Thực trạng và phân tích tình hình thực hiện một số chỉ tiêu hoạt động kinh doanh chủ yếu của Công ty Nạo vét và xây dựng Đường thuỷ 1

Lời nói đầu Phân tích hoạt động kinh tế là việc làm nhằm rút ra tính quy luật và xu hướng phát triển của hiện tượmg kinh tế. Việc phân tích hoạt động kinh tế nó gắn liền với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị hạch toán kinh tế độc lập. Sản xuất kinh doanh là hoạt động mang lại lợi nhuận cho mọi doanh nghiệp. Bởi vậy người kinh doanh phải phân tích hoạt đông kinh doanh của mình nhằm cân nhắc, soạn thảo và lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu sao cho mang lại hiệu quả cao nhất.

doc75 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1278 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và phân tích tình hình thực hiện một số chỉ tiêu hoạt động kinh doanh chủ yếu của Công ty Nạo vét và xây dựng Đường thuỷ 1, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trong nền kinh tế thị trường để tồn tại và phát triển đòi hỏi các doanh nghiệp phải biết kinh doanh và kinh doanh có hiệu quả, để sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao thì trên cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động hiện có sản xuất cần xác định được phương hướng biện pháp về đầu tư, về sử dụng các yếu tố để sản xuất một cách tốt nhất. Cần xác định được các nguyên nhân, mức độ và xu hướng ảnh hưởng của từng nhân tố ảnh hưởng đến kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm: Kết quả của toàn bộ các quy trình sản xuất kinh doanh, cũng như kết quả của từng khâu công tác, từng giai đoạn sản xuất , từng quá trình sản xuất tạo thành. Kết quả đó thể hiện qua các chỉ tiêu kinh tế là những con số xác định nội dung và phạm vi của kết quả sản xuất kinh doanh. Mỗi chỉ tiêu kinh tế thì có thể có nhiều giá trị khác nhau tuỳ thuộc vào thời gian nghiên cứu, địa điểm nghiên cứu và hoàn cảnh cụ thể . Do kết quả sản xuất kinh doanh có phạm vi và lợi ích khác nhau mà hệ thống chỉ tiêu kinh tế biểu hiện bao gồm nhiều loại khác nhau như: Chỉ tiêu số lượng, chỉ tiêu chất lượng, chỉ tiêu tuyệt đối và chỉ tiêu tương đối. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đạt được thường chỉ ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau, các nhân tố này có thể tính toán được, có thể lượng hoá được mức độ ảnh hưởng chính đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc phân tích hoạt động kinh tế nhằm phát hiện những kinh nghiệm tiên tiến nhằm mục đích phổ biến rộng rãi trong ngành. Trong quá trình phân tích người ta nghiên cứu những thiếu sót trong công tác để tìm biện pháp khắc phục và ngăn ngừa, đồng thời phát hiện khả năng, tiềm tàng để động viên, phát huy trong công tác quản lý sau này. Việc tiến hành công tác không chỉ để kiểm tra, điều tra ra quá trình thực hiện kế hoạch để phát hiện và sử dụng những tiềm năng bên trong mà còn là những cơ sở để lập kế hoạch cho tương lai, dự báo sự hoạt động của xí nghiệp và của ngành. Phân tích hoạt động kinh tế nhằm đánh giá một cách khách quan sự hoạt động sản xuất một cách khách quan của doanh nghiệp, phát huy khả năng tiềm tàng bên trong nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đồng thời là cơ sở cho lập kế hoạch, xác định phương hướng hoạt động kinh doanh của đơn vị mình. Các phương pháp phân tích hoạt động kinh tế bao gồm; Phương pháp so sánh : là phương pháp phân tích hoạt động kinh tế được sử dụng rộng rãi phổ biến trong phân tích kinh tế để đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, để xác định phương hướng biến động của chỉ tiêu phân tích : số tuyệt đối, số tương đối, bình quân, độ lệch bình quân vv… Phương pháp chi tiết. Mọi quá trình sản xuất kinh doanh và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh đều có thể và cần thiết, chi tiết theo nhiều hướng khác nhau để tiến hành phân tích kinh tế của xí nghiệp nhằm đánh giá chính xác kết quả đạt được của doanh nghiệp. Bởi vậy khi phân tích chúng ta có thể chi tiết các chỉ tiêu nghiên cứu theo các bộ phận cần thiết, theo thời gian và địa điểm. Sau khi chi tiết các chỉ tiêu đó mới tiến hành xem xét so sánh mức độ đạt được của từng bộ phận và ảnh hưởng của nó tới tổng thể. Phương pháp thay thế liên hoàn: là phương pháp xác định ảnh hưởng của các nhân tố đến chỉ tiêu tổng thể cần nghiên cứu bằng cách thay thế lần lượt và liên tiếp các thông số của chỉ tiêu khi nhân tố đó thay đổi. Sau đó so sánh trị số của chỉ tiêu vừa tính với trị số của chỉ tiêu khi vừa có biến đổi của nhân tố cần xác định chúng ta xác định được mức độ ảnh hưởng của nhân tố đó. Phương pháp số chênh lệch: là một trường hợp đặc biệt của phương pháp thay thế liên hoàn. Nhưng chỉ khác ở chỗ là khi xét mức độ ảnh hưởng của nhân tố nào thì trực tiếp dùng số chênh lệch. Phương pháp này được áp dụng trong trường hợp khi số lượng của các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu nghiên cứu tăng lên. Ngoài ra trong phân tích người ta còn dùng phương pháp liên hệ cân đối để phân tích hoạt động ảan phẩm xuất kinh doanh Trong quá trình phân tích hoạt động kinh tế có nhiều chỉ tiêu quan trọng ảnh hưởng đến nhiều nhân tố trong quá trình sản xuất như chỉ tiêu lao động tiền lương, tình hình thực hiện sản xuất kinh doanh và doanh thu, chỉ tiêu chi phí và lợi nhuận. Đối với những người làm công tác lãnh đạo hay làm công tác cán bộ thì việc phân tích các chỉ tiêu không phải là tìm ra những sai sót, thiếu sót mà là sửa chữa sai sót, thiếu sót đó cho phù hợp với sự vận hành của doanh nghiệp cũng như vận hành của cơ chế thị trường. Phần nội dung Chương 1: Cơ sở lý luận chung về phân Tích hoạt động kinh tế Hoạt động kinh tế . Khái niệm và ý nghĩa hoạt động kinh tế Hoạt động kinh tế là hoạt động xử lý thông tin thu thập được trong các khâu, các mối quan hệ của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm làm rõ chất lượng của hoạt động kinh doanh và phục vụ cho việc soạn thảo các phương án và giải pháp quả lý tối ưu đưa hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tiếp cận mục tiêu đã định. Như vậy phân tích kinh tế là việc phân chia các hiện tượng, các quá trình và các kết quả kinh doanh thành nhiều bộ phận cấu thành. Trên cơ sở đó bằng các biện pháp liên hệ, so sánh đối chiếu và tổng hợp lại, nhằm rút ra tính quy luật và xu hướng phát triển của cá hiện tượng nghiên cứu. Phân tích kinh tế gắn liền với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của con người. Trong điều kiện sản xuất kinh doanh chưa phát triển, thông tin cho quản lý chưa nhiều chưa phức tạp nên công việc phân tích được tiến hành chỉ là những phép tính cộng trừ giản đơn, Nền kinh tế càng phát triển những đòi hỏi về quản lý nền kinh tế quốc dân không ngừng tăng lên. Để đáp ứng được yêu cầu quản lý kinh doanh ngày càng cao và phức tạp, phân tích kinh tế được tiến hành và ngày càng hoàn thiện với hệ thống lý luận độc lập. Quá trình đó hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách quan của sự phát triển. Trongg nền kinh tế thị trường sự thành công hay thất bại trong kinh doanh của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng của các thông tin rút ra từ các phân tích và đánh giá kinh tế từ các thông tin phân tích có chất lượng tốt, người ta có thể đưa ra được một phương án hay giải pháp quản lý hợp lý, sát với thực tế, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển. Ngược lại nếu sử dụng các thông tin phân tích có chất lượng kém ( thông tin xử lý ra trên cơ sở các thông tin thu thập không đầy đủ, độ tin cậy thấp, nhiều thông tin đã bị lạc hậu với tình hình thực tế) để soạn thảo phương án và giải pháp quản lý thì có thể đưa doanh nghiệp đến những hậu quả bất lợi Hoạt đông kinh doanh của doanh nghiệp là một chính thể bao gồm nhiều bộ phận hợp thành và giữa chúng có mỗi