Lời mở đầu
Một trong những nội dung cơ bản của bản của công nghiệp hoá hiện đại hoá trong những năm trước mắt là tạo ra những chuyển dịch rõ rệt về cơ cáu kỹ thuật của nền kinh tế trên cơ sở khai thác triệt để các lợi thế, tiềm năng và nguồn lực của vùng, liên kết hỗ trợ nhau, làm cho tất cả vùng đều phát triển
Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ : trong khi dành nguồn lực thích đáng cho việc giải quyết những nhu cầu cấp bách, đặc biệt là về kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, để
16 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1410 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và phương hướng phát triển kinh tế - Xã hội tại vùng kinh tế trọng điểm miền Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
những vùng còn kém phát triển, nhất là các vùng cao, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc ít người , vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng cần bước tiến nhanh hơn, dần dần giảm bớt sự chênh lệch quá lớn về trình độ phát triển kinh tế giữa các vùng, thì đồng thời phải đầu tư ở mức cần thiết cho các vùng kinh tế trọng điểm để thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
Ba vùng kinh tế trọng điểm ở miền Bắc, Trung, Nam có điều kiện tăng trưởng kinh tế nhanh hơn nhịp điệu chung của cả nước, cung ứng cho cả nước nhiều sản phẩm và dịch vụ cần thiết, phát huy vai trò trung tâm về công nghiệp , dịch vụ thương mại, tài chính, khoa học-kỹ thuật, là cửa ngõ giao lưu quốc tế. Phát triển ba vùng kinh tế trọng điểm phải kết hợp chặt, phục vụ và thúc đẩy sự phát triển các vùng khác và thúc đẩy sự phát triển các vùng và cả nước, tạo điều kiện để các doanh nghiệp ở vùng kinh tế trọng điểm mở rộng kinh doanh và đầu tư ra các vùng khác.
I/ Vị trí địa lý vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc nằm ở phía đông bắc Đồng bằng sông Hồng và sườn đông nam vùng Đông Bắc Bắc Bộ, tiếp giáp với vịnh Bắc Bộ, có hải cảng lớn nhất miền Bắc nước ta là Hải Phòng, Cái Lân. Vì vậy có điều kiện quan hệ với các bộ phận lãnh thổ trên cánh cung Thái Bình Dương như Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippin, Hồng Công, Đài Loan, úc, ... và theo các trục đường 18, trục đường 5 mở rộng liên hệ với các vùng kinh tế Đông Bắc đi sâu vào lục địa, vươn tới các vùng kinh tế Nam Trung Hoa như Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, ... Phía Nam và Đồng bằng sông Hồng đến Bắc Trung Bộ.
II/. Về vị trí kinh tế- xã hội :
Là vùng có lịch sử hình thành đô thị sớm nhất nước ta như Hải Phòng, Hòn Gai, Hải Dương sản sinh ra thủ đô Hà Nội nên có sức hút mạnh mẽ các vùng lân cận.
- Là vùng có khả năng tiếp cận và tụ hội được nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên làm nguyên liệu, thực hiện công nghiệp hoá như nhiên liệu năng lượng, khoáng sản kim loại và phi kim loại, có nguồn nước mặt, nước ngầm phong phú, có biển rộng, giàu tài nguyên du lịch.
- Là vùng có nguồn lao động dồi dào, có chất lượng, bao gồm cả lao động kỹ thuật. Năm 1994 có 7,4 triệu dân số. Trong đó, thành thị là 2,2 triệu, chiếm 29,5% dân số, nông thôn là 5,2 triệu, chiếm 71,5% dân số. Lao động có trình độ phổ thông trung học trở lên chiếm 75% lao động, 91 vạn cán bộ khoa học kỹ thuật, chiếm 27,3% lao động xã hội, 17 vạn người có trình độ đại học và 6.644 người có trình độ trên đại học, chiếm 72% tổng số cả nước.
- Là vùng có cơ sở hạ tầng đủ khả năng mở rộng và hiện đại hoá để liên hệ kịp thời, ổn định vùng sản xuất và tiêu thụ
- Là vùng đã có chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP của vùng, là vùng đã và đang củng cố, mở rộng các ngành kinh tế giữ vị trí chủ đạo và then chốt như điện, than, dầu khí, cơ khí chế tạo, vận tải biển, đường sắt, hàng không, ngân hàng, tài chính.
