Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế trang trại là bước phát triển cao có tính quy luật của kinh tế nông
hộ, là mô hình sản xuất đã có từ rất lâu, mang tính phổ biến và giữ vai trò quan
trọng trong quá trình phát triển nông nghiệp ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Thực tiễn đã khẳng định khả năng phát triển và hiệu quả nhiều mặt của kinh tế
trang trại, nó góp phần khai thác có hiệu quả các nguồn lực, tạo ra khối lư
105 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1789 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và những giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở huyện Phổ Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợng
nông sản hàng hoá ngày càng nhiều; tạo ra khả năng to lớn trong việc áp dụng
các tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng năng suất lao động,…, trên cơ sở đó góp
phần giải quyết các vấn đề phát triển kinh tế xã hội và môi trường bền vững.
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, nhất là từ sau Nghị quyết 10 của
Bộ Chính trị năm 1988, kinh tế trang trại đã có bước phát triển khá và từng bước
khẳng định là một hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh nông nghiệp có nhiều
ưu thế và phù hợp với xu hướng phát triển tất yếu của một nền sản xuất nông
nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, kinh tế trang trại đã được Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII khẳng định và khuyến khích phát
triển. Chính phủ cũng đã ban hành Nghị quyết 03/2000/NQ-CP, ngày 02/02/2000 về
kinh tế trang trại nhằm thống nhất nhận thức về vị trí, vai trò của kinh tế trang trại và
đề ra các chính sách của Nhà nước cho kinh tế trang trại phát triển.
Tuy nhiên, kinh tế trang trại hiện nay chưa phát triển rộng và chưa tương
xứng với những tiềm năng, thế mạnh của các vùng, miền trong cả nước; chưa
tạo ra bước đột phá trong việc đầu tư khai thác và sử dụng có hiệu quả diện tích
đất trống, đồi núi trọc, mặt đất, mặt nước hoang hoá ở các khu vực trung du,
miền núi, ven biển để phát triển sản xuất nông lâm ngư nghiệp; chưa đóng góp
thỏa đáng vào việc mở rộng quy mô sản xuất hàng hoá, nâng cao năng suất, hiệu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
quả và sức cạnh tranh các mặt hàng nông sản mang tính hàng hoá trong điều
kiện thị trường mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Kinh tế trang trại vẫn là một loại hình kinh tế còn mới mẻ ở nước ta, vì vậy
cần phải đẩy mạnh nghiên cứu cụ thể tiềm năng và lợi thế đối với từng vùng, từng
địa phương để có những chính sách khuyến khích phát triển kinh tế trang trại, đưa
ra những giải pháp phù hợp, sát thực tế, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những tác
động tiêu cực, yếu tố bất lợi có thể xảy ra trong quá trình đầu tư và phát triển.
Phổ Yên là một huyện trung du miền núi của tỉnh, cơ cấu kinh tế chủ yếu
vẫn là Nông, Lâm nghiệp. Những năm gần đây, sản xuất nông lâm nghiệp của
huyện đã và đang có bước chuyển dịch tích cực, sản lượng nông sản hàng hoá
sản xuất tăng khá qua các năm, trong đó mô hình kinh tế trang trại ở Phổ Yên
đang trở thành một hướng đi ưu tiên trong định hướng phát triển kinh tế xã hội
của huyện.
Vấn đề đặt ra từ thực tiễn của quá trình phát triển kinh tế trang trại ở Phổ
Yên đang rất cần được quan tâm nghiên cứu đó là:
- Sự nhận thức về vị trí,vai trò của kinh tế trang trại trong chiến lược phát
triển kinh tế xã hội của địa phương.
- Đánh giá đúng thực trạng phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn huyện.
- Phân tích các yếu tố tác động đến kinh tế trang trại và đánh giá mức độ
ảnh hưởng của các yếu tố đó đến sự phát triển của kinh tế trang trại.
- Đưa ra các định hướng và giải pháp phù hợp để phát triển kinh tế trang trại.
Với ý nghĩa đó đề tài: Thực trạng và những giải pháp phát triển kinh tế
trang trại ở Phổ Yên là vấn đề đặt ra mang tính cấp thiết.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở Phổ
Yên để đề xuất những định hướng và giải pháp thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế trang trại.
- Đánh giá đúng thực trạng phát triển kinh tế trang trại để từ đó tìm ra
những mặt thành công, những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân.
- Phân tích các yếu tố tác động đến kinh tế trang trại và đánh giá mức độ
ảnh hưởng của các yếu tố đó đến sự phát triển của kinh tế trang trại.
- Đưa ra các định hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế
trang trại ở địa bàn huyện Phổ Yên một cách có hiệu quả.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1 - Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề về kinh tế trang trại ở huyện Phổ
Yên để làm rõ tính lý luận và thực tiễn cho quá trình hình thành và phát triển
kinh tế trang trại của địa phương.
3.2 - Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt không gian: nghiên cứu trên địa bàn huyện Phổ Yên.
- Về mặt thời gian: nghiên cứu tư liệu tổng quan được thu thập trên các tài
liệu đã công bố từ 1996 đến nay.
Số liệu đánh giá thực trạng được thu thập trong khoảng thời gian từ năm
2001 - 2006.
3.3 - Nội dung nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu về tổ chức, quy mô, cơ cấu, loại hình, kết quả sản
xuất kinh doanh hiệu quả kinh tế của các trang trại trên địa bàn huyện Phổ Yên.
4. Những đóng góp của luận văn
- Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần giúp cho cấp uỷ và chính quyền địa
phương có đủ cơ sở khoa học để chỉ đạo phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn
huyện một cách tốt nhất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
- Góp phần kiến nghị, đề xuất việc điều chỉnh, bổ sung các cơ chế, chính
sách, giải pháp phát triển kinh tế trang trại của Đảng và Nhà nước nói chung và
địa phương tỉnh, huyện nói riêng.
- Là tài liệu cung cấp thông tin tin cậy về kinh tế trang trại cho các nhà
nghiên cứu, các cấp chính quyền, người hoạch định chính sách, nhà sản xuất và
những người quan tâm đến kinh tế trang trại ở Phổ Yên.
- Kết quả nghiên cứu giúp cho các chủ trang trại có những định hướng và
giải pháp đúng đắn nhằm phát triển kinh tế trang trại, nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh.
