LỜI NÓI ĐẦU
Bắt đầu từ năm 1991, là thời điểm đánh dấu sự ra đời của khu công nghiệp đầu tiên ở nước ta, khi Uỷ ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư (nay là Bộ kế hoạch và đầu tư) được Thủ tướng chính phủ uỷ nhiệm cấp giấy phép thành lập khu chế xuất Tân Thuận theo giấy phép đầu tư số 245/GP với quy mô là 300 ha. Đến nay sau 15 năm phát triển, ở Việt Nam đã có 130 khu công nghiệp đã có quyết định được thành lập và đi vào hoạt động hoặc đang trong qua trình triển khai giải phóng mặt bằng xây dựng
83 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1281 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và phương hướng giải pháp tăng cường vai trò của Nhà nước trong việc phát triển các khu công nghiệp giai đoạn 2006-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hạ tầng được phân bố ở 45 tỉnh trên cả nước.
Sự ra đời của các khu công nghiệp là một yếu tố rất quan trọng giúp chúng ta đưa đất nước đi lên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Học tập kinh nghiệm của các nước đi trước Việt Nam đã đẩy mạnh phát triển các khu công nghiệp như là một chìa khoá giúp thu hút đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, khu công nghiệp đã tạo ra những tác động tích cực đối với quá trình phát triển của đất nước: tiếp nhận công nghệ tiên tiến từ bên ngoài, đổi mới cơ chế quản lí theo hướng tích cực, tạo việc làm cho người lao động…
Trước những vai trò to lớn mà KCN đem lại cho tiến trình CNH-HĐH, trong những năm gần đây Nhà nước ta rất chú trọng đến hoạt động phát triển các KCN, trong đó đặc biệt chú ý đến việc thu hút đầu tư vào KCN nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và đóng góp của KCN đối với đất nước. Để tăng cường khả năng thu hút đầu tư vào KCN, Nhà nước đã có nhiều biện pháp, chính sách và hoạt động để thể hiện sự quan tâm của mình như: Ban hành các văn bản pháp luật hướng dẫn, khuyến khích hoạt động đầu tư vào KCN (Quy hoạch phát triển KCN, Luật đầu tư nước ngoài liên tục được sửa đổi cho phù hợp, Luật khuyến khích đầu tư trong nước), hay ban hành các chính sách, trực tiếp hỗ trợ đối với các hoạt động đầu tư vào KCN… Những tác động này từ phía Nhà nước bước đầu đã đem lại những hiệu quả nhất định: Vốn đầu tư nước ngoài vào KCN tăng dần qua các năm, vốn trong nước cũng ngày càng được mở rộng.Tuy nhiên trong những năm gần đây, do những diễn biến phức tạp của hoạt động phát triển KCN, vai trò của nhà nước đối với thu hút đầu tư vào KCN đã bộc lộ nhiều hạn chế cần phải khắc phục: công tác quy hoạch không theo kịp sự phát triển của KCN làm giảm tính định hướng trong thu hút đầu tư, một số chính sách chưa phát huy được tác dụng cũng như mục đích đề ra… Những hạn chế này phần nào làm giảm vai trò của Nhà nước đối với hoạt động thu hút đầu tư vào KCN.
Câu hỏi nghiên cứu: Trước bối cảnh trên, vấn đề đặt ra là cần xác định được Nhà nước cần có những vai trò hợp lí nào đối với việc thu hút đầu tư vào KCN, vai trò đó phụ thuộc vào các nhân tố nào? Xác định được các nhân tố đó chúng ta sẽ có những biện pháp hiệu quả để nâng cao vai trò của nhà nước trong hoạt động thu hút đầu tư vào KCN, qua đó phát huy được khả năng đóng góp của các KCN đối với tiến trình CNH-HĐH đất nước.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung vào các vấn đề liên quan đến các yếu tố phát triển khu công nghiệp, đặc biệt chú trọng đến các yếu tố liên quan đến vai trò của Nhà nước trong việc thu hút đầu tư vào KCN.
Phương pháp nghiên cứu: Trong đề tài tác giả chủ yếu dựa vào phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh và tiếp thu những kinh nghiệm thực tiễn.
Đóng góp của đề tài:
- Hệ thống hoá một số khái niệm về khu công nghiệp và vai trò của nó đối với sự nghiệp CNH, HĐH
- Đánh giá lại vai trò của Nhà nước đối với việc phát triển KCN.
- Tìm kiếm các nhân tố tác động đến vai trò của Nhà nước đối với việc phát triển KCN qua đó có những giải pháp thích hợp để nâng cao vai trò của Nhà nước đối với hoạt động phát triển KCN.
Kết cấu dự kiến của đề tài như sau:
Chương I: Lí luận chung về KCN và vai trò của Nhà nước đối với việc phát triển các KCN.
Chương II: Thực trạng phát triển KCN và vai trò của Nhà nước trong việc phát triển các KCN thời gian vừa qua
Chương II: Phương hướng và giải pháp tăng cường vai trò của Nhà nước trong việc phát triển các KCN giai đoạn 2006-2010.đặc biệt chú trọng đến các yếu tố liên quan đến hoạt động lấp đầy các khu công nghiệp.
Phương pháp nghiên cứu:trong đề tài tôi chủ yếu dựa và phương pháp hệ thống,phương pháp phân tích,phương pháp tổng hợp,phương pháp so sánh và tiếp thu những kinh nghiêm thực tiễn
Đóng góp của đề tài:
_Hệ thống hoá một số khái niệm về khu công nghiệp và vai trò của nó đối với sự nghiệp CNH,HĐH
_Sơ lược về thực trạng hoạt động của các khu công nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn vừa qua
_Một số kinh nghiệm quốc tế mà Việt nam có thể tiếp thu và áp dụng.
_Đặc biệt chu ý đến các yếu tố liên quan đến hoạt động lấp đầy khu công nghiệp,phân tích và đề ra một số giải pháp nâng cao khả năng lấp đầy diện tích khu công nghiệp.
Kết cấu dự kiến của đề tài như sau:
CHƯƠNG I
LÍ LUẬN CHUNG VỀ KCN VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
I/LÍ LUẬN CHUNG VỀ KCN
1/Khái niệm chung về KCN
1.1/Khái niệm KCN ở Việt Nam
Khu công nghiệp đã được hình thành và phát triển ở các nước tư bản phát triển vào những năm cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Trong thời gian đầu xuất hiện, các KCN được xem như một mô hình quy hoạch công nghiệp, tuy nhiên sau đó do những lợi ích thiết thực mà mô hình này đem lại, các KCN đã được xem như một công cụ để phát triển kinh tế. Đến nay, lợi ích của việc phát triển các KCN đã được nhiều nước trên thế giới thừa nhận và cùng với quá trình tồn tại, phát triển các KCN đã xuất hiện ngày càng nhiều dưới những hình thức khác nhau. Khái niệm về KCN cũng được bàn cãi trong một thời gian dài, đến nay vẫn chưa đi đến thống nhất.
Trong thời gian gần đây, KCN đang được hình thành và phát triển mạnh mẽ ở nước ta. Khái niệm về KCN đã được Nhà nước ta nêu rõ trong Quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao ban hành kèm theo Nghị định 36-CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ. Trong Quy chế này đã đưa ra các khái niệm về KCN, KCX, KCNC như sau:
KCN là “khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lí xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập. Trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất” (Khoản 1, Điều 2)
KCX là “khu công nghiệp tập trung các doanh nghiệp chế xuất chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lí xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập” (Khoản 2, Điều 2)
KCNC là “khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp kỹ thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao gồm nghiên cứu-triển khai khoa học-công nghệ, đào tạo và các dịch vụ có liên quan, có ranh giới địa lí xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong KCNC có thể có doanh nghiệp chế xuất” (Khoản 3, Điều 2)
Có thể thấy rằng, giữa ba khái niệm này có liên quan với nhau. Nếu như khái niệm về KCN mang tính chất đặc trưng cơ bản thì KCX và KCNC là hai khái niệm mang tích chất là những hình thái đặc thù của KCN:
- KCX là khu công nghiệp mà theo đó hàng hoá sản xuất ra chủ yếu dùng để xuất khẩu.
- KCNC là khu công nghiệp gắn với các hoạt động kĩ thuật, công nghệ cao.
KCN, KCX, KCNC là các loại hình khác nhau của Khu công nghiệp tập trung. Trong đề tài này, tác giả nghiên cứu cả ba loại hình trên. Tuy nhiên, các KCN được nghiên cứu nằm trong phạm vi điều chỉnh của Quy chế KCN, KCX, KCNC. Đó là những KCN do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
1.2/ Một số cách hiểu khác nhau về KCN
Như đã được trình bày trong phần trên, hiện nay trên thế giới có nhiều cách hiểu khác nhau về KCN và vẫn chưa đưa đến một khái niệm thống nhất về KCN.
Trước tiên, đối với KCX, đây là một khu vực đặc biệt chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, đứng ngoài chế độ mậu dịch và thuế quan của một nước, được thành lập với những điều kiện, yếu tố thuận lợi về pháp lí, quản lí và cơ sở hạ tầng trên một phạm vi đã được xác định nhằm mục đích chủ yếu để thu hút đầu tư của các nước phát triển đặc biệt từ các công ty xuyên quốc gia. KCX, ngày nay có các định nghĩa sau:
- Định nghĩa của Hiệp hội các KCX thế giới (WEPZA)
Theo Điều lệ hoạt động của Hiệp hội các KCX thế giới (WEPZA), “KCX bao gồm tất cả các khu vực được chính phủ các nước cho phép như cảng tự do, khu mậu dịch tự do, KCN tự do hoặc bất kì khu vực ngoại thương hoặc khu vực khác được WEPZA công nhận”. Định nghĩa này về cơ bản đã đồng nhất KCX với khu vực được miễn thuế.
- Định nghĩa của Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hiệp quốc (UNIDO):
KCX được hiểu là “khu vực được giới hạn về mặt hành chính và địa lí, trong đó cách doanh nghiệp được hưởng chế độ thuế quan ưu đãi cho phép tự do nhập khẩu các trang thiết bị và sản phẩm nhằm mục đích phục vụ cho hoạt động sản xuất sản phẩm xuất khẩu”. Khác với định nghĩa thứ nhất, với định nghĩa này có thể xác định được hoạt động chính trong KCX là sản xuất công nghiệp.
Như vậy, cách hiểu của Việt Nam về KCX tương đồng với cách hiểu của Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hiệp quốc.
KCX được thành lập với mục tiêu chính nhằm để thu hút vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài qua việc tạo ra các chính sách ưu đãi đặc biệt cho các nhà đầu tư hoạt động.Tuy nhiên, khi hoạt động trong KCX, một bất lợi rất lớn đối với các nhà đầu tư đó là sản phẩm được làm ra yêu cầu phải xuất khẩu hết hoặc phần lớn ra nước ngoài. Do đó, một trong những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài đó là thị trường bên trong của nước sở tại đã không được đảm bảo cho các nhà đầu tư. Điều này làm cản trở khả năng thu hút vốn trong KCX. Ngoài ra, đối với nước sở tại nó cũng làm hạn chế về lợi ích kinh tế do không phát huy được khả năng lan toả của các doanh nghiệp trong KCX.
KCN là một mô hình linh hoạt hơn, hấp dẫn các nhà đầu tư hơn (đặc biệt đối với các nhà đầu tư nước ngoài) vì họ có thể hi vọng vào thị trường nội địa, đối với một số nước dung lượng của thị trường nội địa là khá lớn (Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam…). Việc khai thác được thị trường nội địa còn có thuận lợi cho các nhà đầu tư đó là tiết kiệm được chi phí vận chuyển hàng hoá hơn so với việc xuất khẩu ra nước ngoài… Đối với nước sở tại, ngoài việc khắc phục hạn chế về khả năng lan toả của KCX, việc phát triển mô hình KCN, mở cửa thị trường nội địa cũng phù hợp với xu hướng tự do hoá mậu dịch của khu vực và thế giới. Việc cho phép tiêu thụ hàng hoá trong thị trường nội địa cũng góp phần giúp cho các doanh nghiệp trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước, có khả năng cạnh tranh với hàng hoá của nước ngoài .
Hiện nay có hai cách hiểu khác nhau về KCN:
- Cách hiểu thứ nhất:
KCN là “khu vực lãnh thổ có giới hạn nhất định, trong đó tập trung các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và các dịch vụ phục vụ cho hoạt động sản xuất công nghiệp, không có dân cư sinh sống”. Cách hiểu này cũng giống với khái niệm về KCN của Việt Nam trong Quy chế KCN, KCX, KCNC được ban hành kèm theo Nghị Định 36/CP.
- Cách hiểu thứ hai:
KCN là “khu vực lãnh thổ rộng có nền tảng là sản xuất công nghiệp, bên cạnh đó là các hoạt động dịch vụ, kể cả dịch vụ sản xuất công nghiệp, dịch vụ sinh hoạt, vui chơi giải trí, khu thương mại, văn phòng, nhà ở…”. Khác với cách hiểu trên, ở đây trong KCN có hoạt động sinh sống của dân cư. Về thực chất đây là mô hình khu hành chính – kinh tế đặc biệt (Đặc khu kinh tế, Khu kinh tế mở…).
Bên cạnh hai loại hình KCN và KCX còn có mô hình KCNC. Ở một số nước khái niệm Khu công nghiệp nói chung chỉ bao gồm KCN và KCX, một số nước khác khái niệm Khu công nghiệp nói chung được hiểu bao gồm KCN, KCX và KCNC. Ở Việt Nam khái niệm Khu công nghiệp nói chung bao gồm cả KCNC. Có nước còn gọi KCNC là “thành phố khoa học”, “công viên khoa học”. KCNC thường được xây dựng trên cơ sở hạt nhân là các viện nghiên cứu khoa học, trường đại học lớn, các cơ sở sản xuất ứng dụng các kĩ thuật cao… Mục tiêu nhằm phát triển công nghiệp kĩ thuật cao, thu hút công nghệ cao của nước ngoài, nâng cao năng lực nội sinh của các ngành công nghệ cao ở trong nước. KCNC yêu cầu cần phải có một hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối hiện đại với những tiêu chuẩn hết sức khắt khe (không bị mất điện, mật độ xây dựng thấp thường dưới 25%, liên hệ chặt chẽ với các trường Đại học và các cơ sở nghiên cứu…).