quan hệ qua lại. Phân tích hoạt động kinh doanh giúp tìm ra những mặt được và chưa được trong từng mối quan hệ, cung cấp thông tin phục vụ cho hiệu chỉnh hành vi kinh doanh, đảm bảo cho hoạt đông kinh doanh của doanh nghiệp tiếp diễn liên tục đạt tốc độ tăng trưởng và phát triển cao. Đồng thời phát hiện các tiềm năng và lợi thế chưa được khai thác, đề xuất các phương án khai thác phục vụ cho việc chuyển đổi phương án và chiến lược kinh doanh khi cần thiết. Phân tích hoạt động kinh doanh được tiến hành thường xuyên và định kỳ trong mỗi chu kỳ hoạt động của doanh nghiệp. Điều này có nghĩa là người ta không chỉ tiến hành phân tích khi hoạt đông kinh doanh kết thúc mà còn tiến hành ngay từ khâu chuẩn bị cho hoạt động kinh doanh Vai trò Trong điều kiện sản xuất và kinh doanh theo cơ chế thị trường để tồn tại và phát triển đòi hỏi cá doanh nghiệp kinh doanh phải có lãi. Để đạt được kết quả cao nhất trong sản xuất và kinh doanh, các doanh nghiệp phải xác định phương hướng mục tiêu trong đầu tư, biện pháp sử dụng các điều kiện sẵn có về các nguồn nhân tài, vật lực. Muốn vậy các doanh nghiệp cần nắm được các nhân tố ảnh hưởng, mức độ và xu hướng tác động của từng nhân tố đến kết quả kinh doanh. Điều này chỉ thực hiện được trên cơ sở của phân tích kinh doanh. Như vậy mọi hoạt động kinh tế của doanh nghiệp đều nằm trong thế tác động liên hoàn với nhau. Bởi vậy chỉ có thẻ tiến hành phân tích các hoạt động kinh doanh một cách toàn diện mới có thể giúp cho các nhà doanh nghiệp đánh giá đầy đủ và sâu sắc mọi hoạt động kinh tế trong trạng thái thực của chúng, Trên cơ sớ đó nêu lên một cách tổng hợp về trình độ hoàn thành các mục tiêu- biểu hiện bằng các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật - tài chính của doanh nghiệp. Đồng thời phân tích sâu sắc các nguyên nhân hoàn thành hay không hoàn thành các chỉ tiêu đó trong sự tác động lẫn nhau giữa chúng.Từ đó có thể đánh giá đầy đủ các mặt mạnh, mặt yếu trong công tác quản lý doanh nghiệp. Mặt khác qua phân tích kinh doanh giúp cho các nhà doanh nghiệp tìm ra các biện pháp xác thực để tăng cường các hoạt động kinh tế và quản lý doanh nghiệp nhằm huy động mọi khả năng tiềm tàng về tiền vốn, lao động đất đai... vào quá trình sản xuất kinh doanh, nâng cao kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Tài liệu của phân tích kinh doanh còn là những căn cứ quan trọng, phục vụ cho việc dự đoán, dự báo xu thế phát triển sản xuất kinh của doanh nghiệp. Các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả phân tích Nhân tố là những yếu tố bên trong hay bên ngoài của mỗi hiện tượng, mỗi quá trình và mỗi sự biến động của nó tác động trực tiếp đến độ lớn, tính chất xu hướng và mức độ xác định của chỉ tiêu phân tích. Nhân tố tác động đến kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh có rất nhiều, có thể phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. a. Theo nội dung kinh tế của nhân tố bao gồm. Những nhân tố thuộc về điều kiện kinh doanh như: số lượng lao động, số lượng vật tư, tiền vốn ...Những nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Những nhân tố thuộc về kết quả sản xuất thường ảnh hưởng dây chuyền, từ khâu cung ứng đến sản xuất, đến tiêu thụ và từ đó ảnh hưởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. b. Theo tính tất yếu của nhân tố bao gồm: - Nhân tố chủ quan phát sinh và tác động đến kết quả kinh doanh là do sự chi phối của bản thân doanh nghiệp chẳng hạn như: giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tăng thời gian lao động tiết kiệm hao phí nguyên vật liệu...là tuỳ thuộc vào sự nỗ lực chủ quan của doanh nghiệp. - Nhân tố khách quan: phát sinh và tác động đến kết quả kinh doanh như là một yêu cầu tất yếu, ngoài sự chi phối của bản thân doanh nghiệp chẳng hạn: giá cả thị trường, thuế suất vv... Việc phân tích kết quả kinh doanh theo sự tác động của các nhân tố chủ quan hay khách quan giúp cho doanh nghiệp đánh giá đúng đắn những nỗ lực của bản thân doanh nghiệp và tìm hướng tăng nhanh hiệu quả kinh doanh. c. Theo tính chất của nhân tố bao gồm: - Nhân tố số lượng : Phản ánh quy mô sản xuất và kết quả kinh doanh như: số lượng lao động, số lượng vật tư, khối lượng sản phẩm hàng hoá sản xuất, doanh thu bán hàng vv... - Nhân tố chất lượng: Phản ánh hiệu suất kinh doanh như: giá thành đơn vị sản phẩm, lãi suất, mức doanh lợi, hiệu quả sử dụng vốn. Phân tích kết quả kinh doanh theo hướng tác động của các nhân tố số lượng và chất lượng vừa giúp ích cho việc đánh giá hướng kinh doanh, chất lượng kinh doanh, vừa có tác dụng trong việc xác định tính trình tự sắp xếp và thay thế các nhân tố khi tính toán mức độ ảnh hưởng từng nhân tố đến kết quả kinh doanh. d. Theo xu hướng tác động của nhân tố. - Nhân tố tích cực: có tác dụng làm tăng quy mô của kết quả kinh doanh - Nhân tố tiêu cực: phát sinh và tác động làm ảnh hưởng xấu đến kết quả kinh doanh. Phân tích kết quả kinh doanh theo hướng tác động của các nhân tố tích cực và tiêu cực giúp cho các nhà doanh nghiệp chủ động làm mọi biện pháp để phát huy những nhân tố tích cực, tăng nhanh kết quả kinh doanh. Đồng thời cũng hạn chế tới mức tối đa những nhân tố tiêu cực có tác động xấu đến quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chú ý: Việc phân loại nhân tố phải phụ thuộc vào mối quan hệ cụ thể của nhân tố với chỉ tiêu phân tích. Sự phân biệt giữa chúng chỉ có nghĩa tương đối và chúng có thể chuyển hoá cho nhau. II Nội dung của phân tích hoạt động kinh tế Xuất phát từ đối tượng nghiên cứu, nội dung chủ yếu của phân tích hoạt đông kinh tế. Phân tích tình hình biến động và nhịp độ phát triển của kết quả kinh doanh của doanh nghiệp (gồm kết quả tổng hợp và kết quả của từng khâu của quá trình kinh doanh). Phân tích ảnh hưởng của các nhân tố đến sự biến động của kết quả kinh doanh (thông qua phân tích các phương trình kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa kết quả kinh doanh với các nhân tố ảnh hưởng). Từ trị số lượng hoá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố, tiến hành tìm hiểu các nguyên nhân gây ra sự biến động, tính chất và cường độ của sự phát triển. 1. Các phương pháp phân tích hoạt động kinh tế. a. Phương pháp chi tiết. Mọi kết quả kinh doanh đều cần thiết và có thể chi tiết theo những hứng khác nhau.Thông thường trong phân tích, phương pháp chi tiết được thực hiện theo những hướng sau: - Chi tiết theo các bộ phận cấu thành chỉ tiêu: Mọi kết quả kinh doanh biểu hiện trên các chỉ tiêu đều bao gồm nhiều bộ phận. Chi tiết các chỉ tiêu theo các bộ phận cùng với sự biểu hiện về lượng của các bộ phận đó sẽ giúp ích rất nhiều trong việc đánh giá chính xác kết quả đạt được. Với ý nghĩa đó, phương pháp chi tiết theo bộ phận cấu thành được sử dụng rộng rãi trong phân tích mọi mặt kết quả kinh doanh. Trong phân tích kết quả sản xuất nói chung, chỉ tiêu giá trị sản lượng thường được chi tiết theo các bộ phận có ý nghĩa kinh tế khác nhau. Chẳng hạn, giá trị sản lượng công nghiệp cần được chi tiết thành các bộ phận: giá trị thành phẩm làm bằng nguyên vật liệu của doanh nghiệp, làm bằng nguyên vật liệu của người đặt hàng, giá trị của dụng cụ tự chế, giá trị của sản phẩm dở dang. Trong xây dựng, trước hết cần chi tiết thành các phần xây và lắp đặt cấu kiện, sau đó trong phần xây cần chi tiết các phần. Trong phân tích giá thành, chỉ tiêu giá thành đơn vị sản phẩm hoặc mức phí thường được chi tiết theo các khoản mục giá thành. Trong phân tích tiêu thụ, doanh số tiêu thụ (hay giá trị sản lượng hàng hoá thực hiện) được chi tiết theo doanh số từng mặt hàng những bộ phận cấu thành doanh số đó... - Chi tiết theo thời gian: Kết quả kinh doanh bao giờ cũng là kết quả của một quá trình. Do nhiều nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan khác nhau tiến độ thực