Chƣơng 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. 1. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI
1.1.1. Cơ sở lý luận về kinh tế trang trại
1.1.1.1. Khái niệm về kinh tế trang trại
Trang trại là loại hình cơ sở sản xuất nông nghiệp của các hộ gia đình nông
dân, hình thành và phát triển chủ yếu trong điều kiện kinh tế thị trường khi
phương thức sản xuất tư bản thay thế phương thức sản xuất phong kiến.[1]
Phần lớn các các nhà nghiên cứu đều cho rằng trang trại là một loại hình tổ
chức sản xuất cơ sở trong nông, lâm nghiệp, thuỷ sản, có mục đích chính là sản
xuất hàng hoá, có tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu, hoặc quyền sử dụng của
một người chủ độc lập, sản xuất được tiến hành trên quy mô ruộng đất và các
yếu tố sản xuất tiến bộ, trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với
thị trường.[15]
Kinh tế trang trại là một loại hình kinh tế sản xuất hàng hoá phát triển trên
cơ sở kinh tế hộ nhưng ở quy mô lớn hơn, được đầu tư nhiều hơn về cả vốn và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
kỹ thuật, có thể thuê mướn nhân công để sản xuất ra vài loại sản phẩm hàng hoá
từ nông nghiệp với khối lượng lớn cho thị trường.
Để hiểu hơn về khái niệm kinh tế trang trại, trước hết cần phân biệt các
thuật ngữ “trang trại” và “kinh tế trang trại”. Trong tiếng Việt hiện nay hai thuật
ngữ này trong nhiều trường hợp được sử dụng không phân biệt, tuy nhiên về thực
chất “trang trại” và „kinh tế trang trại” là hai khái niệm không đồng nhất. Kinh tế
trang trại là tổng thể các yếu tố vật chất của sản xuất và các quan hệ kinh tế nảy
sinh trong quá trình tồn tại và hoạt động của trang trại. Còn trang trại là nơi kết
hợp các yếu tố vật chất của sản xuất và là chủ thể của các quan hệ kinh tế đó. [15]
Điểm chung của những khái niệm trên cho thấy kinh tế trang trại là kinh tế
hộ nông dân sản xuất hàng hoá, nhưng quy mô sản xuất hàng hoá đó phải đạt tới
một mức độ tương đối lớn. Như vậy, trang trại là hình thức tổ chức sản xuất
hàng hoá dựa trên cơ sở lao động, đất đai, tư liệu sản xuất cơ bản của hộ gia
đình, hoàn toàn tự chủ và bình đẳng với các tổ chức kinh tế khác, sản phẩm làm
ra chủ yếu để bán và tạo nguồn thu nhập chính cho gia đình.
Nghị quyết 03/2000/QĐ-CP ngày 02/02/2000 của Chính phủ về kinh tế
trang trại đã ghi rõ: “Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá
trong nông nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy
mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng
thuỷ sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản”
1.1.1.2. Sự giống nhau và khác nhau giữa kinh tế hộ nông dân và kinh tế trang trại
- Sự giống nhau
Sản xuất chủ yếu dựa vào tư liệu sản xuất, ruộng đất, lao động tiền vốn của
gia đình chủ hộ và chủ trang trại, tự ra quyết định sản xuất kinh doanh và tổ
chức thực hiện các quyết định đó một cách nhanh nhất, triệt để và có hiệu quả,
các tài sản và sản phẩm đều thuộc sở hữu của gia đình và được pháp luật bảo vệ.
- Sự khác nhau
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất cao hơn kinh tế nông hộ. Kinh tế
nông hộ muốn tiến tới kinh tế trang trại thì phải phá vỡ vỏ bọc tự cấp tự túc vốn
có của kinh tế tiểu nông để đi vào sản xuất hàng hoá.
1.1.1.3. Đặc trưng chủ yếu của kinh tế trang trại
Theo công văn số 216/KTTW ngày 04/09/1998 của Ban Kinh tế Trung
ương về báo cáo kết quả hội nghị nghiên cứu kinh tế trang trại đã sơ bộ xác định
các đặc trưng chủ yếu để nhận dạng kinh tế trang trại ở nước ta hiện nay là:
Trang trại là hình thức tổ chức kinh tế trong nông, lâm, ngư nghiệp, được
hình thành trên cơ sở kinh tế hộ nhưng mang tính chất sản xuất hàng hoá rõ rệt, đạt
khối lượng và tỷ lệ sản phẩm hàng hoá lớn hơn và thu được lợi nhuận nhiều hơn.
Mục đích chủ yếu của kinh tế trang trại là sản xuất nông sản phẩm hàng
hoá theo nhu cầu thị trường.
Tư liệu sản xuất trong trang trại thuộc quyền sở hữu hay sử dụng của một người
chủ. Trang trại hoàn toàn có quyền tự chủ trong tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh.
Các yếu tố sản xuất của trang trại trước hết là ruộng đất và tiền vốn được tập
trung với quy mô nhất định theo yêu cầu phát triển sản xuất hàng hoá.
Lao động chính trong các trang trại chủ yếu là chủ trang trại và những người
trong gia đình và có thuê mướn lao động theo hình thức công nhật hoặc thời vụ.
Chủ trang trại là người có ý chí làm giàu, có vốn, có năng lực tổ chức
quản lý, có kiến thức và kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp, đồng thời có hiểu
biết nhất định về kinh doanh và nắm bắt nhu cầu thị trường.
Trang trại có cách tổ chức và quản lý sản xuất tiến bộ dựa trên cơ sở chuyên
môn hoá sản xuất, thâm canh, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, thực hiện hạch
toán, điều hành sản xuất hợp lý và thường xuyên tiếp cận thị trường.
Phương thức khai thác đất đai bằng chính sức lao động trực tiếp và kinh
nghiệm sản xuất nông nghiệp của gia đình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Kinh tế trang trại mang bản chất kinh tế hai mặt của kinh tế hộ nông dân:
vừa là đơn vị sản xuất mang tính chất gia đình; vừa mang dáng dấp của một loại
hình doanh nghiệp tư nhân một chủ sở hữu.
Kinh tế trang trại còn có đặc trưng thể hiện sự phát triển cao hơn về chất
so với kinh tế nông hộ, điểm khác chủ yếu giữa kinh tế nông hộ với kinh tế trang
trại là mục tiêu và quy mô sản xuất hàng hoá; sản xuất hàng hoá là đất đặc trưng
có tính bản chất của kinh tế trang trại.
1.1.1.4. Vị trí và vai trò của kinh tế trang trại
* Về tính chất và vị trí của kinh tế trang trại: Theo Nghị quyết 03 năm
2000 của Chính phủ thì:
- Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông
nghiệp nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình nhằm mở rộng quy mô và nâng
cao hiệu quả sản xuất gắn với chế biến và tiêu thụ nông lâm, thuỷ sản.
- Phát triển kinh tế trang trại nhằm khai thác sử dụng có hiệu quả đất đai,
vốn, kinh nghiệm quản lý góp phần phát triển nông nghiệp bền vững, tạo việc
làm, tăng thu nhập, khuyến khích làm giàu đi đôi với xoá đói giảm nghèo, phân
bổ lại lao đông, dân cư, xây dựng nông thôn mới.