Tóm lại, KCN nói chung có thể hiểu theo nhiểu cách khác nhau tuỳ theo mục đích phát triển KCN của các nước trên thế giới. Tuy vậy, trong đề tài này, tác giả chỉ nghiên cứu về KCN trong giới hạn phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Những số liệu dẫn chứng thực trạng phát triển của KCN và các văn bản pháp quy có liên quan đến KCN đều dựa trên cơ sở các khái niệm hiện hành về KCN được nêu ra trong Quy chế KCN, KCX và KCNC. Do đó tác giả thống nhất sử dụng các khái niệm về KCN nói chung trong quy chế này.
2/ Những đặc điểm của KCN liên quan đến vai trò của Nhà nước
KCN xuất hiện lần đầu tiên vào khoảng cuối thế kỉ 19, xuất phát từ nước Anh. Sau đó lần lượt xuất hiện ở các nước Tây Âu như Italia, Pháp, Thuỵ Điển, Hà Lan và các nước Bắc Mĩ như Hoa Kì, Canada. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, KCN được xây dựng rộng khắp ở các nước đang phát triển trên thế giới. Với khoảng thời gian tồn tại hơn 1 thế kỉ, ngày nay KCN không phải là một mô hình mới mẻ mà trở nên phổ biến trên thế giới. Đối với Việt Nam, với khoảng thời gian 15 năm hình thành và phát triển (KCN đầu tiên ra đời tại Việt Nam là KCX Tân Thuận, Tp.Hồ Chí Minh vào năm 1991). Khoảng thời gian đó là không dài nếu so với sự tồn tại của KCN trên thế giới. Việc phát triển các KCN muốn đạt được thành công, trước tiên cần phải có cái nhìn tổng quan về KCN, phát hiện được các đặc trưng của nó qua đó có những biện pháp thích hợp tác động vào nó để đem đến những thành quả mong muốn.
Xuất phát từ các khái niệm của Nghị định 36/CP và các khái niệm khác về KCN, đồng thời qua thực tiễn phát triển của các KCN, tác giả cho rằng, để xem xét vai trò của Nhà nước đối với việc phát triển của các KCN cần phải lưu ý các đặc trưng sau:
Thứ nhất: KCN thực chất là một khu vực tập trung các doanh nghiệp sản xuất trong một phạm vi nhất định, các doanh nghiệp trong KCN về cơ bản vẫn phải chịu sự điều chỉnh của hệ thống Luật pháp Việt Nam (Luật đầu tư nước ngoài, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Pháp luật về thuế…). Về cơ bản, KCN là một bộ phận cấu thành nền kinh tế đất nước, có mối quan hệ với các bộ phận khác và phải chịu sự quản lí của Nhà nước về kinh tế.
Thứ hai: KCN thường được xây dựng ở những vị trí tương đối thuận lợi (gần đường giao thông lớn, bến cảng, sân bay, trung tâm kinh tế…). Yêu cầu đặt ra là cần phải có công tác quy hoạch tổng thể nhằm xác định các vị trí xây dựng các KCN sao cho nó có thể phát huy được hiệu quả cao.
Thứ ba: Các doanh nghiệp trong KCN được hưởng một số quy chế riêng của Nhà nước và địa phương sở tại, các quy chế này thể hiện sự quan tâm, ưu đãi, tạo điều kiện thuận lợi cho các xí nghiệp này phát triển. Việc ban hành các chính sách thuộc về vai trò của Nhà nước. Điều này đòi hỏi Nhà nước vẫn phải có những chính sách thích hợp nhằm phát huy ưu thế của các KCN.
Thứ tư: KCN được xây dựng với một kết cấu hạ tầng tương đối hiện đại nhằm phát huy khả năng liên kết giữa các xí nghiệp trong KCN với nhau, đồng thời giúp giảm chi phí sản xuất do sử dụng chung kết cấu hạ tầng. Việc xây dựng kết cấu hạ tầng là tương đối tốn kém, thời gian thu hồi vốn lại khá lâu, do đó cần phải có sự tham gia của Nhà nước đối với việc xây dựng cơ sở hạ tầng có thể trực tiếp hoặc gián tiếp qua các thành phần kinh tế khác.
Thứ năm: KCN có Ban quản lí chung thống nhất, thực hiện quy chế quản lí thích hợp, tạo điều kiện thuận lợi và hiệu suất tối đa cho các xí nghiệp công nghiệp và các doanh nghiệp khác phát triển.
Thứ sáu: Trong KCN, Nhà nước chỉ quy định những ngành và doanh nghiệp loại nào được khuyến khích phát triển và loại nào không được đặt trong KCN do yêu cầu bảo vệ môi trường và quốc phòng an ninh. Do đó cần phải có công tác kiểm tra, thanh tra đối với các KCN.
3/ Tác động của KCN đối với nền kinh tế đất nước
3.1/ Tác động tích cực
3.1.1/ Tác động mạnh đến việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Ở Việt Nam, trong tiến trình CNH-HĐH, lí luận và thực tiễn cho thấy nhân tố hàng đầu nếu không nói là quan trọng nhất đối với CNH-HĐH đất nước đó là phải có vốn lớn. Tuy nhiên, sự khan hiếm nguồn vốn đang là vấn đề mà Việt Nam cũng như các nước đang phát triển mắc phải. Do đó muốn cho CNH-HĐH diễn ra với tốc độ nhanh, cần phải có biện pháp thu hút được nguồn vốn nhiều nhất. Với tính chất là khu vực kinh tế đặc biệt, hoạt động theo một quy chế riêng trong một môi trường đầu tư chung của cả nước, KCN là một công cụ hữu hiệu để thu hút đầu tư. Đó là do khi đầu tư vào KCN, các nhà đầu tư có khả năng giảm chi phí sản xuất, tại đây các doanh nghiệp sẽ được hưởng những ưu đãi đặc biệt về thuế và các loại phí, thuận lợi trong các thủ tục hành chính… Đầu tư vào KCN sẽ giúp cho các nhà đầu tư tận dụng tối đa các cơ hội đầu tư do không cần phải giải toả và xây dựng cơ sở hạ tầng như ngoài KCN, điều này giúp cho các nhà đầu tư rút ngắn được thời gian đọng vốn, nhanh chóng đưa dây chuyền sản xuất vào hoạt động để chiếm lĩnh thị trường.
3.1.2/ Tác động của KCN đối với việc giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động
Các KCN được hình thành và phát triển sẽ thu hút được một lực lực khá lớn vào làm việc trong các KCN này. Lao động được thu hút vào các doanh nghiệp KCN bao gồm lao động ở địa phương và lao động từ nơi khác đến. Không những tạo việc làm trực tiếp cho người lao động trong các KCN, việc hình thành và phát triển các KCN còn tạo công ăn việc làm cho người lao động ở ngoài KCN với các hoạt động dịch vụ phục vụ cho công nhân trong các KCN. Khi các KCN được hình thành, một bộ phận nông dân sẽ được vào làm trong các khu công nghiệp, với mức lương ổn định và thu nhập của công nhân thường cao hơn so với thu nhập của người nông dân. Với mức thu nhập cao như vậy, các hoạt động dịch vụ có cơ hội phát triển hơn qua đó tạo được một số lượng lớn việc làm cho người dân ở địa phương, đây là số lao động gián tiếp mà các KCN tạo ra, và thực tế cho thấy số lao động gián tiếp này còn nhiều hơn so với số lao động trực tiếp mà các KCN thu hút vào KCN
Khi các KCN được hình thành nó còn có tác dụng kích thích sự hình thành và phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ ở địa phương và từ đó lại tạo thêm nhiều chỗ làm mới.
3.1.3/ Tác động của KCN đối với việc nâng cao trình độ công nghệ của đất nước
Ngày nay, công nghệ có vai trò ngày càng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Đối với Việt Nam, trong tiến trình CNH-HĐH, việc phát triển khoa học-công nghệ có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Tuy nhiên, hiện nay trình độ công nghệ của nước ta còn rất thấp so với thế giới. Chúng ta lạc hậu từ 3-4 thế hệ (hay từ 50-100 năm về thời gian) so với các nước công nghiệp trên thế giới. So với các nước trong khu vực ASEAN thiết bị của Việt Nam cũng lạc hậu khoảng 20-30 năm. Với hiện trạng như vậy thì quá trình CNH-HĐH của nước ta là rất khó thực hiện.
Chúng ta biết rằng có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh, chế tạo ra công nghệ và chuyển giao công nghệ từ nước ngoài. Để tận dụng lợi thế của nước đi sau cần thực hiện việc chuyển giao công nghệ tiên tiến hơn từ nước ngoài vào Việt Nam. Qua việc phát triển các KCN, cùng với dòng vốn của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài vào các dự án sản xuất kinh doanh trong KCN, các nhà đầu tư nước ngoài còn đưa vào Việt Nam những dây chuyền sản xuất với công nghệ tiên tiến, hiện đại. Động lực khiến cho các chủ đầu tư nước ngoài đem công nghệ tiên tiến vào nước ta, là do khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh trong các KCN cũng như bất kì một nơi nào khác, điều mà chủ đầu tư rất quan tâm đó là sản phẩm họ làm ra có chiếm lĩnh được thị trường trong nước cũng như thị trường thế giới hay không. Muốn vậy, một trong những yếu tố rất quan trọng tạo nên sức cạnh tranh cho các sản phẩm đó là yếu tố công nghệ, đây là các yếu tố mà các nước phát triển rất sẵn có.
Công nghệ theo cách hiểu hiện nay, không chỉ là các trang thiết bị máy móc, khí cụ, nhà xưởng (phần cứng). Công nghệ còn là các “phần mềm” bao gồm: kĩ năng tay nghề, kinh nghiệm của người lao động, trình độ quản lí của cán bộ… Lao động của Việt Nam khi làm việc trong các KCN, với những dây chuyền công nghệ tiên tiến, đòi hỏi cần phải có đủ trình độ để điều hành nó. Do đó bên cạnh sự chuyển giao về công nghệ là hoạt động đào tạo nâng cao tay nghề trong các KCN. Người lao động Việt Nam khi được làm việc trong môi trường của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài còn được học hỏi tác phong làm việc, kinh nghiệm quản lí tiên tiến của các chuyên gia, các nhà quản lí từ nước ngoài.
3.1.4/ Tác động lan toả của KCN đối nền kinh tế trong nước, làm cầu nối hội nhập kinh tế trong nước với kinh tế thế giới
Các KCN khi được hình thành và phát triển sẽ tạo ra năng lực sản xuất mới, bên cạnh đó nó còn tạo ra được mối liên kết với các doanh nghiệp trong nước thông việc cung cấp các sản phẩm đồng thời kí kết các hợp đồng cung cấp nguyên vật liệu, hợp đồng gia công với các cơ sở sản xuất bên ngoài KCN, đây là thực tiễn diễn ra ở các nhiều KCN trên thế giới. Ngoài ra nó còn tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và phát triển của một số ngành dịch vụ như: ngân hàng-tài chính, dịch vụ thuê nhà, đào tạo và cung cấp nguồn lao động cho các KCN…
Sự phát triển của các KCN sẽ giúp cho cánh cửa kết nối giữa nền kinh tế trong nước và nền kinh tế thế giới được mở rộng hơn. Hàng hoá sản xuất trong các KCN không những đủ sức cạnh tranh với hàng hoá nhập khẩu từ bên ngoài mà có thể xuất khẩu ra các nước khác. Sự hội nhập kinh tế không dừng lại ở việc trao đổi hàng hoá, các KCN còn là nơi “ươm mầm” cho các chính sách mới ra đời, các chính sách này nhằm tạo điều kiện thông thoáng hơn cho các nhà đầu tư, thu hẹp khoảng cách giữa nền kinh tế trong nước và nền kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới.
3.2/ Một số tác động tiêu cực của KCN
- Các KCN khi được xây dựng lên, việc lấy đi đất nông nghiệp sẽ khiến cho một số bộ phận nông dân không có đất canh tác, do đó việc giải quyết việc làm cho người dân khi bị lấy đất là một vấn đề cần phải giải quyết.
- Việc tập trung lao động quá cao ở một số khu vực phát triển KCN yêu cầu Nhà nước cần phải đảm bảo các yếu tố cần thiết cho đời sống của những người lao động: giao thông, điện nước, nhà ở, trường học…Đây là những khoản chi phí khá lớn mà Nhà nước cần phải thực hiện.
- Phát triển các KCN, về lí thuyết sẽ tạo điều kiện cho việc bảo vệ môi trường tốt hơn do tập trung các doanh nghiệp sản xuất trên một địa bàn hẹp, việc kiểm soát môi trường sẽ được thực hiện dễ dàng và tốn kém ít chi phí hơn. Tuy nhiên, đấy là trong trường hợp công tác quản lí của Nhà nước được thực hiện tốt cũng như khả năng xử lí chất thải trong các KCN được bảo đảm. Trong trường hợp ngược lại, do nhiều doanh nghiệp tư nhân trong nước và nước ngoài, vì mục tiêu lợi nhuận, lợi dụng sự chưa đồng bộ hoặc chưa đầy đủ của pháp luật đã không chú ý đến vấn đề xử lí chất thải gây ô nhiễm môi trường. Một khi vấn đề chất thải không được chú ý trong các KCN, hậu quả gây ra là rất nghiêm trọng do có nhiều xí nghiệp cùng hoạt động trong một phạm vi hẹp, lượng chất thải tập trung lớn khiến cho ảnh hưởng của nó càng lớn.
