59 có việc làm gián tiếp được tạo ra. Những việc làm gián tiếp này tạo ra do hình thành hệ thống mạng lưới phục vụ đời sống cho công nhân: bán hàng, các dịch vụ, văn hóa nhu yếu phẩm…Vì vậy, khi quy hoạch, lấy đất nông nghiệp sang phục vụ lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, đô thị…thì cần quan tâm đến sự hình thành hệ thống việc làm được gián tiếp tạo ra và hệ thống chính sách cần có để thu hút, khuyến khích phát triển…Nước ta là một nước được coi là an toàn để các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư, nhưng trên thực tế có chế chính sách của nước ta vẫn còn nhiều bất cập, nhiều khi gây cản trở trong thu hút đầu tư nước ngoài. Cầu Giấy cũng nằm trong xu thế chung đó. Tuy nhiên, trên địa bàn Quận hiện nay, số lượng các công ty có vốn đầu tư nước ngoài là không lớn, nếu không muốn nói là còn quá khiêm tốn. Do đó, Quận cần có những cơ chế chính sách thông thoáng hơn để thu hút đầu tư.
Thứ hai, đối với người lao động nông nghiệp từ 35 trở lên, khó có khả năng chuyển đổi nghề nghiệp khi bị thu hồi đất, Quận cần dành một phần đất trong hoặc sát với khu công nghiệp cấp cho nông dân để tổ chức các hoạt động dịch vụ như xây nhà cho thuê, bán hàng tạp hóa, quán ăn, sửa chữa xe máy…phục vụ sinh hoạt cho các khu công nghiệp.
Chính sách này Quận đã áp dụng vào bước đầu đem lại hiệu quả. Theo kết quả điều tra cho thấy, người dân rất ủng hộ chính sách này.
Thứ ba, đối với lực lượng lao động thanh niên: Quận cần có kế hoạch đào tạo nghề và tuyển dụng lao động trẻ vào làm việc cho các doanh nghiệp tại địa phương hoặc đi xuất khẩu lao động. Khi thực hiện di dân tái định cư hoặc thu hồi đất, cần đánh giá đúng thực trạng lao động, việc làm của những hộ sau khi bị thu hồi đất. Trên cơ sở đó, các cơ sở dạy nghề, các doanh nghiệp mới có được kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động sát với yêu cầu của các doanh nghiệp. Điều này tránh cho người lao động không đủ năng lực nhưng vẫn theo học để rồi lại hoặc tự bỏ nghề, hoặc bị doanh nghiệp sa thải. Với lực lượng lao động trẻ này nên dùng một phần tiền đền bù để đào tạo nghề bắt buộc cho họ, đồng thời có cơ chế buộc các doanh nghiệp phi nông nghiệp được sử dụng đất thu hồi phải có trách nhiệm tuyển dụng số thanh niên được đào tạo này vào làm việc.
Thứ tư, Quận cần chủ động hướng dẫn người dân sử dụng tiền đền bù một cách có hiệu quả.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tạo việc làm cho người lao động chưa đầy đủ là vấn đề về vốn. Tuy nhiên, đối với những lao động nông nghiệp có đất bị thu hồi đều được tiếp nhận đền bù. Như vậy, các đối tượng này là có vốn, thậm chí là vốn lớn. Nhưng họ vẫn chưa thực sự biết làm ăn, kinh doanh. Do đó vấn đề đặt ra là cần có cơ chế chính sách quản lý số vốn này, hướng dẫn họ vào việc làm đảm bảo cho cuộc sống. Thông thường đối tượng tiếp nhận đền bù thường sử dụng vốn vào mấy dạng:
Số tiền được đền bù nhiều: Xây dựng nhà cửa, mua sắm thiết bị nâng cao đời sống
Số được đền bù ít: Thường bổ sung vào chi tiêu hàng ngày phục vụ ăn uống, giải trí.