- Quá trình chuyển dịch, tích tụ ruộng đất hình thành các trang trại gắn liền
với quá trình phân công lại lao động ở nông thôn, từng bước chuyển dịch lao
động nông nghiệp sang các ngành phi nông nghiệp, thúc đẩy tiến trình công
nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn.
* Vai trò của kinh tế trang trại
Ở các nước phát triển, trang trại gia đình là loại hình trang trại chủ yếu, có
vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống kinh tế nông nghiệp, có vai trò to lớn và
quyết định trong sản xuất nông nghiệp, là lực lượng sản xuất ra phần lớn sản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
phẩm nông nghiệp trong xã hội, tiêu thụ sản phẩm cho các ngành công nghiệp,
cung cấp nguyên liệu cho chế biến và thương nghiệp.
Trong điều kiện nước ta, vai trò và hiệu quả phát triển của kinh tế trang trại
phải được đánh giá, nhìn nhận trên cả ba mặt đó là: hiệu quả về mặt kinh tế, xã
hội và môi trường. Được thể hiện rõ trên các nội dung chủ yếu sau:
● Vai trò thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, góp phần đưa sản xuất
nông nghiệp lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Kinh tế trang trại là một bước phát triển mới của nền sản xuất xã hội, là
nhân tố mới ở nông thôn, là động lực mới, nối tiếp và phát huy động lực kinh tế
hộ nông dân, là sự đột phá trong bước chuyển sang sản xuất nông nghiệp hàng
hoá, tạo ra sức sản xuất mới, có khả năng tạo ra khối lượng lớn về nông sản
hàng hoá đáp ứng tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Kinh tế trang trại làm ra sản phẩm để bán theo yêu cầu của thị trường, nên
nó kích thích sản xuất và đòi hỏi cạnh tranh để tồn tại, phát triển. Để giành thắng
lợi trong cạnh tranh, các trang trại phải nâng cao năng suất lao động, chất lượng
sản phẩm, giảm giá thành để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Muốn vậy,
các trang trại phải biết đầu tư quy mô sản xuất hợp lý, đầu tư khoa học công
nghệ, máy móc thiết bị, tăng cường quản lý..., do đó kinh tế trang trại đã góp
phần thúc đẩy nhanh việc sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp nông thôn.
Sự tập trung sản xuất đòi hỏi các trang trại tất yếu phải tiến hành cơ giới hoá,
điện khí hoá các khâu của quá trình sản xuất, vận chuyển, bảo quản, chế biến và
tiêu thụ sản phẩm. Như vậy, kinh tế trang trại đã tạo điều kiện để đưa nông nghiệp
đi dần vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo tiền đề đi lên sản xuất lớn.
● Vai trò chuyển dịch cơ cấu kinh tế và hình thành quan hệ sản xuất mới
trong nông nghiệp và nông thôn.
Sự hình thành và phát triển kinh tế trang trại ở nước ta hiện nay là xu
hướng tất yếu của tập trung hoá, chuyên môn hoá và thị trường hoá sản xuất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
nông nghiệp, góp phần tích cực trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp nông thôn, phát triển các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị hàng hoá cao,
khắc phục dần tình trạng manh mún, phân tán, tạo nên những vùng chuyên canh
hoá, tập trung hoá và thâm canh cao, tạo điều kiện thúc đẩy công nghiệp phát
triển nhất là công nghiệp chế biến, thương mại và dịch vụ, góp phần làm nông
thôn phát triển, tạo thu nhập ổn định trong một bộ phận dân cư làm nông nghiệp.
Nhiều chủ trang trại đã đầu tư hoặc tự giác hợp tác với nhau để đầu tư mua
sắm máy móc thiết bị công nghiệp để chế biến sản phẩm tạo ra những bán thành
phẩm nông sản hàng hoá cung cấp đầu vào cho các cơ sở chế biến hàng xuất
khẩu lớn hơn của Nhà nước.
Một số doanh nghiệp Nhà nước đã hợp tác với các trang trại thực hiện đầu
tư ứng trước vốn cho chủ trang trại và bao tiêu toàn bộ sản phẩm, tạo thế chủ
động về nguồn nguyên liệu cho sản xuất kinh doanh.
Một số lâm trường quốc doanh đã khoán khoanh nuôi, bảo vệ, chăm sóc rừng
cho các hộ dân, điều đó tạo ra sự phân công và hợp tác, làm chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Vai trò huy động, khai thác các nguồn lực trong dân, giải quyết việc làm
cho lao động xã hội, làm giàu cho nông dân, cho đất nước.
Kinh tế trang trại là sự đột phá trong bước chuyển sang sản xuất nông
nghiệp hàng hoá, lấy việc khai thác tiềm năng và lợi thế so sánh phục vụ nhu
cầu xã hội làm phương thức chủ yếu, nên các trang trại phải nỗ lực tìm mọi biện
pháp để phát huy tiềm năng đất đai. Huy động các nguồn lực về vốn, lao động,
kinh nghiệm, kỹ thuật trong dân một cách hợp lý, có hiệu quả để mở rộng và
phát triển sản xuất, tăng thêm lợi nhuận. Điều đó dẫn đến sự tích tụ và tập trung
đất đai, vốn đầu tư tạo quy mô sản xuất của các trang trại ngày một lớn hơn, thu
hút, sử dụng ngày càng nhiều lao động hơn.
Vai trò sử dụng hiệu quả và bảo vệ tài nguyên đất đai.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
Bên cạnh lợi ích về kinh tế, Nhà nước và cộng đồng còn thu được lợi ích về tài
nguyên và môi trường. Phát triển kinh tế trang trại đã góp phần khai thác và sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực đất đai tài nguyên, đưa đất hoang hoá vào phát triển sản
xuất, nhất là đối với vùng trung du, miền núi, và ven biển. Ngoài ra, phát triển kinh tế
trang trại còn góp phần tăng nhanh độ che phủ rừng, bảo vệ môi trường sinh thái, tận
dụng mặt nước cho nuôi trồng thuỷ sản...
Từ những phân tích trên, có thể thấy:
Kinh tế trang trại tuy mới và còn là lực lượng sản xuất nhỏ bé, nhưng
đã và đang góp phần đáng kể vào huy động nội lực, khơi dậy tiềm năng lao
động, đất đai, vốn trong dân vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp nông thôn.