Như vậy, bên cạnh những mặt tích cực mà KCN tạo ra, việc phát triển các KCN còn gây ra nhiều tác động tiêu cực, gây ra nhiều vấn đề xã hội và môi trường bức xúc cấn phải giải quyết. Do đó, yêu cầu đặt ra là cần phải có sự quản lí của Nhà nước trong việc phát triển các KCN nhằm phát huy những mặt tích cực đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực mà các KCN gây ra. Những tác động tích cực mà các KCN đem lại sẽ tạo động lực để Nhà nước tăng cường vai trò của mình. Những hậu quả tiêu cực đòi hỏi Nhà nước cần phải có những biện pháp thích hợp, giải quyết bài toán pháp triển các KCN một cách hợp lí, đảm bảo sự hài hoà trong quá trình phát triển nền kinh tế đất nước.
II/ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
1/ Cơ sở xác định vai trò của Nhà nước trong việc phát triển các KCN
1.1/ Cơ sở lí luận
Xuất phát từ vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Đó là đảm bảo hiệu quả hoạt động của thị trường, đảm bảo công bằng xã hội và ổn định kinh tế vĩ mô. Từ đó ta có thể thấy, trong hoạt động phát triển kinh tế nói chung và sự phát triển của các KCN nói riêng, Nhà nước cần phải có sự quản lí đối với hoạt động phát triển của các KCN.
Mục tiêu của các doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận, tức lợi ích tài chính. Trong khi đó mục tiêu mà Nhà nước theo đuổi trong các hoạt động phát triển kinh tế đó là lợi ích kinh tế. Do đó Nhà nước cần sử dụng quyền lực và sức mạnh của mình để điều tiết và khống chế các hành vi không có lợi cho nền kinh tế và cho cộng đồng. Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện vai trò của mình đối với sự phát triển của các KCN, Nhà nước cần phải tạo môi trường đầu tư hấp dẫn để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, phát huy các điểm mạnh, lợi thế của nền kinh tế quốc dân, góp phần giúp cho các doanh nghiệp KCN sử dụng nguồn lực một cách tiết kiệm và tạo ra được lợi ích chính đáng cho các doanh nghiệp đó, đồng thời bảo vệ được môi trường sinh thái, chủ dộng phối hợp giữa các mục đích riêng của từng KCN nhằm đạt tới mục tiêu chung của nền kinh tế.
1.2/ Cơ sở pháp lí
Cơ sở pháp lí để xác định vai trò của Nhà nước trong việc phát triển các KCN hiện nay dựa trên một số văn bản hiện hành, đặc biệt được quy định trong Quy chế KCN, KCX, KCNC được ban hành kèm theo Nghị định 36-CP của Chính phủ ban hành ngày 24/4/1997.
Nội dung quản lí Nhà nước đối với KCN được quy định tại Điều 21, Chương VI bao gồm:
- Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển KCN.
- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động của KCN.
Quy định và hướng dẫn việc hình thành, xây dựng, phát triển và quản lí hoạt động của KCN.
Cấp, điều chỉnh, thu hồi các loại giấy phép và thực hiện các thủ tục hành chính Nhà nước có liên quan.
Tổ chức bộ máy, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ.
Kiểm tra, thanh tra, giám sát các hoạt động của KCN và giải quyết các vấn đề phát sinh.
2/ Vai trò của Nhà nước trong việc phát triển các KCN
Trên cơ sở các vấn đề lí luận đã được phân tích ở phần trên, cùng với một số văn bản pháp lí quy định hoạt động của Nhà nước đối với việc phát triển các KCN. Theo ý kiến của tác giả, đối với hoạt động phát triển KCN, Nhà nước đóng góp các vai trò chủ yếu sau đây:
2.1/ Định hướng phát triển KCN thông qua việc xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển KCN
Trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của quốc gia; chiến lược phát triển vùng, lãnh thổ; chiến lược phát triển công nghiệp, Nhà nước xây dựng chiến lược phát triển KCN.
Từ chiến lược phát triển KCN, Nhà nước cần phải quy hoạch phát triển các KCN nhằm thực hiện các chiến lược đã định. Công tác quy hoạch tổng thể các KCN giữ một vai trò rất quan trọng. Quy hoạch các KCN có tác dụng hạn chế sự chồng chéo, triệt tiêu lẫn nhau trong hoạt động đầu tư, xây dựng, phát triển các KCN; đảm bảo phương hướng phát triển và cơ cấu kinh tế theo đúng đường lối của Đảng; tạo nên sự bổ sung, tác động tích cực giữa các KCN; đảm bảo sự hài hoà, đồng bộ giữa các công trình kết cấu hạ tầng bên trong và ngoài hàng rào KCN; bảo vệ môi trường…
Việc xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống KCN ở nước ta hiện nay do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, cùng với sự phối hợp với các bộ, ngành khác như Bộ Công nghiệp, Bộ Xây dựng và sự tham gia của của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Việc phát triển KCN phải theo đúng quy hoạch tổng thể KCN đã được phê duyệt. Trường hợp chưa có trong quy hoạch thì phải xin chủ trương hình thành trước khi lập báo cáo nghiên cứu khả thi.
Đối với quy hoạch ngành nghề trong KCN được thực hiện do sự phối hợp giữa Bộ Công nghiệp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Ngành nghề công nghiệp và công nghệ ưu tiên đầu tư vào KCNC do Bộ khoa học và Công nghệ quy định.
UBND cấp tỉnh có nhiệm vụ lập quy hoạch chi tiết KCN trình Bộ Xây dựng phê duyệt trừ trường hợp Thủ tướng Chính phủ có quyết định khácvà thực hiện việc phát triển KCN theo quy hoạch tổng thể do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
2.2/ Ban hành và thực hiện các chính sách ưu đãi về kinh tế
Các cơ chế và chính sách ưu đãi được Nhà nước ban hành sẽ tạo môi trường kinh doanh thuận lợi đối với hoạt động của các chủ đầu tư vào KCN. Trong việc thu hút đầu tư vào KCN hiện nay, cần phải phân biệt hai hình thức đầu tư: đầu tư kinh doanh hạ tầng KCN và đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong KCN. Đối với việc phát triển các KCN, mục tiêu Nhà nước đặt ra không phải là các KCN được thành lập càng nhiều càng tốt, mà quan trọng là các KCN đó hoạt động có hiệu quả hay không, tức có thu hút được nhiều doanh nghiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong các KCN. Do đó, các chính sách ưu đãi mà Nhà nước ban hành cần tập trung vào đối tượng là các chủ đầu tư hoạt động sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp.
Hiện nay, ở Việt Nam ngoài các chính sách ưu đãi chung mà TW ban hành. Nhằm khuyến khích đầu tư vào KCN trên địa bàn, các địa phương cũng ban hành các chính sách ưu đãi đầu tư riêng. Những chính sách này chủ yếu được ban hành ở các địa phương có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn nhằm thu hút đầu tư trên địa bàn của mình.
Để đảm bảo cho Nhà nước thực hiện tốt vai trò này, yêu cầu đặt ra đó là trong quá trình soạn lập chính sách cần phải có sự thống nhất, đồng bộ giữa các chính sách, việc xây dựng các chính sách cần phải xuất phát từ lợi ích của nước chủ nhà và lợi ích lâu dài của các chủ đầu tư, các biện pháp ưu đãi cần phải thể hiện tính cạnh tranh cao đối với các khu vực bên ngoài khu vực KCN. Trong quá trình thực hiện, cần phải có sự thống nhất từ TW đến địa phương, đảm bảo sự chấp hành nghiêm túc của các chủ thể có liên quan.
2.3/ Thực hiện đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng KCN
Khi lựa chọn địa điểm đầu tư thực hiện dự án, điều mà các nhà đầu tư rất quan tâm đó là cơ sở hạ tầng kĩ thuật và xã hội của khu vực vì nó có liên quan đến các hoạt động sản xuất kinh doanh sau này. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng KCN đòi hỏi một nguồn vốn đầu tư rất lớn trong khi khả năng thu hồi vốn lại cần nhiều thời gian. Do đó, yêu cầu đặt ra là cần phải có sự đóng góp của nhiều thành phần kinh tế khác nhau.
Công trình hạ tầng kĩ thuật bao gồm các công trình bên trong và bên ngoài hàng rào KCN. Đối với các nước phát triển, việc xây dựng cơ sở hạ tầng bên trong hàng rào KCN chủ yếu do Nhà nước thực hiện. Tuy nhiên với Việt Nam, là một nước đang phát triển, nguồn vốn ngân sách còn hạn chế do đó Nhà nước thư._.ờng huy động vốn từ các doanh nghiệp trong và ngoài nước nhằm giảm bớt gánh nặng ngân sách Nhà nước.
Đối với công trình hạ tầng bên ngoài hàng rào KCN, đây là những công trình đòi hỏi vốn đầu tư lớn, phụ thuộc vào quy hoạch phát triển vùng, lãnh thổ. Việc xây dựng các công trình này thường không được sự quan tâm của các doanh nghiệp kinh doanh cơ sở hạ tầng. Các chủ đầu tư khi xây dựng các KCN thường lựa chọn ở những vị trí đã có cơ sở hạ tầng bên ngoài hàng rào KCN khá phát triển (gần đường giao thông, bến cảng, sân bay…). Do đó công việc này chủ yếu do Nhà nước thực hiện.
Phát triển KCN có tác động lan toả rất lớn, xung quanh các KCN thường tập trung một lượng dân cư đông, trong đó có cả dân di cư từ nơi khác đến. Do đó, yêu cầu đặt ra là cần phải có một hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội đi kèm (trường học, bệnh viện, các chợ, trung tâm thương mại, khu vui chơi giải trí…) nhằm phát huy tác dụng lan toả của các KCN đồng thời phát huy tốt hơn lợi ích mà các KCN này tạo ra. Cũng như các công trình hạ tầng ngoài hàng rào KCN khác, việc phát triển cơ sở hạ tầng xã hội thường do Nhà nước thực hiện.
2.4/ Xúc tiến, vận động đầu tư
Việc xúc tiến, vận động đầu tư có ý nghĩa hết sức quan trọng. Công tác vận động xúc tiến đầu tư được thực hiện nhằm giới thiệu cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước để cho họ có thể hiểu và nắm rõ môi trường đầu tư, các chính sách ưu đãi mà Nhà nước ban hành, các thủ tục đầu vào mà các nhà đầu tư cần thực hiện khi tiến hành đầu tư vào nước ta… Việc vận động xúc tiến đầu tư thể hiện sự thiện chí của nước sở tại, mong muốn tìm kiếm đối tác đầu tư. Điều này khiến cho các nhà đâu tư có cảm giác an tâm, đồng thời giảm bớt thời gian đi lại của các nhà đầu tư để tiến hành tìm hiểu điều kiện đầu tư của nước sở tại.
Trong việc vận động xúc tiến đầu tư, để đạt được hiệu quả cao, cần phải có chiến lược xúc tiến đầu tư ngay từ đầu, trong đó đề ra các bước đi cụ thể, việc lựa chọn các đối tác đầu tư cũng cần phải được chú trọng nhằm đem lại lợi ích kinh tế lâu dài cho đất nước. Đặc biệt, cần chú trọng đối với việc vận động xúc tiến đầu tư với các đối tác nước ngoài. Do sự xa cách về địa lí, nhu cầu tìm hiểu thông tin của các đối tác này là rất cần thiết. Vận động, xúc tiến đầu tư đối với các chủ đầu tư nước ngoài cần phải có sự vận động trọng tâm, chú ý đến các đối tác ở các nước phát triển, có trình độ khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại để góp phần nâng cao lợi ích mà KCN đem lại cho tiến trình CNH-HĐH đất nước.
2.5/ Thực hiện các cơ chế, chính sách quản lí thích hợp
Để cho các KCN được hoạt động một cách thuận lợi và đạt được hiệu quả cao nhất, Nhà nước cần phải thực hiện các cơ chế và chính sách như: thực hiện các thủ tục hành chính, cơ chế quản lí đất đai.... Các nhà đầu tư mong muốn được hoạt động trong môi trường kinh doanh mà ở đó việc giải quyết các thủ tục hành chính được giải quyết một cách nhanh chóng, đơn giản, thuận lợi. Điều này sẽ giúp cho các nhà đầu tư tiết kiệm được thời gian cũng như tiền bạc trong hoạt động đầu tư của mình. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, yếu tố thời gian là rất quan trọng. Với những thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp, việc thực hiện các thủ tục hành chính của các cán bộ quan lieu, gây phiền nhiễu cho các nhà đầu tư sẽ khiến cho các nhà đầu tư nản lòng vì họ mất đi cơ hội trong kinh doanh. Ngoài ra, đối với các doanh nghiệp hoạt động trong các KCN, yêu cầu cần phải có một cơ chế quản lí đặc biệt, khác với cơ chế quản lí thông thường, có thể thành lập một bộ máy quản lí riêng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp KCN, đây là một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư vào các KCN. Bộ máy quản lí KCN này cần đơn giản, gọn nhẹ nhưng vẫn có thể đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của các nhà đầu tư một cách nhanh chóng và kịp thời đồng thời có thể giám sát hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN một cách có hiệu quả.
Trong việc thực hiện vai trò này, Nhà nước cần phải xác định được một mô hình quản lí thích hợp, trong đó sự phân công và phối hợp giữa các bộ phận có liên quan diễn ra một cách thuận lợi, tránh sự chồng chéo giữa các bộ phận, phân cấp rõ công việc giữa các bộ phận… Ngoài ra, yếu tố năng lực của các cán bộ cũng hết sức quan trọng. Hiện nay, ở Việt Nam có một thực trạng đó là sự không rõ ràng, thiếu rành mạch về từ ngữ và nội dung trong các văn bản pháp lí khiến cho có thể có nhiều cách hiểu khác nhau. Các cán bộ làm thủ tục hành chính có thể làm lãng phí tiền bạc và thời gian của các nhà đầu tư bằng cách buộc họ phải chờ các văn bản hướng dẫn thi hành. Nếu có sự sáng tạo và nhanh nhạy, các cán bộ có thể giải quyết nhanh các thủ tục mà không trái với các quy định hiện hành tránh mất thời gian cho các nhà đầu tư.
Các cơ chế quản lí được đưa ra cũng cần phải đảm bảo được tính hiệu quả của nó. Áp dụng các cơ chế này phải đảm bảo sự công bằng đồng thời đạt được những mục tiêu đề ra.