Tăng trưởng GDP năm 1994 đạt 303 USD ( Cả nước 213 USD), đứng sau vùng phát triển kinh tế trọng điểm miền Nam (556 USD ). Phấn đấu nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm từ 11,2% ( thời kỳ 1991- 1994) lên 11,7% (thời kỳ 1995- 2000) và 14,2% (thời kỳ 2001- 2010). Trong đó:
+ Về tốc độ ( cùng các thời kỳ trên ): Công nghiệp từ 13,9% lên 16,2 và 16,7%
Xây dựng từ 18,9% lên 15,3 và 13,8%
Nông lâm từ 6,6% xuống 4,0 và 3,5%
Dịch vụ từ 10,5% lên 11,0 và 14,3%
+ Về cơ cấu ( cùng các năm 1994, 2000 và 2010):
Công nghiệp từ 20,4% lên 25,9% và 32,2%
Xây dựng từ 9,1% lên 11% và 10,6%
Dịch vụ từ 55,2% còn 53,1% và 53,5%
Nông lâm từ 15,3% xuống 10,0% và 3,7% cùng năm trên.
III. ảnh hưởng của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đối với sự tăng trưởng của nền Kinh tế Việt Nam.
Tác động đến nền công nghiệp.
a) Hà Nội.
Trong những năm 1991 đến 2000 GDP của Hà Nội tăng 2,99 lần, đạt tấc độ tăng binh quân 11,6 %/năm, cao hơn tấc độ tăng GDP của cả nước 1,5 lần. Năm 2000, GDP của Hà Nội chiếm 7,3% so với cả nước, khoảng 41% so với cả vùng đồng bằng sông Hồng và 65,47% so với vùng Kinh tế trọng điểm phía Bắc.
GDP bình quân đầu người năm 2000 đật khoảng 10,5 triệu đồng, bằng khoảng 2,29 vùng đồng bằng sông Hồng và 2,07 lần cả nước.
Nền Kinh tế phát triển ở tất cả các ngành, các lĩnh vực. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 4,86 lần, giá trị nông nghiệp tăng 1,63 lần, kinh ngạch xuất khẩu địa phương tăng 4,77 lần. Đến hết năm 2000, Hà Nội có 382 dựn án đầu tư nước ngoài có hiệu lực hoạt động với tổng số vốn đăng ký 7,55 tỷ USD ( đứng thứ 2 cả nước ), vốn thực hiện ước khoảng 3,5 tỷ USD.
Ngân sách thu được trên địa bàn Hà Nội đạt khoảng 11.300 tỷ đồng. Cơ cấu ngành công nghiệp mở rộng từ 25,9% năm 1990 tăng lên 38,5% năm 2000, ngành dịch vụ từ 66% giảm xuống còn 58%, ngành nông – lâm nghiệp và thuỷ sản từ 8,1% giảm xuống còn 3,5%. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài từ 0% (năm 1990) tăng lên 13,3% (năm 2000).
ở Hà Nội giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 17,13%/ năm, sản phẩm công nghiệp ngày càng phong phú. Ngoài 9 khu công nghiệp cũ, Hà Nội đã xây dựng thêm 5 khu công nghiệp tập trung, một số khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ. Năm 2000 Hà Nội có 256 doanh nghiệp công nghiệp quốc doanh, trong đó có 163 doanh nghiệp quốc doanh trung ương, 15.363 doanh nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh. Hà Nội là địa bàn tập trung công nghiệp cao nhất Bắc Bộ và đứng thứ 2 cả nước. Tỷ trọng GDP công nghiệp trong cơ cấu GDP thủ đô chiếm 38,5% và đang có chiều hướng tiếp tục gia tăng. Một số sản phẩm của Hà Nội có sức cạnh tranh và chiếm tỷ trọng cao trong cả nước: động cơ điện chiếm 83%, xe đạp chiếm 35%, máy chế biến gỗ chiếm 46,6%, đồ nhôm chiếm 74%, lắp ráp vi tính chiếm 47,6%, quạt máy các loại chiếm 73,9%…
b) Hải Phòng.
* Công nghiệp đóng tầu:
Đóng và sửa chữa tàu thuỷ trọng tải lớn trở thành ngành kinh doanh lớn nhất của
thành phố, mục tiêu đến năm 2005 đóng được tầu từ 30 đến 50 nghìn tấn. Trên cơ sở liên doanh với nước ngoài tiến tới đóng tầu 5 vạn tấn, sửa chữa tàu vận tải trên 8 vạn tấn, chế tạo động cơ tầu thuỷ cỡ 3.000 CV.