Số ít đầu tư vào sản xuất phát triển nghề phụ
Thực tế cho thấy, ở một số nơi, sau khi nhận tiền đền bù người lao động dùng vào chi phí ăn tiêu, một thời gian sau lại rơi vào cảnh nghèo khổ không có việc làm. Vì vậy, đối với những trường hợp trên, chúng ta cần tập trung vào một số giải pháp sau:
Cần giải thích và hướng dẫn cho người lao động, làm cho họ hiểu nên dùng tiền đền bù vào công việc gì thì có lợi, tránh tình trạng sử dụng vào việc ăn chơi tiêu xài trước mắt.
Khi xây dựng kế hoạch đền bù cho từng hộ cần yêu cầu họ xây dựng các dự án, chương trình kế hoạch sử dụng vốn đền bù, trong đó đặc biệt chú ý tới chương trình kế hoạch đầu tư tạo việc làm hoặc đầu tu cho giáo dục để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong trường hợp không có chương trình kế hoạch thì nên chi trả cho họ theo một tỷ lệ nhất định, phần còn lại gửi vào ngân hàng, để họ hưởng lãi của ngân hàng. Tuy nhiên, đây là việc hết sức khó khăn, bởi lẽ nếu không khéo léo sẽ dẫn đến sự phản đối của người dân ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình giải phóng mặt bằng.
Bên cạnh giải pháp sử dụng nguồn vốn do đền bù mà có, cần có chính sách cho vay vốn với lãi suất ưu đãi để đầu tư tạo việc làm như vay vốn từ Quỹ quốc giải quyết việc làm, Quỹ hỗ trợ người dân, Ngân hàng phục vụ người nghèo…
3.2.2.2. Chính sách về đền bù và bồi thường thiệt hại
Vấn đề đền bù và bồi thường thiệt hại tuy đã được Quận tập trung giải quyết, nhưng hiện nay vẫn còn nhiều bất cập. Những tranh chấp và khiếu kiện hiện nay liên quan rất nhiều đến việc đền bù và bồi thường thiệt hại của người dân có đất bị thu hồi bởi một số lý do như: giá đất đền bù chưa sát với giá thị trường, quan hệ giao dịch đất đai còn mang nặng tính chất hành chính, nặng về ép buộc, thậm chí cưỡng chế mà không dựa trên cơ sở thỏa thuận…Do đó, trong cơ chế chính sách đền bù và bồi thường thiệt hại cho lao động nông nghiệp cần thực hiện tốt một số yêu cầu sau:
Thứ nhất, chính sách đền bù và bồi thường thiệt hại phải đảm bảo tính đủ giá trị quyền sử dụng đất cho người dân có đất bị thu hồi. Giá trị quyền sử dụng đất này phải được xây dựng trên cơ sở mặt bằng giá cả tính đến lợi ích thỏa đáng cho người dân.
Thứ hai, áp dụng nguyên tắc địa tô chênh lệch hai đối với đất đai được chuyển đổi mục đích sử dụng và phần chênh lệch này phải tập trung vào ngân sách nhà nước. Khi chuyển đổi từ đất nông nghiệp sang đất chuyên dùng, xây dựng các khu đô thị, rõ ràng giá đất có sự thay đổi. Do có san lấp, xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng giáo dục, y tế, văn hóa, giao thông, điện, nước nên giá trị đất đai tăng lên. Chính vì thế, Nhà nước cần có sự tính toán đầy đủ sự gia tăng này để bù đắp chi phí. Phần còn lại phải tập trung vào ngân sách nhà nước. Có sự điều tiết như thế mới đảm bảo được sự công bằng giữa người dân có đất bị thu hồi với các đơn vị được thu nhận đất, khắc phục được tình trạng bất hợp lý hiện nay giữa giá đất nông nghiệp thu hồi với giá đất và nhà ở do các đơn vị xây dựng bán cho người dân.
Thứ ba, áp dụng nguyên tắc thỏa thuận thay cho ép giá. Việc thu hồi đất là vì mục tiêu phát triển chung mà lợi ích cuối cùng là người dân được hưởng, song đối với những đối tượng trực tiếp có đất bị thu hồi phải chịu sự xáo trộn về việc làm, về cuộc sống. Vì thế, để người dân thựuc hiện lợi ích chung, Nhà nước phải đảm bảo lợi ích trước mắt và thiết yếu của họ. Vì thế vấn đề giá cả đất thu hồi phải được xác lập trên nguyên tắc giữa người dân với các cơ quan thực thi của Nhà nước, mà trực tiếp ở đây là với chính quyền Quận.