Phát triển kinh tế trang trại ở nước ta hiện nay là rất cần thiết và đúng
hướng. Kinh tế trang trại giữ vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp,
đang trở thành một hình thức sản xuất chủ yếu, một mô hình làm ăn kinh tế phổ
biến, có hiệu quả và không lâu sẽ trở thành một bộ phận kinh tế quan trọng ở
nước ta. Nhưng trên thực tế, ở nhiều nơi chưa có thống nhất nhận thức về vai
trò, vị trí của kinh tế trang trại, làm cho chủ trang trại chưa yên tâm và gặp nhiều
khó khăn trong quá trình tổ chức sản xuất, giao dịch trên thương trường. Vì vậy,
cần phải khuyến khích, tạo điều kiện cho kinh tế trang trại phát triển như một tổ
chức kinh tế có đầy đủ tư cách pháp nhân, theo quy định của pháp luật.
Kinh tế trang trại là một bộ phận của nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nên nó cũng được hưởng tất cả chính sách đổi
mới của Đảng, Nhà nước đối với nông nghiệp. Đồng thời, kinh tế trang trại cũng
phải làm tất cả các nghĩa vụ mà các thành phần kinh tế khác trong nông nghiệp
phải làm. Ngoài ra, kinh tế trang trại mang nhiều yếu tố sản xuất hàng hoá, sẽ
gánh vác vai trò lịch sử của nó là thực hiện sự phân công sâu sắc hơn và hợp tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
rộng hơn cùng các thành phần, các lĩnh vực kinh tế khác trong phát triển sản
xuất nông, lâm, ngư nghiệp, chế biến nông sản thực phẩm, mở mang ngành
nghề, dịch vụ ở nông thôn theo cơ cấu hợp lý, góp phần đẩy nhanh tiến trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn .
Sự ra đời, hiệu quả hoạt động kinh tế trang trại ở nước ta tuy đã khẳng
định bước đầu những ưu thế và vai trò của nó đối với sự tăng trưởng, phát triển
kinh tế xã hội nhưng kéo theo đó cũng nảy sinh nhiều vấn đề, đó là:
- Cùng với sự phát triển của kinh tế trang trại thì sự phân cực và những bất
bình đẳng trong nông nghiệp nông thôn cũng có xu hướng gay gắt, phân hoá
giàu nghèo ngày càng rõ rệt.
- Phát triển kinh tế trang trại tất yếu dẫn đến tích tụ và tập trung ruộng đất
vào tay một số người. Đây không chỉ là vấn đề kinh tế đơn thuần mà còn có ý
nghĩa chính trị xã hội sâu sắc.
- Kinh tế trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, do đó,
cũng cần tránh tư tưởng chủ quan, nóng vội phát triển theo kiểu phong trào hoặc
có thái độ phủ nhận các loại hình tổ chức kinh doanh khác đang phát huy tác
dụng tích cực như kinh tế hộ, kinh tế hợp tác.
1.1.1.5. Tiêu chí nhận dạng kinh tế trang trại
Thi hành nghị quyết của Chính phủ về kinh tế trang trại, ngày 23/6/2000
Liên bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn và Tổng cục Thống kê đã ban hành
Thông tư liên tịch số 69/2000/TTLB hướng dẫn tiêu chí để xác định kinh tế
trang trại như sau:
* Giá trị sản lượng hàng hoá và Dịch vụ bình quân hàng năm
- Đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung từ 40 triệu đồng trở lên.
- Đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên từ 50 triệu đồng trở lên.
* Quy mô sản xuất
- Đối với trang trại trồng cây hàng năm:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
+ Từ 2 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và duyên hải miền Trung.
+ Từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên.
- Đối với trang trại trồng cây lâu năm:
+ Từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và duyên hải miền Trung.
+ Từ 5 ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên.
- Đối với trang trại lâm nghiệp từ 10 ha trở lên.
- Đối với trang trại chăn nuôi:
+ Chăn nuôi Trâu, Bò sinh sản, lấy sữa: 10 con trở lên.
+ Chăn nuôi Trâu, Bò lấy thịt: 50 con trở lên.
+ Chăn nuôi Lợn sinh sản từ: 20 con trở lên; Dê sinh sản từ 50 con trở lên.
+ Chăn nuôi Lợn thịt từ 100 con trở lên; Dê thịt từ 200 con trở lên.
+ Chăn nuôi gia cầm các loại từ 2.000 con trở lên.
+ Nuôi trồng thuỷ sản từ 2 ha trở lên.
- Đối với các trang trại đặc thù thì tiêu chí xác định dựa vào giá trị sản xuất
hàng hoá thực hiện.
1.1.1.6. Phân loại kinh tế trang trại
* Theo hình thức quản lý
- Trang trại gia đình: toàn bộ tư liệu sản xuất đều thuộc quyền sở hữu của
hộ gia đình, hộ gia đình là người tự quyết định tổ chức và sản xuất kinh doanh.
Loại hình trang trại này sử dụng sức lao động trong gia đình là chính, kết hợp
thuê nhân công phụ trong mùa vụ.
Trang trại gia đình là mô hình sản xuất phổ biến trong nền nông nghiệp thế
giới, chiếm tỷ trọng lớn về đất canh tác và khối lượng nông sản so với các loại
hình sản xuất khác.
- Trang trại hợp tác: là loại hình hợp tác tự nguyện của một số trang trại gia
đình với nhau thành một trang trại quy mô lớn hơn để tăng thêm khả năng về
vốn, tư liệu sản xuất và công nghệ mới tạo ra ưu thế cạnh tranh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
- Trang trại cổ phần: là loại hình hợp tác các trang trại thành một trang trại
lớn theo nguyên tắc góp cổ phần và hoạt động giống nguyên tắc của công ty cổ
phần. Loại hình này chủ yếu phát triển trong lĩnh vực chế biến, tiêu thụ lâm sản.
- Nông trại uỷ thác: là loại hình trang trại mà chủ trang trại uỷ thác cho bà
con, bạn bè quản lý từng phần hoặc toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh trong
khoảng thời gian nhất định khi chủ trang trại đi làm việc khác.
* Theo cơ cấu sản xuất
- Trang trại kinh doanh tổng hợp: là loại nông trại sản xuất kinh doanh
nhiều loại sản phẩm, gắn trồng trọt với chăn nuôi, nông nghiệp với các ngành
nghề khác.
- Trang trại sản xuất chuyên môn hoá là trang trại tập trung sản xuất kinh
doanh một loại sản phẩm như trang trại chuyên nuôi gà, vịt, lợn và bò sữa,
chuyên trồng hoa, rau, chuyên nuôi trồng thuỷ sản.
* Theo hình thức sở hữu
- Chủ trang trại sở hữu toàn bộ tư liệu sản xuất (thường là trang trại gia
đình) đây là loại hình phổ biến ở các nước.
- Chủ trang trại sở hữu một phần tư liệu sản xuất phần còn lại phải đi thuê
người khác.