Đảm bảo đáp ứng các loại tầu công trình, tầu cao tốc, các chi tiết phụ tùng cho ngành đóng tầu Việt Nam đáp ứng: 25 – 30% nhu cầu đóng mới tầu biển của cả nước.
Sửa chữa tầu, sà lan… đáp ứng 80% nhu cầu của vùng Bắc Bộ về sửa chữa tầu sông, 30% nhu cầu cả nước về nhu cầu sửa chữa tầu biển.
* Xi măng:Đến năm 2005 đạt 3,5 triệu tấn, đến năm 2010 đạt 4,5 triệu tấn.
* Sản xuất thép đạt 0,8 – 1,0 triệu tấn vào năm 2005, đạt 1,5 triệu tấn vào năm 2010 theo hướng đa dạng hoá sản phẩm gồm: thép thanh, thép cuộn, thép ống, thép hình phi tiêu chuẩn, chi tiết máy, đúc phôi thép.
* Hoá chất nhựa: tiếp tục đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất các sản phẩm trong nước thay thế hàng nhập khẩu; sơn, ắc quy, sản phẩm nhựa cho tiêu dùng, xây dựng. Tiếp tục phát triển các sản phẩm mới (LAB). Chuẩn bị các điều kiện để phát triển các sản phẩm phân DAP, hoá dầu.
Bên cạnh đó là việc đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ phát triển sản xuất, tập trung hoàn thiện các khu, cụm công nghiệp tập trung hiện có, thu hút đầu tư của nước ngoài lấp đầy các khu công nghiệp và khu chế xuất nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế.
c) Hải Dương
Đến năm 2000, tỷ trọng công nghiệp trong GDP đã vượt lên trên sản xuất nông nghiệp. Những năm 1996 – 1998, ngành công nghiệp Hải Dương có mức tăng trưởng rất cao, bình quân đạt 22% trong đó công nghiệp trung ương tăng 20,4%, công nghiệp địa phương tăng 20,2%, công nghiệp có vố đầu tư nước ngoài tăng 70,5%. Thời ký 1998 – 1999, đầu tư mới không nhiều, các ngành sản xuất phần nào bị đình trệ do thị trường tiêu thụ bị han chế, doanh nghiệp quốc doanh làm việc chưa hiệu quả, tấc độ tăng trưởng của một số ngành công nghiệp giảm rõ rệt. Bước sang năm 2000, nhịp độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp đã phục hồi, đưa tấc độ tăng trưởng bình quân của cả thời kỳ 1996 – 2000 đạt 15,4%/ năm.
Trong 5 năm qua, mặt hàng xuất khẩu từ mặt hàng công nghiệp của Hải Dương ngày càng tăng, từ 17 triệu USD năm 1995 tăng lên 36 triệu USD năm 2000. Tỷ trọng xuất khẩu từ ngành công nghiệp chiếm 70% kim ngạch xuất khẩu, chủ yếu do kim ngạch địa phương và công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện.
Trên địa bàn Hải Dương đã hình thành một hệ thống doanh nghiệp công nghiệp, bao gồm 15 công nghiệp Quốc doanh trung ương, 17 doanh nghiệp quốc doanh địa phương, 53 doanh nghiệp tư nhân, 51 hợp tác xã và trên 2 vạn hộ các thể sản xuất công nghiệp với 10 xí nghiệp liên doanh với nước ngoài.
d) Quảng Ninh
Mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của Quảng Ninh đến năm 2010 là xây dựng và phát triển Quảng Ninh thành một trung tâm công nghiệp hiện đại của Việt Nam. Tập trung củng cố, mở rộng công nghiệp kai thác than, xây dựng một số nhà máy cán thép, nhiệt điện, nâng cao năng lực cơ khí mỏ và cơ khi đóng tàu, hiện đại hoá các cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng như gốm, sứ, xây dựng một số cơ sở sản xuất xi măng lớn, cơ sở sản xuất gạch chịu lửa, gạch men ốp lát, phát triển cơ chế biến nông – lâm – thủy sản, mở rộng công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu (dệt, may, giấy, giầy, hàng mỹ nghệ…). Hình thành một số khu công nghiệp mới có quy mô sản xuất hiện đại ở Cái Lân, Hoàn Bồ, dọc hành lang đường 18 để thuhuts vốn đầu tư nước ngoài.
