1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NGHÈO ĐÓI
1.1. Khái niệm nghèo đói 1
1.2. Các phương pháp xác định đối tượng nghèo hiện nay 3
1.3. Nguyên nhân của nghèo đói 6
1.4. Những nét chính về tình hình nghèo đói trên thế giới và ở Việt Nam 13
Chương 2: PHÂN TÍCH KẾT QUẢ ĐIỀU TRA VỀ THỰC TRẠNG NGHÈO
ĐÓI VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH
THUẬN
2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 26
2.2. Phương pháp phân tích 28
2.3. Mô hình kinh tế lượ
127 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3168 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và những yếu tố tác động đến người nghèo ở tỉnh Ninh Thuận, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng 30
2.4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 35
2.4.1. Mô tả dữ liệu điều tra ở Ninh Thuận, 2004 35
2.4.2. Đặc điểm của người nghèo và nguyên nhân nghèo ở Ninh Thuận 37
2.4.3. Tình trạng nghèo phân theo khu vực 39
2.4.4. Tình trạng nghèo phân theo các nghề nghiệp chính của hộ gia đình 41
2.4.5. Tình trạng nghèo phân theo trình độ học vấn 43
2.4.6. Giới tính của chủ hộ 46
2.4.7. Những đặc điểm về nhân khẩu học ở Ninh Thuận 49
2.4.8. Nghèo phân theo thành phần dân tộc 51
2.4.9. Khả năng tiếp cận các điều kiện sinh sống cơ bản 53
2.4.10. Khả năng tiếp cận các nguồn lực 59
2.4.11. Kết quả mô hình kinh tế lượng 66
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO VÀ NÂNG CAO MỨC
SỐNG DÂN CƯ Ở NINH THUẬN
3.1. Việc làm 71
3.2. Đất đai 74
3.3. Vay vốn 75
3.4. Dân tộc 77
3.5. Quy mô hộ 78
3.6. Giáo dục 79
Kết luận 81
2
Lời mở đầu
Ninh Thuận là một tỉnh nghèo nhất vùng Đông Nam bộ. Cái nghèo ở vùng này
còn kèm theo sự khắc nghiệt của tự nhiên, nắng nóng gây khô hạn quanh năm
mà cũng thường xuyên chịu lũ lụt nặng nề. Cho nên người ta thường gắn nguyên
nhân của nghèo với điều kiện khí hậu mà quên đi những yếu tố quan trọng khác.
Chẳng hạn như sự thiếu hụt đất đai dùng cho canh tác, tình trạng thiếu việc làm,
quy mô hộ gia đình lớn, trình độ học vấn thấp…Nếu có quan tâm thì người ta
cũng không biết được tác động của từng yếu tố như vậy là bao nhiêu, yếu tố nào
là quan trọng hơn…
Trong xu hướng của sự phát triển, vấn đề nghèo đói ở Ninh Thuận là mối quan
tâm lớn của nhiều nghiên cứu. Trong đó, nổi bật nhất phải kể đến là nghiên cứu
của Ngân hàng thế giới và tổ chức ActionAid Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay,
chưa có một nghiên cứu nào về nghèo được thực hiện ở Ninh Thuận mà có sử
dụng phương pháp định lượng. Những con số định lượng được xem là đầy đủ
nhất chỉ có trong các báo cáo hàng năm của Sở LĐTBXH thường tập trung xác
định số lượng người nghèo để thực hiện công tác cứu trợ. Thực tế trên cho thấy
sự cần thiết của một nghiên cứu định lượng chỉ ra được mức độ nghèo khổ thông
qua phân tích mức sống. Nghiên cứu cũng cần chỉ ra những yếu tố nào gây
nghèo và định lượng tác động độc lập của chúng đến khả năng nghèo. Và
nghiên cứu “Thực trạng và những yếu tố tác động đến nghèo ở tỉnh Ninh Thuận”
ra đời.
Mục tiêu của nghiên cứu bao gồm ba phần: Phần thứ nhất là đánh giá tình trạng
nghèo thông qua các đặc điểm của hộ như nghề nghiệp, học vấn, dân tộc… đồng
thời phải chỉ ra được mức độ nghèo của các hộ gia đình ở Ninh Thuận thông qua
các chỉ tiêu chuẩn về mức sống như nhà ở, nguồn nước, điện, nhà vệ sinh... Phần
thứ hai là xác định được những yếu tố có tác động đến nghèo và định lượng tác
động độc lập của từng yếu tố đó. Cuối cùng là cung cấp một số gợi ý cho chính
sách từ kết quả phân tích. Riêng về mặt ứng dụng, nghiên cứu này ngoài việc
cung cấp những gợi ý làm cơ sở cho việc lựa chọn chiến lược phát triển, nó còn
tổng hợp lại phương pháp dùng để định lượng nghèo. Đồng thời nghiên cứu cũng
gián tiếp chỉ ra các hướng nghiên cứu kế tiếp để những nghiên cứu sau lựa chọn
nhằm đạt được hiệu quả ứng dụng cao.
Trong nghiên cứu này, tác giả dùng phương pháp mô tả thống kê và lập mô hình
kinh tế lượng để phân tích nghèo. Bộ số liệu dùng trong nghiên cứu được điều
tra lấy mẫu trực tiếp ở Ninh Thuận. Phần mềm SPSS11.5 và Eview3.0 được sử
dụng để lập bảng biểu và chạy mô hình.
3
Nghiên cứu gồm có ba chương. Chương 1 trình bày những nét tổng quan về
nghèo đói. Trong phần này, ngoài những khái niệm, còn có điểm qua thực trạng
nghèo khổ của các nước trên thế giới và Việt Nam. Chương 2 là phần quan trọng
nhất của luận văn, phần này giới thiệu phương pháp nghiên cứu và trình bày kết
quả nghiên cứu. Trong đó, mô hình hồi quy bội được sử dụng để ước lượng tác
động của nhóm các yếu tố ảnh hưởng đến chi tiêu của hộ gia đình ở Ninh Thuận;
mô hình logistic được dùng để phân tích tác động độc lập của các yếu tố đến xác
suất nghèo của một hộ gia đình ở Ninh Thuận. Chương 3 là phần kết của luận
văn, nêu ra một số gợi ý để lựa chọn cho chiến lược giảm nghèo ở địa phương.
Phần này tuy được xem như kết của luận văn này nhưng mở ra những hướng
nghiên cứu tiếp theo trên cơ sở kết quả có được. Chẳng hạn như vấn đề chăn
nuôi trong quá trình công nghiệp hóa nông thôn, khả năng phát triển dịch vụ du
lịch, tác động của di cư đến nghèo, ảnh hưởng của giáo dục bậc đại học, hay cải
cách hành chính ở Ninh Thuận. Đây là những chủ đề vừa mang tính thực tiễn cao
mà cũng không kém phần lý thú.
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ hộ nghèo và giáp ranh nghèo ở Ninh Thuận
rất cao. Kết quả này phù hợp với một nghiên cứu nghèo có sự tham gia của
người dân của Ngân hàng thế giới (PPA Ninh Thuận, 2003) khi cho rằng tỷ lệ
nghèo tính theo các báo cáo của Sở LĐTBXH là chưa hợp lý. Một điều có thể
gây ngạc nhiên là tỷ lệ hộ nghèo ở thị xã Phan Rang lại ở mức cao thứ hai. Tuy
nhiên điều này là hoàn toàn hợp lý vì thị xã Phan Rang cũng bao gồm nhiều khu
vực mà ở đó mức sống người dân không khác ở các huyện bao nhiêu. Chỉ số
khoảng cách nghèo là 7,97% cho biết trung bình các hộ nghèo ở Ninh Thuận cần
gia tăng thu nhập bằng con số này mới có thể vượt khỏi ngưỡng nghèo.
Trong số những hộ nghèo thì những hộ làm nông và làm thuê chiếm tỷ lệ cao,
tương ứng lần lượt là 51,9% và 30,6%. Trình độ học vấn chung rất thấp, khoảng
5 năm đi học, tức chưa hết tiểu học. Đặc biệt học vấn nhóm người nghèo còn
thấp hơn rất nhiều, khoảng 3,8 năm đi học. Chi phí cao là trở ngại đối với các hộ
nghèo, ngoài ra các em con hộ nghèo ít được đi học vì phải lao động để kiếm
tiền. Quy mô hộ gia đình ở Ninh Thuận thuộc vào hạng cao. Cao nhất vẫn là các
hộ gia đình nghèo, trung bình một hộ có 5,72 người. Do đó, không có gì ngạc
nhiên khi tỷ lệ phụ thuộc trong nhóm này ở mức cao, là 2,47 người/hộ.
Các hộ gia đình trong mẫu đều có nhà nhưng đa phần không kiên cố, 61,5% hộ
sống trong nhà mà mái lợp bằng lá hoặc tôn, 28,1% hộ sống trong nền nhà bằng
đất, tức không có vật liệu nào để lát. Nguồn nước sử dụng cho sinh hoạt ở Ninh
Thuận rất đa dạng và không có sự phân biệt giữa người nghèo với người giàu
4
trong khả năng tiếp cận nguồn nước. Đáng lưu ý là tỷ lệ 36,3% hộ dân sử dụng
nước sông, suối làm người nước chính. Một đặc điểm khá ngộ nghĩnh là có rất
nhiều hộ gia đình ở Ninh Thuận không có nhà vệ sinh mà không phân biệt giàu
nghèo, con số 59,8% đã cho thấy điều này. Về nguồn điện, có 92,4% hộ được sử
dụng điện. Đây là con số tương đối khả quan nhưng chưa phản ánh được tổng thể
do thiếu các hộ ở vùng sâu, vùng cao.
Có ít hơn một nửa hộ nghèo có đất. Mà nếu có thì diện tích cũng rất nhỏ và
thường là cho thuê hoặc không canh tác. Nhiều hộ nghèo được vay vốn nhưng số
vốn nhỏ và không dùng cho sản xuất nên hầu như không trả được nợ. Theo đánh
giá của chính các hộ thì ít đất và thiếu vốn là hai khó khăn lớn nhất đối với quá
trình canh tác cũng như làm ăn của họ.
Kết của cả hai mô hình kinh tế lượng đều cho thấy tình trạng đói nghèo ở Ninh
Thuận chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ năm yếu tố là: việc làm, sở hữu đất đai, khả
năng tiếp cận vốn chính thức, vấn đề dân tộc thiểu số, quy mô hộ và giới tính
của chủ hộ. Mô hình hồi quy những yếu tố tác động đến chi tiêu cho thấy một hộ
có việc làm sẽ có chi tiêu bình quân đầu người cao hơn 50% so với hộ không có
việc làm. Một hộ có đất canh tác sẽ có chi tiêu bình quân cao hơn khoảng 27%
so với hộ không có đất. Hộ được vay vốn sẽ có cơ hội tăng chi tiêu của mình lên
khoảng 13%. Hộ có chủ hộ là nam giới thì chi tiêu bình quân sẽ cao hơn hộ có
chủ hộ là nữ khoảng 22%. Tương tự, mô hình logistic cho thấy xác suất nghèo
của những hộ có việc làm, có đất, có vay vốn sẽ có khả năng nghèo thấp hơn so
với trường hợp ngược lại; những hộ là dân tộc thiểu số, quy mô gia đình lớn, chủ
hộ là nữ sẽ có nhiều khả năng nghèo. Ví dụ, xác suất nghèo ban đầu của một hộ
gia đình ở Ninh Thuận là 30%, khi các yếu tố khác không thay đổi, nếu hộ có
việc làm thì xác suất nghèo sẽ chỉ còn 7,8%. Còn nếu quy mô hộ tăng thêm một
người thì xác suất rơi vào cảnh nghèo của hộ này sẽ lên đến 39%.
Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi gợi ý rằng những chính sách nhằm vào người
nghèo nên có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp để làm tăng cơ hội có việc làm,
tăng cơ hội được sử dụng đất để canh tác, tăng khả năng tiếp cận với nguồn vốn
chính thức, giảm những khác biệt giữa người dân tộc thiểu số và người Kinh,
giảm quy mô hộ và giảm những gánh nặng bất công dành cho phụ nữ. Việc lựa
chọn chính sách sẽ theo thứ tự ưu tiên như trên nếu nguồn lực hạn chế không đủ
để thực hiện toàn bộ. Từ đây chúng tôi cũng gợi ý rằng để phát triển kinh tế
trong tương lai, Ninh Thuận cũng cần quan tâm nhiều đến những vấn đề này.
Đây cũng là vùng đất cho những nghiên cứu sau tập trung vào để có thể được
ứng dụng một cách hiệu quả.
5
Cũng như bất kỳ một nghiên cứu nào, nghiên cứu nghèo đói cũng có
những thuận lợi và khó khăn riêng. Thuận lợi là ở chỗ vấn đề nghèo đang được
sự quan tâm rất lớn của người dân nên nghiên cứu viên dễ dàng nhận được sự
ủng hộ và giúp đỡ trong quá trình nghiên cứu. Hơn nữa là tài liệu tham khảo khá
phong phú, từ lý thuyết cơ sở đến thực tiễn, cả trong và ngoài nước. Khó khăn
gặp phải thường xảy ra trong quá trình thực hiện điều tra phỏng vấn. Thiếu
nguồn lực để thực hiện điều tra một cách đầy đủ. Mẫu điều tra không được thực
hiện ở vùng núi cao hoặc vùng quá sâu. Điều này ít nhiều ảnh hưởng đến tính
đại diện của số liệu điều tra.Với những thuận lợi cũng như khó khăn nêu trên,
tác giả đã nỗ lực hết sức để hoàn thành bài viết này. Kết quả nghiên cứu là một
đóng góp nhỏ về mặt thực tiễn nghèo đói ở địa phương. Từ đó, tác giả hy vọng
rằng các nhà hoạch định chiến lược phát triển ở Ninh Thuận sẽ có cơ sở rõ ràng
khi quyết định lựa chọn chiến lược.
Cuối cùng, tác giả rất mong nhận được những ý kiến trao đổi và đóng góp.
6
Chương 1
TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ BẰNG CHỨNG VỀ NGHÈO
ĐÓI
1.1. Khái niệm nghèo đói:
Khái niệm về nghèo đói hay nhận dạng về nghèo đói của từng quốc gia
hay từng vùng, từng nhóm dân cư nhìn chung không có sự phân biệt đáng kể.
Tiêu chí chung nhất để xác định nghèo đói là mức thu nhập hay chi tiêu để thỏa
mãn những nhu cầu cơ bản của con người về: ăn, ở, mặc, y tế, giáo dục, văn hóa,
đi lại và giao tiếp xã hội. Sự khác nhau chung nhất thường là ở chỗ thỏa mãn ở
mức cao hay thấp mà thôi, điều này phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế -
xã hội cũng như phong tục tập quán của từng vùng, từng quốc gia.
Ở Việt Nam, một khái niệm về đói nghèo thường được sử dụng là khái
niệm được đưa ra tại hội nghị về chống nghèo đói do Ủy ban kinh tế xã hội khu
vực châu Á - Thái Bình Dương tổ chức ở Thái Lan năm 1993 và được các quốc
gia trong khu vực thống nhất. Khái niệm này cho rằng: “Nghèo đói là tình trạng
một bộ phận dân cư không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con
người mà những nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội,
phong tục tập quán của từng vùng và những phong tục ấy được xã hội thừa
nhận.”