- Trang trại thuê toàn bộ tư liệu sản xuất của chủ khác để sản xuất kinh doanh.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn về kinh tế trang trại
1.1.2.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế trang trại trên thế giới
Trải qua vài thế kỷ tồn tại và phát triển, kinh tế trang trại đã được khẳng
định là mô hình sản xuất phù hợp và đạt hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông
lâm nghiệp. Tuy nhiên, do đặc thù của mỗi quốc gia, kinh tế trang trại rất đa
dạng cả về hình thức quản lý, quy mô và cơ cấu sản xuất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
Từ đặc điểm của quá trình hình thành và phát triển kinh tế trang trại trên
thế giới, có thể thấy:
- Một là: quá trình phát triển trang trại ở hầu hết các nước trên thế giới đều
có xu hướng chung là:
● Kinh tế trang trại là một trong những biểu hiện văn minh của kinh tế
trong lĩnh vực sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp khi kinh tế hàng hoá bắt đầu được
vận hành theo cơ chế thị trường. Cho đến nay kinh tế trang trại đã phát triển ở
hầu hết các nước có sản xuất nông - lâm nghiệp và trở thành mô hình sản xuất
phổ biến nhất của nền nông nghiệp thế giới.
● Trang trại là loại hình tổ chức sản xuất nông nghiệp của các hộ gia đình
nông dân, phù hợp và gắn liền với quá trình công nghiệp hoá từ thấp đến cao. Kinh
tế trang trại là sự phát triển tất yếu của nền nông nghiệp và là sản phẩm tất yếu của
kinh tế thị trường và quá trình công nghiệp hoá. Chính công nghiệp hoá đã đặt yêu
cầu khách quan cho phát triển sản xuất hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu của công
nghiệp hoá và tạo ra những điều kiện cho kinh tế trang trại phát triển.
● Các trang trại gia đình được hình thành chủ yếu từ cơ sở của các hộ tiểu
nông sau khi phá vỡ cái vỏ bọc sản xuất tự cấp, tự túc khép kín, vươn lên sản
xuất nhiều nông sản phẩm hàng hoá với quy mô từ nhỏ đến lớn, tiếp cận với thị
trường, từng bước thích nghi với nền kinh tế cạnh tranh. So với kinh tế tiểu nông
thì kinh tế trang trại là một bước phát triển của nền sản xuất xã hội.
● Trải qua hàng thế kỷ nay, trang trại tiếp tục phát triển từ các nước tư bản công
nghiệp lâu đời, đến các nước đang phát triển, các nước công nghiệp mới và bắt đầu đi
vào các nước xã hội chủ nghĩa với các cơ cấu và quy mô sản xuất khác nhau.
● Con đường đi từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá, từ sản xuất tiểu
nông sang sản xuất trang trại không phải là sản phẩm riêng của các nước công
nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa, mà là bước phát triển tất yếu của xã hội, phù hợp với quy
luật phát triển. Kinh tế trang trại không quyết định bản chất của một chế độ xã hội, chưa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
có dấu hiệu tư bản hoá loại hình kinh tế trang trại. Khi chủ nghĩa tư bản phát triển, hình
thành nên thị trường sản xuất hàng hoá phát triển, một bộ phận lao động nông nghiệp trở
thành lao động làm thuê nhưng trang trại vẫn tồn tại và phát triển.
● Đến thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20, trang trại trở thành mô hình sản
xuất phổ biến nhất của nền nông nghiệp thế giới, chiếm tỷ trọng lớn tuyệt đối về
đất canh tác và khối lượng nông sản phẩm làm ra. Trên thế giới hiện nay có
khoảng trên 300 triệu trang trại gia đình (ở Mỹ có khoảng 96-98% trang trại là
trang trại gia đình). Ở các nước tư bản phát triển, trang trại gia đình chỉ chiếm 5-
7% lao động toàn xã hội nhưng vẫn sản xuất nông sản nuôi sống cả xã hội. Kinh
tế trang trại gia đình đã có sự thích nghi với điều kiện phát triển của chủ nghĩa tư
bản phát triển.
● Kinh tế trang trại có thể và có điều kiện phát triển ở tất cả các lĩnh vực
sản xuất kinh doanh nông lâm ngư nghiệp và tất cả các vùng khác nhau như đồi
núi, đồng bằng, ven biển…
● Ở hầu hết các nước, trang trại là hình thức sản xuất giữ vị trí xung kích
trong quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn và trở thành lực lượng
chủ lực khi nền kinh tế phát triển đến giai đoạn cao. Thực tiễn đã chứng minh
rằng kinh tế trang trại có vai trò quan trọng ở các nước đang phát triển (Hàn
Quốc, Đài Loan,…) và đang tiếp tục phát huy tác dụng ở những nước có nền
kinh tế phát triển cao (Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản,….). Kinh tế trang trại gia đình đã
thể hiện rõ vai trò tích cực trong quá trình phát triển nông nghiệp thế giới, thúc
đẩy ngành sản xuất nông sản hàng hoá và đưa nền nông nghiệp tiến lên hiện đại.
● Kinh tế trang trại phát triển mạnh ở thời kỳ các nước tiến hành công
nghiệp hoá sau đó, khi công nghiệp phát triển thì số lượng trang trại có xu
hướng giảm dần và quy mô trang trại có xu hướng tăng lên.
Ở những vùng đất mới như châu Mỹ, châu Úc thì quy mô trang trại là rất
lớn. Như ở Mỹ mỗi trang trại có diện tích bình quân từ 180-200 ha, ở Canađa là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
400-450 ha, ở Úc là 500 ha, thậm chí hàng nghìn ha… Họ gọi là trang trại
nhưng thực chất đó là những đồn điền được Nhà nước khuyến khích, bảo vệ
bằng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh.
Ở Mỹ, năm 1950 có 5.648 nghìn trang trại với diện tích bình quân là 151
ha/ trang trại, nhưng đến năm 1992 chỉ còn 1.925 nghìn trang trại với diện tích
bình quân là 198 ha/ trang trại. Về cơ cấu sản xuất thì trang trại sản xuất ngũ cốc
chiếm phần lớn, ngoài ra còn có trang trại sản xuất khoai tây, chăn nuôi bò sữa,
gia cầm… những thành tựu chủ yếu của nền nông nghiệp Mỹ là nhờ kinh tế
trang trại. [14]
Ở Anh năm 1950 có 453 nghìn trang trại với diện tích bình quân là 36 ha,
đến 1987 còn 254 nghìn trang trại với diện tích bình quân là 71 ha/ trang trại.
Ở Pháp năm 1955 có 2.285 nghìn trang trại với diện tích bình quân là 14 ha/ trang
trại, đến nay còn 952 nghìn trang trại với diện tích bình quân là 19 ha/ trang trại.