Ngành dịch vụ.
a) Hà Nội
GDP các ngành dịch vụ trong 10 năm qua tăng 11%/ năm. Năm 2000, tỷ lệ GDP của dịch vụ chiếm 58% trong tổng GDP của thành phố.
Văn minh dịch vụ thương mại ngày càng được chú ý theo hướng phục vụ nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng. Hệ thống siêu thị, cửa hàng tự chọn ngày càng đi vào nếp sinh hoạt mua sắm của người dân thủ đô.
Hoạt động du lịch và một số dịch vụ khác đã có sự phát triển về quy mô và chất lượng. Tính đến năm 2000 trên địa bàn thành phố có 350 khách sạn lớn nhỏ, với tổng số buồng phòng là 5.990 phòng, đã có 20 khách sạn được xếp hạng 1 – 5 sao. Lượng khách du lịch tăng bình quân hàng năm 15,2%.
Các hoạt động dịch vụ tài chính, ngân hành nhìn chung đã vượt qua gia đoạn lúng túng ban đầu, từng bước mở rộng và cơ bản đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống.
Dịch vụ thông tin liên lạc – bưu chính đặc biệt phát triển nhanh, Hà Nội là nơi có mật độ điện thoại cao nhất toàn quốc (10 máy/100 dân).
b) Hải Dương.
Các ngành dịch vụ tiếp tục chuyển biến tích cực. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và dịch vụ xã hội đạt 2000 tỷ đồng, tăng 20%/năm; hàng hoá phong phú, mua bán thuận tiện. Mạng lưới thương mại dịch vụ đa dạng, mở rộng đến vùng sâu, vùng xa. Xuất nhập khẩu vẫn tiếp tục phát triển khá. Năm 2000, tổng giá trị hàng hoá xuất khẩu tăng 4,7 lần so với năm 1991. Một số mặt hàng có thị trường ổ định và đạt kim ngạch cao như: giày các loại, quần áo may sẵn, hàng sấy, thịt lợn sữa, bánh đậu xanh… Giá trị xuất khẩu bình quân đầu người đạt 25 USD.
Giao thông vận tải được cải thiện, đảm bảo vận chuyển hành khách và hàng hoá thông suốt. Khối lượng hàng hoá luân chuyển tăng 8%/năm, khối lượng hành khách luân chuyển tăng 5%/ năm. Doanh thu vận tải tăng 8%/ năm.
Thông tin liên lạc phát triển nhanh, 100% xã phường, thị trấn và 85% thôn có máy điện thoại, bình quân đạt 2,02 máy/ 100dân.
c) Quảng Ninh:
Du lịch là một tài nguyên lớn, được đánh giá là ưu thế nổi trội. Độc đáo và đặc sắc nhất của tỉnh, trong đó Vịnh Hạ Long được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên và di sản về địa chất, địa mạo của thế giới. Triển vọng có thể còn được công nhận là di sản văn hoá thế giới. Di sản này có giá trị đặc biệt về văn hoá, thẩm mỹ, địa chất, sinh học và kinh tế. Ngoài Vịnh Hạ Long còn có Vịnh Bái Tử Long, bãi biển Trà Cổ và hàng ngàn hòn đảo ngoài khơi rất có giá trị về du lịch.
Hiện nay ngành Du lịch Quảng Ninh có 170 khách sạn với tổng số2593 phòng, trong đó 1900 phòng đạt tiêu chuẩn quốc tế. Có một số khách sạn tiện nghi hiện đại như Heritage, Plaza, Halongbay … và nhiều khách sạn hiện đại khác đang được bổ xung xây dựng. Một số khách sạn có nơi vui chơi giải trí phục vụ khách sạn du lịch. Năm 2000 đã đón nhận 1,5 triêu lượt khách, trong đó có 545 nghìn lượt khách quốc tế .
3- Nông nghiệp :
a) Hải Dương :
Ngành nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế cũng như ổn định đời sống nhân dân. Tốc độ tăng trưởng GDP của nông nghiệp Hải Dương duy trì ở mức khá cao, thời kỳ 1991-1995 đạt 6,8% thời kỳ 1996-2000 đạt 5,4% GDP trong nông nghiệp đóng góp tỷ trọng tương đối lớn trong cơ cấu kinh tế, năm 2000 chiếm 35,4% GDP.