Tương tự với quan điểm trên là quan điểm của nhà kinh tế học người Mỹ
Galbraith: “Con người bị coi là nghèo khổ khi mà thu nhập của họ, ngay dù khi
thích đáng để họ tồn tại, rơi xuống rõ rệt dưới mức thu nhập của cộng đồng. Khi
đó, họ không thể có những gì mà đa số trong cộng đồng coi như là cái cần thiết
tối thiểu để sống một cách đúng mức.” (Bộ LĐTBXH, 2003)
Một khái niệm khác nhưng cụ thể hơn về nghèo đói được đưa ra tại hội
nghị Thượng đỉnh thế giới và phát triển xã hội tổ chức tại Copenhagen, Đan
Mạch năm 1995: “Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn dưới 1
đô la (USD) một ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ để mua những sản
phẩm thiết yếu để tồn tại.”
Riêng Ngân hàng thế giới, qua thời gian cũng có những cách tiếp cận
khác nhau về nghèo trong các báo cáo của mình. Trong Báo cáo năm 1990, định
nghĩa nghèo đói của tổ chức này bao gồm tình trạng thiếu thốn các sản phẩm và
dịch vụ thiết yếu như giáo dục, y tế, dinh dưỡng. Đến năm 2000/2001, Báo cáo
đã thêm vào khái niệm những nét mới như tình trạng bị gạt ra bên lề xã hội hay
tình dễ bị tổn thương: “Xét về mặt phúc lợi, nghèo có nghĩa là khốn cùng.
7
Nghèo có nghĩa là đói, không có nhà cửa, quần áo, ốm đau và không có ai chăm
sóc, mù chữ và không được đến trường. Nhưng đối với người nghèo, sống trong
cảnh bần hàn còn mang nhiều ý nghĩa hơn thế. Người nghèo đặc biệt dễ bị tổn
thương trước những sự kiện bất thường nằm ngoài khả năng kiểm soát của họ.
Họ thường bị các thể chế của nhà nước và xã hội đối xử tàn tệ, bị gạt ra bên lề
xã hội nên không có tiếng nói và quyền lực trong các thể chế đó.”
Tất cả những tiêu chí đói nghèo này đều hoàn toàn phù hợp với những gì
mà trước đây Amartya Sen gọi là “khả năng mà một con người có được, đó là
quyền tự do đáng kể mà họ được hưởng để vươn tới một cuộc sống mà họ mong
muốn” (Sen, 1981). Rõ ràng là tình trạng thiếu thốn nêu trên đã hạn chế đáng
kể khả năng này của người nghèo.
Tuy nhiên, quan niệm của chính người nghèo ở nước ta cũng như một số
quốc gia khác trên thế giới về nghèo đói thì lại đơn giản hơn, trực diện hơn rất
nhiều. Những đoạn trích từ Báo cáo phát triển thế giới 2001 của WB dưới đây
cho thấy cái mà người nghèo nhận thức về cuộc sống trong cảnh đói nghèo của
mình:
“Đừng hỏi tôi đói nghèo là gì vì ông đã thấy nó ngay từ bên ngoài nhà tôi. Hãy quan sát
ngôi nhà và xem nó có bao nhiêu lỗ thủng trên đó. Hãy nhìn những đồ đạc trong nhà và
những quần áo tôi đang mang trên người. Hãy quan sát tất cả và ghi lại những gì ông
thấy. Cái mà ông thấy chính là đói nghèo đó.”
Một người nghèo ở Kênia
“Nghèo đói là sự hổ thẹn, cảm giác phải phụ thuộc vào người khác và buộc phải chấp
nhận sự bạo hành, sỉ nhục, thái độ thờ ơ khi tìm kiếm sự giúp đỡ.”
Một người nghèo ở Latvia
“Nghèo đói đồng nghĩa với nhà ở bằng tranh, tre, nứa, lá tạm bợ, xiêu vẹo, dột nát;
không đủ đất đai sản xuất, không có trâu bò, không có Tivi, con cái thất học, ốm đau
không có tiền đi khám chữa bệnh… “
Một người nghèo ở Việt Nam
Tóm lại, tất cả những quan niệm về nghèo đói nêu trên đều phản ánh ba
khía cạnh chủ yếu của người nghèo:
• Có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư.
• Không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho con
người
• Thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng.
8
1.2. Các phương pháp xác định đối tượng nghèo hiện nay:
Các phương pháp sử dụng nhằm đo mức độ nghèo và xác định đối tượng
nghèo ở Việt Nam có thể được phân loại thành những nhóm sau:
• Chi tiêu của hộ
Phương pháp này dựa vào các cuộc điều tra chi tiêu của hộ như ĐTMSDC
1993 và 1998 hay ĐTMSHGĐ 2002. Những cuộc điều tra này bao gồm những
thông tin chi tiết về chi tiêu của hộ. Thông tin này có thể được dùng để tính
chuẩn nghèo, đo bằng mức chi tiêu đầu người cần thiết để đảm bảo đủ 2100
Kcalo một ngày, dựa vào cách mà hộ phân bổ chi tiêu của họ giữa các hạng mục
lương thực và phi lương thực. Những hộ có chi tiêu đầu người dưới chuẩn nghèo
được xếp vào diện nghèo. Tỷ lệ nghèo được tính bằng tỷ lệ dân số có mức chi
tiêu dưới chuẩn nghèo.
Hạn chế chính của phương pháp này là điều tra chi tiêu đầu người thường
rất tốn kém, mẫu thường nhỏ cho nên ước tính nghèo đói thường có sai số. Trong
ĐTMSDC 1993 và 1998, không thể tính tỷ lệ nghèo đáng tin cậy ở cấp tỉnh trở
xuống. ĐTMSHGĐ 2002 cho phép ta tính được tỷ lệ nghèo đáng tin cậy cho cấp
vùng, và có thể cho cấp tỉnh, nhưng phương pháp chi tiêu của hộ không thể dùng
ở cấp huyện, chưa nói đến là cấp xã hay cấp hộ.
• Vẽ bản đồ nghèo (Poverty mapping)
Đây là phương pháp được nhóm tác chiến bản đồ nghèo đói liên bộ sử
dụng để ước lượng các chỉ số đói nghèo ở các cấp xã, huyện và tỉnh ở Việt Nam,
còn gọi là “Phương pháp ước lượng diện tích nhỏ” (Nhóm tác chiến bản đồ đói
nghèo liên bộ, 2003). Phương pháp này kết hợp giữa phỏng vấn sâu của điều tra
hộ với phạm vi rộng của tổng điều tra dân số. Những cuộc điều tra hộ như
ĐTMSHGD sẽ thu thập thông tin không chỉ về chi tiêu của hộ, mà còn cả một
loạt các biến khác như quy mô, thành phần của hộ, trình độ học vấn của các
thành viên trong hộ, nghề nghiệp và tài sản của họ… Còn tổng điều tra dân số
không hỏi về chi tiêu, nhưng lại bao gồm những thông tin về nhiều biến số kể
trên.
Phương pháp vẽ bản đồ nghèo là gắn hai công cụ thống kê này thông qua
ba bước chính. Bước thứ nhất là xác định một loạt các biến số chung giữa cuộc
điều tra chi tiết và cuộc tổng điều tra dân số cùng thời kỳ. Thứ hai, tiến hành
phân tích thống kê để đánh giá mối quan hệ giữa mức chi tiêu bình quân đầu
người với những biến số này. Bước thứ ba là dùng những kết quả phân tích để
“dự báo” chi tiêu của hộ có trong tổng điều tra dân số. Mức chi tiêu dự báo này
dùng để đánh giá xem một hộ có nghèo hay không. Về mặt này, vẽ bản đồ vẫn
9
là một phương pháp dựa vào chi tiêu, nhưng nó dựa vào mức chi tiêu dự báo, chứ
không phải là chi tiêu thực tế của hộ. Phương pháp vẽ bản đồ nghèo cho phép
tính được tỷ lệ nghèo ở cấp thấp, được đo bằng tỷ lệ hộ nghèo trong tổng điều
tra dân số của mỗi tỉnh, huyện, thậm chí cả xã. Nhưng phương pháp này cũng
không thực sự là hoàn hảo bởi lẽ chi tiêu dự báo chỉ có thể ước tính với sai số.
• Phương pháp dựa vào thu nhập
Việc áp dụng nghiêm ngặt phương pháp tính theo thu nhập do Bộ
LĐTBXH đưa ra để đo mức nghèo có thể xếp vào loại này. Trên nguyên tắc,
phương pháp của Bộ LĐTBXH dựa trên điều tra gồm những câu hỏi về tài sản
và về thu nhập từ các nguồn khác nhau. Thu nhập từ tất cả các nguồn này được
cộng lại, chia cho số người trong hộ, và so sánh với một trong ba chuẩn nghèo
tùy theo xã đó thuộc vùng nào. Ở thành thị, chuẩn nghèo hiện nay là 150.000
đồng một tháng. Ở nông thôn vùng đồng bằng, chuẩn nghèo là 100.000 đồng, ở
miền núi, vùng sâu và hải đảo là 80.000. Những hộ có thu nhập hàng tháng thấp
hơn 50.000 đồng được xếp vào hộ đói ở mọi vùng. Tỷ lệ nghèo có thể được tính
bằng tỷ lệ dân số sống dưới chuẩn nghèo trong xã, huyện, hoặc tỉnh. (Quyết định
số 1143/2000/QĐ-LĐTBXH ngày 01/11/2000, áp dụng từ năm 2001)
Phương pháp này bị phê phán vì hai lý do: Thứ nhất, về mặt lý luận, các
mốc thu nhập dùng để phân loại hộ nghèo ở những loại xã khác nhau có tính chủ
quan, và chưa chắc đã so sánh được. Một hộ thành thị có thu nhập đầu người
150.000 đồng một tháng có thể nghèo hơn hoặc giàu hơn một hộ có thu nhập là
80.000 đồng một tháng ở vùng sâu hay miền núi. Nhưng trên thực tế, phương
pháp của Bộ LĐTBXH không được áp dụng đồng nhất ở các địa phương. Điển
hình là chỉ một phần trong số các hộ được điều tra, chủ yếu là những hộ đã nhận
giấy chứng nhận hộ nghèo, và một số hộ khác được coi là ở sát mức nghèo. Kết
quả điều tra thường không được chính quyền địa phương tính đến khi phân bổ
những khoản trợ giúp như miễn giảm học phí hoặc thẻ khám bệnh. Và chính
quyền địa phương thường đặt ra tỷ lệ nghèo mà không xem xét phương pháp của
Bộ LĐTBXH, rất giống với kiểu giao chỉ tiêu trước thời kế hoạch hóa tập trung.
• Phân loại của địa phương
Ưu điểm chính trong cách làm của Bộ LĐTBXH ở địa phương trên thực tế
lại là do các địa phương không tuân thủ một cách cứng nhắc phương pháp dựa
vào thu nhập nêu trong tài liệu hướng dẫn. Điểm căn bản trong việc xác định đối
tượng nghèo và phân bổ các khoản trợ giúp trên thực tế ở cấp địa phương là có
sự chi phối của một thiết chế theo tập tục truyền thống, đó là thôn. Mỗi thôn sẽ
lên danh sách những hộ nghèo và đói. Danh sách này được cập nhật một hoặc
hai lần trong một năm, khi mà những lợi ích như miễn học phí và thẻ khám chữa
10
bệnh được phát. Những hộ được coi là không nghèo thường không tham gia hội
đồng này vì họ ít có khả năng nhận được lợi ích gì. Nhiều khi, số kinh phí có
được không cho phép phân bổ những khoản trợ giúp cho tất cả những hộ được
xếp vào diện nghèo. Do đó, vấn đề là bàn xem ai sẽ nhận được những khoản trợ
giúp đó, cộng thêm những đánh giá chủ quan của hộ khác, ngoài những con số
về thu nhập. Phương pháp của Bộ LĐTBXH chỉ được sử dụng mỗi khi không đạt
được sự nhất trí liệu một hộ này hay một hộ khác sẽ được nhận trợ giúp.
Nhược điểm của phương pháp này là thiếu một quy tắc chặt chẽ để xác
định hộ nghèo và liệu việc thảo luận ở cấp thôn có thực sự thành công trong việc
xác định ai là người cần trợ giúp nhất hay không vẫn là một câu hỏi còn bỏ ngỏ.
Một nhược điểm nữa là nó hoàn toàn loại bỏ một số hộ ra khỏi việc xem xét
phân loại. Những hộ bị coi là không chịu chăm chỉ lao động hoặc không có trách
nhiệm xã hội hiếm khi nhận được trợ giúp, và thậm chí còn không được liệt vào
danh sách các hộ nghèo. Trên thực tế, việc không trợ giúp những hộ này có thể
gây thiệt thòi cho con cái của họ, những người hoàn toàn không có lỗi trong việc
cha mẹ chúng nghiện rượu hay không chịu làm việc.
• Xếp hạng giàu nghèo
Phương pháp này thường được sử dụng nhiều nhất trong các PPA
(Participatory Poverty Assessment), bao gồm một tập hợp những nhận xét về
hiện trạng của tất cả các hộ trong một cộng đồng. Ở Việt Nam, cộng đồng tiêu
biểu nhất là thôn. Một tỷ lệ đáng kể các hộ trong cộng đồng sẽ tập hợp nhau lại
để xếp thứ tự, hoặc thường là phân loại các hộ trong số đó. Trong những PPA
được thực hiện, những người tham dự được chọn sao cho có đủ nam, nữ, người
già, trẻ em, người nghèo và không nghèo. Đại diện của chính quyền địa phương,
thường có cả trưởng thôn cũng tham gia. Những cán bộ xã hội từ những tổ chức
phi chính phủ, hoặc các tổ chức nghiên cứu trong nước, đã làm quen với xã và
những vấn đề chính ảnh hưởng đến đời sống của các hộ trong đó, đứng ra làm
đầu mối liên hệ.
Việc phân loại hộ thường được thực hiện thông qua thảo luận nhóm nhằm
chỉ ra những đặc tính của người nghèo. Sau đó, những tờ phiếu có ghi tên tất cả
các hộ trong thôn được phân phát cho các đại biểu tham dự để họ phân loại hộ
vào các nhóm. Cuối cùng, trường hợp những hộ được phân loại khác nhau bởi ít
nhất hai thành viên sẽ được đem ra thảo luận trong cả nhóm. Việc thảo luận
nhằm tìm hiểu nguyên nhân của việc khác nhau, và tìm kiếm sự nhất trí liên
quan đến phân loại phù hợp cho mỗi trường hợp. Do vậy, công tác xếp hạng giàu
nghèo mang tính toàn diện hơn những phương pháp chỉ dựa vào chi tiêu hay thu
11
nhập không thôi, và khách quan hơn phương pháp tự đánh giá hoặc phân loại bởi
chính quyền địa phương. Tuy nhiên, phương pháp này có chi phí cao nhất.
1.3. Nguyên nhân của nghèo đói
Hiện rất khó để có thể chỉ ra được tất cả những nguyên nhân của nghèo.