hiện quá trình đó trong từng đơn vị thời gian xác định thường không đồng đều. Chi tiết theo thời gian sẽ giúp cho việc đánh giá kết quả kinh doanh được sát, đúng và tìm được các giải pháp có hiệu quả cho công việc kinh doanh. Tuỳ đặc tính của quá trình kinh doanh, tuỳ nội dung kinh tế của chỉ tiêu phân tích và tuỳ mục đích phân tích khác nhau có thể lựa chọn khoảng thời gian và chỉ tiêu phải chi tiết cho phù hợp. - Chi tiết theo địa điểm, phân xưởng đội, tổ...thực hiện các kết quả hoạt động kinh doanh được ứng dụng rộng rãi trong phân tích kinh doanh trong các trường hợp: + Đánh giá kết quả thực hiện hạch toán kinh doanh nội bộ. Trong trường hợp này tuỳ chỉ tiêu khoán khác nhau có thể chi tiết mức thực hiện khoán ở các đơn vị có cùng nhiệm vụ như nhau.Chẳng hạn muốn khoán chi phí thì chỉ tiêu cần chi tiết là mức hao phí trên một đơn vị sản phẩm hoặc công việc; nếu áp dụng cách khoán gọn thì chỉ tiêu cần chi tiết là mức lợi nhuận bình quân trên một đơn vị đồng vốn hoặc một lao động. + Phát hiện các đơn vị tiên tiến hoặc lạc hậu trong việc thực hiện các mục tiêu kinh doanh. Tuỳ mục tiêu đề ra có thể chọn các chỉ tiêu chi tiết phù hợp về các mặt: năng suất, chất lượng, giá thành ... + Khai thác các khả năng tiềm tàng về sử dụng vật tư, lao động, tiền vốn, đất đai vv... trong kinh doanh. b. Phương pháp so sánh. Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích hoạt động kinh tế để xác định xu hướng và mức độ biến động của chỉ tiêu phân tích. Vì vậy để tiến hành so sánh phải giải quyết những vấn đề cơ bản như xác định số gốc để so sánh, xác định điều kiện so sánh và xác định mục tiêu so sánh. Điều kiện để sử dụng phương pháp so sánh. - Phải xác định rõ gốc so sánh và kỳ phân tích. + Mức kế hoếch (hay mức cần đạt tới của chỉ tiêu). Trong trường hợp này so sánh nhằm đánh giá mức độ hoàn thành kế hoạch đã đặt ra của chỉ tiêu. + Mức thực tế kỳ trước của chỉ tiêu. Trong trường hợp này so sánh nhằm đánh giá nhịp độ tăng trưởng của chỉ tiêu. + Gốc so sánh còn có thể được chọn là mức thực tế của hiện tượng cùng loại hình với hiện tượng đang nghiên cứu để xác định đơn vị tiền tệ hoặc có thể sử dụng một trị số cố định, định mức tiêu dùng các yếu tố sản xuất. - Bảo đảm tính thống nhất về nội dung kinh tế của chỉ tiêu. Thông thường nội dung kinh tế của chỉ tiêu có tính ổn định và thường được quy định thống nhất. Tuy nhiên do phát triển sản xuất của hoạt động kinh doanh nên nội dung kinh tế của chỉ tiêu có thể thay đổi theo chiều hướng khác nhau.Trong điều kiện các chỉ tiêu có thay đổi về nội dung, để đảm bảo so sánh được cần tính toán lại trị số gốc của chỉ tiêu theo nội dung mới quy định lại. - Bảo đảm tính thống nhất về phương pháp tính các chỉ tiêu.Trong kinh doanh các chỉ tiêu có thể được tính theo các phương pháp khác nhau.Từ các chỉ tiêu giá trị sản lượng doanh số, thu nhập đến các chỉ tiêu năng suất, giá thành vv...có thể tính toán theo các phương pháp khác nhau. Khi so sánh cần lựa chọn hoặc tính lại các trị số chỉ tiêu cho thống nhất. - Bảo đảm tính thống nhất về đơn vị tính các chỉ tiêu về số lượng, thời gian và giá trị Mục đích của so sánh là xác định mức biến động tuyệt đối và mức độ biến động tương đối của chỉ tiêu. Để đạt được mục đích này người ta sử dụng phương pháp so sánh trực tiếp và so sánh có tính đến hệ số điều chỉnh. c. Phương pháp loại trừ Trong phân tích kinh tế nhiều trường hợp cần nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố đến kết quả kinh doanh nhờ phương pháp loại trừ. Loại trừ ra phương pháp xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết quả kinh doanh bằng cách loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố khác. Để nghiên cứu ảnh hưởng của từng nhân tố phải loại trừ ảnh hưởng của nhân tố khác. Muốn vậy, có thể trực tiếp dựa vào mức biến động của từng nhân tố hoặc dựa vào lần lượt từng nhân tố. Khi sử dụng phương pháp loại trừ cần phải tuân thủ theo hai điều kiện quy ước mang tính giả định. - Phải xác định được phương trình kinh tế phản ánh các mối quan hệ giữa hai chỉ tiêu phân tích với các nhân tố ảnh hưởng. Trong mỗi phương trình quan hệ, thứ tự sắp xếp các nhân tố phải theo trình tự từ nhân tố số lượng đến nhân tố chất lượng. Nhân tố số lượng là nhân tố phản ánh quy mô, khối lượng của kết quả hay yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh. Chẳng hạn tổng giá trị sản xuất, số lượng sản phẩm sản xuất, số lượng tham gia sản xuất, tổng mức tiêu dùng NVL của sản xuất vv... Còn nhấn tố chất lượng là nhân tố phản ánh các mặt tính chất, các mối quan hệ, trình độ phổ biến... của kết quả và các yếu tố chi phí. Chẳng hạn năng suất lao động bình quân, tiền lượng bình quân, hiệu suất sử dụng vốn, mức doanh lợi trên vốn, giá thành đơn vị sản phẩm, giá bán đơn vị sản phẩm... về mặt hình thức, chúng thường là những nhân tố được tính ra trên cơ sở chùng hai chỉ tiêu cho nhau. Trường hợp trong một phương trình quan hệ có từ hai nhân tố chất lượng trở lên thì ta phải xác định được nhân tố có tính chất lượng cao hơn và nhân tố có tính chất lượng thấp hơn. - Khi xác định ảnh hưởng của một nhân tố nào đó đến mức tăng (giảm) tuyệt đối của chỉ tiêu phân tích ta thay thế giá trị kỳ phân tích vào giá trị kỳ gốc của nhân tố đó để xác định số chênh lệch của nó qua hai kỳ, đồng thời loại trừ ảnh hưởng biến động của các nhân tố còn lại, cụ thể nhân tố chất lượng đối với nhân tố đang thay thế được cố định ở kỳ gốc, còn nhân tố số lượng đối với nhân tố đang thay thế được cố định ở kỳ phân tích... Phương pháp loại trừ được tiến hành theo trình tự gồm ba bước sau. - Xác định mức tăng giám tuyệt đối của chỉ tiêu phân tích . - Xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến mức tăng ( giảm) của các chỉ tiêu phân tích. - Tổng hợp ảnh hưởng của các nhân tố. d. Phương pháp liên hệ Mọi kết quả kinh doanh đều có liên hệ mật thiết với nhau giữa các mặt, các bộ phận ... Để lượng hoá các mối liên hệ đó ngoài các phương pháp đã nêu trong phân tích kinh doanh còn sử dụng phổ biến các cách nghiên cứu liên hệ phổ biến như: liên hệ cân đối, liên hệ trực tuyến và liên hệ phi tuyến. Liên hệ cân đối có cơ sở là sự cân bằng về lượng giữa hai mặt của các yếu tố vào quá trình kinh doanh. Liên hệ trực tuyến: Là mối liên hệ trên một hướng xác định giữa các chỉ tiêu phân tích. Liên hệ phi tuyến: Là mối liên hệ giữa các chỉ tiêu trong đó mức độ liên hệ không được xác định theo tỷ lệ và chiều hướng liên hệ biến đổi. e. Phương pháp hồi quy, tương quan. Hồi quy và tương quan là phương pháp của toán học được dùng trong phân tích kinh doanh để biểu hiện và đánh giá mối liên hệ tương quan giữa các chỉ tiêu kinh tế. Phương pháp tương quan là giám sát mối liên hệ giữa một tiêu thức kết quả và một hoặc nhiều tiêu thức nguyên nhân nhưng ở dạng liên hệ tăug. Còn hồi quy là một phương pháp xác định độ biến thiên của tiêu thức kết quả theo sự biến thiên của tiêu thức nguyên nhân. Bởi vậy hai phương pháp này có liên hệ chặt chẽ với nhau và có thể gọi tắt là phương pháp tương quan. Nếu quan sát đánh giá mối liên hệ giữa một tiêu thức kết quả và một tiêu thức nguyên nhân gọi là tương quan đơn. Nếu quan sát đánh giá mối liên hệ giữa một tiêu thức kết quả với nhiều tiêu thức nguyên nhân gọi là tương quan bội. 2. Tổ chức phân tích hoạt động kinh doanh. 