Nông nghiệp Hải Dương nhiều năm qua phát triển khá ổn định, toàn diện cả về trồng trọt, chăn nuôi. Trong những năm qua, tỉnh đã đặc biệt chú ý phát triển diện tích cây ăn quả, cây thực phẩm và các loại con đặc sản. Trên 5000 ha đất cấy lúa kém hiệu quả được chuyển sang trồng cây ăn quả và nuôi cá, đưa diện tích cây vải thiều lên 7000 ha. Sản lượng các loại cây trồng hàng năm đều tăng, riêng lương thực từ 745.000 tấn năm 1995 tăng lên 867.048 tấn năm 2000, đạt 520kg/người, lương thực hàng hoá khoảng 20 vạn tấn/ năm.
Tổng thu nhập trên một ha diện tích đất canh tác đều tăng qua các năm, năm 2000 tăng 1,55 lần so với năm 1995.
b) Hưng Yên :
Hưng Yên bố trí lại cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá gắn với thị trường, đồng thời phù hợp với điêù kiện đất đai và sinh thái của từng khu vực. Cùng với đẩy mạnh thâm canh cây lương thực, tỷ trọng (cả diện tích và sản lượng) các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao và có thị trường tiêu thụ lớn, nhất là các loại cây ăn qủa và cây thực phẩm được tăng nhanh. Tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, xen canh gối vụ. Mở rộng diện tích cây vụ đông lên khoảng 80% năm 2010, sớm đưa vụ đông trở thành một vụ sản xuất chính.
Duy trì ổn định diện tích đất cây lương thực ở mức 50 nghìn ha.
Đẩy mạnh các biện pháp cải tạo đất, thâm canh tăng vụ, đưa năng suất lúa bình quân toàn tỉnh lên 12-13 tấn /ha vào năm 2005 và 14-15 tấn/ha năm 2010.
Đây là cây công nghiệp truyền thống của tỉnh, phát triển hợp lý diện tích đay gắn với công nghiệp chế biến duy trì diện tích trồng đay ở mức 2500-3000 ha, đảm bảo sản lượng khoảng 8000-10000 tấn đay bẹ/ năm.
Chú trọng phát triển các cây công nghiệp ngắn ngày, nhất là lạc và đậu tương…
Cây ăn quả là một trong những thế mạnh của tỉnh: Đầu tư phát triển mạnh cây ăn quả, đặc biệt là nhãn, vải thiều, nhãn, táo, chuối… nâng tổng diện tích cây ăn quả của tỉnh lên 14000 – 15000 ha vào năm 2010.
4- Hoạt động kinh tế đối ngoại :
a)Hà Nội :
Tổng kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn 5 năm đạt 6,5 tỷ USD, tốc độ tăng bình quân 14,91%; kim ngạch xuất khẩu địa phương tăng bình quân 19,96%/năm. Thị trường xuất nhập khẩu ngày càng được ổn định và mở rộng. Một số thị trường xuất nhập khẩu chủ yếu đã được hình thành như : EU, Hàn Quốc, Nhật Bản, ASEAN … Cư cấu mặt hàng xuất khẩu có những chuyển biến tích cực, hàng công nghệ phẩm chiếm
tỷ trọng ngày càng lớn. Một số mặt hàng cỏ thị trường và kim ngạch xuất khẩu khá ổn định như: dệt may – gia giầy, điện - điện tử, nông – thuỷ sản, hàng thủ công mỹ nghệ … Cơ cấu hàng nhập khẩu chuyển biến theo hướng nâng dần tỷ trọng nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên liệu, vật tư phục vụ sản xuất, giảm tỷ trọng nhập khẩu hàng tiêu dùng.
Hà Nội có 444 dự án còn hiệu lực hoạt động với tổng số vốn đăng ký đạt 8,35 tỷ USD, vốn đầu tư thực hiện đạt 2,44 tỷ USD, thu hút trên 2,02 vạn lao động.
Năm 2000 vốn ODA thu đã hút đạt gần 700 triệu USD, tổng đó vốn viện trợ chiếm 17%, vốn vay chiếm 83%. Vốn ODA đã đóng góp quan trọng vào phát triển hạ tầng đô thị của Hà Nội như: cấp thoát nước, giao thông, vệ sinh môi trường.