Và cũng khó để phân biệt trong những yếu tố cơ bản có ảnh hưởng đến nghèo
thì đâu là nguyên nhân còn đâu là kết quả, cũng như sự tác động qua lại của
chúng đến khả năng thoát nghèo của người nghèo. Tuy nhiên nhìn chung thì
nghèo ở Việt Nam cũng có những nét riêng biệt được tạo nên từ nhiều nguyên
nhân tổng hợp có nguồn gốc từ những khác biệt về điều kiện tự nhiên, điều kiện
kinh tế-xã hội và điều kiện lịch sử. Những kết quả nghiên cứu về nghèo trước
đây đã chỉ ra những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng nghèo ở Việt Nam
như sau:
1.3.1. Nghề nghiệp, tình trạng việc làm và trình độ học vấn
• Nghề nghiệp gắn với sản xuất nông nghiệp
Xuất phát từ một nước có nền nông nghiệp lạc hậu, dân số sống tập trung
chủ yếu ở nông thôn (theo Niên giám thống kê năm 2002 tỷ lệ này là 74,89%)
và sản xuất chủ yếu là thuần nông, do đó đại bộ phận dân cư phải đối mặt với
những khó khăn thường gặp trong sản xuất nông nghiệp như thiên tai, dịch bệnh,
sâu bọ. Bên cạnh đó, tỷ lệ tăng dân số cao trong một giai đoạn dài trước đó càng
làm cho đời sống người dân, đặc biệt là người dân sống ở nông thôn thêm khó
khăn. Vùng sinh sống và nghề nghiệp vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của
những yếu tố khác như: trình độ học vấn, thiếu khả năng tiếp cận thông tin thị
trường, kỹ năng chuyên môn bị hạn chế, thiếu đất và thiếu việc làm thêm ngoài
nông nghiệp. Theo báo cáo của Văn phòng xóa đói giảm nghèo của Vụ Bảo trợ
xã hội thì vào năm 2002 có đến 87,9% hộ nghèo ở nông thôn. Kết quả nghiên
cứu của ĐTMSDC98 còn cho thấy những hộ có nghề chính là nông nghiệp có tỷ
lệ nghèo cao nhất (48%), chiếm 79% tổng số người nghèo.
Trong những năm gần đây, tuy tỷ trọng những hộ có chủ hộ làm việc
trong các ngành nông nghiệp có giảm đi và tỷ trọng các hộ có chủ hộ làm việc
trong các văn phòng hay dịch vụ bán hàng tăng lên nhưng không đáng kể. Mức
nghèo ở Việt Nam giảm chủ yếu là do tỷ lệ người nghèo trong từng nhóm nghề
nghiệp giảm chứ không phải do có sự chuyển dịch trong cơ cấu nghề nghiệp.
Những hộ mà có một nguồn thu nhập ổn định nào đó, chẳng hạn như tiền
lương từ công ăn việc làm thường xuyên hay từ các khoản chuyển nhượng phúc
lợi của xã hội thường được xếp vào nhóm các hộ sung túc hơn. Thường thì các
nguồn thu này không lớn nhưng điều quan trọng nhất của nó là tính ổn định và
12
đảm bảo. Những hộ sống nhờ vào những nguồn thu thất thường như làm thuê
theo ngày luôn cảm thấy thiếu an toàn kinh tế. Những hộ nghèo là những hộ có
đặc điểm này. Có thể nói rằng, thu nhập thấp và thất thường có thể làm cho một
hộ trở nên nghèo hơn.
• Trình độ học vấn thấp, thiếu kỹ năng làm việc và thông tin
Những người nghèo là những người có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội
kiếm được việc làm tốt, ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như chỉ đủ để ăn và
do vậy không có điều kiện để học tập nâng cao trình độ nhằm vươn lên thoát
nghèo. Bên cạnh đó, trình độ học vấn thấp còn ảnh hưởng đến các quyết định có
liên quan đến giáo dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng con cái…Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ
em và trẻ sơ sinh cao, khả năng đến trường của trẻ em gia đình nghèo thấp sẽ
làm cho các giải pháp thoát nghèo thông qua giáo dục trở nên khó khăn hơn.
Bảng 1.1: Trình độ học vấn của người nghèo ở Việt Nam 1998
Trình độ học vấn cao nhất Tỷ lệ nghèo (%) Tỷ lệ tính trong tổng
số người nghèo (%)
Tỷ lệ trong tổng dân
số (%)
Không được đi học
Tiểu học
Phổ thông cơ sở
Phổ thông trung học
Dạy nghề
Đại học
Tổng cộng
57
42
38
25
19
4
37
12
39
37
8
3
0
100
8
35
36
12
6
3
100
Nguồn: ĐTMSDC98, Tổng cục thống kê (1999)
ĐTMSDC98 cho thấy khoảng 90% người nghèo chỉ có trình độ phổ thông
cơ sở hoặc thấp hơn. Kết quả điều tra mức sống cho thấy, trong số người nghèo,
tỷ lệ người chưa bao giờ đi học chiếm 12%, tốt nghiệp tiểu học chiếm 39%; phổ
thông cơ sở chiếm 37%. Chi phí cho giáo dục đối với người nghèo còn lớn gây
không ít khó khăn cho họ trong việc tiếp cận với giáo dục nhiều hơn. Học vấn
thấp buộc chặt người nghèo với những công việc có thu nhập thấp trong nông
nghiệp và hạn chế khả năng tìm được việc trong các ngành phi nông nghiệp,
những công việc mang lại thu nhập cao hơn hay ít ra là ổn định hơn.
Trình độ học vấn đóng vai trò quan trọng trong quá trình giảm nghèo đói.
Cụ thể là tạo ra khả năng tiếp cận những vấn đề liên quan tới việc tiếp thu các
kiến thức kỹ thuật, kỹ năng làm việc và nắm bắt thông tin. Các nghiên cứu đói
nghèo có sự tham gia của người dân (PPA) trước đây đã cho thấy rằng những hộ
thuộc nhóm khá giả là những hộ thường xuyên tiếp xúc với cán bộ khuyến nông,
quan hệ với những người ở ngoài cộng đồng, tiếp cận với thông tin và với các
phương tiện truyền thông đại chúng.
13
1.3.2. Thiếu khả năng tiếp cận các nguồn lực
Người nghèo thường thiếu nguồn lực nhưng không có khả năng tiếp cận
nguồn lực. Không có nguồn lực để đầu tư, người nghèo lại càng nghèo hơn. Do
đó, họ thường rơi vào vòng luẩn quẩn của nghèo đói và thiếu nguồn lực.
• Thiếu đất
Hầu hết người dân Việt Nam sống bằng nông nghiệp cho nên diện tích và
chất lượng đất đóng vai trò quyết định đến mức sống của hộ. Không có đất,
thiếu đất, đất đai xấu hoặc không có quyền canh tác trên đất sẽ ngăn các hộ
phát triển các hoạt động nông nghiệp và đó là lý do khiến cho nhiều hộ nông
dân rơi vào hoàn cảnh không thể sản xuất đủ lương thực hoặc tạo ra thu nhập đủ
để nuôi sống gia đình họ.
Thêm vào đó, người nghèo chưa có nhiều cơ hội tiếp cận với các dịch vụ
sản xuất như khuyến nông, khuyến ngư nên vẫn thường sản xuất theo kiểu tự
cung tự cấp mà không có một phương án sản xuất nào có thể mang lại lợi nhuận
cao hơn. Do vẫn theo phương pháp truyền thống nên năng suất và giá trị cây
trồng, vật nuôi thấp, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường và kết quả là họ dễ
rơi vào nghèo khổ hơn.
Theo luật pháp Việt Nam hiện nay, đất không thuộc quyền sở hữu của hộ
nhưng họ được giao quyền sử dụng đất trong thời gian dài (thường từ 20 đến 50
năm tùy thuộc vào từng loại đất) và họ cũng có quyền chuyển nhượng. Người
nghèo do không có khả năng sản xuất và túng thiếu nên thường chuyển nhượng
quyền sử dụng cho các hộ giàu. Chính vì vậy mà dù người dân được chia đất một
cách bình đẳng theo các tiêu chuẩn quốc tế thì những hộ nghèo vẫn thường có ít
đất hơn so với các hộ giàu. Bảng 1.2 cho thấy diện tích đất canh tác cây hàng
năm và cây lâu năm của các hộ tăng lên theo nhóm chi tiêu bình quân đầu
người, với số lượng đất trồng cây hàng năm của các hộ thuộc nhóm giàu nhất lớn
hơn diện tích của các hộ ở nhóm thấp nhất tới 1,4 lần. Sự khác biệt còn lớn hơn
nhiều ở diện tích trồng cây lâu năm tính trên đầu người: 6 lần.
Bảng 1.2: Diện tích đất nông nghiệp của hộ gia đình Việt Nam phân theo nhóm chi tiêu (m2)
Nghèo Khá nghèo Trung bình Khá giàu Giàu
Tổng diện tích đất 6437 6953 7138 6928 9856
Trong đó:
Diện tích trồng cây hàng năm 3600 3928 4625 4414 5081
Diện tích trồng cây lâu năm 613 845 1016 1485 3527
Nguồn: Ngân hàng thế giới ước tính dựa trên số liệu ĐTMSDC98
• Hạn chế tiếp cận các nguồn tín dụng chính thức
14
Theo Waheed (1996), thiếu vốn đầu tư dẫn đến năng suất thấp, kéo theo
thu nhập hộ gia đình t._.hấp. Thu nhập thấp dẫn đến tiết kiệm thấp. Tiết kiệm thấp
lại là nguyên nhân của sự thiếu hụt vốn đầu tư, và lại dẫn đến thu nhập thấp.
Không đủ vốn, người nghèo không thể làm gì được; từ việc cơ bản nhất là mua
giống cây trồng vật nuôi hay phân thuốc chứ đừng nói đến việc cải tiến sản xuất
hay áp dụng khoa học kỹ thuật mới. Muốn thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn này
cần phải có nguồn vốn từ bên ngoài, trong trường hợp này là nguồn vốn vay hay
vốn tín dụng từ các tổ chức tín dụng chính thức và phi chính thức, hay từ các dự
án cấp tín dụng cho người nghèo của chính phủ.
Tuy nhiên, qua các nghiên cứu cho thấy1, ở Việt Nam, người nghèo
thường bị hạn chế trong việc tiếp cận được với các nguồn tín dụng chính thức
của chính phủ trong lúc các nguồn phi chính thức có ít khả năng giúp hộ gia đình
thoát nghèo. Mặc dù hiện nay có rất nhiều nguồn, nhiều dự án cung cấp tín dụng
cho người nghèo thông qua các chương trình quốc gia về XĐGN nhưng vẫn còn
rất nhiều người rất nghèo không thể tiếp cận được các nguồn tín dụng này.Có
nhiều nguyên nhân, loại trừ sự nhũng nhiễu của người có quyền quyết định thì
nguyên nhân còn lại là do người nghèo thiếu hiểu biết, thiếu hiểu biết, không có
khả năng thế chấp, không biết cách làm ăn dẫn đến không có khả năng trả nợ.
Và rồi họ tiếp tục nghèo hơn.
“Nợ nần làm cho chúng tôi thức trắng đêm - cảm giác nợ nần thật là khủng
khiếp. Tôi cảm thấy khiếp sợ mỗi khi có chủ nợ đến nhà đòi tiền còn bản thân
thì không thể trả được. Tôi cảm thấy xấu hổ vì lúc đó họ rất coi thường tôi.”
(PPA tại Trà Vinh, Oxfam Anh).
1.3.3. Những đặc điểm về nhân khẩu học
• Bất bình đẳng giới ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của phụ nữ và trẻ
em
Bất bình đẳng giới làm sâu sắc hơn tình trạng đói nghèo trên tất cả các
mặt. Ngoài những bất công mà cá nhân người phụ nữ và trẻ em gái phải gánh
chịu thì còn có những tác động bất lợi đối với gia đình.
Phụ nữ chiếm gần 50% trong tổng số lao động nông nghiệp và chiếm tỷ
trọng cao trong số lao động tăng thêm hàng năm trong ngành nông nghiệp. Thế
nhưng chỉ có 25% phụ nữ tham gia các khóa khuyến nông về chăn nuôi và 10%
1 Tham khảo (Phạm Vũ Lửa Hạ, 2003 trong Làm gì cho nông thôn Việt Nam?), (Trần Văn Bích, 1999
trong Hộ gia đình Việt Nam nhìn qua phân tích định lượng) và Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và
xóa đói giảm nghèo của Việt Nam 11/2003.
15
các khóa khuyến nông về trồng trọt (Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa
đói giảm nghèo của Việt Nam 11/2003).
Phụ nữ có ít cơ hội tiếp cận với công nghệ, tín dụng và đào tạo, đồng thời
phải chịu nhiều gánh nặng công việc gia đình, thiếu quyền quyết định và thường
được trả công lao động thấp hơn nam giới ở cùng một loại việc. Phụ nữ có học
vấn thấp dẫn tới tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh và bà mẹ cao hơn, sức khỏe gia đình bị
ảnh hưởng và trẻ em đi học ít hơn.
Ngoài ra, bất bình đẳng giới còn là yếu tố gia tăng tỷ lệ sinh và tăng tỷ lệ
lây nhiễm HIV do phụ nữ thiếu tiếng nói và khả năng tự bảo vệ trong quan hệ
tình dục.
• Tỷ lệ người sống lệ thuộc cao
Quy mô hộ gia đình là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến mức thu nhập
bình quân của các thành viên trong hộ. Đông con vừa là nguyên nhân vừa là hệ
quả của nghèo đói. Tỷ lệ sinh trong các hộ gia đình nghèo còn rất cao. Năm
1998, số con bình quân trên 1 phụ nữ của nhóm 20% nghèo nhất là 3,5 con so
với mức 2,1 con của nhóm giàu nhất. Quy mô hộ gia đình lớn làm cho tỷ lệ
người ăn theo tăng cao. Tỷ lệ người ăn theo của nhóm nghèo nhất là 0,95 so với
0,37 của nhóm giàu nhất. Do đó, những hộ này không những có ít lao động, đồng
nghĩa với việc có nhiều người ăn theo hơn mà còn phải chịu những chi phí lớn
hơn như chi cho việc đi học hay chi cho việc khám chữa bệnh, những khoản chi
thường gây bất ổn cho đời sống kinh tế gia đình.
Số liệu của ĐTMSDC98 cũng cho thấy rằng một hộ thuộc nhóm nghèo
nhất với một em học tiểu học và hai em học trung học cơ sở sẽ phải dành 7,3%
tổng chi tiêu gia đình cho việc học hành (năm 1993 con số này là 6,5%). Chi phí
học hành này thường chiếm khoảng 23% các chi tiêu ngoài lương thực thực
phẩm. Cho nên cũng dễ hiểu khi các PPA cho thấy các hộ nghèo thường cho con
thôi học trong những lúc gia đình gặp khó khăn hay lâm vào khủng hoảng.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ sinh cao trong các hộ nghèo
là do họ không có kiến thức cũng như điều kiện tiếp cận với các biện pháp sức
khỏe sinh sản. Tỷ lệ phụ nữ cũng như nam giới sử dụng biện pháp tránh thai
chưa cao. Mức độ hiểu biết của các cặp vợ chồng nghèo về vệ sinh, an toàn tình
dục, cũng như mối liên hệ giữa tình trạng nghèo đói, sức khỏe sinh sản và gia
tăng nhân khẩu còn hạn chế.