2.1. Tổ chức công tác phân tích. Nếu tổ chức công tác phân tích hoạt động kinh tế ở doanh nghiệp phụ thuộc vào yêu cầu của công tác tổ chức quản lý kinh doanh, phụ thuộc vào chất lượng của thông tin nội bộ do tổ chức hạch toán doanh nghiệp xử lý ra và phục vụ vào chất lượng của thông tin từ môi trường. Từ khi nền kinh tế chuyển sang vận động theo cơ chế thị trường, doanh nghiệp trở thành người tự xác định và giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản và trực tiếp điều hành hoạt động kinh doanh. Bộ máy tổ chức hạch toán và tổ chức thông tin kinh tế nội bộ được kiện toàn phù hợp với tình hình mới. Công tác phân tích kinh tế được tiến hành thường xuyên và định kỳ, ngày càng phát huy các tình huống các vấn đề, cung cấp kịp thời các thông tin đáng tin cậy phục vụ cho soạn thảo chiến lược kinh doanh, đưa ra các phương án và giải pháp hiệu chỉnh hành vi kinh doanh. Để phân tích hoạt động kinh tế phát huy đầy đủ vai trò làm tham mưu và tư vấn cho giám đốc trong mọi lĩnh vực có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, cần phải tổ chức công tác phân tích hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp thành một bộ phận chuyên trách, đặt dưới sự quản lý và điều hành trực tiếp của giám đốc và hội đồng quản trị doanh nghiệp. Bộ phận này phụ trách việc soạn thảo các chương trình và nội dung phân tích. Phối hợp với các bộ phận (hay các khâu) quản lý chức năng riêng biệt chịu trách nhiệm thu thập các thông tin và tình hình có liên quan đến khâu công việc mà mình theo dõi rồi tiến hành phân tích, đánh giá khâu công việc đó. Sau đó chuyển kết quả lên bộ phận chuyên trách để tổng hợp và phân tích chúng. Cuối cùng bộ phận chuyên trách có nhiệm vụ chuyển giao thông tin cho các đối tượng sử dụng trong doanh nghiệp và gửi thông tin ra bên ngoài. Để thực hiện hoạt động phân tích trong thực tế tuỳ theo quy mô và loại hình kinh doanh của doanh nghiệp nên tổ chức hợp lý công tác phân tích ở bộ phận chuyên trách và ở các khâu quả lý chức năng. Những người làm công tác phân tích phải có kiến thức chuyên môn về kinh tế, hiểu biết về phân tích kinh tế, am hiểu các lĩnh vực kinh tế - kỹ thuật có liên quan, nhạy bén với những diễn biến trên thị trường và tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Về yêu cầu đối với thông tin phân tích phải đảm bảo thoả mãn được yêu cầu thông tin cho công tác lập kế hoạch, cho công tác kiểm tra và ra quyết định, yêu cầu thông tin cho thiết lập các quan hệ kinh tế với các chủ thể kinh tế trên thị trường và thoả mãn yêu cầu thông tin cho các nhà quản trị sử dụng trong điều hành hoạt động kinh doanh. 2.2 Các hình thức phân tích hoạt động kinh doanh. Để đáp ứng được yêu cầu về số lượng với chất lượng của thông tin phân tích cho hoạt động quản lý vã điều hành kinh doanh, trong tổ chức phân tích phải biết lựa chọn và kết hợp sử dụng các hình thức phân tích thích hợp. a. Theo thời điểm phân tích cần phải phân biệt ba hình thức phân tích, phân tích trước, phân tích hiện thời và phân tích sau. - Phân tích trước khi tiến hành hoạt động kinh doanh là hình thức phân tích nhằm đánh giá tính khả thi của mục tiêu kinh doanh (hay kế hoạch sản xuất kinh doanh) và thông qua phân tích các thông tin dự báo về tình hình thị trường, về các mối quan hệ kinh tế… để phục vụ cho việc hiệu chỉnh các mục tiêu của chiến lược kinh doanh. Ngoài ra còn bao gồm cả các phân tích, đánh giá về năng lực sản xuất, về tình hình dự trữ cho sản xuất kinh doanh. Trong kinh tế thị trường hình thức phân tích này có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi vì nó kiểm định sự tương thích giữa mục tiêu và tình hình thực tiễn, dự kiến trước các phương án ứng phó với những diễn biến không bình thường có thể sẩy ra. - Phân tích hiện thời là hình thức phân tích được tiến hành cùng với quá trình kinh doanh, nhằm thực hiện chức năng kiểm tra, cung cấp thông tin cho giám đốc và các nhà quản trị doanh nghiệp tiến hành hiệu chỉnh những sai lệch lớn giữa thực hiện so với mục tiêu đã định. - Phân tích sau khi kết thúc quá trình kinh doanh là hình thức phân tích nhằm đánh giá mức độ thực hiện kế hoạch đã đề ra, xác định các nguyên nhân và lượng hoá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến sự biến động của kết quả kinh doanh giữa thực tế so với kế hoạch đã định. Thông tin của hình thức phân tích này được sử dụng để xây dung kế hoạch hoạt động của quá trình sau. b. Theo độ dài thời gian phân tích cần phải phân biệt hai hình thức phân tích, phân tích thường xuyên và phân tích định kỳ. - Phân tích thường xuyên là hình thức phân tích được tiến hành hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng nhằm đánh giá khái quát kết quả kinh doanh. Thông tin của phân tích thường xuyên được sử dụng trong chỉ đạo tiến độ thực hiện nghiệp vụ kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy phân tích thường xuyên có quan hệ chặt chẽ với phân tích hiện thời, có khả năng hỗ trợ cho phân tích hiện thời. - Phân tích định kỳ là hình thức phân tích được thực hiện sau khi đã kết thúc quá trình kinh doanh, lập song các báo cáo định kỳ. Thông tin của phân tích định kỳ được sử dụng để đánh giá chất lượng của hoạt động kinh doanh trong kỳ và được sử dụng để lập kế hoạch sản xuất kinh doanh của kỳ sau. c. Căn cứ theo nội dung phân tích, cần phải phân biệt hai hình thức phân tích, phân tích toàn bộ và phân tích chuyên đề. - Phân tích toàn bộ là hình thức phân tích tổng hợp toàn bộ kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nhằm làm rõ mức độ đạt được của các loại kết quả kinh doanh, mối quan hệ giữa chúng và ảnh hưởng tác động của các yếu tố vật chất của sản xuất kinh doanh, yếu tố quản lý và môi trường kinh doanh…Thông tin của phân tích toàn bộ phản ánh đầy đủ nhất những mặt đạt được và chưa đạt được của quá trình kinh doanh. Điều đó giúp chủ doanh nghiệp có thể nhận thấy được những thành tích trong kinh doanh cần phát huy những ưu điểm, những tiềm năng có lợi thế chưa được khai thác, chưa được huy động vào sản xuất kinh doanh, hạn chế những nhược điểm . Những thông tin này rất cần thiết cho xây dung kế hoạch sản xuất kinh doanh hiệu chỉnh hoặc chuyển đổi chiến lược kinh doanh. - Phân tích chuyên đề là hình thức phân tích nhằm bổ sung thông tin cho phân tích toàn bộ. Trong phân tích chuyên đề có thể chỉ đi sâu phân tích từng loại kết quả kinh doanh, tưng mặt hay tưng khâu, điển hình của quá trình kinh doanh mà trong phân tích toàn bộ không thể thực hiện được. Qua đó tìm hiểu những nguyên nhân và rút ra những kinh nghiệm trong quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh. CHƯƠNG II : thực trạng và PHÂN Tích tình hình thực hiện một số chỉ tiêu hoạt động kinh doanh chủ yếu của công ty nạo vét và xây dựng đường thuỷ 1 A. Thực trạng hiện nay của công ty. 1. Về tổ chức. Công ty có 11 đơn vị trực thuộc công ty trong đó: - 8 Đơn vị hạch toán phụ thuộc có tư cách pháp nhân không đầy đủ. -3 Đơn vị hạch toán trực tiếp thuộc công ty. 2. Về lao động. -Tổng số lao động : 678 người (nữ 91 người ). Trong đó: + Trên đại học : 4 người. + Đại học : 94 người. + Cao đẳng :62 người. + Trung học : 76 người. + Công nhân kỹ thuật : 442 người. + Độ tuổi bình quân : 38 tuổi. + Lao động có mặt đến 31/ 12 từ 1998 – 2002. Năm 1998 1999 2000 2001 2002 Tổng số 632 651 654 657 678 Nữ 116 116 109 121 125 - Thu nhập bình quân 1 người/tháng. Năm 1998 1999 2000 2001 2002 Thu nhập bình quân 807370 844500 902709 1164000 1325000 % So sánh Lao động hiện có 632 4,59 651 6,89 654 28,9 657 13,8 678 Lao động có việc làm thường xuyên Tỷ lệ (%) 632 100 651 100 654 100 657 100 678 100 + Doanh thu qua các năm. Năm Doanh thu ( triệu) % So sánh năm trước 1998 47.421. 