2.6/ Kiểm tra, giám sát hoạt động của các KCN
Công tác kiểm tra giám sát hoạt động của các doanh nghiệp cần phải được thực hiện nhằm phát hiện các vấn đề ách tắc nảy sinh trong quá trình phát triển của các doanh nghiệp, kiểm soát và xử lí các vi phạm của doanh nghiệp trong việc thực hiện các quy định pháp luật của Nhà nước về nghĩa vụ nộp thuế, bảo vệ môi trường, kiểm tra hoạt động phát triển KCN ở các địa phương…
Công tác kiểm tra giám sát phải đảm bảo yêu cầu tránh gây phiền nhiễu cho các doanh nghiệp KCN đồng thời cần phải nhanh chóng phát hiện các vấn đề nảy sinh nhằm có những biện pháp khắc phục hợp lí.
III/ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
Phát triển KCN hiện đang được nhiều nước trên thế giới áp dụng do thấy được những mặt tích cực mô hình này. Tuy nhiên, kết quả mà các nước thu được không hoàn toàn giống nhau. Ở một số nước, việc phát triển KCN đã đem lại những kết quả thành công rực rỡ, một số nước khác lại gặp khó khăn thậm chí thất bại trong việc phát triển KCN. Qua việc tìm hiểu, nghiên cứu thành công và thất bại của các nước, có thể thu được những bài học quý báu để phát triển các KCN ở Việt Nam.
3.1/ Kinh nghiệm của Đài Loan
Đài Loan là một trong những nước đi tiên phong và có thành công đáng kể trong việc phát triển các KCN. Đài Loan là một trong những nước đầu tiên trên thế giới sáng lập ra Khu gia công chế biến hàng xuất khẩu, gọi tắt là KCX. Kể từ khi KCX đầu tiên ra đời ở thành phố Cao Hùng vào ngày 3/12/1966 đến nay ở Đài Loan đã có 95 KCN với tổng diện tích hơn 13000 ha đã được hoàn thành và 19 KCN với tổng diện tích hơn 19000 ha đang trong quá trình xây dựng. Các KCX ở Đài Loan đã góp phần quan trọng trong việc tạo ra kì tích kinh tế trên hòn đảo này. Đó là việc thu hút vốn đầu tư cho phát triển kinh tế, nhất là các ngành công nghiệp xuất khẩu hàng tiêu dùng ra thị trường thế giới, làm thay đổi cán cân ngoại thương theo hướng xuất siêu, thu hút công nghệ tiên tiến, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Với 95 KCN đã được hoàn thành, đến nay đã thu hút khoảng hơn 9000 nhà máy vào hoạt động với trên 30 vạn lao động trực tiếp vào làm việc cho các nhà máy, điều này tạo động lực rất lớn cho việc phát triển kinh tế ở Đài Loan. Khi nhắc đến thành công của Đài Loan trong việc phát triển các KCN phải kể đến thành công của các KCX Cao Hùng (3/12/1966), KCX Nam Tử (1/1969), KCX Đài Chung (8/1969). Chỉ riêng 3 KCN này, sau 27 năm hoạt động đã tạo ra khoảng 20 tỷ USD lợi nhuận và tạo việc làm cho trên 100.000 lao động trực tiếp.
Thành công của Đài Loan trong việc phát triển các KCN có công rất lớn của Chính phủ:
- Đối với công tác quy hoạch: Chính phủ Đài Loan rất coi trọng công tác quy hoạch phát triển KCN, việc phát triển các KCN được chính phủ căn cứ vào điều kiện, tình hình kinh tế xã hội ở các địa phương, căn cứ vào các nguồn lực ở các địa phương để có hướng phát triển các KCN một cách hợp lí. Một trong những cách làm rất hay của Đài Loan đó là Chính phủ cho xây dựng ở những vùng đất cằn cỗi hoặc lấn biển với một hệ thống cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh, điều này giúp hạn chế sử dụng đất nông nghiệp vào việc xây dựng KCN, hạn chế việc thu hồi đất của nông dân.
- Sự thành công của các KCN Đài Loan trong việc thu hút đầu tư vào KCN còn do chính phủ Đài Loan ban hành nhiều chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp hoạt động trong KCN. Một số biện pháp cụ thể mà Đài Loan đã áp dụng như: cho các nhà đầu tư trong nước vay vốn dài hạn với lãi suất ưu đãi khoảng 6,2%/năm; miễn giảm thuế đối với những ngành nghề được chính phủ khuyến khích phát triển; miễn thuế lợi tức 5 năm cho tất cả các doanh nghiệp đầu tư mới; đối với các công ty mới lập nghiệp được miễn thuế lợi tức cho 80% sản lượng trong một năm (sau khi đã hết thời hạn miễn thuế 5 năm); trong 5 năm kể từ khi có lãi các doanh nghiệp xuất khẩu trên 50% sản phẩm đầu ra và trong sản phẩm sản xuất sử dụng trên 50% nguyên liệu của Đài Loan sẽ được miễn hoặc giảm thuế lợi tức. Ngoài ra để thu hút di chuyển các doanh nghiệp bên ngoài vào KCN, chính phủ Đài Loan dành ra một khoản vay ưu đãi đối với các hoạt động này đồng thời khi các doanh nghiệp này đi vào hoạt động được giảm 20% thuế lợi tức phải nộp trong một số năm.
- Đối với việc phát triển cơ sở hạ tầng KCN, ngoài việc bỏ vốn để xây dựng hạ tầng ở những khu vực có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, Chính phủ Đài Loan còn huy động sự đóng góp của các thành phần kinh tế khác trong ở những nơi có điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi. Trong số 95 KCN đã đi vào hoạt động, có 58 khu do chính quyền trực tiếp đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, còn lại do các tư nhân và các tổ chức đoàn thể đầu tư xây dựng.
Đối với các cơ sở hạ tầng bên ngoài KCN, Đài Loan cũng có nhiều biện pháp để tăng cường vai trò của khu vực kinh tế tư nhân. Các công trình thuộc thành phần kinh tế công cộng và hợp doanh như đường quốc lộ, truyền thông, dịch vụ bưu chính… đã được tư nhân hoá nhằm hạ thấp cước phí của các dịch vụ có liên quan, tăng sức cạnh tranh của môi trường đầu tư.
- Ngoài ra, cơ quan phát triển công nghiệp Đài Loan được thiết lập để xúc tiến đầu tư nước ngoài vào KCN và đóng vai trò là Trung tâm hợp tác đầu tư trong nước. Chính phủ Đài Loan và các lãnh đạo của các KCN cũng thường xuyên có các đợt công tác ra nước ngoài để vận động các đối tác đầu tư nước ngoài cùng với nhiều biện pháp khác như gửi thư trực tiếp, sử dụng công nghệ thông tin trong tiếp thị…
- Khi thực hiện đầu tư vào các KCN, cơ quan quản lí KCN ở Đài Loan thực hiện việc quản lí KCN theo cơ chế “một cửa” từ việc xét duyệt đầu tư, cho thuê mặt bằng đến việc cung cấp các dịch vụ.
- Việc kiểm tra, thanh tra cũng được thực hiện nhằm giám việc xây dựng các KCN đồng thời quan tâm đến việc phát triển bền vững của KCN qua việc kiểm tra ảnh hưởng của KCN đối với môi trường và giám sát phúc lợi công cộng mà các doanh nghiệp này tạo ra.
3.2/Kinh nghiệm của Thái Lan
Kể từ khi KCN đầu tiên của Thái Lan ra đời vào năm 1969 (KCN Bangchan với diện tích là 108 ha trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê là 81,6ha). Đến nay Thái Lan đã có khoảng 55 KCN với tổng diện tích đất của các KCN là 12.905 ha. Có trên 3.000 doanh nghiệp đang thuê hoặc mua đất trong các KCN của Thái Lan với tổng vốn đầu tư là trên 37 tỉ USD và tổng số lao động trên 420.000 người.
- Khác với Đài Loan, các KCN của Thái Lan không nằm tách biệt mà là một bộ phận nằm trong Industrial Estate. Mỗi Industrial Estate thường gồm hai khu: KCN tổng hợp, gồm xí nghiệp sản xuất hàng tiêu thụ trong nước và/hoặc làm hàng xuất khẩu và KCN chỉ sản xuất hàng xuất khẩu-KCX.
Một điểm khác biệt nữa của các KCN Thái Lan đó là nó chịu sự quản lí của một doanh nghiệp Nhà nước thuộc Bộ công nghiệp đó là Cơ quan quản lí KCN Thái Lan (I-E-A-T hay Industrial Estate Authority of Thailand). Trong tổng số 55 KCN kể trên thì I-EA-T là chủ đầu tư và quản lí trực tiếp 12 KCN, còn lại là I-E-A-T góp vốn liên doanh và các khu do các chủ đầu tư thuộc khu vực tư nhân. Có thể kể đến một số KCN đặc trưng của Thái Lan là: KCN Bangchan, KCN Hitech (KCN đầu tiên đạt chứng chỉ ISO 14.000), KCN Latkrabang, KCN Gemopolis (chuyên về chế tác đồ trang sức, KCN Amata Nakorn (chủ đầu tư KCN này cũng là chủ đầu tư KCN Amata tỉnh Đồng Nai).
- Các KCN ở Thái Lan được phân bố theo 3 vùng rõ rệt. Vùng I bao gồm Băng Cốc và 5 tỉnh lân cận, có 11 KCN được thành lập; Vùng II bao gồm 12 tỉnh tiếp theo, có 19 KCN được thành lập; Vùng III bao gồm 58 tỉnh còn lại, có 25 KCN được thành lập. Trong quá trình thực hiện quy hoạch phát triển KCN, chính phủ Thái Lan đã dựa vào sự phân biệt giữa các vùng này để lập phương án quy hoạch. Nhiều ngành công nghiệp không được phép đầu tư vào vùng I mà chỉ được phép đầu tư vào vùng II hoặc vùng III. Chẳng hạn như ngành sản xuất sản phẩm cao su, sứ, chế tạo dụng cụ …phải đặt ở vùng II hoặc vùng III; ngành sản xuất thức ăn gia súc, đường ăn, sản phẩm may mặc… chỉ được đặt ở vùng III. Có thể thấy, đối với những ngành cần nhiều lao động giản đơn, dễ gây ô nhiễm và sử dụng nhiều nguyên liệu lao động được không được quy hoạch trong vùng I là các thành phố phát triển. Đây có thể xem là một bài học đối với Việt Nam trong việc quy hoạch phát triển KCN.
- Trong quá trình phát triển các KCN ở Thái Lan, một trong những bài học kinh nghiệm mà chúng ta cần học tập trong việc thu hút đầu tư đó là chính sách thu hút đầu tư của Thái Lan. Tại Thái Lan chính sách ưu đãi đầu tư có sự phân biệt rõ rệt đầu tư bên trong và bên ngoài KCN. So với việc đầu tư vào bên trong KCN thì các nhà đầu tư bên ngoài KCN sẽ nhận được ít ưu đãi hơn và gặp nhiều thủ tục hơn trong quá trình đầu tư như: đăng kí thành lập doanh nghiệp, xin giấy phép sử dụng đất, giấy phép xây dựng, giấy phép khai thác tài nguyên (đối với doanh nghiệp khai thác tài nguyên)… và đặc biệt không được quyền sở hữu đất đai (trừ những doanh nghiệp liên doanh với Thái Lan theo tỷ lệ 49-50%). Trong khi đó các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào trong KCN chỉ cần duy nhất một giấy phép và nhận được rất nhiều ưu đãi như: được mua đất đai vĩnh viễn, không giới hạn thời gian thuê đất trong các KCN, được phép mang chuyên gia kĩ thuật từ nước ngoài sang làm việc, cho phép các chuyên gia này cùng gia đình họ được sống tại Thái Lan và được mang ngoại tệ ra khỏi Thái Lan (Chính phủ Thái Lan quản lý rất chặt việc mang ngoại tệ ra nước ngoài, chỉ cho phép các nhà đầu tư có trú quán ngoài lãnh thổ mới được phép đem theo tiền hoặc chuyển tiền ra khỏi lãnh thổ bằng ngoại tệ nếu tiền đó là tiền vốn mà nhà đầu tư đưa vào trong KCN và là tiền chia cổ phần hoặc sinh lợi từ tiền vốn trên).
Ngoài ra các doanh nghiệp trong KCN còn được hưởng các ưu đãi như: miễn thuế nhập khẩu và thuế VAT đối với máy móc, thiết bị và nguyên vật liệu nhập khẩu cho xây dựng nhà máy, đối với nguyên liệu khô; miễn thuế xuất khẩu và thuế VAT đối với hàng hoá dùng để xuất khẩu; miễn thuế hoặc hoàn thuế VAT đối với việc dùng sản phẩm trong nước để sản xuất. Các ưu đãi về tài chính cũng được phân biệt theo các vùng. Vùng III là vùng được ưu đãi nhiều nhất.
- Văn phòng dịch vụ “một cửa, tại chỗ” của I-EA-T được đặt ngay tại KCN và là đầu mối trong việc cấp phép cho doanh nghiệp hoạt động. Ngoài ra văn phòng “một cửa, tại chỗ” còn làm đầu mối hỗ trợ các chủ đầu tư trong việc xin Visa, chuyển ngoại tệ, tư vấn đầu tư, tư vấn tài chính và làm trung tâm thông tin về cấp giấy phép, ưu đãi đầu tư và dịch vụ tư vấn trực tuyến trên mạng, thậm chí có cả Ngân hàng ngay trong văn phòng KCN để cho chủ đầu tư thực hiện các giao dịch thuận tiện hơn.
Cơ chế “một cửa, tại chỗ” của Thái Lan cũng tương tự như ở Việt Nam tuy nhiên thời gian cấp giấy phép cho một doanh nghiệp trong KCN Thái Lan hoạt động có phần rút ngắn hơn nhờ chính sách nhất quán của Thái Lan và chủ đầu tư chỉ cần thông qua một đầu mối duy nhất là trung tâm dịch vụ “một cửa, tại chỗ” để nhận giấy phép.