Cũng theo chu kỳ của đời sống gia đình thì những hộ mới tách riêng có
khả năng nghèo nhiều hơn, đặc biệt là những hộ sinh sống bằng nông nghiệp.
Ban đầu các hộ này thường phải nhờ vào sự giúp đỡ của gia đình để sử dụng đất
16
nông nghiệp nhưng thường là diện tích đất nhỏ hoặc kém chất lượng. Trong khi
đó cơ hội làm ăn phi nông nghiệp lại ít. Mức tăng thu nhập dưới dạng tiền công
làm thuê thường rất thấp và không ổn định. Điều này không cho phép họ có đủ
khả năng trang trải cho nhu cầu tiêu dùng tối thiểu.
Những hộ bị mất đi lao động chính do bị chết, bỏ gia đình đi hay tách hộ
cũng thường được xếp vào nhóm hộ nghèo nhất (Báo cáo phát triển Việt Nam
2000, tr.24). Số liệu của ĐTMSDC 1998 cho thấy những hộ này thường là có chủ
hộ là nữ và phụ nữ sống độc thân phần lớn là nghèo hơn so với nam giới sống
độc thân.
1.3.4. Sự cách biệt với xã hội
Cách biệt với xã hội thường thể hiện ở hai mặt là quan hệ xã hội và
khoảng cách địa lý. Trong mối quan hệ xã hội, hộ nào có được mối quan hệ tốt
hơn với những người xung quanh thì có thể được giúp đỡ, hỗ trợ trong những thời
điểm khó khăn. Điều này càng có ý nghĩa đặc biệt đối với những hộ ở vùng sâu,
vùng xa, vùng cao, nơi mà những hỗ trợ chính thức từ chính quyền thường đến
rất chậm. Ở vùng trung du và đồng bằng, những hộ quan hệ tốt và gần gũi với
giới chức lãnh đạo địa phương sẽ có vị thế tốt khi tiếp cận với các chương trình
và dịch vụ hỗ trợ của chính phủ hơn.
Cách biệt về địa lý làm cho các hộ hạn chế giao lưu với thế giới bên
ngoài và hầu như không có điều kiện để tiếp xúc những sáng kiến hay thông tin
mới. Các số liệu thu được từ ĐTMSDC 1998 cho thấy hầu hết người dân sống ở
các làng xã có điều kiện đi lại được. Chỉ có 4% sống ở các làng bản xa đường
giao thông (hơn 5km) hoặc có đường giao thông nhưng việc đi lại khó khăn
(không đi lại được trong vòng 3 tháng hoặc hơn trong một năm) và không có
đường thủy thay thế. Tuy nhiên, trong số 4% này, tỷ lệ người nghèo nhiều hơn
gấp 2 lần so với nhóm người còn lại.
Ngoài ra, sự cô lập cũng chứa đựng phần nào yếu tố về giới. Ở Việt Nam,
công việc của phụ nữ thường là ở nhà, tủn mủn và bận rộn nhiều hơn nam giới,
và do đó họ ít có cơ hội tiếp xúc xã hội, tham dự vào những cuộc hội họp của
làng. Thậm chí họ không có quyền để thảo luận và quyết định. Cho nên, hộ
nghèo có chủ hộ là nữ đôi khi cảm thấy rất xa lạ với những quyết định có liên
quan đến chính bản thân họ.
1.3.5. Những hạn chế của người dân tộc thiểu số
Ở Việt Nam, người Kinh là nhóm dân tộc đông nhất, chiếm khoảng 85%
dân số, thường sống ở đồng bằng. Ngoài ra còn có khoảng 53 dân tộc khác được
xếp vào nhóm “dân tộc ít người” hay “dân tộc thiểu số”. Phần lớn các dân tộc
17
này sống ở vùng cao, vùng sâu (trừ người Hoa chủ yếu sống ở các khu đô thị). Ở
những vùng này, sự xa xôi cách trở, thiếu cơ sở hạ tầng, sự cô lập về địa lý và
xã hội càng trầm trọng hơn rất nhiều. Đó là chưa kể đến sự khác biệt về văn
hóa, ngôn ngữ hay định kiến của người dân đối với người dân tộc. Do đó, họ dễ
bị tách biệt khỏi xã hội nhiều hơn người Kinh, dẫn đến tỷ lệ học sinh đi học và
biết chữ thấp, đặc biệt là an ninh lương thực không đảm bảo bởi thời tiết thất
thường cộng với năng suất sản xuất thấp do thiếu kỹ năng canh tác. Chính vì thế,
những hộ thuộc nhóm dân tộc ít người nghèo hơn rất nhiều so với đa số người
Kinh.
Hình 1.1: Tỷ lệ nghèo theo thành phần dân tộc (%)
54
86
31
75
23
69
0
20
40
60
80
100
Người Kinh Dân tộc thiểu số
ch
ỉ s
ố
đe
ám
đ
ầu
n
gư
ời
(%
)
1993
1998
2002
Nguồn: Ước tính của Ngân hàng thế giới dựa vào số liệu của ĐTMSDC93 và ĐTMSDC98
Số liệu ĐTMSDC93 và ĐTMSDC98 cho thấy tỷ lệ nghèo đói ở các dân
tộc ít người cao hơn gấp 2 lần so với người Kinh (75% so với 31%). Tốc độ giảm
nghèo của nhóm dân tộc thiểu số ở giai đoạn 1993-1998 cũng chậm hơn (11% so
với 23%). Gay gắt hơn, số liệu ĐTMSHGĐ 2002 cho thấy tỷ lệ nghèo đói của
các dân tộc ít người là gấp 3 lần so với người Kinh. Sở dĩ có tình trạng như vậy
là do trong khoảng thời gian từ 1998-2002, tốc độ giảm nghèo ở nhóm dân tộc
thiểu số vẫn tiếp tục chậm hơn (6% so với 8%).
1.4. Những nét chính về tình hình nghèo đói trên thế giới và ở Việt Nam
1.4.1. Tình hình nghèo đói trên thế giới
Thế giới có một sự đói nghèo sâu sắc xen lẫn sự giàu có (World
Development Report 2000/2001). Đó có lẽ là nghịch lý lớn nhất trong một xã hội
toàn cầu vốn được xem là ngày càng văn minh, hiện đại và dân chủ hơn. Trong
số 6 tỷ người của thế giới thì có 2,8 tỷ người sống dưới mức 2 USD một ngày và
18
1,2 tỷ người (tức một phần năm) sống dưới mức 1 USD một ngày, 44% số này
sống ở Nam Á. Trong khi ở các nước giàu, trung bình trong 100 đứa trẻ có chưa
đến một trẻ không sống được đến tuổi thứ 5 thì ở những nước nghèo nhất tỷ lệ
này là một phần năm. Tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng ở những nước giàu có chưa
đến 5% nhưng con số này ở nước nghèo lên tới 50%.
Cảnh khốn cùng vẫn tồn tại cho dù loài người đã không ngừng đạt được
những thành tựu đáng kể để cải tạo cuộc sống, cải tạo thế giới. Các nhà khoa
học đã đánh giá rằng hiện nay loài người trên thực tế đã sản xuất đủ lương thực,
thực phẩm để nuôi sống toàn bộ dân số trên hành tinh nếu tính lượng Kcalo bình
quân đầu người. Nhưng sự phân chia thành quả toàn cầu này lại hết sức bất
công. 20% dân giàu tiêu dùng 87-90% giá trị sản phẩm của toàn thế giới; 6% số
người giàu nhất đã tiêu dùng 35-40% sản phẩm của thế giới.
Ở một cách nhìn khác, nếu coi toàn bộ thế giới theo từng chỉ tiêu như
GNP, thương mại thế giới, tích lũy và đầu tư là 100% thì ta có thể thấy 20% dân
số giàu nhất thế giới chiếm dụng 87,5% GNP; 84,2% thương mại thế giới; 85%
tích lũy; 85% đầu tư. 20% dân số nghèo nhất chiếm các chỉ tiêu tương ứng là
1,4%; 0,9%; 0,7% và 0,9% (Lê Xuân Bá, 2001). Sự phân cực giàu nghèo rõ ràng
rất nghiệt ngã, một nhóm người thì có tất cả còn một nhóm người thì lại hầu như
không có gì.
Không chỉ có ở các nước nghèo, nghèo đói cũng tồn tại ở những nước
giàu. Tại các nước công nghiệp phát triển tính đến năm 1998 vẫn còn hơn 100
triệu người nghèo và hơn 100 triệu người không có nhà ở. Tuy nhiên, cái nghèo
ở những nước này là nằm trong sự so sánh với tầng lớp thượng lưu, nghĩa là
nghèo tương đối. Tại Liên minh châu Âu (EU), có 57 triệu người (chiếm 17%
dân số) phải sống trong cảnh nghèo khổ, cứ 6 người dân thì có 1 người sống
trong một gia đình nghèo khó. Châu Mỹ cũng có 364 triệu người nghèo (chiếm
13,3% dân số châu lục này)…
Trên thực tế, nghèo đói và quá trình giảm nghèo đói ở những phần khác
nhau của thế giới thì khác nhau rất xa (Bảng 1.3). Ở Đông Á, số dân sống dưới
mức 1 USD một ngày đã giảm từ khoảng 420 triệu người xuống còn khoảng 280
triệu người từ năm 1987 đến 1998. Nhưng ở Mỹ Latinh, Nam Á và Nam Sahara
châu Phi, số người nghèo đang tăng lên. Tại các nước châu Âu và Trung Á đang
chuyển sang nền kinh tế thị trường, số người sống dưới mức 1 USD một ngày đã
tăng hơn 20 lần.
19
Bảng 1.3: Đói nghèo theo thu nhập, phân theo vùng trong một số năm, giai đoạn 1987-1998
Số người sống dưới 1 USD một ngày (triệu) Vùng
1987 1990 1993 1996 1998a
Đông Á và Thái Bình Dương
Trừ Trung Quốc
Châu Âu và Trung Á
Mỹ Latinh và Caribê
Trung Đông và Bắc Phi
Nam Á
Nam Sahara châu Phi
Tổng
Trừ Trung Quốc
417,5
114,1
1,1
63,7
9,3
474,4
217,2
1.183,2
879,8
452,4
92,0
7,1
73,8
5,7
495,1
242,3
1.276,4
915,9
431,9
83,5
18,3
70,8
5,0
505,1
273,3
1.304,3
955,9
265,1
55,1
23,8
76,0
5,0
531,7
289,0
1,190,6
980,5
287,3
65,1
24,0
78,2
5,5
522,0
290,9
1.198,9
985,7
Số người sống dưới 1 USD một ngày (%) Vùng
1987 1990 1993 1996 1998a
Đông Á và Thái Bình Dương
Trừ Trung Quốc
Châu Âu và Trung Á
Mỹ Latinh và Caribê
Trung Đông và Bắc Phi
Nam Á
Nam Sahara châu Phi
Tổng
Trừ Trung Quốc
26,6
23,9
0,2
15,3
4,3
44,9
46,6
28,3
28,5
27,6
18,5
1,6
16,8
2,4
44,0
47,7
29,0
28,1
25,2
15,9
4,0
15,3
1,9
42,4
49,7
28,1
27,7
14,9
10,0
5,1
15,6
1,8
42,3
48,6
24,5
27,0
15,3
11,3
5,1
15,6
1,9
40,0
46,3
24,0
26,2
a. Tính sơ bộ
Nguồn: Ngân hàng thế giới 2000a
Từ năm 1987 đến năm 1998, tỷ lệ dân số của các nền kinh tế đang phát
triển và đang chuyển đổi sống dưới mức 1 USD một ngày đã giảm từ 28% xuống
còn 24%. Mức giảm này thấp hơn mục tiêu quốc tế đề ra là đến năm 2015 giảm
được một nửa số người nghèo cùng cực theo thu nhập.
Do tăng trưởng dân số nên khó thay đổi số người sống trong cảnh đói
nghèo. Nhưng kết quả đạt được cũng khác nhau xa giữa các khu vực. Đông Á,
Trung Đông và Bắc Phi đều đã giảm được số người nghèo, giảm mạnh nhất là
Đông Á. Nhưng trong những khu vực khác thì số người sống dưới 1 USD một
ngày lại tăng. Ví dụ như ở Nam Á, số người nghèo trong thập kỷ vừa qua đã tăng
từ 474 triệu người lên 522 triệu, mặc dù tỷ lệ người nghèo đã giảm từ 45%
xuống còn 40%. Ở Mỹ Latinh và Caribê, số người nghèo đã tăng khoảng 20%.
Có hai khu vực đặc biệt yếu kém. Tại châu Âu và Trung Á, số người
trong diện đói nghèo đã tăng mạnh từ 1,1 triệu lên đến 24 triệu. Tại Nam Sahara
châu Phi, số người nghèo tăng từ mức đã cao là 217 triệu lên đến 291 triệu trong
cùng thời gian đó, khiến gần một nửa số dân của châu lục này là người nghèo.
Những khác biệt về thành tích giảm nghèo của các khu vực đã làm dịch
chuyển sự phân bố giàu nghèo theo khu vực địa lý. Theo đó, vào năm 1998,
20
Nam Á và Nam Sahara châu Phi chiếm khoảng 70% số dân sống dưới mức 1
USD một ngày, tăng 10 điểm phần trăm so với năm 1987.
Hình 1.2: Đói nghèo ở các nước đang phát triển đang chuyển sang Nam Á và Nam Sahara Châu Phi
Nguồn: Báo cáo về tình hình phát triển thế giới 2000/2001
Các chỉ số xã hội ở các nước đang phát triển nói chung đều đã được cải
thiện trong ba thập kỷ qua. Ví dụ như tỷ lệ tử vong ở trẻ em đã giảm từ 107 trẻ
trên 1.000 ca sinh năm 1970 xuống còn 59 năm 1998. Nhưng mức giảm từ năm
1990 đến năm 1998 chỉ còn 10%, trong khi muốn đạt được mục tiêu phát triển
quốc tế thì con số này phải là 30%.
Những con số tổng hợp này cũng khác nhau ở mỗi vùng trên thế giới.
Tuổi thọ bình quân ở Nam Sahara châu Phi vẫn chỉ ở mức 52 năm, ít hơn 13 năm
so với mức trung bình của các nước đang phát triển, ít hơn 25 năm so với mức
trung bình của OECD. Một trong những nguyên nhân chính là tỷ lệ tử vong cao
đến mức không chấp nhận được ở vùng này, 90 trên 1000 dân. Tỷ lệ này ở Nam
Á cũng rất cao (77). Các con số này đều vượt quá mức trung bình của OECD là 6
trên 1000 dân. Đại dịch AIDS càng làm vấn đề trầm trọng hơn, khiến tỷ lệ tử
vong trẻ em tăng mạnh ở nhiều nước châu Phi. Từ năm 1990 đến năm 1997, tỷ
lệ tử vong trẻ em đã tăng từ 62 lên đến 74 ở Kênia và từ 52 lên đến 69 ở
Dimbabuê. Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh trong khu vực này cũng cao bất thường,
trong số 12 nước trên thế giới có tỷ lệ này vượt quá 1.000 ca trên 100.000 ca sinh
thì 10 nước là ở Nam Sahara châu Phi.