8,04 1999 50.430 6,34 2000 62.900 24,72 2001 85.530 35,97 2002 120.147 40,47 a. Các ngành nghề kinh doanh. -Theo đăng ký kinh doanh số: 11106/ ngày 10/12/1997 của sở kế hoạch đầu tư và giấy phép hành nghề số: 520/ BXD/ CSKD, giấy phép số: 1392/ CGĐ công ty được phép kinh doanh các ngành nghề chủ yếu sau. +Nạo vét luồng sông, cầu cảng, cửa âu, ụ, chiền, phun hút tạo bãi, sửa chữa thiết bị, phụ ting phương tiện thuỷ, nạo vét cửa biển. + Thi công bằng phương pháp khoan nổ mìn. + Thi công các loại máy công trình, đào nắp nền công trình. + Xây lắp các kết cấu công trình, kết cấu và cấu kiện phi tiêu chuẩn. + Trục vớt thanh thải chướng ngại vật, nạo vét sông hồ bảo vệ môi trường và chỉnh tri luồng lạch. + Khai thác kinh doanh cát, đá, sỏi. + Xây dung các công trình giao thông, đường thuỷ thuỷ lợi, đường bộ công trình công nghiệp và dân dụng phục vụ ngành giao thông vận tải. b. Khả năng cạnh tranh trong nước và quốc tế. *Khả năng cạnh tranh của thiết bị. - Đối với trong nước. + Công ty có các mặt mạnh sau: Thiết bị nạ._.o vét có công suất lớn nhất cả trong nước, có khả năng phun xa nhất, có khả năng hút sâu nhất và có đội ngũ công nhân lâu năm có kinh nghiệm sông nước và nhiệt tình tận tuỵ với công việc. + Tuy nhiên công ty còn có một số hạn chế: Thiết bị không đầy đủ, chủng loại thiếu tàu cuốc, tàu hút bụng. Các thiết bị của công ty đã qua sử dụng nhiều năm lâu công suất thấp, hiệu quả khai thác kém, chi phí sản xuất lớn, trình độ công nhân không đồng đều. - Đối với nước ngoài: Khả năng cạnh tranh không cao. * Khả năng cạnh tranh thị trường. - Thị trường trong nước: Với sự chỉ dẫn của tổng công ty và uy tín trong thi công qua nhiều năm kết hợp với công tác thị trường của phòng sản xuất kinh doanh, chi nhánh ở thành phố Hồ Chí Minh, ở Đà Nẵng nên công ty đã: + Nắm giữ thị trường nạo vét đường thuỷ giao thông miền Bắc từ khi thành lập đến nay. + Nắm giữ hầu hết thị trường nạo vét và san lấp ở khu vực Đà nẵng. + Thắng thầu nhiều công trình có giá trị lớn hơn 30 tỷ đồng. + Liên doanh SIMISU đấu thầu hệ thống thoát nước Hà Nội. + Liên doanh với nhiều tổng công ty lớn và tạo sức mạnh trong đấu thầu: Tông công ty xây dung Hà Nội, Tổng công ty xây dung và phát triển hạ tầng LICOGI, CENCO5, RINKAI< công ty tàu cuốc Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn. + Hiện nay công việc đủ cho các tàu nạo vét năm 2003 và kế hoạch quý I/2004. - Khá năng đầu tư quốc tế, đấu thầu quốc tế, công ty liên doanh liên kết với các liên doanh nước ngoài và các tập đoàn lớn để đấu thầu quốc tế, mặc dù hiệu quả chưa cao nhưng đã có nhiều hướng tốt, đội ngũ cán bộ đã đúc rút nhiều kinh nghiệm trong đấu thầu quốc tế . 3. Đổi mới và sắp xếp phát triển doanh nghiệp nhà nước của công ty Nạo vét và xây dựng đường thuỷ I - Thực hiện quyết định hội nghị trung ương lần thứ 3 khoá IX. - Căn cứ chỉ thị số 04/2002 / CT- TTg ngày 8/2 / 2002 của thủ tướng chính phủ về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước - Căn cứ quyết định số: 58/ 2002/ QĐ - TTg ngày 26/4 2002 của thủ tướng chính phủ ban hành chỉ tiêu, danh mục phân loại doanh nghiệp nhà nước và tổng công ty nhà nước. - Thực hiện chỉ thị số 05/ 2002/ CT- BGTVT ngày 15/4/ 2002 của bộ trưởng Bộ giao thông vận tải về việc đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá trong ngành giao thông vận tải và văn bản số 1785/QĐ-BGTVT ngày 24/5/2002 của bộ giao thông vận tải quy định về tiêu chí và danh mục phân loại doanh nghiệp nhà nước và tổng công ty nhà nước để xây dung đề án sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước trong bộ giao thông vận tải. Công ty nạo vét và xây dung đường thuỷ 1 xây dung đề án sắp xếp, đổi mới phát triển doanh nghiệp nhà nước và tình hình thực hiện công tá sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp của công ty như sau. 4. Kế hoạch đầu tư thiết bị: Ngoài dự án đầu tư tàu hút bong 1500 m3 và ngoạm 17 m3 đanh triển khai cần bổ sung một số thiết bị. - Hai tàu hút xén thổi từ 1200 cv- 1500 cv. - Một cầu nổi 125T có khả năng lắp được búa đóng cọc 4,5 -7T và gầu ngoạm 7 m3. - Một giàn búa đóng cọc 1,8- 2,5 tấn. - Hai xe lu rung 5- 15 T. - Hai xe gạt 110- 250 cv. - Hai xà lan mở đáy 150- 250 m3. - Một xe xúc 0,75- 1,2 m3. - Hoán cải 10 tàu 3D12 công suất 300cv thành tàu có công suất 600- 800 cv. 5. Sắp xếp lại cơ cấu tổ chức công ty. - Các vấn đề tổ chức Tổ chức lại khối văn phòng : Để nâng cao trình độ quản lý, chuyên môn kỹ thuật, tay nghề cho đội ngũ công nhân kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả trong sản xuất kinh doanh như sắp xếp lại doanh nghiệp công ty đã có kế hoạch tranh thủ sự viện trợ từ ngân hàng tái thiết Đức để đào tạo nâng cao cho cán bộ làm công tác quản lý, chuyên môn kỹ thuật. Tổ chức lại khối sản xuất của công ty. - Xác định mô hình công ty. Là một công ty TNHH một thành viên nhà nước giữ 100% vốn. Do đặc thù ngành nghề sản xuất kinh doanh doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nạo vét và xây dựng công trình công ty đề nghị tổng công ty xây dựng đường thuỷ cho phép mô hình của công ty gồm các đơn vị sau : + 6 Phòng ban chức năng công ty. +7 Đơn vị hoạch toán phụ thuộc có tư cách pháp nhân không đầy đủ. + 3 Đoàn tàu trực thuộc công ty. - Các giải pháp từ tài chính : + Tăng cường các khoản vốn đầu tư cho thiết bị phương tiện của công ty thành nguồn vốn cấp để có điều kiện nâng cao năng lực tài chính. + Đề nghị bộ giao thông vận tải cấp bổ sung vốn lưu động đáp ứng 30% nhu cầu vốn lao động. + Tăng cường công tác thu nợ. + Tăng cường công tác hạch toán kế toán. - Tình hình thực hiện Thực hiện chủ trương của Đảng, nhà nước, bộ giao thông vận tải và sự chỉ đạo của tổng công ty đường thuỷ. Công ty nạo vét và xây dựng đường thuỷ I đã thực hiện một số việc như sau : -Thành lập ban thường trực. - Có cán bộ lãnh đạo đi tập huấn. - Tuyên truyền và phổ biến chủ chương chính sách của đảng và nhà nước về việc thực hiện sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước. 6. Một số kiến nghị. - Cần chuyển các khoản nợ đầu tư thành nguồn vốn cấp để tăng cường vốn, đủ vốn nhà nước hình thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, tiến tới thực hiện tiến trình hội nhập kinh tế. - Điều chỉnh phương tiện thiết bị ở các đơn vị khác phải chia tách sát nhập vào công ty nạo vét và xây dựng đường thuỷ I để tăng vốn có đủ 20 tỷ đồng vốn ngân sách trở lên. - Bộ giao thông vận tải tổng công ty cần giao nhiệm vụ duy tu nạo vét và bảo đảm giao thông của các tỉnh phía bắc và miền trung đặc trách cho công ty nạo vét và xây dựng đường thuỷ I thực hiện hàng năm. 7. Vai trò nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của công ty. Từ thời kỳ thực dân Pháp, ngành nạo vét ra đời chỉ nhằm phục vụ cho công việc xây dựng cảng. Sau đó không còn đơn thuần là phục vụ cảng mà đã phát triển trở thành một ngành kinh tế đặc biệt. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ công ty được giao nhiệm vụ nạo vét thông suốt phục vụ các cảng sông, thông luồng. Từ ngày thống nhất đất nước, Công ty chuyển sang một giai đoạn mới vừa mang tính chất của ngành sản xuất kinh doanh vừa mang tính chất phục vụ. Công ty đã dần đầu tư từng bước mở rộng sản xuất kinh doanh bổ sung những nhiệm vụ để cho phù hợp với cơ chế thị trường. Theo nghị định 599 QĐ/TCCB-LĐ của bộ giao thông vận tải giao nhiệm vụ : - Ngành nghề chủ yếu : + Nạo vét đường sông, cầu cảng, của âu ụ, triền, phun hút tạo bãi. + Sửa chữa thiết bị, phụ tùng, phương tiện đường thuỷ. Đến 12/03/1997 Công ty được Bộ giao thông vận tải giao nhiệm vụ nạo vét cửa biển. Vốn của công ty không ngừng tăng lên, số phương tiện cũ đã bị hư hỏng được sửa chữa, thay thế dần. Đoàn tàu hút gồm 11 chiếc công suất từ 150CV đến 300. Với vị trí tương đối thuận lợi cho việc giao dịch với các cơ quan bạn và gần trụ sở làm việc của thành phố. Diện tích đất đai của công ty tương đối lớn, đủ để các XN thành viên nằm quanh công ty rất thuận lợi cho việc chỉ đạo sản xuất. Một số văn phòng được xây mới và tu sửa, trang thiết bị được tăng cường và mua mới. 8. Những thuận lợi và khó khăn trong một vài năm gần đây. Thuận lợi Trong những năm gần đây trên cơ chế cạnh tranh thị trường những hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đã có phần nào biến chuyển. Công ty đã mạnh dạn vay vốn để mở rộng kinh doanh sản xuất. Do cơ chế nên công ty có thể đấu thầu ở bất cứ nơi nào