3.3/ Kinh nghiệm không thành công: Chương trình KCN và KCX của Ấn Độ
Một trong những trường hợp không thành công của Ấn Độ là KCN KANDIA FREE. Khu công nghiệp này được thành lập từ năm 1966 nhưng mãi đến năm 1972 chỉ mới thu hút được 17 xí nghiệp đầu tư vào hoạt động, từ năm 1972-1975 tăng thêm 10 xí nghiệp trong khi đó có 8 xí nghiệp phải đóng cửa,tổng đầu tư chỉ được 9,11 triệu USD.
Nguyên nhân không thành công là do:
- Quy hoạch phát triển KCN không được coi trọng, sai lầm trong việc lựa chọn địa điểm.
- Thủ tục thông qua hết sức quan liêu, phải hơn 1 năm mới được thông qua; thủ tục hải quan nặng nề; trình tự cho phép đầu tư cồng kềnh; yêu cầu về báo cáo và điều hành quá mức.
- Các chính sách đầu tư kém hấp dẫn, không cung cấp gì ngoài cơ sở hạ tầng.
- Thiếu sự hợp tác giữa Trung ương và tư nhân trong hoạt động xúc tiến đầu tư; công tác Maketting yếu kém.Trong suốt thời gian phát triển KCN, TW không chú ý đến việc tuyên truyền vận động đầu tư ở nước ngoài mà chỉ trông chờ vào những quan hệ hết sức hạn chế của Ban quản lí KCN. Việc tăng cường quan hệ quốc tế chưa được mở rộng theo hình thức “đa phương hoá, đa dạng hoá” mà rất cứng nhắc trong một số nước phát triển
- Tổ chức bộ máy không phù hợp, có quá nhiều cơ quan liên quan đến việc quản lí KCN.
3.4/ Bài học rút ra cho Việt Nam
Từ thực tiễn phát triển KCN của các nước trên thế giới, qua những thành công và thất bại của một số nước có thể rút ra được những bài học cho Việt Nam:
- Thứ nhất: công tác quy hoạch phát triển các KCN cần phải được coi trọng. Việc quy hoạch phải dựa trên tình hình thực tế kinh tế, xã hội ở các địa phương. Quy hoạch các ngành nghề cần phải hợp lí, đối với các địa phương ở những khu vực xa các đô thị lớn, gần các nguồn nguyên liệu nông nghiệp nên quy hoạch các ngành nghề cần nhiều lao động và sử dụng nhiều nguyên liệu này. Bố trí các ngành gây ô nhiễm môi trường xã các trung tâm thành phố lớn. Việc thực hiện quy hoạch phải được chấp hành nghiêm túc và có sự kiểm tra định kì (Đài Loan tiến hành đánh giá theo định kì 3 năm một lần hoạt động của các KCN).
- Thứ hai: các chính sách ưu đãi, khuyến khích các nhà đầu tư đặc biệt là các về tài chính cần có sự phân biệt đối với đầu tư sản xuất kinh doanh trong và ngoài KCN theo hướng tăng cường ưu đãi đối với các doanh nghiệp sản xuất trong KCN. Các chính sách ưu đãi cũng có thể có sự phân biệt giữa các vùng, những vùng có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn có thể đưa ra các biện pháp ưu đãi nhiều hơn so với các vùng kinh tế-xã hội phát triển.
- Thứ ba: Nhà nước cần phải đảm bảo tốt việc xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, bên cạnh đó vận động, kêu gọi các nhà đầu tư trong nước xây dựng cơ sở hạ tầng. Nguồn vốn trong nước được đánh giá đóng vai trò quyết định trong việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.
- Thứ tư: cần phải có một cơ quan xúc tiến đầu tư ở cấp TW, có thể thành lập các văn phòng đại diện ở các nước cần xúc tiến đầu tư. Chính phủ phải đóng vai trò tích cực xúc tiến đầu tư vào KCN, có mối quan hệ tốt với các quốc gia, gia nhập các diễn đàn, các tổ chức kinh tế trong khu vực để tăng cường quan hệ kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới.
- Thứ năm: các dịch vụ hỗ trợ cần phải đảm bảo tính kịp thời, thủ tục hành chính đơn giản, gọn nhẹ. Các thủ tục hành chính có thể được giải quyết ngay tại cửa các KCN để giảm bớt thời gian và chi phí đi lại cho các doanh nghiệp KCN.
- Thứ sáu: công tác kiểm tra cần phải được thực hiện một cách thường xuyên nhất là đối với việc thực hiện vai trò của các cơ quan quản lí Nhà nước tránh tình trạng quan liêu của các cán bộ.
KẾT LUẬN CHƯƠNG I
Trong Chương I đã đề cập đến các khái niệm về KCN ở Việt Nam và các nước trên thế giới, các đặc trưng của KCN và tác động của KCN đến quá trình CNH-HĐH của đất nước. Tìm hiểu, phân tích và đúc kết những kinh nghiệm của một số nước trên thế giới đối với việc phát triển các KCN và vai trò của Nhà nước trong việc lại những thành công hay những sai lầm mà Nhà nước mắc phải qua đó rút ra được những bài học quý báu đối với Việt Nam.
Tuy nhiên, phát triển KCN vẫn là một mô hình mới được áp dụng ở nước ta cho nên có thể Việt Nam sẽ không tránh khỏi những hạn chế và những vướng mắc trong quá trình hoạt động. Vậy trong thời gian qua, phát triển mô hình KCN đã đem lại những thành quả gì cho đất nước, những vướng mắc mà các KCN gặp phải ra sao và Nhà nước có những vai trò gì trong việc đem lại những thành quả đó, đồng thời những công việc gì chưa được thực hiện tốt điều này sẽ được phân tích ở Chương II.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KCN VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN CÁC KCN Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
I/ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KCN Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN VỪA QUA
1/ Khái quát chung tình hình phát triển KCN
1.1/ Số lượng KCN được thành lập
Bắt đầu vào năm 1991 đánh dấu sự ra đời KCN đầu tiên ở nước ta với sự ra đời của KCX Tân Thuận tại T.p Hồ Chí Minh , đến hết năm 2005 cả nước có 130 KCN được phân bố trên 45 tỉnh, thành trong cả nước. Trong đó có 75 khu đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên là 16.381 ha và 55 khu) đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng kết cấu hạ tầng KCN.
Theo dõi quá trình hình thành phát triển các KCN ở Việt Nam, nhận thấy trong 5 năm đầu, số lượng các KCN được thành không đáng kể, chỉ có 12 KCN được thành lập trong giai đoạn này. Đến giai đoạn từ năm 1995-1998 là khoảng thời gian “bùng nổ” các KCN ở Việt Nam. Nguyên nhân là trong giai đoạn này đã kết thúc việc thí điểm thành lập các KCN, một số chính sách ưu đãi được áp dụng để khuyến khích đầu tư vào KCN . Năm 1996 có 13 KCN được thành lập mới, tăng gần gấp 3 lần so với năm 1995 và hơn cả số KCN được thành lập trong cả giai đoạn 1991-1995. Đặc biệt là năm 1997, Quy chế quản lí KCN, KCX và KCNC ban hành kèm theo Nghị Định 36/CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ ra đời đã hướng dẫn cho việc thành lập và hoạt động của các KCN, do đó số KCN được thành lập tăng lên rất nhanh (năm 1997 thành lập được 21 KCN). Sau đó do sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam bị sụt giảm, số KCN được thành lập không đáng kể. Đến năm 2002 Việt Nam đã lấy lại được tốc tăng trưởng cao và từ năm 2002 số lượng các KCN được thành lập đã lấy lại được nhịp độ tăng trưởng của nó.
Bảng 1: Số lượng các KCN được thành lập qua các năm 1991-2005
Năm
Tổng số KCN được thành lập
Số KCN tăng thêm
Diện tích KCN được thành lập mới
1991
1
1
300
1992
2
1
60
1993
2
0
0
1994
7
5
678
1995
12
5
1.201
1996
25
13
2.562
1997
46
21
3.589
1998
61
15
3.038
1999
64
3
162
2000
65
1
335
2001
68
3
390
2002
78
10
2.619
2003
99
21
3.562
2004
114
15
4334
2005
130
16
3387
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Riêng năm 2005, đã có 20 KCN được Thủ tướng chính phủ cho phép thành lập mới và mở rộng với tổng diện tích đất tự nhiên là 3.387 ha trong đó có 16 KCN được thành lập mới với tổng diện tích 3.001 ha đó là: KCN Đại Đồng-Hoàn Sơn, KCN Mỹ Phước II, KCN Rạch Bắp và Nam Tân Uyên (Bình Dương), KCN Nhơn Trạch 6 (Đồng Nai), Vĩnh Lộc II (Long An), KCN Tân Trường (Hải Dương), KCN Hòn La và KCN Tây Bắc Đồng Hới (Quảng Bình), KCN Giao Long (Bến Tre), KCN Sao Mai (Kon Tum), KCN Trung Hà (Phú Thọ), KCN Ninh Phúc (Ninh Bình), KCN An Nghiệp (Sóc Trăng), KCN Long Đức (Trà Vinh), KCN Nguyễn Đức Cảnh (Thái Bình); 4 KCN được mở rộng diện tích với diện tích đất tự nhiên là 398 ha. Như vậy có thể thấy năm 2005 là một trong những năm có số KCN được thành lập nhiều nhất, cho thấy xu hướng thành lập các KCN có dấu hiệu bùng nổ trở lại, đây là những tín hiệu đáng mừng thể hiện nền kinh tế đang trong giai đoạn tăng trưởng, những tác động của Nhà nước đối với việc phát triển các KCN đã đem lại những hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, nó cũng đặt ra những thách thức mới cho Nhà nước, yêu cầu cần phải có quản lí tốt hơn nhằm phát huy hiệu quả hoạt động của các KCN đã được thành lập đồng thời giảm bớt những hạn chế và tiêu cực trong hoạt động phát triển của các KCN.
1.2/ Phân bố KCN ở các vùng, miền
Sự phát triển KCN ở các vùng miền trên lãnh thổ Việt Nam có sự phân bố không đồng đều. Các KCN tập trung chủ yếu tại 3 vùng: Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (62 KCN); Vùng Bắc Trung Bộ, Duyên hải Trung Bộ và vùng KTTĐ miền Trung (27 KCN); Đồng bằng sông Hồng và vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc (23 KCN).
Sự phân bố KCN nếu xét theo các miền Nam tập trung nhiều KCN với 73 KCN, sau đó là miền Trung với 30 KCN, miền Bắc là 27 KCN. Trên cả nước đã có 45 tỉnh có KCN
Bảng 2: Số KCN được thành lập tại các vùng, miền
Miền
Vùng
Số KCN
Miền Bắc
Đồng Bằng sông Hồng và vùng KTTĐ Bắc Bộ
23
Trung du và miền núi Bắc Bộ
4
Miền Trung và Tây Nguyên
Bắc Trung Bộ, Duyên hải Trung Bộ và vùng KTTĐ miền Trung
27
Tây Nguyên
3
Miền Nam
Đông Nam Bộ và KTTĐ phía Nam
62
Đồng bằng SCL
11
Cả nước
130
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Miền Nam: có 73 KCN tập trung chủ yếu ở các tỉnh
- Đồng Nai: 17 khu với diện tích đất tự nhiên là 4264 ha
- Bình Dương: 15 KCN với diện tích là 3051 ha
- Bà Rịa-Vũng Tàu: 7 KCN với diện tích là 3347 ha
Miền Trung và Tây Nguyên: có 30 KCN tập trung chủ yếu ở các tỉnh
- Đà Nẵng: có 4 KCN với diện tích là 1133 ha
- Quảng Ngãi, Quảng Bình: mỗi tỉnh có 2 KCN
Miền Bắc: có 27 KCN tập trung chủ yếu ở các tỉnh
- Hà Nội: có 6 KCN với diện tích là 974 ha
- Hải Dương: 4 KCN với diện tích là 522 ha
- Hải Phòng: 3 KCN với diện tích là 467 ha
- Bắc Ninh, Hưng Yên: mỗi tỉnh có 2 KCN.
Sự phân bố không đều các KCN ở các vùng miền trên cả nước như thể hiện trong bảng số liệu (Bảng 2) có thể nói là một hiện tượng khách quan, bởi những vùng kinh tế trọng điểm là những nơi có điều kiện thuận lợi để phát triển các KCN.
1.3/ Quy mô, diện tích các KCN
Tính đến hết năm 2005, nước ta đã có 130 KCN với tổng diện tích đất tự nhiên là 26.157 ha và diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê là 18.085 ha (không kể KCN Dung Quất đã được chuyển đổi thành Khu kinh tế Dung Quất với diện tích 10.300 ha). Như vậy diện tích đất bình quân của mỗi KCN là 201ha/KCN, diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê bình quân là 139ha/KCN.
Khu công nghiệp có diện tích tự nhiên lớn nhất cả nước là KCN Phú Mĩ I với diện tích là 954 ha nằm trên địa bàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, ngoài ra tỉnh này còn một khu công nghiệp lớn thứ 2 so với cả nước đó là KCN Cái Mép với diện tích là 670 ha. Năm 2004, trước thành công của KCN Phú Mĩ I, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu đã xin phép Chính phủ thành lập thêm KCN Phú Mĩ II với diện tích 572 ha. Như vậy trong số các KCN có diện tích lớn nhất cả nước thì Bà Rịa-Vũng Tàu đã có 3 khu. Ngoài ra một điều đặc biệt nữa mà ta có thể thấy đó là hầu hết các KCN lớn đều nằm ở Miền Nam. KCN có diện tích nhỏ nhất là KCN Bình Đường ở tỉnh Bình Dương có diện tích là 17 ha. Điều này cho thấy các KCN ở miền Nam rất phát triển cả về số lượng, quy mô đồng thời có sự đa dạng trong việc phát triển các KCN ở vùng này.