3.2.2.3. Chính sách về công tác tái định cư
Từ thực tế xây dựng các khu tái định cư cho người dân có đất bị thu hồi trong bản thân nội tại Quận đang nảy sinh nhiều bất cập, các khu tái định cư thực hiện với tiến độ chậm, giải tỏa nhiều nhưng tái định cư không đựơc giải quyết kịp thời; Chất lượng các khu tái định cư kém và không đồng bộ; Bố trí tái định cư chưa khoa học, thiếu các biện pháp hỗ trợ sản xuất và đời sống đúng mức cho dân cư. Điều đó làm cho người dân có đất bị thu hồi lo ngại, cuộc sống bị xáo trộn, thậm chí còn gây mất lòng tin của người dân đối với Nhà nước, hoặc có biểu hiện chống đối, không muốn đến khu tái định cư, làm cho tiến độ bàn giao đất bị chậm. Do vậy, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Thứ nhất, đảm bảo sự đồng bộ của các khu tái định cư. Trong các khu tái định cư, nhất thiết phải có trường học, bệnh viện, chợ, nước sạch để đảm bảo cuộc sống bình thường cho người dân.
Thứ hai, về quy trình thực hiện: Phải đảm bảo chỉ khi nào có được các khu tái định cư đảm bảo điều kiện sinh sống cho người dân mới thực hiện thu hồi đất. Quận cần xây dựng Quỹ tái định cư để phục vụ cho việc đền bù, giải tỏa: Nguồn vốn này được hình thành từ nguồn thu về đất.
Thứ ba, cần xây dựng các chế tài cần thiết để đảm bảo cho việc thực hiện chính sách tái định cư một cách nghiêm minh. Ở đây, quan trọng nhất là tạo ra một chế tài buộc các bên cố liên quan tới thu hồi đất, đền bù thiệt hại, giải quyết việc làm cho người có đất bị thu hồi, v.v…phải thực hiện công việc công khai, minh bạch, rõ ràng và người dân phải được tham gia giám sát một cách thực sự.
3.2.2.4. Chính sách xã hội trong công tác thu hồi đất và giải quyết việc làm, ổn định đời sống cho người có đất bị thu hồi
Thứ nhất, các khu tái định cư phải được đảm bảo về cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội như giao thông, điện, nước sạch; Phải có trường học cho các cháu từ nhà trẻ, mẫu giáo đến phổ thông cơ sở; Phải có bệnh viện và chợ cho dân cư ổn định sinh hoạt. Vấn đề nước sạch cần phải được quan tâm giải quyết kịp thời bởi trong Quận, hiện tại một số khu tái định cư cho lao động nông nghiệp sau khi bị thu hồi đất chưa đáp ứng được vấn đề này. Những tầng cao thường xuyên bị thiếu nước.
Thứ hai, cần thực hiện nguyên tắc chừng nào các khu tái định cư không đảm bảo các điều kiện trên thì chưa nghiệm thu; và nếu chưa nghiệm thu khu tái định cư thì cũng chưa thực hiện việc di dời, giải phóng mặt bằng.
Thứ ba, cán bộ công chức trong bộ máy quản lý phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc nghiệm thu các khu tái định cư nếu không được xây dựng theo đúng thiết kế, không đồng bộ, hoặc không đảm bảo chất lượng.
KẾT LUẬN
Trong những năm qua, cùng với quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ trên cả nước thì quận Cầu Giấy cũng đã có những bước phát triển vượt bậc, trở thành một trong những nơi thu hút lao động và người dân nơi khác đổ về.