có thầu mở. Công ty mở rộng phạm vi hoạt động xuống phía nam, lấn ra cửa biển ( trước đây công ty chỉ được phép nạo vét luồng sông ). Trong cơ chế thị trường, công ty đã liên doanh liên kết với các đơn vị trong ngành đã cùng nhau hợp tác làm những công trường lớn như hiện nay công trường cụm cảng Phú Quý Bình Thuận có tới 4 - 5 đơn vị cùng tham gia sản xuất. Do thời mở cửa nên có sự đầu tư của nước ngoài, vì vậy trong nước có nhiều cơ sở cần san lấp mặt bằng, tạo bãi chính vì vậy vừa qua công ty đã có thêm nhiều công trường mới. Hiện nay công ty đang chuẩn bị mọi điều kiện để ký kết hợp đồng với khách hàng. Do cơ chế của nhà nước mở rộng nên khá năng làm ăn mở rộng phạm vi hoạt động lớn. Đồng thời công ty có thể liên doanh với nước ngoài. Khó khăn Là một ngành sản xuất kinh doanh đặc biệt vừa mang tính chất phục vụ, vừa mang tính chất công trường. Do vậy hoạt động sản xuất kinh doanh tương đối phức tạp. Trong cơ chế thị trường công ty không tránh khỏi sự cạnh tranh nghiệt ngã, trong đấu thầu công ty gặp không ít khó khăn với các đối thủ và nguy cơ trong ngành cũng có sự cạnh tranh của đơn vị bạn dìm giá để thắng thầu. Nguồn vốn của công ty hạn hẹp không được nhà nước hỗ trợ nên phải vay lãi để kinh doanh. Nếu không có định hướng làm ăn cụ thể sẽ dẫn đến phá sản. Như vậy hàng tháng với số lãi ngân hàng mà công ty phải trả tương đối lớn. Trong khi đó khi có công trường hoạt động để sản xuất được công ty phải vay tiền để hoạt động nhưng thanh quyết toán công trường bạn hàng thường nợ đọng lâu. Về phương tiện thiết bị của công ty đã cũ lại xuống cấp, nguồn kinh phí bổ sung thay thế chưa có. Sửa chữa phương tiện thiết bị mang nặng tính chất chắp vá chưa được đầu tư chiều sâu hoặc sửa chữa lớn. B. Phân tích một số chỉ tiêu kinh tế của công ty Phân tích tình hình thực hiện chỉ Tiêu chi phí - lợi nhuận. 1. Phân tích chỉ tiêu chi phí. 1.1 Mục tiêu và ý nghĩa. Để tiến hành sản xuất các doanh nghiệp phải bỏ ra các loại chi phí khác nhau như chi phí nguyên vật liệu, chi phí nguyên liệu, chi phí về tiền lương công nhân viên.Trong còn tồn tại nền sản xuất hàng hoá, quy luật giá trị còn phát huy tác dụng thì các loại chi phí trên mà có thể dùng thước đo tiền tệ để phản ánh gọi là chi phí sản xuất. Thực chất chi phí sản xuất là sự biểu hiện bằng tiền của hao phí lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã thực tế chi ra ho hoạt động, nó liên quan đến quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như nguyên nhiên vật liệu, khấu hao tài sản cố định, tiền lương và các khoản có tính chất lương, cá khoản trích nộp theo quy định của nhà nước như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và chi phí công đoàn, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí bằng tiền khác. Việc phân tích chỉ tiêu này là cơ sở cho việc phân tích chỉ tiêu khác như chỉ tiêu lợi nhuận, ngoài ra nó còn so sánh việc chi phí giữa năm trước và năm sau có gì thay đổi ở các đơn vị, mức độ chiếm tỷ trọng của trong đơn vị trong năm có gì thay đổi. Từ việc phân tích này ta they được sự tăng giảm, lãi lỗ nằm ở đâu. Qua phân tích tình hình thực hiện chỉ tiêu chi phí giúp ta làm sáng tỏ được việc phân tích chỉ tiêu lợi nhuận. Phân tích chỉ tiêu này là vấn đề vô cùng quan trọng nó nhằm giúp cho các nhà quản lý they được mức độ chi phí trong doanh nghiệp, giúp cho việc quản lý và hạch toán chi phí, quản lý chi phí cho đúng mục đích. Thông qua việc phân tích tình hình thực hiện chi phí giúp cho công ty có biện pháp quản lý chi phí để hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh để từ đó nâng cao lãi trong sản xuất kinh doanh. Đồng thời từ việc phân tích này giúp ta they được mức độ ảnh hưởng của trong đơn vị đến tổng chi phí trong toàn công ty. Xác định được trong điểm của sự tăng chi phí giữa hai năm từ đó có biện pháp quản lý hữu hiệu trong năm tới. Việc phân tích này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định mức độ chi phí hoạt động kinh doanh vè chi phí hoạt động khác. Từ đó có căn định mức và xây dung định mức chi phí cho từng loại chi phí. Cũng từ đây xác định từng loại chi phí trong công ty, chi phí nào đúng mục đích, đúng chế độ, chi phí nào không đúng mục đích, chế độ và vượt quá tiêu chuẩn cho phép đã có biện pháp khắc phục kịp thời và quản lý tốt trong những năm sau. Qua việc phân tích ta có thể đánh giá được trình độ quản lý của công ty trong cơ chế thị trường, mức độ thực hiện các chủ trương chính sách của nhà nước, kết quả sản xuất kinh doanh của trong kỳ, trong năm. 1.2. Tình hình thực hiện chỉ tiêu chi phí. Để xác định đúng nguyên nhân trọng tâm của việc tăng hay giảm chi phí của Công ty nạo vét và xây dựng đường thuỷ 1trong những năm qua ta lần lượt phân tích tình hình thực hiện chỉ tiêu này ở các đơn vị trong công ty. Nhìn vào bảng phân tích ta thấy năm qua chi phí của công ty tăng lên nhưng tăng do yếu tố nào, nguyên nhân nào ta lần lượt xét ở các đơn vị, *Tại Xí nghiệp tàu Cuốc: Ta thấy năm 2201 mức chi phí ở đây là 8,775 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 38,47% trong tổng chi phí toàn công ty. Sang năm 2002 mức chi Đơn vị triệu đồng Mức độ ảnh hưởng - 2,272 5,742 14,543 5,405 Bảng phân tích tình hình thực hiện chỉ tiêu chi phí Phân tích tình hình thực hiện chỉ tiêu chi phí Chênh lệch - 699 1.766 4.482 1.668 %So sánh - 7,95 19,15 70,16 25,8 Năm 2002 Tỷ trọng 21,23 28,85 28,55 21,37 Chi phí 8.083 10.987 10.870 8.133 38.073 Năm 2001 Tỷ trọng 28,46 29,9 20,7 20,94 Chi phí 8.782 9.221 6.388 6.465 30.856 Đơn vị XN XN tàu Cuốc XN tàu hút sông biển XN tàu hút sông I XN tàu hút sông II Tổng chi STT 1 2 3 4 phí là 8,174 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 21,23% trong tổng chi phí toàn công ty.Như vậy mức chi phí năm 2002 đã giảm 5,3% so với năm 2001 tương ứng với mức chênh lệch là 0,601 tỷ đồng. Nó ảnh hưởng tới tổng chi phí ở mức độ tương đối là -2,273%. Nguyên nhân của sự giảm này là do năm 2002 khối lượng nạo vét giảm hơn so với năm 2001 nên chi phí cho sản xuất giảm xuống vì nó giảm nguyên nhiên vật liệu, tiền lương... Nhưng thực chinh là do ở tại xí nghiệp này đã có sự giảm đi một số phương tiện sản xuất lên tất cả các chi phí khác giảm theo. *Đối với Xí nghiệp tàu hút sông biển, ta thấy năm 2001 mức chi phí cho sản xuất là 9,214 tỷ đồng tương ứng chiếm tỷ trọng 22,87% , sang năm 2002 mức chi phí là 10,98 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 28,85%. Như vậy năm 2002 chi phí đã tăng 19,16% so với năm 2001 tương ứng với mức tăng tuyệt đối là 1,766 tỷ đồng và nó ảnh hưởng đến tổng chi phí ở mức độ tương đối là 5,792%. Nguyên nhân của sự tăng này là do khối lượng nạo vét tăng hơn so với năm trước , đồng thời ở đây điều động thêm một số phương tiện khác nên số chi phí cho hoạt động sản xuất kinh doanh tăng cho phương tiện này về nhiên liệu, vật liệu, tiền lương, ngoài ra xí nghiệp còn sửa chữa lại một số trang thiết bị đã cũ. Như vậy tại xí nghiệp này tăng chi phí cũng là do tự tăng về phương tiện sản xuất nên làm chi phí tăng theo nhưng so sánh về tỷ trọng tổng chi phí của toàn công ty có sự giảm về tỷ trọng. *Xét ở xí nghiệp tàu hút sông 1: Ta thấy năm 2001 có số chi phí là 6,318 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 21,71% và sang năm 2002 mức chi phí là 10,282 tỷ đồng chiếm tỷ trọng là 28,56% so với tổng chi phí phí năm 2002 của toàn công ty. Năm 2002 mức chi phí so với năm 2001 tăng 70,2%, như vậy mức tăng chi phí này so với năm 2002 là rất lớn tương ứng với mức chênh lệch 4,481 tỷ đồng. Nó làm ảnh hưởng đến tổng chi phí ở mức tăng tương đối là 14,54%. Vì sao có nguyên nhân tăng như vậy là do ở xí nghiệp này có khối lượng nạo vét tăng nhiều nhất trong toàn công ty do đó chi phí cho sản xuất sản phẩm tăng lên và tất cả các chi phí khác đều tăng lên để có khối lượng nạo vét và doanh thu tăng lên. Ngoài ra công ty còn đầu tư mua mới một số trang thiết bị mới và nâng cấp một số thiết bị cũ. Nhìn vào bảng phân tích ta thấy nguyên nhân làm cho tổng chi phí của toàn công ty tăng lên chính là do đơn vị này có ảnh hưởng mức tăng lớn nhất 14,543%. *Còn tại xí nghiệp hút sông 2: Ta thấy năm 2001 chi phí cho hoạt động là 6,458 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 20,95%. Sang năm 2002 mức chi phí là 8,134 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 21,36%. Như vậy mức chi phí năm 2002 so với năm 2001 mức tăng tương đối là 25,8% và mức tăng tuyết đối là 1,666 tỷ đồng và nó làm ảnh hưởng đến tổng chi ở mức tương đối là 5,405%. Có sự tăng này là do nguyên nhấn không ngoài khác nguyên nhân chính là do có sự tăng về khối lượng trong năm nay. Chính vì thế mà nó làm cho chi phí về tiền lương, nhiên liệu, vật liệu… và các chi phí khác tăng lên dẫn đến mức độ chi phí của xí nghiệp này tăng lên. Cũng tại xí nghiệp này chi phí cũng góp phần làm cho tổng chi phí tưng ở mức tương đối là 5,405%. 