Bảng 3: Các KCN lớn nhất cả nước
STT
Tên KCN
Diện tích đất tự nhiên(ha)
Tỉnh
1
KCN Phú Mĩ I
954
Bà Rịa-Vũng Tàu
2
KCN Cái Mép
670
Bà Rịa-Vũng Tàu
3
KCN Phú Mĩ II
572
Bà Rịa-Vũng Tàu
4
KCN Hoà Khánh
572
Đà Nẵng
5
KCN Tân Phú Trung
543
TP.HCM
6
KCN Nhơn Trạch II
533
Đồng Nai
7
KCN Long Thành
510
Đồng Nai
8
KCN Việt-Sing
500
Bình Dương
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
1.4/ Tỷ lệ lấp đầy KCN
Tỷ lệ lấp đầy KCN là một chỉ tiêu rất quan trọng đánh giá hiệu quả kinh doanh của các nhà đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Đây cũng là chỉ tiêu đánh giá kết quả của hoạt động xúc tiến đầu tư vào KCN. Từ số liệu của Bộ kế hoạch và đầu tư, qua sự phân tích, ta có thể thấy tình hình lấp đầy KCN chung của cả nước tính đến hết năm 2005 được thể hiện qua (Bảng 4)
Theo đánh giá của các chuyên gia, một KCN được xem là hoạt động có hiệu quả nếu tỷ lệ lấp đầy KCN đạt trên 80%. Qua bảng số liệu (Bảng 4) ta thấy, các KCN được xem là hoạt động có hiệu quả chỉ chiếm 33,8%. Điều này cho thấy số KCN hoạt động thực sự có hiệu quả (chỉ xét ở chỉ tiêu tỷ lệ lấp đầy KCN) của cả nước còn ít. Trong số các KCN hoạt động có hiệu quả, phải kể đến sự thành công của các KCN như: KCN Biên Hoà II, KCN Hố Nai, KCN Tam Phước, KCN Nhơn Trạch II, KCN Tân Bình, KCN Tân Thới Hiệp, KCN Vĩnh Lộc, KCN Cát Lái II, KCN Sài Đồng B, KCN Thăng Long, KCN Quang Minh, KCN Đồng Văn, KCN Trà Nóc I đã lấp đầy hoàn toàn. Thậm chí, có một số KCN đã cho thuê vượt cả khả năng hiện tại như: KCN Việt Hương (103,7%), KCN Tân Đông Hiệp A (116%), KCN Thuận Đạo-Bến Lức (115,8%), KCN Linh Trung 1 (100,6%), KCN Bình Chiểu (126,7%), KCN Nguyễn Đức Cảnh (117,5%)…
Bảng 4: Tình hình lấp đầy KCN tính đến hết tháng 12/2005
STT
Tiêu thức
Số KCN
Tỷ lệ (%)
1
Đã lấp đầy > 80%
44
33,8
2
Lấp đầy từ 50 – 80%
34
26,2
3
Lấp đầy từ 30 – 50%
12
9,2
4
Lấp đầy từ 10 – 30%
12
9,2
5
Lấp đầy < 10%
4
3,1
6
Chưa cho thuê
24
18,5
Tổng
130
100
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Trong tình hình số KCN trên cả nước hoạt động có hiệu quả chưa thực sự nhiều như vậy, số KCN chưa cho thuê chiếm đến 18,5% (24 khu) và số KCN có tỷ lệ lấp đầy dưới 50% là 40 khu (chiếm 30,8%). Như vậy số KCN hoạt động hiệu quả và số KCN hoạt động chưa hiệu quả là tương đương nhau. Có thể lí giải điều này là do một số KCN được quyết định thành lập trong thời gian gần đây đang trong giai đoạn xây dựng cơ bản nên tỷ lệ lấp đầy chưa cao. Tuy nhiên, điều này không thể giải thích được nguyên nhân tại sao có những KCN được thành lập từ rất lâu nhưng lại “trì trệ” trong việc lấp đầy, có thể kể đến đó là KCN Đài Tư (Hà Nội) được thành lập năm 1995, sau 10 năm hoạt động tỷ lệ lấp đầy chỉ đạt 10%. Ngược lại, có những KCN chỉ vừa mới được quyết định thành lập nhưng lại đã lấp đầy hoàn toàn (KCN Nguyễn Đức Cảnh-Thái Bình thành lập năm 2005 đã lấp đầy 117,5%). Do đó, trách nhiệm của Nhà nước đóng vai trò nhất định đối với việc nâng cao tỷ lệ lấp đầy KCN.
Nếu xem xét sự phát triển của KCN theo một chuỗi thời gian. Theo số liệu thống kê gần đây thì hoạt động của các KCN trong việc lấp đầy diện tích đã có những diễn biến tích cực, những KCN hoạt động hiệu quả (lấp đầy >80%) đã tăng cả về số lượng lẫn tỷ trọng. Nếu năm 2003 số KCN hoạt động hiệu quả là 20 khu trên tổng số 99 KCN (chiếm 20,2%). Đến năm 2004 số KCN hoạt động hiệu quả là 25 khu chiếm tỷ lệ gần 22% (trong tổng số 114 KCN). Như vậy, năm 2005 đã chứng kiến sự biến đổi rất mạnh mẽ khi số KCN hoạt động có hiệu quả đã chiếm tỷ lệ 30,8%. Tuy nhiên, như đã nhận xét, số lượng cũn._.ng kí 214 ngàn tỷ đồng. Tổng số doanh nghiệp và tổng số vốn đầu tư đăng kí đã tăng lên đáng kể từ mức 14.457 doanh nghiệp và 13,9 ngàn tỷ đồng năm 2000 lên 36.804 doanh nghiệp và 77,8 ngàn tỷ đồng năm 2004. Việc triển khai và hoạt động có hiệu quả của các doanh nghiệp đã đăng kí trong thời gian qua là nguồn tiềm năng quan trọng trong thu hút đầu tư trong nước nói riêng và vào các KCN nói riêng trong thời gian tới.
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, tổng nguồn vốn của các doanh nghiệp tại thời điểm 31/12/2003 đạt 1.709 nghìn tỷ đồng, gấp 8,3 lần so với năm 1995 và gấp 1,54 lần so với năm 2000 (trong đó các doanh nghiệp Nhà nước chiếm 58,7%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 19,7%,còn lại là các doanh nghiệp FDI). Vốn bình quân một doanh nghiệp Nhà nước đạt 207 tỷ đồng, một doanh nghiệp ngoài quốc doanh đạt 5,2 tỷ đồng.
Đây là một nguồn vốn đầu tư trong nước khá lớn mà chúng ta cần phải khai thác. Hiện nay, các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu hoạt động bên ngoài các KCN, do đó yêu cầu đặt ra trong giai đoạn tới là cần phải thu hút nguồn vốn này vào trong các KCN để phát huy tốt hơn hiệu quả sử dụng các nguồn vốn này.
Nguồn kiều hối: theo thống kê của Ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2004 lượng kiều hối gửi về nước qua con đường chính thức (qua Ngân hàng và các công ty kiều hối) là 3,2 tỷ USD, tăng bình quân 22% trong thời kì 2001-2004. Tính từ năm 2000 đến nay, Việt Kiều đã gửi về nước tổng số trên 9,7 tỷ USD. Ngoài ra, lượng kiều hối còn được gửi về nước qua con đường phi chính thức với quy mô xấp xỉ lượng kiều hối qua con đường chính thức hàng năm.Với chính sách thông thoáng hơn của Việt Nam, dự báo đến năm 2010, lượng kiều hối gửi qua con đường chính thức sẽ đạt gần 5 tỷ USD.
1.2/ Những thách thức đặt ra
Mặc dù theo nhận định của các chuyên gia và các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao môi trường đầu tư ở nước ta. Trong thời gian qua Nhà nước ta đã có những cố gắng trong việc tạo ra một môi trường đầu tư đầy tiềm năng cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam nói chung và vào các KCN nói riêng. Tuy nhiên, vẫn còn những trở ngại khiến cho các nhà đầu tư còn e ngại: Việc Nam chưa hoàn toàn xây dựng được khung pháp lí vững chắc, chất lượng cơ sở hạ tầng còn khá khiêm tốn và phụ thuộc khá nhiều vào các thành phần kinh tế khác, thiếu lao động có trình độ, việc cung cấp các thông tin chưa thực sự tốt…
Trong tình hình các nước đang phát triển trên thế giới, nhất là các nước trong khu vực đang cũng có những cải cách nhằm tăng cường khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài khiến Việt Nam đối mặt với một môi trường cạnh tranh gay gắt về thu hút đầu tư. Nhất là đối với Trung Quốc, mô hình KCN được áp dụng ở các nước này được đánh giá rất cao, là một cản trở lớn đối với Việt Nam để thu hút vốn đầu tư từ các nước phát triển.
Hiện nay, phát triển KCN của Việt Nam đang gặp phải nhiều vấn đề cần phải khắc phục. Sự phát triển các KCN có dấu hiệu của sự không bền vững: ô nhiễm môi trường trong KCN và các khu vực ở xung quanh, một số địa phương nhu cầu thuê đất trong các KCN khá lớn nhưng diện tích đất ngày càng thu hẹp, trong khi một số địa phương khác hiệu quả hoạt động của các KCN không cao, tỷ lệ đất cho thuê thấp…
2/ Phương hướng và mục tiêu phát triển KCN giai đoạn 2006-2010
2.1/ Phương hướng phát triển KCN trong thời gian tới
Trên cơ sở thực trạng phát triển KCn trong giai đoạn vừa qua và căn cứ vào các chủ trương phát triển KCN của Đảng và Nhà nước đặt ra, trong thời gian tới phát triển KCN cần phải theo các hướng sau:
- Tiếp tục phát triển KCN với mục tiêu tổng quát là xây dựng KCN trở thành một lực lượng công nghiệp mạnh có hiệu quả và sức cạnh tranh cao nhằm nâng cao hơn nữa những tác động tích cực mà KCN đem lại cho nền kinh tế đất nước, nâng cao tay nghề của người lao động, tăng cường khả năng thu hút vốn nước ngoài, tiếp thu các thành tựu khoa học công nghệ ứng dụng trong các KCN, phát huy hơn nữa việc liên kết các kinh tế trong nước, phát triển KCN theo hướng hướng ngoại. Bên cạnh đó giảm thiểu những tác động tiêu cực mà KCN gây ra, thực hiện tốt việc bảo vệ môi trường trong và ngoài KCN.
- Phát triển các KCN đảm bảo hình thành hệ thống các KCN là một trong những giải pháp quan trọng phát triển công nghiệp quốc gia. Hình thành hệ thống các khu công nghiệp vừa và nhỏ tạo điều kiện phát triển khu vực nông thôn, làm thay đổi bộ mặt KT-XH nông thôn.
- Nâng cao tỷ lệ lấp đầy các KCN tập trung đã được thành lập và đang đầu tư xây dựng hạ tầng. Phấn đấu đến năm 2010 về cơ bản lấp đầy diện tích các KCN đã được thành lập; thành lập mới và mở rộng một cách có chọn lọc các KCN tập trung trên trên các vùng lãnh thổ, các địa phương trên cả nước.
- Hoàn thiện hơn nữa vai trò của Nhà nước trong việc phát triển các KCN trở thành nhân tố tích cực đối với sự thành công của các KCN trên cả nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của các KCN .
2.2/ Mục tiêu phát triển KCN
Trong “Báo cáo kế hoạch 5 năm 2006-2010 phát triển các KCN” của Vụ quản lí KCN, KCX có đưa ra các mục tiêu phát triển KCN trong giai đoạn tới như sau:
- Tiếp tục đầu tư đồng bộ, thành lập mới một cách có chọn lọc khoảng 25.000 ha đất KCN, phấn đấu đạt tỷ lệ lấp đầy bình quân trên toàn quốc khoảng trên 60%.
- Tiếp tục đổi mới thể chế, chính sách khuyến khích đầu tư vào các KCN, phấn đấu thu hút thêm khoảng 4.000 dự án (bao gồm cả dự án trong và ngoài nước) đăng ký đầu tư và triển khai thực hiện sản xuất kinh doanh trong các KCN; phấn đấu đẩy nhanh tốc độ giải ngân, thực hiện đầu tư khoảng 2 tỷ USD/năm (cả vốn đầu tư trong nước và vốn ĐTNN).
- Sau thời kỳ 2010, quản lý tốt và có quy hoạch sử dụng hợp lý dự trữ diện tích đất công nghiệp; hoàn thiện về cơ bản mạng lưới KCN trên toàn lãnh thổ; quản lý, chuyển đổi cơ cấu đầu tư phát triển các KCN đã được thành lập trước đây theo hướng đồng bộ hoá, hình thành những “công viên công nghiệp” nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả của các KCN.
- Xây dựng khu vực xử lý chất thải rắn công nghiệp tập trung quy mô lớn ở những khu vực bố trí tập trung các KCN như tại các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung … hoàn chỉnh các công trình kết cấu hạ tầng trong các KCN hiện đang hoạt động, đặc biệt là các công trình xử lý nước thải.
II/ Giải pháp tăng cường vai trò của Nhà nước trong việc phát triển các KCN giai đoạn 2006-2010
Trên cơ sở các quan điểm phát triển KCN đã thống nhất, dựa trên tình hính thực tế hiện tại và các dự đoán triển vọng, thách thức trong tương lai. Trong thời gian tới, để đạt được các mục tiêu đề ra cần phải nâng cao hơn nữa vai trò của Nhà nước đồng thời có những giải pháp để tăng cường vai trò của Nhà nước trong việc phát triển các KCN.
1/ Nâng cao chất lượng quy hoạch các KCN.
Nâng cao chất lượng quy hoạch cần phải thực hiện đồng thời cả công tác lập quy hoạch và nâng cao chất lượng thực hiện quy hoạch.