Doanh nghiệp nhà nước đang được sắp xếp lại theo hướng chất lượng, hiệu quả nhằm bảo đảm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần.
b) Hải Phòng:
Đổi mới cơ chế, chính sách nhằm tiếp tục tạo môi trường thuận lợi để thu hút nguồn lực trong nước và phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt là các hoạt động hợp tác đầu tư quốc tế nhằm thu hút có hiệu quả nguồn vốn đầu tư, công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiến bộ của nước ngoài để cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng xuất khẩu.
c) Quảng Ninh:
Kinh tế đối ngoại bước đầu phát triển góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế – xã hội của tỉnh phát triển. Qua 10 năm thực hiện Quảng Ninh có 50 dự án với 7 chi nhánh có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ 18 quốc gia trên thế giới, đã được cấp phép đầu tư trong đó có 39 dự án còn hiệu lực pháp lý với tổng vốn đăng ký 9074 triệu USD . Hiện nay có 29 dự án triển khai, trong đó 21 dự án đã đi vào sản xuất – kinh doanh với vốn thực hiện 175 triệu USD. Năm 2000 giá trị sản xuất công nghiệp của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 1515 tỷ đồng chiếm 28,7% giá trị sản xuấ công nghiệp trên địa bàn, đã cung cấp một khối lượng lớn sản phẩm hàng hoá cho tiêu dùng và xuất khẩu, thu hút 3100 lao động. Ngoài vốn FDI, đã thu hút được 16 dự án ODA với số vốn 88 triệu USD (phần ODA do địa phương quản lý).
5- Xây dựng kết cấu hạ tầng:
a) Hà Nội :
Xây dựng kết cấu hạ tầng và quản lý đô thị trên địa bàn có một số mặt tiến bộ, bộ mặt Thủ đô 5 năm qua co nhiều thay đổi khang trang, hiện đại hơn.
Bằng nhiều nguồn vốn, thành phố đã tập trung đầu tư xây dựng, nâng cấp kết cấu hạ tầng đô thị; mở rộng, nâng cấp nhiều tuyến đường, nút giao thông quan trọng. Trong 5 năm xây dựng mới gần 40 km đường giao thông, rải thảm đường đạt khoảng 3 triệu m2, nâng tỷ lệ đường được rải thảm lên 90% (đối với nội thành ) và 60%(đối với ngoại thành). Hệ thống đèn tín hiệu giao thông được trang bị lại, giao thông tĩnh được chú trọng phát triển, vận tải công cộng được mở rộng.
Hệ thống cấp thoát nước, chiếu sáng đô thị và vệ sinh môi trường cũng ngày càng cải thiện.
Hệ thống lưới điện được xây mới và cải tạo. Mạng lưới giao thông tin liên lạc được mở rộng và trang bị khá hiện đại, nâng số máy điện thoại từ 7máy/ 100 dân năm 2000.
Trong 5 năm Hà Nội đã xây dựng thêm 1,5 triệu m2 nhà ở, nâng mức bình quân về nhà ở từ 5m2 lên 6m2.
b) Hải Phòng:
Nằm trong vùng tăng trưởng, Hải Phòng cần tiếp tục được sự hỗ trợ của trung ương để phát triển kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội nói chung và hợp tác quốc tế nói riêng:
+Chưa có cảng biển nào ở phía bắc có được các điêù kiện hậu cần tốt như cảng Hải Phòng.
+Đường 10 được nâng cấp.
+Khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu đặc biệt hàng hoá có giá trị cao của bắc bộ qua cảng Hải Phòng sẽ được tăng nhanh.
Nghiên cứu xây dựng cảng nước sâu cảng chuyên dùng cho du lịch nội địa và quốc tế.
Hệ thống đường sắt được đầu tư nâng cấp thành đường đôi .
Nâng cấp sân bay Cát Bi thành sân bay quốc tế.
Nâng cấp các tuyến đường thành phố trước mắt là tuyến Hải Phòng - Đồ Sơn.
c) Quảng Ninh :
Thành tựu nổi bật là cơ sở hạ tầng phát triển nhanh với nhiều công trình quan trọng được tập trung đầu tư xây dựng như hệ thống giao thông, cảng biển, mạng lưới điện, thông tin liên lạc, công trình cấp thoát nước, vệ sinh môi trường, xây dựng mở rộng các đô thị, khu du lịch, khu công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu, các cơ sở giáo dục, y tế văn hoá, phát thanh, truyền hình, thể dục thể thao. Nhiều công trình lớn như nâng cấp mở rộng quốc lộ 18, đường 10, cảng Cái Lân, cầu Bãi Cháy…đang được triển khai làm thay đổi bộ mặt của tỉnh và mở ra nhiều triển vọng lớn thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
d) Hưng Yên:
Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong thời gian từ nay đến 2010 của Hưng Yên là xây dựng một hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư trong nước và ngoài nước, tạo đà cho sự phát triển tăng tốc nền kinh tế tỉnh trong các giai đoạn tiếp theo .