1.3 Nhận xét. Nhìn chung năm qua công ty mức chi phí tăng lên 23,42% ứng với mức chênh lệch tăng là 7,312 tỷ đồng. Chi phí của công ty tăng lên thể hiện sự đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, công ty đã có sự phát triển tăng về khối lượng nạo vét, doanh thu tăng. Mức độ chi phí thấp hơn mức độ tăng doanh thu điều đó chứng tỏ năm qua công ty làm ăn có lãi. Do có sự chi phí hợp lý các khoản chi mà lợi nhuận tăng lên mà hiệu quả sử dụng vốn của công ty tăng lên. Xét về công tác quản lý chi phí ta thấy so với năm 2001 thì năm 2002 mức chi phí đã giảm đi trong tỷ trọng doanh thu nhưng ở mức độ giảm chưa nhiều. 2 Phân tích tình hình thực hiện chỉ tiêu lợi nhuận. 2.1 Mục đích và ý nghĩa. Lợi nhuận là biểu hiện bằng tiện của bộ phận sản phẩm thặng dư do kết quả lao động của người lao động mang lại. Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp biểu hiện của kết quả sản xuất kinh doanh. Nó phản ánh đầy đủ các mặt số lượng và chất lượng hoạt độ của doanh nghiệp. Phản ánh kết quả việc sử dụng các yếu tố cơ bản của sản xuất như: lao động, vật tư, tài sản cố định v v.. Lợi nhuận là nguồn vốn quan trọng để tái sản xuất mở rộng toàn bộ nền kinh tế quốc dân và doanh nghiệp. Bởi vì lợi nhuận là nguồn hình thành nên thu nhập của ngân sách nhà nước, thông qua thu thuế lợi tức, trên cơ sở đó giúp cho nhà nước phát triển nền kinh tế xã hội. Một bộ phận lợi nhuận khác được để lại doanh nghiệp thành lập các quỹ, tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao đời sống các bộ công nhân viên. Lợi nhuận là một đòn bẩy kinh tế quan trọng có tác dụng khuyến khích người lao động và các đơn vị ra sức phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trên cơ sở của chính sách phân phối đúng đắn Lợi nhuận là một trong những mục tiêu kinh tế cực kỳ quan trọng đối với các doanh nghiệp. Có thể nói mọi hoạt động của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh suy cho cùng đều hướng vào mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Lợi nhuận là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp nhất phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được đánh giá trước hết thông qua lợi nhuận. Lợi nhuận càng cao chứng tỏ hiệu quả sản xuất kinh doanh này càng cao và ngược lại. Lợi nhuận của doanh nghiệp trong kỳ được hình thành từ kết quả của 3 loại hoạt động chủ yếu, lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động bất thường . Tại Công ty nạo vét và xây dựng đường thuỷ 1 lợi nhuận được hình thành từ kết quả kinh doanh do quá trình sản xuất nạo vét mang lại. Việc phân tích tình hình thực hiện lợi nhuận nhằm so sánh hiệu quả của quá trình năm trước so với năm sau, xem xét khả năng và hiệu quả của việc sử dụng vốn, hiệu suất vốn. Từ việc phân tích chỉ tiêu này nhằm đánh giá mức độ làm nghĩa vụ với nhà nước và việc thực hiện trích lập các quỹ, qua đó ta thầy được mức độ đầu tư phát triển công nghệ và điều kiện trong doanh nghiệp. Bên cạnh đó còn thấy được mức độ bù đắp tổn thất thiệt hại về tài sản mà doanh nghiệp phải chịu trong kinh doanh hoặc trợ cấp một việc làm cho người lao động thường xuyên trong doanh nghiệp. Qua việc phân tích chỉ tiêu này giúp ta thấy được việc lập các quỹ. Phân phối lợi nhuận của công ty có đúng chế độ chính sách hay không. Doanh nghiệp có quan tâm đến việc chi phí cho người lao động học tập nâng cao tay nghề, có sự đầu tư thường xuyên chú trọng trong công việc đổi mới và áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ mới hay không. Qua việc phân tích này chúng ta biết công ty có quan tâm tích kiệm chi phí để mang lại nhiều lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh, đồng thời đánh giá được việc thực hiện quỹ tiền của năm trước và năm sau. Qua đây cho ta thấy được mức độ thực hiện các chế độ chính sách của nhà nước tại công ty, ta có thể đánh giá được mức độ và hiệu suất sử dụng vốn của công ty để có nhận xét đúng về hiệu quả kinh doanh của công ty trong năm qua. 2.2 Tình hình thực hiện chỉ tiêu lợi nhuận. Phân tích chung tình hình lợi nhuận Cũng như các nội dung phân tích khác, phân tích tình hình lợi nhuận của doanh nghiệp được tiến hành từ phân tích chung nhằm đánh giá khái quát tình hình lợi nhuận đến phân tích chi tiết nhằm đánh giá sâu sắc hơn tình hình và phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới sự biến động lợi nhuận của doanh nghiệp. Khi phân tích chung tình hình lợi nhuận của doanh nghiệp chỉ tiêu phân tích thường được sử dụng là ‘Tổng lợi nhuận của doanh nghiệp trong kỳ’. Tổng lợi nhuận của doanh nghiệp trong kỳ bao gồm cả lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động bất thường. Chỉ tiêu này có thể là lợi nhuận trước thuế hoặc lợi nhuận sau thuế nhưng thông thường được phân tích với chỉ tiêu lợi nhuận thuần trước thuế (ký hiệu LTDN) Bảng phân tích tình hình thực hiện chỉ tiêu lợi nhuận Mức độ ảnh hưởng - 0.1605 - 96.54 - 51.03 216.01 Chênh lệch - 45.28 - 272.32 - 143.966 610.84 % So sánh - 16.67 - 216.26 -111.17 150.91 Năm 2002 Tỷ trọng 52.11 - 33.93 - 3.35 85.17 Lợi nhuận (tr đ) 224.82 - 146.4 - 14.466 367.414 431.368 Năm 2001 Tỷ trọng 95.77 44.65 45.91 - 86.33 Lợi nhuận (tr đ) 270,1 215.92 129.5 - 243.4 282.12 Đơn vị XN XN tàu Cuốc XN tàu hút sông biển XN hút sông I XN hút sông II Tổng cộng STT 1 2 3 4 LTDN = LT + LTTC + LTBT Qua bảng phân tích chỉ tiêu lợi nhuận ta thấy nhìn chung năm qua công ty có lợi nhuận cao hơn năm trước xét trên toàn lĩnh vực công ty. Nhưng lợi nhuận ở từng xí nghiệp có sự chênh lệch quá cao chỉ duy nhất có một đơn vị là có lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước.Ta đi xét ở từng đơn vị một. *Tại xí nghiệp tàu Cuốc: Thu nhập đạt mức 270,1 triệu đồng chiếm tỷ trọng thu nhập toàn công ty là 95,77% năm 2001. Nhưng sang năm 2002 lợi nhuận đạt mức 224,82 triệu đồng chiếm tỷ trọng 52,11%. Như vậy năm 2002 lợi nhuận chỉ đạt 83,24% so với năm 2001 tức mức lợi nhuận giảm xuống 16,67% tương ứng với mức chênh lệch là - 45,28 triệu đồng nó làm ảnh hưởng tới tổng lợi nhuận ở mức tương đối là 0,1605% . Nguyên nhân có sự giảm này là do doanh thu ở đây bị giảm mặc dù vẫn có lãi, mức chi phí ở xí nghiệp này chiếm tỷ trọng thấp so với các xí nghiệp khác như hiệu suất chi phí cần giảm hơn năm 2001 nhưng vì do doanh thu thấp mà nguyên nhân là do khối lượng nạo vét giảm. Nhưng khối lượng nạo vét giảm là do ở đây giảm đi một số phương tiện vì vậy làm cho lợi nhuận giảm đi. Xét về mức độ lãi theo doanh thu thì năm 2001 mức độ lãi cao hơn năm 2002 vì hiệu suất trên doanh thu năm 2001 là 0,0298 nhưng năm 2002 là 0.02709. *Xét ở xí nghiệp tàu hút sông biển: Năm 2001 mức lợi nhuận đạt là 125,92 triệu đồng nhưng sang năm 2002 mức lợi nhuận đạt –146,4 triệu đồng . Như vậy sang năm 2002 tại xí nghiệp này làm ăn không có lãi. Nguyên nhân này là do ở đây một số phương tiện được điều động vào phía nam khai thác, do công tác vận chuyển phương tiện từ phía bắc vào phía nam phức tạp, chi phí cho sự vận chuyển ống, tháo nắp nên chi phí lớn, vào đến phía nam lại chưa ổn định được công suất do đó chi phí lớn hơn doanh thu do vậy mà làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của đơn vị. Nguyên nhân tiếp là do phương tiện của xí nghiệp cưa quen với việc khai thác tại địa bàn phía nam do vậy có phần giảm năng suất hơn đôi chút , bên cạnh đó đơn giá chung của đơn vị này có phần giảm hơn năm 2001 mà dẫn đến chi phí tăng doanh thu giảm làm cho lợi nhuận giảm đi tới mức -216,26% so với năm 2001 tương ứng với mức chênh lệch giảm là 272,32 triệu đồng, Nó làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của toàn công ty ở mức tương đối là -96,54%. Chính có sự chi phí lớn hơn doanh thu mà lợi nhuận ở đây giảm đi rõ rệt. *Xét ở xí nghiệp hút sông 1: Năm 2001 mức lợi nhuận đạt là 129,5 triệu đồng chiếm tỷ trọng 45,91%. Sang năm 2002 không những mức lợi nhuận giảm mà còn lỗ ở mức -14,466 triệu đồng so với doanh thu tức là chi phí lớn hơn doanh thu. Nguyên nhân cũng là do đơn vị tàu hút sông 1 và tàu hút sông 2 phương tiện máy có công suất nhỏ chủ yếu là cũ hỏng đã hết khấu hao, chi phí khấu hao cho phần tự sửa chữa bổ sung. Vì năm 2001 phương tiện tại xí nghiệp này hoạt động nhiều nên có một số phương tiện phải sửa chữa trong năm nay nên chi phí cho sửa chữa tăng lên làm cho vượt doanh thu. Nó làm cho mức lợi nhuận năm 2002 so với năm 2001 tương ứng với mức chênh lệch tuyệt đối là -143,966 triệu đồng. Nó làm ảnh hưởng đến tổng lợi nhuận ở mức tương đối là -51,03%. *Riêng ở xí nghiệp tàu hút sông 2: Ta thấy xí nghiệp này có mức lợi nhuận cao nhất của năm 2002 so với các xí nghiệp khác. Mặc dù phương tiện ở đây cũng là các phương tiện cũ, công suất nhỏ. Nhưng do năm 2001 số phương tiện ở đây đã được sửa chữa lớn lại nhiều và có đầu tư khoán cải một tàu hút H02. Vì cậy bước sang năm 2002 số phương tiện ở xí nghiệp này không phải sửa chữa cho nên chi phí ở đây giảm đi. Kết hợp với việc xí nghiệp này công trường cố định ở ngần nhau chủ yếu hoạt động quanh vùng Hải Phòng, Thái bình Hải Dương cho nên sự di chuyển phương tiện rất gần nhau đỡ tốn kém trong chi phí tháo nắp. Vì vậy sang năm 2002 chi phí giảm đi rõ rệt mà họ lại có doanh thu tăng, đơn giá cho một 1m2 nạo vét cũng tăng do đó mà lợi nhuận trong năm cao đạt 150,91% tương ứng với mức chênh lệch tuyệt đối là 610,84 triệu đồng nó làm ảnh hưởng đến tổng lợi nhuận là 216,01% ở mức tương đối. Qua chỉ tiêu lợi nhuận ta thấy so với năm 2002 thì lợi nhuận của công ty tăng cao hơn so với năm 2001 nhưng năm 2001 các xí nghiệp trong công ty có mức lãi đều nhau và ít bị lỗ hơn. Hiệu suất chi phí của năm 2001. Nhưng sự giảm lợi nhuận của xí nghiệp đều có nguyên nhân chính đáng, không phải do trình độ kinh doanh kém, khả năng sử dụng vốn thấp mà dẩn đến lỗ. ở đây có sự thay đổi cải tiến công nghệ mới. Mở rộng phạm vi hoạt động vì thế mà chi phí tăng lên. Mặc dù hai xí nghiệp bị lỗ nhưng nó sẽ làm cho hoạt động sản xuất của năm sau thuận lợi, dễ dàng và đạt doanh thu cao. Vì đây là sự chuẩn bị cho việc thực hiện kế hoạch năm tiếp theo. Đồng thời các đơn vị trong công ty cần nghiên cứu, có biện pháp khắc phục giảm chi phí trong khâu di chuyển, tháo nắp thiết bị cần có sự thiết kế cho việc di chuyển được nhanh gọn và thuận lợi hơn nữa để giảm chi phí làm tăng lợi nhuận cho toàn công ty cao hơn nữa. II. Phân tích tình hình thực hiện sản xuất kinh doanh và doanh thu. 1. Phân tích tình hình thực hiện sản xuất kinh doanh. 1,1 Sự cần thiết và ý nghĩa. 1.1.1 Sự cần thiết Sau khi xác định được khối lượng sản phẩm dự kiến sản xuất và cung ứng của thị trường trong năm tới và thực hiện các phương án dự trữ các yếu tố sản xuất .Doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất ra sản phẩm. Đây là khâu chủ yếu nhất của quá trình tái sản xuất. Nó chi phối khâu dự trữ sản xuất tiêu thụ sản phẩm và các mặt hoạt động khác của doanh nghiệp . Phân tích tình hình sản xuất giúp doanh nghiệp nắm bắt được tiến độ sản xuất và nhịp điệu sản xuất , tình hình đảm bảo việc làm cho người lao động trong các khâu của quá trình sản xuất , nắm bắt được quy mô sản xuất chất lượng sản phẩm, tình hình thực hiện tiến độ giao hàng theo các đơn hàng và hợp đồng sản xuất sản phẩm.. Thông tin rút ra từ phân tích tình hình sản xuất còn giúp cho doanh nghiệp hiệu chỉnh hành vi trong khâu sản xuất , tìm kiếm các giải pháp đảm bảo cho sản xuất tăng trưởng với tốc độ cao và liên tục. Kế quả sản xuất kinh doanh là thể hiện khả năng kinh doanh của công ty trên thương trường. Từ kết quả của việc thực hiện các chỉ tiêu này ta đánh giá tường mặt, khâu của quá trình sản xuất. Qua đó ta rút ra được những mặt mạnh cũng như những mặt yếu của doanh nghiệp , phát hiện những khả năng tiềm tàng của doanh nghiệp mà ở đây cụ thể là công ty nạo vét và xây dựng đường thuỷ 1 chưa khai thác hết. Đồng thời việc phân tích tình hình thực hiện kết quả sản xuất kinh doanh còn giúp cho doanh nghiệp có được định hướng sản xuất kinh doanh trong tương lai, dự báo các kết quả sản xuất ở một số khâu, sâu hơn nữa là ở toàn doanh nghiệp trong những năm tiếp theo. Các kết quả đạt được đâu là nguyên nhân chủ quan, đâu là nguyên nhân khách quan mà công ty thu được trong sản xuất kinh doanh. Từ đó ta thấy được năng lực của công ty phát hiện những tiềm năng chưa được khai thác có liên quan đến quá trình sử dụng có hiệu quả các phương tiện, thiết bị, khả năng sẵn có của công ty. Qua những kết quả của quá trĩnh sản xuất kinh doanh ta đề xuất biện pháp về tổ chức kỹ thuật, về quản lý và những biện pháp về kinh tế để khai thác về tiềm năng của công ty, làm tăng doanh thu, lợi nhuận và hiệu suất sử dụng đồng vốn đồng thời có biện pháp giảm hiệu suất chi phí trong kỳ. 1.1.2. ý nghĩa Như trên ta đã biết kết quả của sản xuất kinh doanh là sự tổng hợp tất cả các mặt của quá trình kinh doanh của một doanh nghiệp, Vì vậy việc phân tích tình hình thực hiện kết quả sản xuất kinh doanh là rất quan trọng vó có được 1 ý nghĩa vô cùng to lớn, nó rút ra kết luận tổng hợp cho toàn bộ những vấn đề mà ta đã phân tích ở các chỉ tiêu trước đó. Nó đánh giá khả năng kinh doanh của công ty năm nay so với năm trước, việc thực hiện với nghĩa vụ với nhà nước của công ty. Đồng thời giúp ta thấy được việc thực hiện các chế độ chính sách của nhà nước như việc thu chi, phân phối lợi nhuận tình hình thực hiện trích lập các quỹ. Đánh giá khả năng hiệu suất sử dụng vốn của công ty. Tài liệu chủ yếu dùng cho phân tích tình hình sản xuất của doanh nghiệp gồm: - Báo cáo về tình hình thực hiện các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu (gồm các chỉ tiêu phản ánh kết quả và chi phí). - Biên bản và báo cáo về tình hình kiểm tra chất lượng sản phẩm của bộ phận KCS. - Sổ tổng hợp về tình hình thu nhập, thành phẩm và bán thành phẩm. - Sổ theo dõi tình hình giao hàng theo các đơn hàng và hợp đồng sản xuất sản phẩm. - Báo cáo tình hình sản xuất và phiếu ghi chép kết quả sản xuất của các bộ phận sản xuất trong doanh nghiệp. 1.2 Phân tích tình hình thực hiện kết quả sản xuất kinh doanh. a. Khái quát quy mô sản xuất. - Xác định các chỉ tiêu kinh tế phản ánh khái quát quy mô sản xuất của doanh nghiệp. Quy mô sản xuất của doanh nghiệp có thể được phản ánh khái quát qua hai chỉ tiêu: tổng giá trị sản xuất và tổng giá trị sản phẩm hàng hoá. Trong đó tổng giá trị sản xuất là chỉ tiêu phản ánh tổng hợp nhất kết quả sản xuất trong kỳ của doanh nghiệp, còn tổng giá trị sản phẩm hàn._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34534.doc
Tài liệu liên quan