Công tác lập quy hoạch: trong việc thực hiện vai trò của Nhà nước đối với lập kế hoạch, yêu cầu đặt ra là quy hoạch cần phải mang tính định hướng, tức phải đi trước thực tiễn, tránh tình trạng “hình thức” trong việc quy hoạch. Để đảm bảo yêu cầu này, cần thiết phải có sự “thăm dò” thực tiễn, tức phải tìm hiểu tình hình kinh tế- xã hội của các địa phương trên cả nước, tình hình phát triển các KCN hiện tại, đánh giá thực trạng phát triển KCN một cách chi tiết, xem xét khả năng phát triển của các KCN trong tương lai đặc biệt xem xét khả năng phát triển của ngành công nghiệp ở địa phương, đồng thời dự báo các điều kiện cần thiết cho hoạt động phát triển của các KCN qua đó đưa ra những hướng phát triển KCN. Như vậy, đối với việc lập quy hoạch ở đây, yêu cầu cần phải có một hệ thống thông tin chính xác và một công cụ dự báo đủ mạnh để có thể đánh giá thực trạng và dự báo dược tình hình trong tương lai. Để nắm vững thông tin, cần thiết phải có sự phối hợp chặt chẽ của nhiều đơn vị, bộ, ngành, các cơ quan hữu quan. Sự trao đổi thông tin cần phải được thực hiện một cách trung thực, chính xác tránh tình trạng cất giấu thông tin. Việc dự báo cần phải xem xét tình hình phát triển của đất nước trong tương lai đồng thời phát hiện ra các xu thế phát triển trên thế giới. Đồng thời cũng cần tranh thủ những nhận xét, đánh giá của các chuyên gia nước ngoài trong việc quy hoạch, nhất là những chuyên gia ở những nước có mô hình phát triển KCN tương tự.
Việc xây dựng quy hoạch KCN cần phải tính đến đầy đủ các yếu tố liên quan đến tình hình phát triển kinh tế xã hội ở địa phương nơi xây dựng KCN đồng thời phải nằm trong tổng thể phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. Quy hoạch KCN không nên qua chú trọng về số lượng mà phải xem xét đến tính hiệu quả của nó: KCN có lấp đầy được nhiều hay không, sự liên kết của KCN với các đơn vị kinh tế trong khu vực, đồng thời cần phải xem xét ảnh hưởng của nó đến các vấn đề xã hội, giữa KCN với hạ tầng xã hội ngoài KCN…
Việc lập kế hoạch cần phải có một lộ trình để chỉnh sửa nhất định, không nên lập quy hoạch mang tính quá ngắn hạn cũng không nên quá dài do những điều kiện thay đổi của kinh tế xã hội ở địa phương và khu vực. Việc xác định lộ trình này cần phải có sự nghiên cứu một cách rõ ràng của các cơ quan chức năng. Theo ý kiến chủ quan của tác giả, có thể xác định lộ trình đó theo thời gian là 5 năm, là khoảng thời gian trùng với các kì của Đại hội Đảng để có sự nhận xét, đánh giá của các đại biểu sau mỗi kì Đại hội, qua đó rút ra được những bài học cho các giai đoạn sau.
Đối với vấn đề ô nhiễm môi trường, theo bài học của Thái Lan, có thể phân chia các các địa phương thành các vùng khác nhau. Đối với mỗi vùng có những ưu thế và đặc điểm riêng. Chẳng hạn, có thể phân thành các vùng I, vùng II, vùng III. Trong đó vùng I bao gồm các thành phố đô thị loại 1, chỉ được phép xây dựng những KCN ít gây ô nhiễm môi trường, có khả năng khai thác các thế mạnh của vùng: nguồn nhân lực có chất lượng, có các trung tâm nghiên cứu… thì nên thành lập những KCN tập trung để thu hút khoa học công nghệ, các KCNC. Đối với vùng II là những vùng có đô thị loại 2, thành lập các KCN phát triển những ngành kinh tế mũi nhọn, có thể tạm thời bỏ qua yếu tố môi trường. Vùng III là những địa phương còn lại, đưa những nhà máy gây ô nhiễm môi trường vào đây, và có thể tận dụng lợi thế về tài nguyên ở các địa phương.
Ngoài ra, trong thời gian tới cần phải có sự rà soát lại một cách tổng thể các KCN trên cả nước, xem xét tình hình phát triển KCN ở các địa phương đặc biệt đối với các KCN đã được thành lập nhưng chưa được phép của Thủ tướng Chính phủ, những KCN thành lập chui.
Rà soát chi tiết quy hoạch sử dụng đất KCN trên địa bàn cả nước, xây dựng quy hoạch sử dụng đất cần đảm bảo mức độ sử dụng đất nông nghiệp để chuyển đổi thành đất KCN hợp lí, đảm bảo cân đối giữa các thành phần kinh tế trên địa bàn.
Đánh giá tình hình thực hiện quy hoạch KCN của các địa phương theo cơ chế triển khai do Thủ tướng Chính phủ ban hành, gắn kết giữa quy hoạch KCN với quy hoạch ngành, quy hoạch vùng, quy hoạch đô thị-dân cư, quy hoạch sử dụng đất.
Mặt khác cần thường xuyên theo dõi, đánh giá các KCN đã được thành lập. Đối với các KCN triển khai thuận lợi và khu vực còn quỹ đất để phát triển thì có thể xem xét việc mở rộng KCN. Đối với các KCN gặp khó khăn trong quá trình triển khai, cần tập trung giải quyết các vướng mắc để tiếp tục triển khai. Nếu KCN không có triển vọng, cần kiên quyết xem xét việc rút Giấy phép đầu tư, Quyết định phê duyệt dự án hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng.
2/ Đối với các chính sách ưu đãi về kinh tế
Trước hết, Nhà nước cần phải tiếp tục hoàn thiện, thiết lập được một khuôn khổ nhất quán, mang tính chất lâu dài, đồng bộ các chính sách. Tiến hành rà soát lại các văn bản pháp quy đã được ban hành liên quan đến hoạt động phát triển KCN. Xử lí những vấn đề còn bất cập, những mâu thuẫn phát sinh trong các văn bản, bổ xung những quy định mới phù hợp với thực tiễn, tạo một mặt bằng pháp lí ổn định cho môi trường đầu tư. Trước khi đưa ra các văn bản pháp lí cần tiến hành điều tra một cách có hệ thống, lấy ý kiến của nhiều thành phần có liên quan, qua đó tổng hợp và đưa ra các văn bản. Đồng thời cũng phải xem xét đến tính khả thi của văn bản, xem xét khi nó đi vào thực tiễn có đảm bảo được mục đích đề ra hay không. Những quy định trong văn bản cần phải đảm bảo đem lại những lợi ích thiết thực cho các nhà đầu tư, đồng thời tránh những tổn hại cho đất nước.
Cần tiếp tục chấn chỉnh hoạt động ưu đãi đầu tư quá mức ở các địa phương. Tốt nhất là nên ban hành một quy chế ưu đãi chung. Đồng thời đối với các Tỉnh, địa phương có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, Nhà nước cần phải có sự phân biệt giữa các địa phương. Những địa phương có điều kiện khó khăn có thể được đưa ra các ưu đãi riêng nhưng trong một khung pháp lí nhất định. Chẳng hạn, đối với các ưu đãi về thuế, các địa phương này có thể đưa ra các ưu đãi đặc biệt so với mặt bằng ưu đãi chung là bao nhiêu.
Có thể áp dụng những chính sách ưu đãi riêng theo sự phân các địa phương thành các vùng như trong quy hoạch. Từ sự phân cấp đó, quy định cụ thể các mức ưu đãi mà các địa phương có thể đưa ra. Đây là một công việc đòi hỏi tốn kém nhiều thời gian và nguồn lực tuy nhiên nếu có thể xây dựng lên một bản đề án phân cấp các chính sách ưu đãi tốt thì nó sẽ giúp cho việc phát triển KCN ở các địa phương thuận lợi và công bằng hơn. Vừa đảm bảo được môi trường cạnh tranh thu hút đầu tư một cách công bằng vừa có thể khuyến khích và tạo điều kiện cho các địa phương có điều kiện kinh tế khó khăn phát huy được sức mạnh của các KCN.
Các địa phương trên cả nước nên ngồi lại với nhau, bàn bạc và thống nhất tư tưởng trong việc ban hành các chính sách ưu đãi thu hút đầu tư cùng sự tham gia của các cơ quan Nhà nước hữu quan để đưa ra các quan điểm, tư tưởng chung tránh sự canh tranh không lành mạnh trong thu hút đầu tư hiện nay.
Công tác kiểm tra hoạt động đầu tư, cấp phép xây dựng KCN ở các địa phương cần được theo dõi một cách thường xuyên, liên tục để kịp thời phát hiện những sai trái và chấn chỉnh những hoạt động sai trái đó. Nhà nước có thể sử dụng việc cấp phát Ngân sách hàng năm để điều tiết hoạt động này. Vì để có thể đưa ra các ưu đãi quá mức, chính quyền địa phương cần phải có nguồn Ngân sách đủ lớn để tài trợ cho các hoạt động này (xây dựng cơ sở hạ tầng, chi phí giải phóng mặt bằng. . . ). Đối với các địa phương có những biểu hiện sai trái không tuân thủ và thực hiện đối với mặt bằng ưu đãi chung, Nhà nước có thể thực hiện việc thắt chặt Ngân sách, buộc các địa phương phải tự tìm kiếm các nguồn tài trợ cho các chính sách ưu đãi đó. Kiên quyết không cung cấp Ngân sách cho các hoạt động đó và lãnh đạo các tỉnh phải tự chịu tránh nhiệm trước những quyết định của mình.
3 / Phát triển cơ sở hạ tầng bên trong và ngoài hàng rào KCN một cách đồng bộ
- Đa dạng hoá phương thức đầu tư phát triển hạ tầng KCN
Một vấn đề cần được giải quyết trong việc phát triển cơ sở hạ tầng KCN hiện nay đó là cần phải giải quyết mâu thuẫn giữa một bên là Nhà nước và bên kia là các công ty kinh doanh kết cấu hạ tầng. Đối với Nhà nước, mục tiêu phát triển các KCN không hoàn toàn là để thu Ngân sách từ các KCN (mục tiêu lợi ích) mà phần lớn là nhằm tạo điều kiện phát triển công nghiệp một cách có tập trung, giải quyết các vấn đề xã hội (việc làm) hay tạo điều kiện tốt hơn để bảo vệ môi trường. Trong khi đó đối với các công ty kinh doanh kết cấu hạ tầng thì mục tiêu của họ đặt ra đó là lợi nhuận. Do đó việc kinh doanh kết cấu hạ tầng chỉ có thể thực hiện thuận lợi ở một số địa bàn có điều kiện thuận lợi (Hà Nội, Hải Phòng, các tỉnh Đông Nam Bộ). Còn đối với các địa bàn khó khăn (các tỉnh miền núi, Duyên hải Nam trung bộ) thì việc đầu tư kinh doanh hạ tầng đơn thuần khó có thể làm. Do đó, một vấn đề cần đặt ra là phải có sự hỗ trợ của Nhà nước. Ở các địa phương có điều kiện thuận lợi có thể kinh doanh kết cấu hạ tầng thì vẫn cứ để các doanh nghiệp tự làm. Ở các địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn không thể kinh doanh kết cấu hạ tầng thì Nhà nước có thể thành lập các Công ty phát triển hạ tầng hoạt động theo hình thức đơn vị sự nghiệp có thu hoặc doanh nghiệp công ích. Ngoài ra cần phải nghiên cứu một cơ chế hợp lí về dùng Ngân sách Nhà nước để hỗ trợ xây dựng hạ tầng KCN, có thể trích một tỷ lệ nhất định từ các nguồn thu (thuế sử dụng đất, thuê hạ tầng….) để làm kinh phí hoạt động cho công ty phát triển hạ tầng
- Đa dạng hoá quỹ đất để phát triển KCN
Ngoài việc gia tăng quỹ đất từ giải phóng mặt bằng, lấy đất ở các vùng nông thôn. Trong việc sử dụng quỹ đất để phát triển KCN cần phải tận dụng quỹ đất chưa được sử dụng hết trong các KCN. Hiện nay phần lớn các KCN chưa sử dụng hết diện tích trong các KCN do đó có thể sự dụng diện tích này để phát triển giai đoạn II xây dựng các KCN. Với những kinh nghiệm đã thu được từ quá trình xây dựng I, việc tiếp tục xây dựng cơ sở hạ tầng trong giai đoạn II sẽ nhanh chóng và thuận lợi hơn
- Xây dựng KCN phải gắn với hạ tầng kĩ thuật khu vực
Địa điểm thành lập KCN cần thuận tiện cho vận chuyển nguyên vật liệu, gắn với các công trình giao thông bên ngoài KCN. Điều này đòi hỏi công tác quy hoạch kết cấu hạ tầng khu vực phải đi trước một bước, trong quá trình quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực cần phải tính đến khả năng thành lập các KCN ở khu vực trong tương lai, phải tính đến khả năng cung ứng kết cấu hạ tầng ngoài KCN hiện tại và sau này, xác định rõ các điểm nối và trách nhiệm của các đơn vị liên quan (giao thông, điện, nước, doanh nghiệp phát triển cơ sở hạ tầng, chính quyền địa phương…).
4/ Nâng cao chất lượng hoạt động xúc tiến đầu tư
Trước hết, cần phải nâng cao chất lượng quy hoạch và Danh mục dự án gọi vốn đầu tư nước ngoài lam cơ sở thực hiện các chương trình vận động đầu tư. Mặt khác, để tăng cường tính minh bạch, ổn định và có thể dự đoán trước được môi trường đầu tư , tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc lựa chọn cơ hội đầu tư, cần thực hiện đúng theo quy định của Nghị định 24/2000/NĐ-CP, theo đó Danh mục dự án gọi vốn vào KCN khi đã được công bố thì được coi là đã thống nhất về chủ trương và phù hợp với quy hoạch ngành, lãnh thổ. Để đảm bảo tính khả thi của quy định này, Danh mục phải được xây dựng phù hợp với quy hoạc, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội trong từng thời kì. Đồng thời phải tính đến nhu cầu và khả năng thực tế của nhà đầu tư. Những thông tin về mục tiêu, địa điểm, hình thức, đối tác thực hiện dự án… trong Danh mục phải có sự chính xác và tin cậy cao.