Sẽ tập trung cải tạo, nâng cấp các tuyến giao thông đối ngoại huyết mạch trong mối qua hệ chặt chẽ với định hướng quy hoạch chung phát triển kết cấu hạ tầng của cả vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
Hưng Yên có lợi thế là nằm trên 2 trong 3 tuyến vận tải đường sông lớn nhất của vùng đồng bằng sông Hồng. Do vậy cần ưu tiên phát triển mạnh đường sông, sông Hồng, sông Luộc trong đó có cầu Yên Lệnh, cảng Hưng Yên công suất khoảng 25-30 vạn tấn/ năm và các bến Dốc Vĩnh, bến Phú Khê, Bến Hối, Bến La Tiên … Cải tạo nâng cấp một số tuyến sông nội tỉnh, mở rộng bến bãi …
Đầu tư hiện đại hoá bưu điện tỉnh, xây dựng các tuyến cáp quang từ thị xã Hưng Yên đi các huyện.
Đầu tư mở rộng các bưu cục và tổng đài điện tử trong toàn tỉnh, đa dạng hoá các loại hình bưu chính – viễn thông; phát triển điện thoại kỹ thuật số đến 100% xã, thôn trong tỉnh trước năm 2010. Đến năm 2010 tỷ lệ sử dụng điện thoại sẽ đạt 15-20máy/ 100 dân.
Đầu tư xây dựng và tu bổ cải tạo đồng bộ, hoàn chỉnh hệ thống đê điều chống lũ lụt và các công trình thuỷ lợi trong tỉnh, đảm bảo an toàn ở mức cao cho sản xuất và đời sống của nhân dân, đồng thời bảo đảm tưới tiêu chủ động, khoa học theo yêu cầu sinh trưởng của cây trồng.
6- Các lĩnh vực văn hoá xã hội:
a) Hà Nội:
Công tác giáo dục và đào tạo đạt nhiều thành tích. Nội dung giáo dục được cải tiến, chất lượng giáo dục được giữ vững, có một số mặt được nâng cao.
Mạng lưới y tế bước đầu được sắp xếp lại, đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh và phòng chống các loại dịch bệnh, 100% các trạm y tế xã, phường có bán sỹ. Có nhiều đổi mới trong chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân.
Hoạt động thể dục thể thao đạt nhiều kết quả trên 3 mặt: thể thao quần chúng, chuyên nghiệp và quan hệ giao lưu thi đấu. Nhiều môn thể thao xếp hàng đầu cả nước; cơ sở vật chất của ngành từng bước được nâng cấp.
Các công trình xã hội được triển khai thực hiện tốt. Giải quyết việc làm mỗi năm bình quân khoảng 50 nghìn người, xây tăng hơn 2000 nhà tình nghĩa và nhiều nhà tình thương; phụng dưỡng 100% bà mẹ Việt Nam anh hùng của Hà Nội, xoá gần 15000 hộ nghèo; trợ giúp 100% đối tượng cứu trợ xã hội. Bảo hiểm xã hội ngày càng mở rộng và phát huy tác dụng .
Chính trị ổn định, an ninh – quốc phòng được giữ vững. Hệ thống chính trị từ thành phố đến cơ sở từng bước có sự đổi mới về tổ chức và phương pháp hoạt động. Chất lượng phong trào quần chúng tham gia giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được nâng cao.
Những kết quả trong 15 năm đổi mới của Thủ đô đã được Nhà nước ta và bạn bè quốc tế ghi nhận. Năm 1999, Hà Nội được tổ chức UNESCO xét chọn là thành phố duy nhất đại biểu cho khu vực Châu á - Thái Bình Dương đạt danh hiệu “ Thành phố vì hoà bình”. Năm 2000, Hà Nội được nhà nước phong tặng danh hiệu “Thủ đô anh hùng”.
b) Hải Phòng:
Giáo dục và đào tạo:
Giữ vững kết quả phổ cập và nâng cao chất lượng tiểu học. Đảm bảo 100% trẻ em 6 tuổi vào lớp 1, giảm tới mức thấp nhất tỷ lệ bỏ học. Mở rộng việc học ngoại ngữ ở các cấp tiểu học, đến năm 2010 tất cả học sinh tiểu học được học ngoại ngữ, tin học.