Ở Đức năm 1960 có 1.709 nghìn trang trại với diện tích bình quân là 10
ha/trang trại, đến năm 1985 còn có 983 nghìn trang trại với diện tích bình quân
là 15 ha/trang trại.
Ở châu Á, chế độ phong kiến tồn tại hàng ngàn năm luôn là một cản trở đối
với phát triển kinh tế hàng hoá và cơ chế thị trường. Do vậy, kinh tế trang trại
cũng xuất hiện muộn hơn và quy mô nhỏ hơn ở châu Âu, châu Mỹ, nhiều nghiên
cứu cho thấy quy mô trang trại nhỏ ở châu Á chiếm từ 60-70% về số lượng,
canh tác 30% diện tích và sản xuất 35% tổng sản phẩm nông nghiệp.
Ở Nhật Bản, trang trại gia đình có vai trò quan trọng trong ngành nông
nghiệp, bảo đảm lương thực, thực phẩm cho xã hội. Nhật Bản có xu hướng mở
rộng quy mô trang trại lên từ 10-20 ha, nhưng vẫn chưa thực hiện được. Năm 1970
Nhật Bản có 5.342 nghìn trang trại với diện tích bình quân là 1,1 ha/trang trại, đến
1993 còn 3.691 nghìn trang trại với diện tích bình quân là 1.38 ha/trang trại.[14]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Ở Đài Loan năm 1970 có 916 nghìn trang trại với diện tích bình quân là
0,38 ha/trang t._.rại, đến năm 1998 còn 739 nghìn trang trại với diện tích bình quân
là 1,21 ha/ trang trại.
Ở Hàn Quốc năm 1965 có 2.507.000 trang trại có diện tích bình quân là
0,90 ha/ trang trại, đến năm 1979 còn 1.772.000 trang trại có diện tích bình quân
là 1,20 ha/trang trại. Trang trại dưới 0.5 ha chiếm 29.7% từ 0,5 - 1 ha chiếm
34.7%, trên 1 ha chiếm 35,6%.
Một số nước khác thuộc Châu Á như: Inđonesia, Malaixia… đang trong
quá trình công nghiệp hoá nên luôn có sự biến động về số lượng và diện tích
bình quân của trang trại.
Ở Indonesia, năm 1963 có 744.000 trang trại với diện tích bình quân là
1.19 ha/trang trại, đến năm 1973 có 808.000 trang trại với diện tích bình quân là
1.14 ha/trang trại đến năm 1983 có 916.000 trang trại với diện tích bình quân là
0.95 ha/trang trại.
Thái Lan, năm 1963 có 3.124.000 trang trại với diện tích bình quân là 0.55
ha/ trang trại đến năm 1978 có 4.018.000 trang trại với diện tích bình quân là
4.52 ha/ trang trại.
Ở Philipin, năm 1960 có 2.166.000 trang trại với diện tích bình quân là
3.53 ha/trang trại, đến năm 1980 có 3.420.000 trang trại với diện tích bình quân
là 2.62 ha/trang trại.[14]
Ngày nay, ở Châu Mỹ La tinh các đồn điền đang trong quá trình chia nhỏ
ruộng đất cho các công nhân nông nghiệp hình thành các trang trại nông nghiệp
gia đình có trình độ chuyên môn nông nghiệp mà vẫn tập trung được lượng nông
sản hàng hoá lớn. Họ thấy rằng hình thức kinh doanh tư bản chủ nghĩa không
thích hợp với sản xuất nông nghiệp. Ở các nước xã hội chủ nghĩa đang trong quá
trình chia nhỏ lại các xí nghiệp nông nghiệp và phát triển hình thức trang trại gia
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
đình. Từ đó có thể nhận thấy điểm tương đồng là “sản xuất lớn” không thể áp
dụng có hiệu quả hơn so với kinh tế trang trại trong gia đình nông nghiệp.
Trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá, kinh tế trang trại phát triển theo hướng
kinh doanh tổng hợp, sau đó đi vào sản xuất tập trung, chuyên canh lớn.
- Hai là: Kinh tế trang trại trong thời gian tới vẫn tồn tại và phát triển vì có
nhiều thế mạnh hơn hẳn các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp khác.
Kinh tế trang trại có thể phát triển với nhiều hình thức đa dạng khác nhau
như tư bản tư nhân, cổ phần, liên doanh, uỷ thác, … Hình thức quản lý, nội dung
hoạt động, cơ cấu và quy mô sản xuất của trang trại thay đổi theo đặc điểm và
điều kiện cụ thể ở mỗi nước, mỗi vùng sinh thái, nhưng trang trại gia đình là loại
thích hợp nhất. Trên thế giới, trang trại gia đình chiếm khoảng 80-90% tổng số
trang trại, đây chính là hình thức sản xuất lấy hộ gia đình làm nền tảng để sản xuất
nông sản hàng hoá, sử dụng lao động làm thuê thường xuyên hoặc theo thời vụ.
Kinh tế trang trại có ưu thế là:
● Có khả năng dung nạp các trình độ sản xuất nông nghiệp khác nhau về xã
hội hoá, chuyên môn hoá, tập trung hoá trong sản xuất.
● Có khả năng dung nạp các quy mô sản xuất khác nhau (nhỏ, vừa và lớn).
● Có khả năng liên kết các loại hình kinh tế, sở hữu khác nhau (gia đình,
hợp tác hoá, Nhà nước).
● Có khả năng đáp ứng yêu cầu của các trình độ khoa học - công nghệ khác nhau.
- Ba là: hiệu quả sản xuất kinh doanh của trang trại không hoàn toàn phụ
thuộc vào quy mô đất đai, lao động, mà chủ yếu phụ thuộc vào trình độ công
nghệ sản xuất trong sản xuất nông nghiệp.
Ở các nước phát triển, trang trại gia đình là loại hình trang trại chủ yếu, có
vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống kinh tế nông nghiệp, là lực lượng sản
xuất ra sản phẩm nông nghiệp cho toàn xã hội, tiêu thụ sản phẩm cho các ngành
công nghiệp, cung cấp nguyên liệu cho chế biến và thương nghiệp.[20]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
Ở các nước Châu Á, quy mô diện tích của các trang trại rất nhỏ, thường từ 0.95
- 1.86 ha, tuy nhiên hiệu quả sản xuất kinh doanh của các trang trại rất cao.
Số lao động ở các trang trại rất thấp, từ 2-3 lao động, là do việc áp dụng cơ
giới hoá đạt trình độ cao.