Đổi mới, đa dạng hoá phương thức tổ chức xúc tiến đầu tư. Thực hiện các chương trình vận động trực tiếp đối với từng lĩnh vực, dự án và đối tác cụ thể theo hướng: tiếp xúc trực tiếp ở các cấp khác nhau (kể cả Chính phủ, Nhà nước), với các công ty, các tạp đoàn đa quốc gia có tiềm lực mạnh về tài chính và công nghệ hiện đại, tiên tiến để xúc tiến thực hiện một số dự án quan trọng được lựa chọn. Đồng thời cam kết hỗ trợ thực hiện có hiệu quả các dự án này nhằm mở đường cho việc thu hút các công ty trực thuộc và có quan hệ kinh doanh với các tập đoàn nói trên đầu tư vào KCN. Mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân hàng, tổ chức tài chính, các công ty tư vấn, xúc tiến đầu tư… để phối hợp vận động khách hàng của họ đầu tư vào Việt Nam; chuẩn bị thông tin chi tiết về một số dự án có tính khả thi cao để đưa ra giới thiệu với các nhà đầu tư có tiềm năng nhân dịp các chuyến thăm của lãnh đạo Nhà nước, Chính phủ đi các nước; kết hợp vận động đầu tư trong các dịp tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, triển lãm, hội chợ; nâng cao hiệu quả hoạt động vận động đầu tư gián tiếp trên các phương tiên thông tin đại chúng bằng cách hợp tác với các cơ quan, các hang thông tấn, báo chí, truyền hình trong và ngoài nước để tăng tầng suất thông tin về môi trường và cơ hội đầu tư vào KCN ở Việt Nam; kịp thời chuẩn bị các thông tin, khắc phục tình trạng đưa thông tin sai hoặc cố tình bóp méo sự thật về KCN ở Việt Nam; duy trì và nâng cao chất lượng của các cuộc đối thoại với cộng đồng các nhà đầu tư, đặc biệt trong khuôn khổ Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam, Hội doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài… nhằm kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động của các doanh nghiệp, coi đó là giải pháp hữu hiệu nhằm xây dựng hình ảnh, tạo sức hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư mới, tiếp tục tổ chức các cuộc hội thảo trao đổi giữa doanh nghiệp và cơ quan nhà nước về kinh nghiệm thành công cũng như thất bại trong hoạt động đầu tư ở Việt Nam; kịp thời khen thưởng các ca nhân, doanh nghiệp có đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển KCN ở Việt Nam.
Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường, đối tác đầu tư. Để thực hiện có hiệu quả chủ trương mở rộng, đa phương hoá đối tác đầu tư, cần tổ chức nghiên cứu, đánh giá tiềm năng, thực trạng và xu hướng đầu tư của các công ty, tập đoàn đa quốc gia từ các nước và khu vực quan trọng như EU, Nhật, Mỹ…Mặt khác cần nghiên cứu tình hình, xu hướng đầu tư trên thế giới, kinh nghiệm thu hút đầu tư của các nước trong khu vực, đặc biệt các cơ chế pháp lí song phương và đa phương điều chỉnh quan hệ hợp tác đầu tư quốc tế mà Việt Nam đã và đang trong quá trình tham gia. Đây là chương trình nghiên cứu quan trọng, không chỉ phục vụ thiết thực cho công tác vận động xác tiến đầu tư mà còn tạo điều kiện cho việc xây dựng và triển khai nhanh các cam kết quốc tế về đầu tư.
Tăng cường hợp tác song phương và da phương về xúc tiến đầu tư. Sửa đổi Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư đã kí với Hàn Quốc theo những nguyên tắc về đối xử đã thoả thuận với Mỹ, xem xét các nguyên tắc đối xử nói trên với EU. Tiếp tục duy trì và mở rộng quan hệ hợp tác xúc tiến song phương đã được thiết lập trong thời gian qua với JICA và JETRO (Nhật Bản), Trung tâm xúc tiến đầu tư và du lịch ASEAN, OPIC (Mỹ)… nhằm tranh thủ tối đa sự hỗ trợ của các tổ chức này trong việc thực hiện các chương trình cận động đầu tư trực tiếp với từng đối tác, lĩnh vực cụ thể. Nối lại quan hệ hợp tác xúc tiến đầu tư với các cơ quan Chính phủ ở các nước trong khu vực như Thái Lan (OBOI), Cơ quan phát triển công nghiệp Malaysia (MIDA), Hội đồng phát triển kinh tế Singapo (EDB). Tham gia tích cực và chủ động hơn nữa vào các chương trình xúc tiến đầu tư trong khuôn khổ các tổ chức, diễn đàn khu vực theo hướng sau: xây dựng và cập nhật thường xuyên các chường trình hành động quốc gia về tự do hoá, thuận lợi hoá và xúc tiến đầu tư mà Việt Nam đã kí kết trong khuôn khổ ASEAN, APEC và ASEM; tham gia tích cực và tham vấn giữa các cơ quan quản lí đầu tư của các nước thành viên, đồng thời tăng cường đối thoại với cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức, diễn đàn quốc tế khác để xác định các rào cản đối với đầu tư của khu vực nói chung và của các nước thành viên nói riêng.
Nâng cao chất lượng thông tin, ấn phẩm tuyên truyền đầu tư: xây dựng trang WEB của Tạp chí KCN Việt Nam, kết nối với các Ban quản lí KCN ở các địa phương, với các Công ty phát triển hạ tầng KCN
Cần phải có một cơ chế Ngân sách phục vụ cho hoạt động vận động đầu tư, Nhà nước cần dành một khoản kinh phí thoả đáng từ Ngân sách Nhà nước cho công tác này, không chỉ dựa vào nỗ lực của doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng KCN.
5 / Cải cách cơ chế, chính sách quản lí của Nhà nước
Trong thời gian tới, Nhà nước cần phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế “một cửa tại chỗ” trong thủ tục hành chính, xét duyệt thẩm tra, thẩm định dự án đầu tư. Tiếp tục cải cách hành chính và nâng cao chất lượng của bộ máy quản lí KCN và phải được thực hiện thường xuyên, xoá bỏ hoàn toàn cơ chế “xin-cho”. Để thực hiện cơ chế này một cách có hiệu quả hơn, có thể tiếp thu kinh ngiệm của một số nước trên thế giới. Có thể áp dụng biện pháp giống với Thái Lan, thực hiện cơ chế “tại chỗ” ngay ở cửa mỗi KCN. Ban quản lí KCN ở các tỉnh có thể thành lập các văn phòng đại diện của mình ở trong mỗi KCN qua đó có thể giải quyết những khó khăn, các vấn đề bức xúc và hỗ trợ các doanh nghiệp KCN một cách nhanh chóng hơn. Để làm được điều này, cần phải có nhận thức đúng đắn của các cán bộ trong Ban quản lí, cần phải thấy rằng KCN là một bộ phận hết sức quan trọng đối với kinh tế địa phương, đem lại những lợi ích to lớn do đó phải xem các KCN cũng như thành viên của trong gia đình. Ngoài ra, cũng cần phải có sự hỗ trợ về tài chính một cách thích đáng từ Nhà nước cho hoạt động này.
Về cơ chế quản lí đất đai: Giải quyết cơ chế cho thuê đất lại đất trong KCN sao cho vừa đảm bảo quyền lợi cho công ty phát triển hạ tầng, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp KCN hoạt động vẫn đang là một bài toán khó giải đáp. Để giải quyết vấn đề này, cần phải có một biện pháp, cơ chế theo đó có thể phân giá thuê cơ sở hạ tầng trong KCN thành hai phần: một phần giá thuê đất thô và một phần là giá thuê cơ sở hạ tầng. Các chủ đầu tư thuê mặt bằng sản xuất kinh doanh trong các KCN sẽ trả hai loại phí khác nhau: trả tiền thuê đất cho chính quyền địa phương và tiền thuê cơ sở hạ tầng cho các Công ty kinh doanh cơ sở hạ tầng. Khi đó Nhà nước có thể dành những ưu đãi về tiền thuê đất trực tiếp đến đối tượng mà mình tập trung ưu đãi đó là các doanh nghiệp hoạt động trong KCN.
6/ Hoàn thiện công tác kiểm tra,thanh tra
Trong thời gian tới một nhiệm vụ đặt ra đó là cần phải xây dựng một đề án, bản Quy chế về việc kiểm tra, thanh tra. Việc xây dựng Quy chế kiểm tra, thanh tra hoạt động KCN nên lưu ý một số vấn đề sau:
Quy chế này cần xác định đúng yêu cầu khách quan, trách nhiệm và nghĩa vụ của các cơ quan quản lí, của các doanh nghiệp KCN trong công tác kiểm tra, thanh tra; đồng thời cần làm rõ sự khác biệt giữa công tác kiểm tra và thanh tra. Kiểm tra hoạt động kinh tế là một hoạt động thường xuyên của các cấp trong hệ thống quản lí, gắn với mọi bước công việc, các khâu và lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp, của KCN (kiểm tra chất lượng sản phẩm, kiểm tra sử dụng lao động, kiểm tra tài chính…). Khác với kiểm tra, thanh tra là chức năng chuyên trách của cơ quan Nhà nước. Việc thanh tra không tiến hành thường xuyên với một đối tượng cụ thể nào, việc này chỉ thực hiện khi xuất hiện những sai trái của tổ chức hay cơ quan quản lí, nhằm các định rõ đúng, sai, xác định trách nhiệm của các bên có liên quan.
Với mục đích trên, Quy chế kiểm tra, thanh tra cần làm rõ trách nhiệm và quyền hạn của chủ thể thanh tra hoạt động KCN. Đó là hệ thống thanh tra Nhà nước, thanh tra chuyên ngành (đối với các doanh nghiệp hoạt động trong các KCN chịu sự chi phối của cả hai hệ thống trên). Như vậy đối tượng thanh tra ở đây là các vụ việc sai trái phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và cả các hoạt động sai trái trong quản lí của Ban quản lí KCN các tỉnh. Ngoài ra, cần phải xác định trách nhiệm và quyền hạn của các cá nhân trực tiếp tham gia công tác thanh tra, quy định rõ các chế tài xử phạt đối với các đối tượng vi phạm quy chế.
Để tránh sự trùng lặp nội dung, chồng chéo trong công tác kiểm tra, thanh tra. Khi xây dựng Quy chế cần xác định rõ các đầu mối thanh tra, sự phối hợp giữa các bên; đồng thời quy định mỗi cuộc thanh tra cần có chương trình thanh tra (phân công công việc, trình tự tiến hành, phương pháp thanh tra, thời gian làm việc…); sự thống nhất chỉ đạo và phối hợp giữa các chủ thể, giữa chủ thể và đối tượng thanh tra; cũng nên quy định việc tham khảo ý kiến doanh nghiệp trước khi đưa ra kết luận.
Chất lượng, hiệu lực và hiệu quả của toàn bộ công tác thanh tra phụ thuộc rất lớn và các cán bộ, viên chức thực hiện công tác thanh tra. Cần phải xác định và lựa chọn một cách đúng đắn các cán bộ có tinh thần trách nhiệm cao, phẩm chất đạo đức tốt, có nghiệp vụ chuyên môn, nắm vững pháp luật, chính sách thì công tác thanh tra mới đảm bảo được tính trung thực, khách quan, liêm chính, nhanh chóng.
KẾT LUẬN
Căn cứ vào mục đích và nội dung đã hoàn thành, chuyên đề tốt nghiệp đã hoàn thành được một số nhiệm vụ sau:
Hệ thống hoá được một số vấn đề lí luận có liên quan hoạt động phát triển KCN và vai trò của Nhà nước đối với thu hút đầu tư vào KCN.
Đánh giá được thực trạng phát triển KCN ở Việt Nam hiện nay qua đó phân tích những thành tựu và hạn chế đối trong hoạt động phát triển KCN hiện nay. Đánh giá vai trò của Nhà nước đối với việc KCN, tìm ra các nguyên nhân nhằm khắc phục những hạn chế, tồn tại ảnh hưởng đến hoạt động phát triển của các KCN nói chung và đối với thu hút đầu tư vào KCN nói riêng
Trên cơ sơ các vấn đề lí luận và cùng với những triển vọng, thách thức trong thời gian tới, yêu cầu đặt ra phải có những phương hướng và giải pháp nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc phát triển các KCN.
Tóm lại, mô hình phát triển KCN để đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá,hiện đại hoá là một mô hình đúng đắn do đó Nhà nước cần phải có sự quan tâm đối với KCN và từng bước tháo gỡ những khó khăn cản trở đối với vai trò của Nhà nước đối với các KCN.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo Vũ Cương và một số thầy cô khác trong trường đã giúp đỡ em hoàn thành được chuyên đề này. Em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô để em có thể khắc phục được những hạn chế do sự thiếu kinh nghiệm và trình độ mà em đã mắc phải để em có thể hoàn thành đề tài một cách tốt hơn.
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Những thành quả hoạt động của các KCN Việt Nam 2005”, Tạp chí KCN Việt Nam tháng2-2006
2. “Một số vấn đề xã hội trong việc xây dựng và phát triển các KCN ở Việt Nam”, Tạp chí KCN tháng 3-2005
3. “Định hướng phát triển các KCN ở Việt Nam đến năm 2010”, Tạp chí Thông tin Khu công nghiệp Việt Nam thang5- 2005.
4. Giáo trình quản lí Nhà nước về kinh tế
5. Nghị dịnh 36/CP ngày 24/4/1997 về Quy chế Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công nghệ cao.
6. “Vai trò của Nhà nước trong phát triển kinh tê”, NXB Khoa học xã hội (1994)
7. “ Giáo trình Chính sách trong quản lí kinh tế-xã hội”, NXB Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội
8. “Các nhân tố không bền vững trong phát triển các KCN ở nước ta hiện nay”, Tạp chí kinh tế và phát triển(2006)
9. “Về việc ban hành chính sách ưu đãi đầu tư của địa phương đối với doanh nghiệp KCN”, Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam tháng 9- 2005.
10. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam: Một số văn bản, Nghị định, quyết định của Chính phủ về KCN.
11. “Chính sách ưu đãi và phát triển Khu công nghiêp”, Lê Tuyển Cử (2004)
12. Một số đề tài Luận văn có liên quan đến KCN
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28225.doc