Chăm sóc bảo vệ sức khoẻ nhân dân.
Mở rộ ng bảo hiểm y tế, đảm bảo mọi người đều được hưởng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ. Nâng cấp và trang bị thêm thiết bị, bổ sung cán bộ y tế để nâng cao trình độ chất lượng và hiệu quả công tác khám chữa bệnh, mỗi xã có 2 bác sỹ, có nữ hộ sinh trung học và trung cấp dược, có đủ trang thiết bị khám chữa bệnh như Bộ Y Tế quy định.
Phát thanh, truyền hình, văn hoá, thể thao:
Đảm bảo phủ sóng toàn bộ lãnh thổ về phát thanh truyền hình với thời lượng phát sóng phát thanh và truyền hình 24h/ ngày. Đảm bảo yêu cầu phát sóng quốc gia và giải quyết yêu cầu nhiệm vụ đặc thù của thành phố. Phát triển truyền hình cáp.
Thoả mãn nhu cầu ngày càng cao và đa dạng về hưởng thụ văn hoá nghệ thuật của nhân dân, khách du lịch trong nước và nước ngoài đến Hải Phòng. Hình thành mạng lưới công tác văn hoá - thông tin rộng khắp bao gồm chuyên nghiệp và quần chúng.
c) Quảng Ninh:
Văn hoá - xã hội phát triển và có nhiều tiến bộ mới. Sự nghiệp giáo dục, văn hoá, y tế, thể dục thể thao, phát thanh truyền hình được củng cố, xây dựng, mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng . Trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên rõ rệt. Khoa học và công nghệ ngày càng được ứng dụng nhiêù trong sản xuất và đời sống. Tài nguyên môi trường sinh thái di sản Vịnh Hạ Long và các di tích văn hoá lịch sử được quan tâm bảo vệ và khai thác có hiệu quả.
Đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Những vấn đề bức xúc về việc làm, xoá đói giảm nghèo được quan tâm giải quyết. Hàng năm đã tạo thêm được gần 20 nghìn chỗ làm mới. Giảm tỷ lệ đói nghèo từ 24% năm 1990 xuống còn 10% năm 2000 (theo tiêu thức cũ ).
IV/ Phương hướng phát triển kinh tế xã hội cho vùng kinh tế trọng điểm miền Bắc
Phát triển ổn định, có hiệu quả, tạo năng lực đầu tư phát triển, nâng cao sức cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu, cùng cả nước hội nhập thắng lợi.
- Phát triển nền kinh tế –xã hội tăng trưởng nhanh, bền vững, có hiệu quả, cao hơn bình quân chung cả nước.
- Xây dựng nền kinh tế mở, tạo năng lực cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu cùng cả nước hội nhập thắng lợi
- Chuyển nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá đảm bảo sử dụng hiệu quả các nguồn lực
- Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với phát triển xã hội, nâng cao dân trí, phát triển năng lực
- Phát triển nông thôn gắn với phân công lao động, giảm dần mức 4 chênh lệch giữa thành thị và nông thôn
Kết luận
Vùng kinh tế trọng điểm miềm Bắc trước mắt sẽ được tập trung sức, huy động mọi nguồn lực bên trong và khai thác các nguồn đầu tư bên ngoài để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đậi hoá ,phấn đấu đạt tăng trưởng cao ổn định. Tăng trưởng cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội, phát triển các ngành, các lĩnh vực, các sản phẩm có lợi thế và có sức cạnh tranh .Nâng cao năng lực và có hiệu quả công tác giáan dục đào tạo, khoa học, công nghệ, coi trọng và phát triển nhanh nhântố con người, chăm lo giải quyết các vấn đề bức xúc về việc làm, xoá đói giảm nghèo, tệ nạn xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống vật chật, văn hoá cho nhân dân. Giữ vững ổn định chính trị, bảan đảm quốc phòng, an ninh
Vùng kinh tế trọng điểm miền Bắc sẽ là “đầu tầu” kéo các vùng xung quanh phát triển theo
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28344.doc