Như vậy, ở các quốc gia khác nhau, quy mô trang trại về diện tích cũng
khác nhau và thay đổi theo thời gian, tuỳ thuộc vào đặc điểm tự nhiên, xã hội,
trình độ cơ giới hoá và năng suất lao động ở mỗi nước. Ở các nước có bình quân
đất nông nghiệp/hộ thấp thì diện tích đất bình quân của mỗi trang trại tăng
không lớn, nhưng nếu các chủ trang trại tập trung đầu tư theo chiều sâu, vẫn tạo
ra khối lượng nông sản hàng hoá và lợi nhuận ngày càng lớn trên một đơn vị
diện tích.
- Bốn là: bồi dưỡng, đào tạo chủ trang trại là một trong những yếu tố quan
trọng nhất đối với sự thành công của kinh tế trang trại trên thế giới.
Xuất phát từ tính đặc thù của nông nghiệp và đặc điểm của sản xuất nông
nghiệp, do vậy không thể áp đặt phương pháp sản xuất công nghiệp vào nông
nghiệp, nghĩa là không thể tách quản lý sản xuất ra khỏi sản xuất, các chủ trang
trại vừa là người quản lý vừa là người lao động trực tiếp, vừa là người kinh
doanh. Mục tiêu của hoạt động kinh tế trang trại là sản xuất nông nghiệp, việc
quản lý sản xuất kinh doanh của trang trại trên thực tế là quản lý một doanh
nghiệp. Vì vậy chủ trang trại phải có một trình độ quản lý, điều hành sản xuất
kinh doanh bảo đảm cho trang trại hoạt động có hiệu quả.
Trong nền kinh tế tiểu nông, chỉ cần có những người nông dân - chủ hộ cần
cù lao động, còn trong kinh tế thị trường lại cần có những nông dân, chủ trang
trại đồng thời là chủ doanh nghiệp năng động, đủ năng lực quản lý điều hành
trang trại đạt hiệu quả cao, lợi nhuận nhiều. Hơn nữa, trong điều kiện cạnh tranh
gay gắt ở trong nước và trên thị trường quốc tế, đòi hỏi chủ trang trại phải có trình
độ quản lý cao để có khả năng cạnh tranh và hội nhập quốc tế.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
Năng lực quản lý điều hành của chủ trang trại thể hiện ở khả năng về quản
lý tư liệu sản xuất, quản lý lao động, quản lý vốn, xây dựng kế hoạch, quy hoạch
sản xuất, nắm bắt thị trường, tình hình và giá cả tiêu thụ sản phẩm.
Ở nhiều nước công nghiệp phát triển, chủ trang trại muốn được công nhận
về trình độ quản lý và tư cách pháp nhân, phải tốt nghiệp các trường kỹ thuật và
quản lý, đồng thời có kinh nghiệm qua thực tập và lao động sản xuất kinh doanh
một năm ở các trang trại khác. Họ không chỉ có bằng tốt nghiệp về nông học mà
còn có sự am hiểu về mặt kỹ thuật, kinh tế, và thị trường. Các chủ trang trại thường
xuyên liên hệ với với các cơ quan nghiên cứu khoa học để thu thập thông tin kinh
tế, kỹ thuật, tham gia các hội thảo khoa học. Trình độ học vấn, chuyên môn kỹ
thuật của chủ trang trại tỷ lệ thuận với hiệu quả sản xuất kinh doanh, thu nhập của
chủ trang trại.[20]
- Năm là: sự tồn tại và phát triển của kinh tế trang trại gắn liền với quá trình
công nghiệp hoá, và sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị
trường cạnh tranh.
Ở nhiều nước đang phát triển, nhất là trong giai đoạn đầu, việc hình thành
và phát triển thị trường tiêu thụ nông sản phẩm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
với kinh tế trang trại.
- Sáu là: gắn trang trại với công nghiệp chế biến và dịch vụ tại nông thôn.
Kinh tế trang trại phát triển theo hướng đi liền với chuyên môn hoá vào một ít
loại cây trồng, vật nuôi nhất định; hình thành những vùng chuyên canh tập trung
lớn. Công nghiệp chế biến và dịch vụ kinh tế trang trại là điều kiện hết sức quan
trọng để thúc đẩy trang trại phát triển có hiệu quả.
- Bảy là: phát triển các hình thức kinh tế hợp tác trang trại là yêu cầu tất
yếu để hỗ trợ, thúc đẩy kinh tế trang trại.
Trang trại là những đơn vị kinh tế tư nhân tự chủ sản xuất kinh doanh,
nhưng các trang trại không thể hoạt động đơn độc, mà phần lớn đều tham gia
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
vào các hoạt động kinh tế hợp tác với các nội dung và hình thức khác nhau. Hợp
tác được hình thành trên cơ sở hoàn thành tự nguyện, theo con đường góp vốn
và phân chia lợi ích, là tổ chức liên thông, liên kết giữa các trang trại trong quá
trình từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm. Hợp tác xã kiểu này không làm động
chạm đến quyền sở hữu của từng trang trại, nhưng lại tạo điều kiện làm tăng
thêm năng lực sản xuất, lợi ích của từng trang trại.
Có sự hỗ trợ của các hợp tác xã kiểu này thì các trang trại chỉ tiến hành sản
xuất, còn hợp tác xã lo đầu vào đầu ra.
- Tám là: Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình hình
thành và phát triển kinh tế trang trại.
Ở các nước châu Á, việc phát triển các trang trại gia đình ở vùng đồi núi
cao cho thấy vai trò của Nhà nước cực kỳ quan trọng, quyết định sự thành bại
công cuộc di dân, mở mang vùng kinh tế mới. Ở những nơi không có sự quan
tâm của Nhà nước, thì không ổn định được đời sống sản xuất của các hộ nông
dân, không đem lại hiệu quả kinh tế mong muốn, mà còn gây ra tình trạng sử
dụng, khai thác quá mức tài nguyên rừng, phá hoại môi trường sinh thái.[20]
Ở Malaisia, để phát triển các vùng cây công nghiệp xuất khẩu, chính phủ
đã tổ chức đưa hàng vạn hộ nông dân đến lập nghiệp theo phương thức trang trại
trồng cao su, cọ dầu xuất khẩu. Nhà nước đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trước
và sau đó mới đưa các hộ nông dân tự nguyện đến các địa bàn mới, lập trang
trại, được giao đất và cho vay vốn, hướng dẫn kĩ thuật, cung cấp vật tư sản xuất
và bao tiêu chế biến sản phẩm.