Sự chênh lệch cũng diễn ra tương tự trong các chỉ số về giáo dục. Nam Á
đã tăng được tỷ trọng số học sinh học tiểu học từ 77% lên trên 100% trong giai
Năm 1987
Nam Á
40,1%
Trung
Đông và
Bắc Phi
0,8%
Đông Á
và Thái
Bình
Dương
35,3%
Châu Phi
Hạ Sahara
18,4%
Châu Âu
và Trung
Á
0,1%
Châu Mỹ
Latinh và
vùng
Caribê
5,4%
Năm 1998
Châu Âu
và Trung
Á
2%
Châu Mỹ
Latinh và
vùng
Caribê
6,5%
Châu Phi
Hạ Sahara
24,3%
Đông Á
và Thái
Bình
Dương
23,2%
Trung
Đông và
Bắc Phi
0,5%
Nam Á
43,5%
21
đoạn 1982-1996. Nhưng tỷ lệ này của Nam Sahara châu Phi vẫn dừng ở mức
74% (từ năm 1982 đến 1993 thậm chí còn giảm). Các chỉ số khác về giáo dục đã
khẳng định mức độ nghiêm trọng của sự chênh lệch theo vùng. Gần như thành
tích giảm được tỷ lệ mù chữ trong các nước đang phát triển đều tập trung ở Đông
Á. Trái lại, số người mù chữ đã tăng thêm 17 triệu người ở Nam Á và 3 triệu
người ở Nam Sahara châu Phi. Đây cũng là vùng có tỷ lệ học sinh học tiểu học
ròng thấp nhất.
1.4.2. Kinh nghiệm của một số tổ chức quốc tế và một số nước về xóa đói
giảm nghèo
1.4.2.1. Kinh nghiệm của một số tổ chức quốc tế
Đấu tranh chống nghèo đói hiện đang là vấn đề rất cấp bách không chỉ
của riêng một vùng hay một quốc gia nào mà còn là của toàn thế giới. Điều này
xảy ra vì hai nhu cầu bức thiết chính: Một là, nghèo đói ở từng vùng, từng quốc
gia đang ngày ngày đe dọa đến sự ổn định và an toàn xã hội. Muốn tránh được
xung đột xã hội có thể xảy ra, mỗi vùng hay mỗi quốc gia phải quan tâm đến
việc giảm nghèo khổ, điều hòa lợi ích giữa các nhóm dân cư không để khoảng
cách giàu nghèo quá lớn, quá sức chịu đựng của xã hội. Hai là, xu thế toàn cầu
hóa đang buộc các quốc gia phải mở rộng tính dân chủ. Khẩu hiệu chung về một
xã hội công bằng có trật tự kinh tế và phân phối tiến bộ khiến cho các quốc gia
phải có những chính sách, những hành động cụ thể để hội nhập.
Vì vậy, một mặt việc xóa đói giảm nghèo là trách nhiệm của chính phủ
từng nước; mặt khác, các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ
tiền tệ quốc tế (IMF), Hiệp hội phát triển quốc tế (IDA), chương trình phát triển
của Liên hiệp quốc (UNDP)… giữ vai trò quan trọng giúp các quốc gia giảm bớt
gánh nặng nghèo đói.
Biện pháp đầu tiên thường được sử dụng là chu cấp các khoản vay có gắn với
các điều kiện giải ngân theo các chương trình xóa đói giảm nghèo. Đây được đánh
giá là một biện pháp trực tiếp và có nhiều yếu tố tích cực nếu quá trình tổ chức thực
hiện hạn chế được lãng phí và tham nhũng của các quan chức trung gian.
Tiếp theo đó là những nỗ lực của các quốc gia công nghiệp phát triển.
Hội nghị thượng đỉnh Rio năm 1992 đã đề ra một công ước chung, theo đó viện
trợ phát triển cho các quốc gia nghèo thuộc thế giới thứ ba cần phải chiếm 0,7%
tổng sản phẩm xã hội của các quốc gia công nghiệp phát triển với mục tiêu đóng
góp vào việc giảm số người nghèo trên thế giới. Tính đến cuối thế kỷ XX, quốc
gia dẫn đầu về thực hiện Công ước này là Hà Lan và Thụy Điển, họ chi tới trên
0,8% GNP. Các nước khác như Anh đã chi trong năm 1999 là 0,24%, sang năm
22
2000 tăng lên 0,31%. Sau đó là Thụy Sĩ 0,34%, Pháp 0,33%. Riêng Cộng hòa
liên bang Đức năm 1998 đã chi 0,4% GNP cho viện trợ phát triển, nhưng đến
đầu thế kỷ XXI chính phủ Đức lại giảm xuống mức thấp nhất từ trước tới nay
còn 0,27%.
Biện pháp tiếp theo là gián tiếp, thường tập trung vào các giải pháp dãn
nợ, giảm nợ đối với những quốc gia rơi vào cảnh nghèo đói đến mức mất khả
năng trả nợ. Trong số các sự kiện liên quan đến sự việc này, trước hết phải kể
đến các hội nghị thường niên của WB và IMF về xử lý nợ cho các nước nghèo,
các câu lạc bộ như Câu lạc bộ Pari, Câu lạc bộ Luân Đôn… Chẳng hạn tại hội
nghị ở Washington (tháng 10/1996) đã quyết định giảm ít nhất 5,6 tỷ USD nợ
của khoảng 20 nước nghèo nhất trên thế giới, và đến những năm gần đây con số
giảm nợ đã lên đến hàng chục tỷ USD.
Các biện pháp thường tập trung vào giải quyết những vấn đề phát sinh
lớn, như trong lĩnh vực bảo hiểm, thiết lập một hệ thống can thiệp của các công
ty bảo hiểm và nhà nước vào những thiệt hại lớn do thiên tai gây ra… Ngoài ra,
còn có các hoạt động của những tổ chức nhân đạo, như Hội chữ thập đỏ quốc tế,
UNICEF… cũng thường tổ chức các hỗ trợ nhân đạo, tiêm chủng mở rộng, cung
cấp nước sạch, tóm lại là hướng vào các hoạt động hỗ trợ người nghèo, lấy người
nghèo đói làm trung tâm, đối tượng để triển khai các dự án hỗ trợ và giúp đỡ.
Tuy vậy trên thực tế, hiệu quả đích thực của các biện pháp mà các nước
giàu, cũng như các tổ chức quốc tế đưa ra để giúp đỡ các nước nghèo thường rất
hạn chế và rất không cơ bản. Chẳng hạn các biện pháp đầu tư phát triển và hỗ
trợ thương mại cho các nước nghèo rút cuộc thường làm cho các nước nghèo chịu
nhiều thua thiệt trong “các luật chơi” của thị trường thế giới. Theo BBC ngày
20/5/2001, một báo cáo do Oxfam đưa ra cho thấy, những biện pháp hạn chế về
thương mại mà các nước giàu áp dụng đã làm cho các nước nghèo nhất thế giới
thiệt hại một khoản thu ngoại tệ lớn là 2,5 tỷ USD/năm. Ví dụ, ở Bangladesh, cứ
1 USD nhận được từ viện trợ của Mỹ thì trên thực tế lại bị thiệt hại 7 USD do
những hạn chế thương mại mà Mỹ áp đặt, và còn bị thiệt hại gấp 5 lần như thế
nếu so với 1 USD viện trợ nhận được từ Canada.
Có thể nói rằng, thời gian qua các nước công nghiệp phát triển nhất chỉ
toàn đưa ra những lời hứa hão với các nước nghèo của thế giới thứ ba về viện
trợ, giảm nợ và thương mại. Lời nói còn cách quá xa so với việc làm cụ thể.
Khoảng 11% hàng hóa xuất khẩu của các nước nghèo (LDC) phải chịu mức thuế
quan trên 15%, cao gấp ba lần thuế quan đánh vào hàng hóa cùng loại nhập từ
các nước khác. Các nước công nghiệp phát triển thuộc tổ chức hợp tác và phát
triển kinh tế (OECD) hứa tăng hỗ trợ phát triển cho các nước LDC lên 0,2%
23
GNP của họ. Nhưng kể từ đó cho đến nay, OECD đã giảm 3,5 tỷ USD, và mức
viện trợ bình quân đầu người của họ đã giảm. Trong khi đó họ lại trợ giá nông
sản (thường là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của các nước nghèo) trong nước lên
tới 1 tỷ USD/ngày, tương đương với tổng GDP của tất cả các nước LDC.
1.4.2.2. Kinh nghiệm giảm nghèo của một số nước
Cuộc đấu tranh chống nghèo khổ đang ngày càng được chú trọng và trở
thành vấn đề chung của mọi quốc gia, nhưng cho đến nay các quan niệm về
nghèo đói, cũng như các giải quyết, lựa chọn biện pháp xóa đói giảm nghèo
cũng rất khác nhau.
• Tuynidi
Trong 25 năm cuối cùng của thế kỷ 20, Tuynidi đã tăng được gấp đôi
GDP, chẳng những thế mà còn giảm được tỷ lệ tăng dân số xuống dưới
2%/năm, giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp. Người nghèo đói ở Tuynidi được hưởng
trợ cấp lương thực của chính phủ. Theo quan điểm của chính phủ Tuynidi, việc
duy trì chính sách trợ cấp lương thực cho người nghèo đói là mục tiêu lâu dài
chưa thể xóa bỏ ngay được. Điều đó xuất phát từ nhu cầu thiết thực nhằm ổn
định chính trị và xã hội để phát triển kinh tế. Những chính sách cải cách kinh tế
của chính phủ Tuynidi đều gắn liền với các chương trình xã hội, và chính sách
xã hội đến lượt nó đã thực sự có tác động tích cực trở lại. Chẳng hạn, do phát
triển y tế và giáo dục mà chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện; do chú ý
đầu tư vào cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội nên kinh tế có điều kiện phát triển khắp
các vùng từ nông thôn đến thành thị; thực thi hiệu quả những chính sách nhằm
hướng tới nâng cao mức sống của người nghèo; và cuối cùng nhờ sự kết hợp hài
hòa giữa các chính sách phát triển kinh tế và phát triển xã hội mà lãnh đạo chính
trị và bộ máy chính quyền nhận được sự ủng hộ của nhân dân, họ tích cực tham
gia vào các chương trình hành động của chính phủ. Nhờ đó, nhà nước truyền
thống của Tuynidi vẫn duy trì ổn định, phát huy tốt hiệu lực, giảm tệ nạn tham
nhũng…
Có thể nói Tuynidi là điển hình của châu Phi, nhưng nếu so sánh với các
“con hổ” châu Á thì vẫn còn một khoảng cách khá xa, ví dụ như ở Hàn Quốc
• Hàn Quốc
Trước những năm 60, Hàn Quốc có xuất phát điểm là rất nghèo nàn về tài
nguyên thiên nhiên, vốn và công nghệ khi thực hiện chính sách và chiến lược phát
triển kinh tế theo hướng xuất khẩu. Các chính sách và chiến lược ấy đã hứa hẹn
rằng nghèo đói sẽ được loại bỏ trong quá trình tăng trưởng GNP. Kết quả là Hàn
Quốc đã đạt tốc độ tăng trưởng GNP cao kỷ lục khoảng 9%/năm trong suốt thời kỳ
1962-1988. Và nếu căn cứ vào chuẩn nghèo tuyệt đối của năm 1988 được áp dụng
24
cho các hộ nông dân là 5525 USD/năm/hộ thì tỷ lệ số hộ nghèo đói năm đó đã giảm
xuống còn 6,5% so với 33,7% năm 1967.
Thế nhưng do phát triển kinh tế quá nhanh nên bức tranh nghèo đói tương
đối lại hoàn toàn khác. Chuẩn nghèo đói tương đối áp dụng cho các hộ nông dân
năm 1988 ở Hàn Quốc là 7324 USD/năm/hộ. Tỷ lệ nghèo đói tương đối trong
nông thôn tính cho năm 1988 là 17,9% so với 36,1% năm 1967 và 31,6% năm
1970. Điều đó chứng tỏ tăng trưởng kinh tế thực sự đã làm giảm tỷ lệ số hộ
thuộc diện nghèo đói ở nông thôn. Tuy vậy, chuẩn nghèo ở Hàn Quốc lại phân
biệt khá rõ giữa các vùng thành phố lớn, thành phố vừa và nhỏ và vùng nông
thôn. Chuẩn nghèo ở vùng nông thôn chỉ bằng 80% chuẩn nghèo ở thành phố lớn
và bằng 90% chuẩn nghèo ở thành phố vừa và nhỏ. Nhìn chung, tỷ lệ các hộ
nghèo tương đối vùng nông thôn tuy có giảm nhưng vẫn còn chậm hơn so với tỷ
lệ số hộ nghèo tuyệt đối, hố ngăn cách giàu nghèo có dãn ra nhanh chóng nhưng
nhìn chung cho đến năm 1993 thì hệ số Gini vẫn không quá lớn, chỉ khoảng trên
0,31.
Trong những năm 90, Hàn Quốc đã đạt được những tiến bộ vượt bậc trong
công cuộc giảm đói nghèo: tỷ lệ đói nghèo ở thành thị đã giảm trung bình xuống
còn 20% một năm trong giai đoạn 1990-1997 và không có sự gia tăng bất bình
đẳng. Nhưng khi khủng hoảng nổ ra thì thất nghiệp và đói nghèo đã tăng lên
nhanh chóng. Diện đói nghèo ở khu vực thành thị đã tăng gấp đôi từ 9% năm
1997 lên đến 19,2% năm 1998. Thất nghiệp tăng từ 2,6% trong quý 2 năm 1997
lên tới đỉnh điểm là 8,7% vào đầu năm 1999. Mức lương thực tế giảm 20,7%.
Chính sách tài khóa mở rộng năm 1998 và 1999 đóng vai trò thiết yếu để ngăn
chặn suy thoái kinh tế. Chi tiêu cho bảo trợ xã hội đã tăng ba lần – từ 0,6% năm
1997 lên 2,0% năm 1999. Chính phủ đã sử dụng ba công cụ bảo trợ xã hội chính
để giúp đỡ người thất nghiệp, người nghèo và người già. Đó là: Mở rộng chương
trình bảo hiểm thất nghiệp, tạo ra thêm việc làm công cộng và ban hành chương
trình bảo đảm nguồn sống. Và những chương trình như vậy được đánh giá là đã
có tác động tốt tới người nghèo. Tính đến cuối năm 2001, tỷ lệ nghèo đếm đầu ở
Hàn Quốc chỉ có 4% và GDP bình quân đầu người là 19.400 USD.
Rõ ràng Hàn Quốc là nước tiêu biểu cho chính sách phát triển kinh tế bứt
lên trước, xử lý nghèo đói theo sau và đã có những thành công nhất định.
• Bangladesh
Là một nước nông nghiệp, dân số khoảng 120 triệu, trên 80% sinh sống
tại nông thôn và bằng nghề nông, thu nhập bình quân đầu người chỉ khoảng 120-
150 USD năm 1999, trên 50% số hộ nông dân không có ruộng, cuộc sống của
phần lớn trong số họ nằm dưới mức nghèo khổ. Nhưng từ khi xuất hiện hình thức
25
cấp tín dụng cho người nghèo của Grameen Bank (năm 1976), mà người đặt nền
móng là giáo sư Yunus, trường đại học Chittagong, người nghèo ở Bangladesh
đã được hưởng một sự giúp đỡ thật sự hiệu quả.