Quá trình đô thị hóa đang dần một thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, đẩy người lao động nông nghiệp đứng trước nguy cơ bị thất nghiệp. Trong khi đó vấn đề đền bù giải phóng mặt bằng ở nhiều nơi còn nhiều bất cập dẫn tới tình trạng thu hồi kéo dài, gây chậm tiến độ thực hiện các dự án. Các vấn đề khác như: môi trường, văn hóa, cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị, quản lý đô thị, an ninh xã hội…cũng trở nên phức tạp hơn. Giải quyết việc làm, đảm bảo ổn định đời sống cho lao động nông nghiệp bị mất đất một cách thỏa đáng là vấn đề khó khăn, phức tạp, đòi hỏi thời gian cũng như sự nỗ lực của toàn dân, toàn quận.
Quận Cầu Giấy là một quận mới thành lập trên cơ sở các xã nông nghiệp là chủ yếu nên có những khó khăn riêng. Quận luôn có những chính sách ưu đãi, khuyến khích đối với những cá nhân và tập thể mong muốn làm ăn, mở rộng sản xuất trên địa bàn quận. Quận cũng đã có những chính sách, chiến lược phát triển kinh tế, xã hội. Tuy vậy, vì là vấn đề khó khăn, phức tạp nên chưa thể giải quyết ngay được. Ủy ban nhân dân quận Cầu Giấy đã quyết tâm đầu tư tập trung và triển khai nhanh quy hoạch các dự án phát triển đô thị, tránh tình trạng đất đã có quy hoạch bỏ hoang hóa không xây dựng, nhằm nâng cao chất lượng đô thị và quản lý đô thị.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội quận Cầu Giấy giai đoạn 2001 – 2010 - Ủy ban nhân dân quận Cầu Giấy
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010 quận Cầu Giấy
Các tài liệu báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Phòng Kinh tế - Kế hoạch quận Cầu Giấy
Báo cáo thống kê diện tích đất đai của Phòng Tài nguyên môi trường quận Cầu Giấy
Niên giám thống kê Hà Nội 1996 – 2000
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – kỳ 1 – tháng 4/2006
Tạp chí Cộng sản số 19 – tháng 7/2003
Thực trạng thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhu cầu công cộng và lợi ích quốc gia – Đề tài độc lập cấp Nhà nước – Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Tạp chí Lao động và xã hội số 246 (1 – 15/9/2004), số 247 (16 – 30/9/2004)
Đoan Trang: Giải tỏa nhiều, tái định cư không bao nhiêu – Báo Tuổi trẻ, ngày 24/8/2005
Đền bù thu hồi đất “sát giá thị trường” – trang web Vietnamnet – ngày 27/3/2004
Thu tiền sử dụng đất đối với trường hợp được đền bù: Cần được quy định thêm 13/10/2005.
MỤC LỤC
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
Biểu 1. Tình hình lao động bị mất việc làm trong nông nghiệp do thu hồi đất giai đoạn 2001 – 2005 22
Biểu 2. Dân số và lao động quận Cầu Giấy 27
Biểu 3. Nguồn lao dộng quận Cầu Giấy 28
Biểu 4. Diện tích đất thu hồi bình quân mỗi hộ phân theo loại đất 33
Biểu 5. Biến động đất nông nghiệp của các huyện ngoại thành Hà Nội 34
Biểu 6. Biến động diện tích đất nông nghiệp quận Cầu Giấy thời kỳ 1998 – 2007 37
Biểu 7. Diện tích đất nông nghiệp quận Cầu Giấy giai đoạn từ năm 2005 – 2007 40
Biểu 8. Diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi thời kỳ 1998 – 2006 41
Biểu 9. Tiền bồi thường bình quân một hộ phân theo loại đất ở quận Cầu Giấy 44
Biểu 10. Cơ cấu lao động quận Cầu Giấy giai đoạn 1998 – 2006 46
Biểu 11. Cơ cấu nghề nghiệp của người dân có đất bị thu hồi trước khi bị thu hồi đất 47
Biểu 12. Cơ cấu nghề nghiệp của người dân có đất bị thu hồi sau khi bị thu hồi đất 48
Biểu 13. Tình trạng việc làm người lao động 50
Biểu 14. Mức thu nhập bình quân của người dân ở quận Cầu Giấy 50
Biểu 15. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp quận Cầu Giấy giai đoạn 1998 – 2003 52
Biểu 16. Giá trị sản xuất các ngành do quận Cầu Giấy quản lý 55
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32099.doc