Theo thống kê đến tháng 10 năm 2003, hai mươi năm sau ngày chính thức
thành lập, Grameen Bank đã có 3,02 triệu người đến vay, trong đó 95% là phụ
nữ. Tổng số khoản nợ còn lưu hành là 262,71 triệu USD, tổng số vốn cho vay
tính từ ngày thành lập là 4,12 tỷ USD trong đó 3,73 tỷ USD đã được hoàn trả lại.
Tỷ số hoàn trả là 99,08%. Grameen Bank cho vay theo nhóm “bạn nợ” mà
không phải thế chấp và áp dụng nhiều lãi suất khác nhau tùy theo mục đích vay
và đối tượng. Làm như thế, ngân hàng này đã dựa trên hai nguyên tắc cơ bản là
tín nhiệm nhau và liên đới chịu trách nhiệm tập thể giữa các người nghèo. Đồng
thời, Grameen Bank cũng chứng minh được rằng người nghèo có khả năng chi
trả và vi tín dụng cùng có hiệu quả ở hai phía người đi vay và người cho vay.
Nhận xét chung của những người nghiên cứu ngân hàng này là nó rất kiên
trì mục tiêu phục vụ người nghèo và khai thác triệt để những đặc điểm của người
nghèo, khơi dậy mặt tích cực của họ. Nhờ đó số hộ nghèo tự vươn lên thoát
nghèo bằng các khoản vay nhỏ từ Grameen Bank đang tăng lên ngày một
nhiều.
• Trung quốc
Trong số các nước chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường,
Trung Quốc là một thành công điển hình. Từ những năm sau cuộc cải cách 1978,
Trung Quốc đã giảm tỷ lệ nghèo một cách ngoạn mục thông qua những chính
sách cải cách đặc biệt và tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Theo chuẩn nghèo của
quốc gia thì số người nghèo đã giảm từ 200 triệu vào năm 1981 xuống còn 28
triệu vào năm 2002. Mặt khác, dùng chuẩn nghèo theo thu nhập 1 USD/ngày
của Ngân hàng thế giới, số người nghèo đã giảm từ khoảng 490 triệu người
xuống còn 88 triệu người trong cùng giai đoạn. Tỷ lệ nghèo đã giảm từ 49% năm
1981 còn 6,9% năm 2002.
Trung Quốc đã đạt được thành quả giảm nghèo thần tốc như vậy chủ yếu
là nhờ vào tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. GDP thực tăng trung bình 9,4% trong
giai đoạn 1979-2003. Sự tăng trưởng nhanh này là kết quả của những cải cách
liên tục và sự thay đổi cơ cấu chuyển từ kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế
thị trường, từ nông nghiệp sang dịch vụ, mở cửa thương mại quốc tế và trao đổi
công nghệ. Nghèo đói ở Trung Quốc là một hiện tượng ở nông thôn (vào đầu
những năm 80, nghèo tuyệt đối ở thành thị chỉ có 0,3% trong khi nghèo tuyệt đối
ở nông thôn là 28%). Do sự di cư nông thôn ra thành thị bị hạn chế cho nên việc
phát triển nông thôn là yếu tố quan trọng nhất để giảm nghèo. Vào những năm
đầu của thập niên 80, khi mà tăng trưởng khu vực nông thôn nở rộ do những cải
26
cách trong thể chế, bao gồm những thay đổi trong việc sở hữu đất, sản xuất và
giá thu mua, tỷ lệ nghèo ở Trung Quốc đã giảm còn một nửa từ 49% xuống còn
24% theo chuẩn 1USD/ngày, số người nghèo ở nông thôn giảm từ 250 triệu vào
năm 1978 còn 125 ._.lao dong truong thanh
Levene
Statistic df1 df2 Sig.
,354 4 600 ,842
Sig. =0,842 > 0,05 => Phương sai về học vấn giữa các nhóm chi tiêu là giống nhau
ANOVA
Hoc van lao dong truong thanh
Sum of
Squares df
Mean
Square F Sig.
Between Groups 674,300 4 168,575 13,559 ,000
Within Groups 7459,512 600 12,433
Total 8133,812 604
Multiple Comparisons
Dependent Variable: Hoc van lao dong truong thanh
Bonferroni (Phân tích ANOVA dùng trong trường hợp phương sai bằng nhau)
95% Confidence Interval
(I) Ngheo
647_7770
(J) Ngheo
647_7770
Mean
Difference
(I-J) Std. Error Sig.
Lower
Bound
Upper
Bound
Nghèo
Khá nghèo -1,5482(*) ,33244 ,000 -2,4848 -,6116
Trung bình -1,9153(*) ,44588 ,000 -3,1715 -,6590
Khá giàu -3,6275(*) ,84987 ,000 -6,0219 -1,2330
Nghèo
Giàu -4,9072(*) ,91922 ,000 -7,4971 -2,3174
Nghèo 1,5482(*) ,33244 ,000 ,6116 2,4848
Khá nghèo
Trung bình -,3670 ,41647 1,000 -1,5404 ,8063
Khá nghèo
Khá giàu -2,0792 ,83482 ,130 -4,4313 ,2728
106
Giàu -3,3590(*) ,90532 ,002 -5,9097 -,8083
Nghèo 1,9153(*) ,44588 ,000 ,6590 3,1715
Khá nghèo ,3670 ,41647 1,000 -,8063 1,5404
Trung bình
Khá giàu -1,7122 ,88612 ,538 -4,2088 ,7844
Trung bình
Giàu -2,9920(*) ,95284 ,018 -5,6766 -,3074
Nghèo 3,6275(*) ,84987 ,000 1,2330 6,0219
Khá nghèo 2,0792 ,83482 ,130 -,2728 4,4313
Trung bình 1,7122 ,88612 ,538 -,7844 4,2088
Khá giàu
Khá giàu
Giàu -1,2798 1,19640 1,000 -4,6506 2,0910
Nghèo 4,9072(*) ,91922 ,000 2,3174 7,4971
Khá nghèo 3,3590(*) ,90532 ,002 ,8083 5,9097
Trung bình 2,9920(*) ,95284 ,018 ,3074 5,6766
Khá giàu 1,2798 1,19640 1,000 -2,0910 4,6506
Giàu
Giàu
* The mean difference is significant at the .05 level.
107
Phụ lục 4
24. Kiểm định trình độ học vấn trung bình của chủ hộ với nhóm chi tiêu
Descriptives
Hoc van chu ho
N Mean
Std.
Deviation Std. Error
95% Confidence Interval
for Mean Minimum Maximum
Lower
Bound
Upper
Bound
Nghèo 183 3,6721 3,50065 ,25878 3,1615 4,1827 ,00 12,00
Khá nghèo 292 4,4760 3,58732 ,20993 4,0629 4,8892 ,00 16,00
Trung bình 95 5,5263 3,73267 ,38296 4,7659 6,2867 ,00 12,00
Khá giàu 19 6,9474 4,28789 ,98371 4,8807 9,0141 ,00 16,00
Giàu 16 8,7500 4,21900 1,05475 6,5019 10,9981 ,00 16,00
Total 605 4,5884 3,75282 ,15257 4,2888 4,8881 ,00 16,00
Test of Homogeneity of Variances
Hoc van chu ho
Levene
Statistic df1 df2 Sig.
,362 4 600 ,836
Sig. =0,836 > 0,05 => Phương sai về trình độ học vấn trung bình của chủ hộ là giống nhau
ANOVA
Hoc van chu ho
Sum of
Squares df
Mean
Square F Sig.
Between Groups 623,727 4 155,932 11,869 ,000
Within Groups 7882,792 600 13,138
Total 8506,519 604
Multiple Comparisons
Dependent Variable: Hoc van chu ho
Bonferroni (Dùng trong trường hợp phương sai bằng nhau)
95% Confidence Interval
(I) Ngheo
647_7770
(J) Ngheo
647_7770
Mean
Difference
(I-J) Std. Error Sig.
Lower
Bound
Upper
Bound
Nghèo
Khá nghèo -,8039 ,34174 ,190 -1,7667 ,1589
Trung bình -1,8542(*) ,45835 ,001 -3,1456 -,5628
Khá giàu -3,2752(*) ,87365 ,002 -5,7367 -,8138
Nghèo
Giàu -5,0779(*) ,94494 ,000 -7,7402 -2,4155
Nghèo ,8039 ,34174 ,190 -,1589 1,7667
Khá nghèo
Trung bình -1,0503 ,42812 ,144 -2,2565 ,1559
Khá nghèo
Khá giàu -2,4713(*) ,85818 ,041 -4,8892 -,0535
108
Giàu -4,2740(*) ,93065 ,000 -6,8960 -1,6519
Nghèo 1,8542(*) ,45835 ,001 ,5628 3,1456
Khá nghèo 1,0503 ,42812 ,144 -,1559 2,2565
Trung bình
Khá giàu -1,4211 ,91092 1,000 -3,9875 1,1454
Trung bình
Giàu -3,2237(*) ,97950 ,011 -5,9834 -,4640
Nghèo 3,2752(*) ,87365 ,002 ,8138 5,7367
Khá nghèo 2,4713(*) ,85818 ,041 ,0535 4,8892
Trung bình 1,4211 ,91092 1,000 -1,1454 3,9875
Khá giàu
Khá giàu
Giàu -1,8026 1,22988 1,000 -5,2678 1,6625
Nghèo 5,0779(*) ,94494 ,000 2,4155 7,7402
Khá nghèo 4,2740(*) ,93065 ,000 1,6519 6,8960
Trung bình 3,2237(*) ,97950 ,011 ,4640 5,9834
Khá giàu 1,8026 1,22988 1,000 -1,6625 5,2678
Giàu
Giàu
* The mean difference is significant at the .05 level.
Phụ lục 5
25. Kiểm định giá trị chi tiêu trung bình giữa 2 nhóm giới tính của chủ hộ
Group Statistics
Gioi tinh cua chu
ho N Mean
Std.
Deviation
Std. Error
Mean
Nữ 225 2410,01 1042,236 69,482 Chi tieu binh
quan Nam 380 3031,40 1671,400 85,741
Independent Samples Test
Levene's Test
for Equality of
Variances t-test for Equality of Means
F Sig. t df
Sig. (2-
tailed)
Mean
Differe
nce
Std.
Error
Differe
nce
95% Confidence
Interval of the
Difference
Lower Upper
Equal
variances
assumed
14,876 ,000 -5,027 603 ,000 -621,40 123,611 -864,159 -378,639
Chi
tieu
binh
quan
Equal
variances
not assumed
-5,631 601,401 ,000 -621,40 110,360 -838,137 -404,661
Kiểm định phương sai (Xem cột thứ 4) bảng 2
Sig. =0,000 Phương sai chi tiêu của 2 nhóm giới tính chủ hộ là khác nhau
109
Dùng kết quả kiểm định t ở dòng thứ 2 cột 7 bảng 2:
Sig. =0,000 Sự khác biệt giá trị chi tiêu trung bình giữa 2 nhóm giới tính chủ
hộ là có ý nghĩa.
110
Phụ lục 6
26. Kiểm định số người phụ thuộc trung bình theo nhóm chi tiêu
Descriptives
So nguoi phu thuoc
N Mean
Std.
Deviation Std. Error
95% Confidence Interval
for Mean Minimum Maximum
Lower
Bound
Upper
Bound
Nghèo 183 2,4699 1,64013 ,12124 2,2307 2,7092 ,00 7,00
Khá nghèo 292 1,9863 1,47131 ,08610 1,8168 2,1558 ,00 7,00
Trung bình 95 1,6632 1,28502 ,13184 1,4014 1,9249 ,00 5,00
Khá giàu 19 1,7895 ,85498 ,19615 1,3774 2,2016 ,00 3,00
Giàu 16 1,0000 ,96609 ,24152 ,4852 1,5148 ,00 3,00
Total 605 2,0496 1,50524 ,06120 1,9294 2,1698 ,00 7,00
Test of Homogeneity of Variances
So nguoi phu thuoc
Levene
Statistic df1 df2 Sig.
3,908 4 600 ,004
Sig. = 0,004 Phương sai về số người phu thuộc trung bình khác nhau
ANOVA
So nguoi phu thuoc
Sum of
Squares df Mean Square F Sig.
Between Groups 66,604 4 16,651 7,674 ,000
Within Groups 1301,909 600 2,170
Total 1368,512 604
Multiple Comparisons
Dependent Variable: So nguoi phu thuoc
Tamhane (Dùng trong trường hợp phương sai khác nhau)
95% Confidence Interval
(I) Ngheo
647_7770
(J) Ngheo
647_7770
Mean
Difference
(I-J) Std. Error Sig.
Lower
Bound
Upper
Bound
Nghèo
Khá nghèo ,4836(*) ,14870 ,012 ,0647 ,9026
Trung bình ,8068(*) ,17911 ,000 ,3006 1,3130
Khá giàu ,6805 ,23059 ,056 -,0099 1,3708
Nghèo
Giàu 1,4699(*) ,27025 ,000 ,6352 2,3047
Nghèo -,4836(*) ,14870 ,012 -,9026 -,0647
Khá nghèo
Trung bình ,3231 ,15747 ,346 -,1232 ,7694
Khá nghèo
Khá giàu ,1968 ,21421 ,990 -,4592 ,8528
111
Giàu ,9863(*) ,25641 ,011 ,1754 1,7972
Nghèo -,8068(*) ,17911 ,000 -1,3130 -,3006
Khá nghèo -,3231 ,15747 ,346 -,7694 ,1232
Trung bình
Khá giàu -,1263 ,23634 1,000 -,8304 ,5777
Trung bình
Giàu ,6632 ,27516 ,213 -,1815 1,5078
Nghèo -,6805 ,23059 ,056 -1,3708 ,0099
Khá nghèo -,1968 ,21421 ,990 -,8528 ,4592
Trung bình ,1263 ,23634 1,000 -,5777 ,8304
Khá giàu
Khá giàu
Giàu ,7895 ,31114 ,154 -,1496 1,7285
Nghèo -1,4699(*) ,27025 ,000 -2,3047 -,6352
Khá nghèo -,9863(*) ,25641 ,011 -1,7972 -,1754
Trung bình -,6632 ,27516 ,213 -1,5078 ,1815
Khá giàu -,7895 ,31114 ,154 -1,7285 ,1496
Giàu
Giàu
* The mean difference is significant at the .05 level.
Phụ lục 7
27. Kiểm định mối quan hệ giữa nhóm chi tiêu và nhóm dân tộc
Case Processing Summary
Cases
Valid Missing Total
N Percent N Percent N Percent
Thanh phan dan toc
chia 2 nhom * Ngheo
647_7770
605 100,0% 0 ,0% 605 100,0%
Thanh phan dan toc chia 2 nhom * Ngheo 647_7770 Crosstabulation
% within Thanh phan dan toc chia 2 nhom
Ngheo 647_7770
Nghèo
Khá
nghèo
Trung
bình Khá giàu Giàu Total
Kinh 22,1% 52,5% 19,0% 3,3% 3,1% 100,0%Thanh phan
dan toc chia
2 nhom
Thiểu số 48,9% 38,6% 8,2% 2,7% 1,6% 100,0%
Total 30,2% 48,3% 15,7% 3,1% 2,6% 100,0%
Chi-Square Tests
112
Value df
Asymp.
Sig. (2-
sided)
Pearson Chi-Square 46,364(a) 4 ,000
Continuity Correction
Likelihood Ratio 45,541 4 ,000
Linear-by-Linear
Association 29,064 1 ,000
N of Valid Cases 605
a 1 cells (10,0%) have expected count less than 5. The minimum expected count is 4,87
Sig. = 0,000 Bác bỏ giả thiết H0 (Hai biến độc lập)
Kết luận: Thành phần dân tộc có quan hệ với nhóm chi tiêu.
113
Phụ lục 8
28. Kiểm định tỷ lệ con được đi học với nhóm dân tộc
Group Statistics
Thanh phan dan
toc chia 2 nhom N Mean
Std.
Deviation
Std. Error
Mean
Thiểu số 171 ,2198 ,31211 ,02387 Ty le tre con di
hoc Kinh 393 ,2538 ,34768 ,01754
Independent Samples Test
Levene's Test
for Equality of
Variances t-test for Equality of Means
F Sig. t df
Sig.
(2-
tailed
)
Mean
Differen
ce
Std.
Error
Differen
ce
95% Confidence
Interval of the
Difference
Lower Upper
Equal variances
assumed 6,149 ,013 -1,102 562 ,271 -,0341 ,03090 -,09476 ,02663
Ty le tre
con di
hoc
Equal variances
not assumed -1,150 357,887 ,251 -,0341 ,02962 -,09231 ,02418
Kiểm định phương sai:
Sig. =0,013 Phương sai khác nhau
Kiểm định thống kê t:
Sig. = 0,71 > 0,05 => Chấp nhận giả thiết H0 (Trung bình hai nhóm là bằng nhau)
Kết luận: Sự khác biệt giữa tỷ lệ trẻ con đi học của dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh chỉ
là do ngẫu nhiên.
114
Phụ lục 9
Kiểm định giá trị trung bình của khoảng cách đến trung tâm mua bán với
nhóm chi tiêu
Descriptives
Khoang cach den trung tam mua ban
N Mean
Std.
Deviation Std. Error
95% Confidence Interval
for Mean Minimum Maximum
Lower
Bound
Upper
Bound
Nghèo 94 1,755 1,2588 ,1298 1,497 2,013 ,0 8,0
Khá nghèo 134 1,328 1,3080 ,1130 1,105 1,552 ,0 10,0
Trung bình 35 1,543 1,2912 ,2183 1,099 1,986 ,0 8,0
Khá giàu 5 1,200 1,0954 ,4899 -,160 2,560 ,0 3,0
Giàu 6 1,333 ,8165 ,3333 ,476 2,190 1,0 3,0
Total 274 1,500 1,2846 ,0776 1,347 1,653 ,0 10,0
Test of Homogeneity of Variances
Khoang cach den trung tam mua ban
Levene
Statistic df1 df2 Sig.
2,086 4 269 ,083
Sig. = 0,083 > 0,05 => Phương sai bằng nhau
ANOVA
Khoang cach den trung tam mua ban
Sum of
Squares df Mean Square F Sig.
Between Groups 10,756 4 2,689 1,645 ,163
Within Groups 439,744 269 1,635
Total 450,500 273
Multiple Comparisons
Dependent Variable: Khoang cach den trung tam mua ban
Bonferroni (Dùng trong trường hợp phương sai bằng nhau)
95% Confidence Interval
(I) Ngheo
647_7770
(J) Ngheo
647_7770
Mean
Difference
(I-J) Std. Error Sig.
Lower
Bound
Upper
Bound
Nghèo
Khá nghèo ,427 ,1720 ,137 -,060 ,914
Trung bình ,212 ,2532 1,000 -,504 ,929
Khá giàu ,555 ,5868 1,000 -1,106 2,216
Nghèo
Giàu ,422 ,5384 1,000 -1,102 1,946
Khá nghèo Nghèo -,427 ,1720 ,137 -,914 ,060
115
Khá nghèo
Trung bình -,214 ,2427 1,000 -,901 ,472
Khá giàu ,128 ,5824 1,000 -1,520 1,777
Giàu -,005 ,5335 1,000 -1,515 1,505
Nghèo -,212 ,2532 1,000 -,929 ,504
Khá nghèo ,214 ,2427 1,000 -,472 ,901
Trung bình
Khá giàu ,343 ,6113 1,000 -1,387 2,073
Trung bình
Giàu ,210 ,5649 1,000 -1,389 1,809
Nghèo -,555 ,5868 1,000 -2,216 1,106
Khá nghèo -,128 ,5824 1,000 -1,777 1,520
Trung bình -,343 ,6113 1,000 -2,073 1,387
Khá giàu
Khá giàu
Giàu -,133 ,7742 1,000 -2,325 2,058
Nghèo -,422 ,5384 1,000 -1,946 1,102
Khá nghèo ,005 ,5335 1,000 -1,505 1,515
Trung bình -,210 ,5649 1,000 -1,809 1,389
Khá giàu ,133 ,7742 1,000 -2,058 2,325
Giàu
Giàu
116
Phụ lục 10
Ưùơc lượng tham số mô hình hồi quy đánh giá những nhân tố tác động lên chi
tiêu bình quân đầu người ở Ninh Thuận
Dependent Variable: TEST
Method: Least Squares
Date: 10/18/04 Time: 10:21
Sample: 1 605
Included observations: 605
Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob.
DTOC -0.245458 0.034969 -7.019256 0.0000
GIOI_CHU 0.195023 0.033449 5.830429 0.0000
QUYMO_HO -0.086134 0.008328 -10.34219 0.0000
CO_VIEC 0.389970 0.090016 4.332240 0.0000
LAM_NONG -0.287561 0.042107 -6.829283 0.0000
CO_DAT 0.242920 0.038619 6.290205 0.0000
DTICHDAT 0.012931 0.002232 5.792370 0.0000
CO_VAY 0.123583 0.032124 3.847122 0.0001
C 7.810328 0.085433 91.42074 0.0000
R-squared 0.361451 Mean dependent var 7.826920
Adjusted R-squared 0.352880 S.D. dependent var 0.462968
S.E. of regression 0.372429 Akaike info criterion 0.877224
Sum squared resid 82.66722 Schwarz criterion 0.942756
Log likelihood -256.3602 F-statistic 42.17079
Durbin-Watson stat 1.459608 Prob(F-statistic) 0.000000
117
Phụ lục 11
Redundant Variables: TUOI_CHU HOC_CHU HOC_LAM SO_CON
TYLE_PHÁT TRIỂN
F-statistic 0.974182 Probability 0.432798
Log likelihood ratio 4.965859 Probability 0.420061
Test Equation:
Dependent Variable: TEST
Method: Least Squares
Date: 10/17/04 Time: 22:30
Sample: 1 605
Included observations: 605
Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob.
CO_DAT 0.242920 0.038619 6.290205 0.0000
CO_VAY 0.123583 0.032124 3.847122 0.0001
CO_VIEC 0.389970 0.090016 4.332240 0.0000
DTICHDAT 0.012931 0.002232 5.792370 0.0000
DTOC -0.245458 0.034969 -7.019256 0.0000
GIOI_CHU 0.195023 0.033449 5.830429 0.0000
LAM_NONG -0.287561 0.042107 -6.829283 0.0000
QUYMO_HO -0.086134 0.008328 -10.34219 0.0000
C 7.810328 0.085433 91.42074 0.0000
R-squared 0.361451 Mean dependent var 7.826920
Adjusted R-squared 0.352880 S.D. dependent var 0.462968
S.E. of regression 0.372429 Akaike info criterion 0.877224
Sum squared resid 82.66722 Schwarz criterion 0.942756
Log likelihood -256.3602 F-statistic 42.17079
Durbin-Watson stat 1.459608 Prob(F-statistic) 0.000000
Theo kết quả bảng trên, vì thống kê F = 0,974182 có xác suất p =
0,432798 nên ta chấp nhận giả thiết cho rằng các biến TUOI_CHU, HOC_CHU,
HOC_LAM, SO_CON, TYLE_PT là biến không cần thiết trong mô hình hồi quy.
Wald Test:
Equation: Untitled
Null Hypothesis: C(9)=0
C(10)=0
C(11)=0
C(12)=0
C(13)=0
F-statistic 0.974182 Probability 0.432798
Chi-square 4.870910 Probability 0.431837
Vì p(F = 0.974182) = 0,432798 > 0,05 nên ta chấp nhận giả thiết không,
tức hệ số hồi quy của các biến TUOI_CHU, HOC_CHU, HOC_LAM, SO_CON,
TYLE_PT bằng 0 là có ý nghĩa. Vì vậy ta không đưa các biến này vào mô hình.
Phụ lục 12
118
White Heteroskedasticity Test:
F-statistic 1.163963 Probability 0.237001
Obs*R-squared 42.70895 Probability 0.239179
Test Equation:
Dependent Variable: RESID^2
Method: Least Squares
Date: 10/17/04 Time: 23:11
Sample: 1 605
Included observations: 605
Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob.
C 0.117339 0.100136 1.171801 0.2418
DTOC 0.114184 0.112630 1.013794 0.3111
DTOC*GIOI_CHU 0.094146 0.048046 1.959501 0.0505
DTOC*QUYMO_HO -0.023543 0.010867 -2.166461 0.0307
DTOC*CO_VIEC -0.050895 0.145528 -0.349729 0.7267
DTOC*LAM_NONG 0.044644 0.092428 0.483018 0.6293
DTOC*CO_DAT -0.037787 0.052673 -0.717389 0.4734
DTOC*DTICHDAT -0.000513 0.003152 -0.162820 0.8707
DTOC*CO_VAY -0.036019 0.042687 -0.843789 0.3991
GIOI_CHU 0.122762 0.129804 0.945751 0.3447
GIOI_CHU*QUYMO_HO -0.017832 0.010972 -1.625149 0.1047
GIOI_CHU*CO_VIEC -0.031643 0.134860 -0.234639 0.8146
GIOI_CHU*LAM_NONG -0.078867 0.052636 -1.498354 0.1346
GIOI_CHU*CO_DAT 0.027469 0.047822 0.574408 0.5659
GIOI_CHU*DTICHDAT 0.005197 0.003263 1.592826 0.1118
GIOI_CHU*CO_VAY 0.072639 0.041004 1.771503 0.0770
QUYMO_HO -0.038995 0.042511 -0.917294 0.3594
QUYMO_HO^2 0.003880 0.001824 2.127597 0.0338
QUYMO_HO*CO_VIEC -0.006444 0.042213 -0.152659 0.8787
QUYMO_HO*LAM_NONG 0.021378 0.014620 1.462280 0.1442
QUYMO_HO*CO_DAT 0.008484 0.012823 0.661618 0.5085
QUYMO_HO*DTICHDAT -0.000256 0.000815 -0.313713 0.7539
QUYMO_HO*CO_VAY -0.011497 0.010795 -1.065038 0.2873
CO_VIEC 0.107951 0.115176 0.937271 0.3490
CO_VIEC*LAM_NONG -0.048810 0.075173 -0.649299 0.5164
CO_VIEC*CO_DAT -0.007922 0.138486 -0.057204 0.9544
CO_VIEC*DTICHDAT -0.036024 0.123406 -0.291912 0.7705
CO_VIEC*CO_VAY 0.070467 0.155994 0.451730 0.6516
LAM_NONG*CO_DAT 0.052715 0.066344 0.794571 0.4272
LAM_NONG*DTICHDAT 0.005304 0.007460 0.710978 0.4774
LAM_NONG*CO_VAY -0.080357 0.049917 -1.609830 0.1080
CO_DAT -0.051522 0.124731 -0.413065 0.6797
CO_DAT*DTICHDAT 0.002290 0.005503 0.416116 0.6775
CO_DAT*CO_VAY -0.053504 0.048632 -1.100176 0.2717
DTICHDAT 0.023238 0.123343 0.188398 0.8506
DTICHDAT^2 6.52E-05 6.72E-05 0.970520 0.3322
DTICHDAT*CO_VAY 0.002333 0.002757 0.846063 0.3979
CO_VAY 0.024086 0.153115 0.157305 0.8751
R-squared 0.070593 Mean dependent var 0.136640
Adjusted R-squared 0.009944 S.D. dependent var 0.205870
S.E. of regression 0.204844 Akaike info criterion -0.272383
Sum squared resid 23.79198 Schwarz criterion 0.004309
Log likelihood 120.3959 F-statistic 1.163963
Durbin-Watson stat 1.726382 Prob(F-statistic) 0.237001
119
Để kiểm tra mô hình có vi phạm giả thiết Heteroscedasticity hay không,
chúng tôi áp dụng phép kiểm định của White (White test).
Theo kết quả kiểm định, giá trị của Wstat là 42,70895 < 52,19229 (giá trị
tới hạn củaχ20,05(37). Điều này cho ta cơ sở để chấp nhận giả thiết H0, nghĩa là
mô hình không có hiện tượng Heteroscedasticity.
Phụ lục 13
Hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình hồi quy
DTOC GIOI_
CHU
QUYMO
_HO
CO_VIEC LAM_NO
NG
CO_DAT DTICHDAT CO_VAY
DTOC 1.0000 0.0181 0.1120 0.0076 0.2791 0.2202 0.2172 -0.0012
GIOI_CHU 0.0181 1.0000 0.2376 0.1343 0.1784 0.2740 0.1930 0.1406
QUYMO_HO 0.1120 0.2376 1.0000 0.2185 0.2265 0.3124 0.2453 0.0983
CO_VIEC 0.0076 0.1343 0.2185 1.0000 0.3245 0.0948 0.1103 0.0950
LAM_NONG 0.2791 0.1784 0.2265 0.3245 1.0000 0.4255 0.2854 -0.0424
CO_DAT 0.2202 0.2740 0.3124 0.0948 0.4255 1.0000 0.4787 0.1048
DTICHDAT 0.2172 0.1930 0.2453 0.1103 0.2854 0.4787 1.0000 0.1572
CO_VAY -0.0012 0.1406 0.0983 0.0950 -0.0424 0.1048 0.1572 1.0000
Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến (Mulicollinearity):
Qua kiểm tra các giá trị T-Statistic và hệ số R-Square của mô hình trong
phụ lục 7, chúng tôi nhận thấy mô hình không có hiện tượng đa cộng tuyến.
Đồng thời thông qua việc kiểm tra các hệ số tương quan cặp trong ma trận tương
quan (the correalation matrix) cũng cho thấy, hệ số tương quan cặp (R) đều nhỏ
hơn mức 0,8, giá trị cao nhất của R là 0,48. Do đó, có thể kết luận là trong mô
hình không tồn tại hiện tượng đa cộng tuyến.
120
Phụ lục 14
29. Ước lượng tham số của mô hình logit tổng quát
Dependent Variable: NGHEO
Method: ML - Binary Logit
Date: 10/13/04 Time: 12:44
Sample: 1 605
Included observations: 605
Convergence achieved after 4 iterations
Covariance matrix computed using second derivatives
Variable Coefficient Std. Error z-Statistic Prob.
DTOC 1.535505 0.251146 6.113982 0.0000
GIOI_CHU -0.392729 0.248216 -1.582207 0.1136
TUOI_CHU 0.010854 0.007800 1.391581 0.1640
QUYMO_HO 0.378554 0.088642 4.270589 0.0000
SO_CON 0.025983 0.093511 0.277865 0.7811
TYLE_PT 0.000339 0.004485 0.075668 0.9397
HOC_CHU 0.046093 0.046633 0.988422 0.3229
HOC_LAM -0.060997 0.049266 -1.238107 0.2157
CO_VIEC -1.283532 0.621552 -2.065044 0.0389
LAM_NONG 1.005931 0.337056 2.984465 0.0028
CO_DAT -1.165170 0.272084 -4.282386 0.0000
DTICHDAT -0.084890 0.020484 -4.144133 0.0000
CO_VAY -0.434829 0.233535 -1.861945 0.0626
C -2.064885 0.785780 -2.627814 0.0086
Mean dependent var 0.302479 S.D. dependent var 0.459712
S.E. of regression 0.400246 Akaike info criterion 1.003864
Sum squared resid 94.67643 Schwarz criterion 1.105803
Log likelihood -289.6688 Hannan-Quinn criter. 1.043532
Restr. log likelihood -370.8350 Avg. log likelihood -0.478791
LR statistic (13 df) 162.3324 McFadden R-squared 0.218874
Probability(LR stat) 0.000000
Obs with Dep=0 422 Total obs 605
Obs with Dep=1 183
Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra ở Ninh Thuận 2004 bằng phần mềm E-view 3.0
121
Phụ lục 15
30. Ước lượng tham số của mô hình logit sau khi loại bỏ
các biến không có ý nghĩa thống kê
Dependent Variable: NGHEO
Method: ML - Binary Logit
Date: 10/13/04 Time: 13:55
Sample: 1 605
Included observations: 605
Convergence achieved after 4 iterations
Covariance matrix computed using second derivatives
Variable Coefficient Std. Error z-Statistic Prob.
DTOC 1.576951 0.237257 6.646593 0.0000
GIOI_CHU -0.392091 0.224193 -1.748898 0.0803
QUYMO_HO 0.403130 0.060236 6.692510 0.0000
CO_VIEC -1.621374 0.572000 -2.834571 0.0046
LAM_NONG 1.058524 0.304358 3.477894 0.0005
CO_DAT -1.134984 0.270040 -4.203020 0.0000
DTICHDAT -0.088232 0.020493 -4.305506 0.0000
CO_VAY -0.494419 0.223952 -2.207701 0.0273
C -1.366023 0.524893 -2.602479 0.0093
Mean dependent var 0.302479 S.D. dependent var 0.459712
S.E. of regression 0.399470 Akaike info criterion 0.992749
Sum squared resid 95.10752 Schwarz criterion 1.058281
Log likelihood -291.3065 Hannan-Quinn criter. 1.018250
Restr. log likelihood -370.8350 Avg. log likelihood -0.481498
LR statistic (8 df) 159.0570 McFadden R-squared 0.214458
Probability(LR stat) 0.000000
Obs with Dep=0 422 Total obs 605
Obs with Dep=1 183
Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra ở Ninh Thuận 2004 bằng phần mềm E-view 3.0
122
Phụ lục 16
31. Kiểm định khả năng dự đoán của mô hình logit
Dependent Variable: NGHEO
Method: ML - Binary Logit
Date: 10/13/04 Time: 14:30
Sample: 1 605
Included observations: 605
Andrews and Hosmer-Lemeshow Goodness-of-Fit Tests
Grouping based upon predicted risk (randomize ties)
Quantile of Risk Dep=0 Dep=1 Total H-L
Low High Actual Expect Actual Expect Obs Value
1 0.0027 0.0644 58 57.7275 2 2.27248 60 0.03396
2 0.0648 0.1015 56 55.9428 5 5.05718 61 0.00070
3 0.1015 0.1423 49 52.6375 11 7.36254 60 2.04844
4 0.1427 0.1802 55 51.3773 6 9.62271 61 1.61930
5 0.1802 0.2310 50 47.5958 10 12.4042 60 0.58744
6 0.2317 0.2961 40 44.9006 21 16.0994 61 2.02656
7 0.2979 0.3636 44 40.0730 16 19.9270 60 1.15873
8 0.3641 0.5217 34 34.5067 27 26.4933 61 0.01713
9 0.5217 0.6851 24 24.4416 36 35.5584 60 0.01346
10 0.6927 0.9220 12 12.7973 49 48.2027 61 0.06287
Total 422 422.000 183 183.000 605 7.56859
H-L Statistic: 7.5686 Prob[Chi-Sq(8 df)]: 0.4767
Andrews Statistic: 9.2361 Prob[Chi-Sq(10 df)]: 0.5099
Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra ở Ninh Thuận 2004 bằng phần mềm E-view 3.0
123
Phụ lục 17
Dependent Variable: NGHEO
Method: ML - Binary Logit
Date: 10/13/04 Time: 14:30
Sample: 1 605
Included observations: 605
Prediction Evaluation (success cutoff C = 0.5)
Estimated Equation Constant Probability
Dep=0 Dep=1 Total Dep=0 Dep=1 Total
P(Dep=1)<=C 382 93 475 422 183 605
P(Dep=1)>C 40 90 130 0 0 0
Total 422 183 605 422 183 605
Correct 382 90 472 422 0 422
% Correct 90.52 49.18 78.02 100.00 0.00 69.75
% Incorrect 9.48 50.82 21.98 0.00 100.00 30.25
Total Gain* -9.48 49.18 8.26
Percent Gain** NA 49.18 27.32
Estimated Equation Constant Probability
Dep=0 Dep=1 Total Dep=0 Dep=1 Total
E(# of Dep=0) 326.83 95.17 422.00 294.35 127.65 422.00
E(# of Dep=1) 95.17 87.83 183.00 127.65 55.35 183.00
Total 422.00 183.00 605.00 422.00 183.00 605.00
Correct 326.83 87.83 414.66 294.35 55.35 349.71
% Correct 77.45 47.99 68.54 69.75 30.25 57.80
% Incorrect 22.55 52.01 31.46 30.25 69.75 42.20
Total Gain* 7.70 17.75 10.74
Percent Gain** 25.44 25.44 25.44
*Change in "% Correct" from default (constant probability) specification
**Percent of incorrect (default) prediction corrected by equation
Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra ở Ninh Thuận 2004 bằng phần mềm E-view 3.0
124
Phụ lục 18
32. Hệ số tương quan cặp giữa các biến trong mô hình logit
NGHEO DTOC GIOI_CHU QUYMO_H
O
CO_VIEC LAM_N
ONG
CO_DAT DTICHD
AT
CO_VAY
NGHEO 1.000 0.269 -0.089 0.190 -0.052 0.120 -0.125 -0.166 -0.146
DTOC 0.269 1.000 0.018 0.112 0.008 0.279 0.220 0.217 -0.001
GIOI_CHU -0.089 0.018 1.000 0.238 0.134 0.178 0.274 0.193 0.141
QUYMO_HO 0.190 0.112 0.238 1.000 0.218 0.227 0.312 0.245 0.098
CO_VIEC -0.052 0.008 0.134 0.218 1.000 0.325 0.095 0.110 0.095
LAM_NONG 0.120 0.279 0.178 0.227 0.325 1.000 0.426 0.285 -0.042
CO_DAT -0.125 0.220 0.274 0.312 0.095 0.426 1.000 0.479 0.105
DTICHDAT -0.166 0.217 0.193 0.245 0.110 0.285 0.479 1.000 0.157
CO_VAY -0.146 -0.001 0.141 0.098 0.095 -0.042 0.105 0.157 1.000
Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra ở Ninh Thuận 2004 bằng phần mềm E-view 3.0
125
Phụ lục 19
• Kiểm định quá trình loại các biến không có ý nghĩa thống kê:
Phép kiểm định này sử dụng nhằm kiểm định giả thiết “không” các thông
số (coefficients) của các biến đã bị loại khỏi mô hình tổng quát.
Giả thiết:
H0 : βTUOI_CHU = 0, βHOC_CHU = 0, βHOC_LAM = 0, βSO_CON = 0, βTYLE_PT = 0
Gọi ln(LU) là giá trị log likehood của mô hình tổng quát.
Gọi ln(LR) là giá trị log likehood của mô hình sau khi đã loại các biến
không có ý nghĩa thống kê.
Khi đó: -2(lnLU - lnLR) ~ Chi Square(5)
Kết quả tính toán giá trị:
-2(-291,3065+289,6688) = 3,2754
Tra bảng ta thấy 3,2754 < 11,07 (là giá trị tới hạn của Chi Square(5) ở
mức ý nghĩa 0,05). Do đó chúng ta chấp nhận giả thiết H0, tức hệ số của các biến
bị loại là bằng 0.
Đồng thời khi so sánh giữa hai mô hình cho thấy các hệ số không có sự
thay đổi quá lớn. Thêm nữa là giá trị Mcfadden R-square cũng không giảm đáng
kể sau khi đã loại các biến không có ý nghĩa thống kê.
Như vậy, rõ ràng các biến TUOI_CHU, HOC_CHU, HOC_LAM,
SO_CON, TYLE_PT không có ý nghĩa trong mô hình.
• Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến (Multicolinearity):
Qua xem xét giá trị Z-Statistic của mô hình logit ***** và hệ số Mcfdden
R-square chúng tôi nhận thấy mô hình không có sự hiện diện của đa cộng tuyến.
Hơn nữa, thông qua kiểm các hệ số tương quan trong ma trận tương quan cặp
(the correlation matrix) cũng cho thấy hệ số tương quan cặp cao nhất cũng chỉ ở
mức 0,47. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng mô hình không có đa cộng
tuyến.
• Kiểm định khả năng dự đoán của mô hình logit (Hosmer-Lemeshow
Goodness-of-Fit Test):
Theo phép kiểm định này, giả thiết “không” là các độ lệch giữa các kỳ
vọng và các quan sát thực tế bằng không (tức mô hình dự đoán đúng hoàn hảo),
việc bác bỏ giả thiết này cho phép kết luận rằng mô hình ước lượng tồi.
126
H-L Statistic ~ Chi Square (J-2)
Trong đó: J là số nhóm phù hợp với các phân vị của trị thống kê H-L
Statistic.
Kết quả cho thấy giá trị thống H-L Statistic của mô hình là 7,57. So sánh
cho thấy 7,57 < 15,51 (là giá trị tới hạn của Chi Square (8) (10 nhóm phân vị) ở
mức ý nghĩa 0,05). Do đó chúng tôi có thể chấp nhận giả thiết “không”, điều đó
có nghĩa là mô hình được ước lượng tương đối tốt.
Phụ lục 20
Những chính sách của tỉnh Ninh Thuận dành cho hộ nghèo, người nghèo
Hộ nghèo được ưu tiên cứu tế cứu trợ khi có thiên tai gây thiệt hại lớn
(theo Nghị định 07 của Chính phủ và Thông tư 18 của Bộ LĐTBXH). Mỗi năm
tỉnh đã cứu trợ với kinh phí từ 5 đến 7 tỷ đồng.
Hộ nghèo được ưu tiên vay vốn Ngân hàng chính sách với lãi suất ưu đãi
thực hiện theo Quyết định 525/TTg ngày 31/8/1995 của Thủ tướng Chính phủ.
Hằng năm Ngân hàng chính sách cho vay gần 10 tỷ đồng, đến nay đã cho vay
với tổng số dư nợ gần 55 tỷ đồng với trên 23.000 hộ vay.
Hộ nghèo được vay vốn thực hiện dự án phát triển ngành nghề truyền
thống do Sở Nông nghiệp làm chủ đầu tư và vay vốn nuôi trồng thủy hải sản do
Sở Thủy sản làm chủ đầu tư.
Hộ nghèo, người nghèo được ưu tiên trong việc cấp thẻ BHYT theo thông
tư liên tịch số 05 của Bộ LĐTBXH-Bộ Tài chinh-Bộ Y tế. Hiện nay theo Quyết
định 139, thẻ BHYT được cấp cho 100% hộ nghèo.
Hộ nghèo có người già yếu, neo đơn, tàn tật được xét hưởng trợ cấp nuôi
dưỡng tại Trung tâm Bảo trợ xã hội Tỉnh và trợ cấp nuôi dưỡng tại cộng đồng
theo Nghị định 07/Chính phủ và Thông tư 18 của Bộ LĐTBXH.
Hộ nghèo được hưởng miễn thuế nông nghiệp (nay đã bỏ hoàn toàn cho
mọi đối tượng), miễn đóng góp xây dựng quỹ lao động công ích, quỹ quốc phòng
và an ninh.
Con hộ nghèo được miễn giảm học phí và tiền đóng góp xây dựng trường
lớp theo Quyết định 70/TTg, Quyết định 63 của UBND tỉnh về việc miễn giảm
học phí và Quyết định 50 của UBND tỉnh về việc đóng góp xây dựng trường lớp.
127
Hộ nghèo được giảm 50%, hộ đói được giảm 100% nhưng các chi phí khác vẫn
phải đóng. Ở tỉnh mỗi năm giảm cho 20.603 học sinh, với kinh phí 1,3 tỷ đồng.
Con hộ nghèo được học nghề miễn phí tại Trung tâm Dịch vụ việc làm
của tỉnh, mỗi năm trên 100 với kinh phí gần 200 triệu.
Hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn được hưởng chính sách trợ cước trợ
giá theo Nghị định 20/1998 NĐCP ngày 31/3/1998, mỗi năm trên 1,3 tỷ đồng và
hưởng chính sách dân tộc đặc biệt khó khăn, mỗi năm trên 1 tỷ đồng để hỗ trợ
cây giống, con giống phát triển sản xuất và chăn nuôi.
Hộ nghèo được hưởng chính sách di dân kinh tế mới theo Thông tư số
15/LĐTBXH: trợ cấp hộ đi trong tỉnh 2,7 triệu đồng/hộ; trợ cấp hộ đi trong nước
3,4 triệu đồng/hộ.
Hộ nghèo là dân tộc ở vùng đặc biệt khó khăn theo Thông tư 41 ngày
08/01/1996 của Ủy ban dân tộc miền núi được hưởng trợ cấp 300.000 đồng-
500.000 đồng/hộ và cho vay vốn không cấp lãi, cho tiền mua cây giống, con
giống, vật tư nông nghiệp tối đa 1 triệu đồng/hộ.
Hộ rất nghèo được xem xét hỗ trợ nhà ở theo công văn số 2416/VPCP
ngày 15/6/2000 của Văn phòng Chính phủ và công văn 1.111/VX ngày
23/6/2000 của UBND tỉnh Ninh Thuận đề nghị Ủy ban MTTQVN Tỉnh đứng ra
vận động và phân bổ hàng năm, kinh phí mỗi năm trên 410 triệu đồng.
Người nghèo được hưởng chính sách trợ giúp kiến thức pháp lý miễn phí
theo Chỉ thị số 35/CT ngày 27/9/2000 của UBND Tỉnh, do Trung tâm trợ giúp
pháp lý cho người nghèo của tỉnh tổ chức thực hiện.
Riêng đối với các xã nghèo đặc biệt khó khăn, hàng năm còn được ưu đãi
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng theo chương trình 135 của Chính phủ (chương
trình giảm hộ nghèo đặc biệt của chính phủ), kinh phí TW đầu tư mỗi năm gần 9
tỷ đồng, bình quân mỗi xã trên 400 triệu đồng, hiện nay tỉnh có 18 xã đặc biệt
khó khăn được hưởng chính sách xã nghèo.
Những xã nghèo nằm ngoài chương trình 135 thì theo quyết định 587/2002
ngày 22/5/2002 Bộ LĐTBXH.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA1709.pdf