Nhà nước có các biện pháp tích cực can thiệp gián tiếp vào thị trường nông
sản thông qua các đòn bẩy kinh tế để tạo sự cân bằng về cung và cầu trên thị
trường nông sản nhằm điều tiết, chống khủng hoảng. Bằng những biện pháp
đó, Nhà nước hướng dẫn, khuyến khích các trang trại tăng hoặc tự nguyện
giảm sản xuất các loại nông sản.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
Nhà nước tôn trọng quyền tự nguyện sản xuất kinh doanh của người nông
dân và tạo điều kiện cho các trang trại phát triển, đây chính là động lực giúp cho
các trang trại gia đình tồn tại và ngày càng phát triển. Vai trò của Nhà nước ở
đây không chỉ là “bà đỡ” cho sự ra đời một hình thức tổ chức sản xuất kinh
doanh mà còn là chỗ hướng dẫn, tạo điều kiện cho hình thức tổ chức kinh doanh
này hoạt động có hiệu quả và đúng mục tiêu của Nhà nước đưa ra.
Nhà nước đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp - nông thôn, đầu tư
xây dựng hệ thống thuỷ lợi, đầu tư cho đường sá, cầu cống ở nông thôn giúp cho
việc vận chuyển lưu thông nông sản hàng hoá được dễ dàng.
Để khuyến khích và tạo điều kiện cho trang trại phát triển, Nhà nước đề ra
các chính sách như: chính sách đất đai; chính sách vốn, tín dụng, chính sách thị
trường, chính sách khoa học, công nghệ, chính sách đào tạo chủ trang trại...
- Chín là: một số khó khăn hạn chế cần lưu ý :
Sự phát triển các loại hình trang trại cũng đang bộc lộ một số khó khăn, hạn
chế và cần có biện pháp khắc phục:
● Quy mô trang trại nhỏ gây sức ép với việc tăng năng suất lao động và
hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
● Quy mô ruộng đất càng nhỏ, manh mối làm hạn chế việc áp dụng công
nghệ mới và máy móc hiện đại ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất.
● Lao động (gồm lao động quản lý và lao động sản xuất) với trình độ học
vấn thấp và chưa được đào tạo chuyên môn, kỹ thuật đã có tác động trực tiếp
đến phát triển và hiệu quả sản xuất của trang trại.
● Tốc độ tăng dân số ở nông thôn còn cao, lao động nông nghiệp tăng
nhanh, thiếu cơ hội và việc làm phi nông nghiệp. Hậu quả dẫn đến nông dân bị
đẩy ra thành thị tạo thành lớp dân nghèo ở thành thị.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
● Hệ thống thị trường nông thôn chưa hoàn thiện, mặc dù nhiều nước có
chính sách ưu đãi về thuế, về giá cả và nông sản, nhưng nông sản trong trang trại
dường như chưa có khả năng tiêu thụ tốt.
Từ những kinh nghiệm chung trên đây, đặt ra cho chúng ta nhiều vấn đề phải
suy nghĩ để vận dụng một cách phù hợp vào điều kiện cụ thể của nước ta.
1.1.2.2. Sự hình thành và phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam
* Khái quát quá trình hình thành kinh tế trang trại ở nước ta
Hình thức kinh tế trang trại ở nước ta đã xuất hiện sơ khai từ đời Lý,
Trần…, trải qua các thời kỳ lịch sử, kinh tế trang trại có các tên gọi khác nhau
như “Thái ấp”; “Điền trang”; Đồn điền”…Trước cách mạng và trong thời kỳ
kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ có trang trại, đồn điền của địa chủ, chủ
nông, chủ tây. Các trang trại này phần lớn sử dụng lao động làm thuê từ tá điền,
cũng là kiểu phát canh thu tô và công cụ sản xuất thủ công, sử dụng sức người,
súc vật, sản xuất mang tính quảng canh, độc canh một số cây ngắn ngày là
chính. Bên cạnh đó còn có kinh tế trang trại của những nhà tư sản trong nước và
nước ngoài, một số tướng lĩnh thời nguỵ làm ăn kinh tế. Hình thức trang trại ở
dạng các xí nghiệp nông nghiệp tư bản chủ nghĩa, đồn điền cao su, cà phê và
những cây công nghiệp khác phục vụ cho mục đích làm giàu của chúng.[17]
Sau khi đất nước được hoàn toàn giải phóng, các trang trại trước đó được cải
tạo, tập thể hoá, quốc doanh hoá thành các cơ sở sản xuất tập thể và Nhà nước
dưới hình thức hợp tác xã, nông trường, trạm trại. Tiếp theo đó, Nhà nước đã có
những chủ trương mới về giao đất, giao rừng, thực hiện nông, lâm kết hợp,
khuyến khích di dân kinh tế mới, khai hoang, phục hoá... tạo tiền đề cho kinh tế
trang trại phát triển. Đặc biệt, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị khoá VI và Nghị
quyết Trung ương 5 khoá VII cũng như luật đất đai năm 1993, đã mở đường cho
các thành phần kinh tế trong nông nghiệp phát triển và từ đó xuất hiện ngày một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
nhiều các mô hình kinh tế trang trại trên khắp cả nước. Bước sơ khai của kinh tế
trang trại trong giai đoạn này chủ yếu mang tính tự phát và cho đến nay phát triển
kinh tế trang trại đã và đang trở thành vấn đề được Đảng, Nhà nước ta quan tâm
và khuyến khích phát triển.[9]
Ngày 02/02/2000, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP
về phát triển kinh tế trang trại. Tạo điều kiện hợp pháp cho loại hình kinh tế
trang trại phát huy năng lực sản xuất, kinh doanh thông qua các chính sách ưu
đãi về nhiều mặt đối với kinh tế trang trại.
Mặt khác, Nhà nước đã ban hành các tiêu chí xác định kinh tế trang trại
nhằm tạo điều kiện quản lý, hỗ trợ và khuyến khích kinh tế trang trại phát triển
trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Như vậy sự hình thành kinh tế trang trại ở nước ta là sự vận động thoát thai
từ kinh tế hộ gắn liền với quá trình đổi mới của đất nước, quá trình đó chứa
đựng một số đặc điểm sau đây:
- Sự hình thành kinh tế trang trại diễn ra với tốc độ nhanh, chủ yếu là
những năm đổi mới, nhất là thời gian gần đây có bước phát triển mạnh. Quá
trình này hàm chứa xu hướng phát triển kinh tế hàng hoá, đi lên sản xuất lớn trong
nông nghiệp, hướng đến thị trường là xu thế hợp với quy luật phát triển.
- Có nhiều thành phần kinh tế tham gia phát triển kinh tế trang trại, nhưng nền
tảng chủ yếu hình thành kinh tế trang trại là do vận động kinh tế hộ gia đình nông
dân, Điều đó cho thấy chủ trang trại có năng lực thực sự để đáp ứng nhu cầu sản xuất
hàng hoá hướng đến người tiêu dùng và có khả năng trong quản lý, điều hành và áp
dụng các tiến bộ mới vào sản xuất đáp ứng nhu cầu nông sản hàng hoá cho xã hội.
- Các trang trại đều có điểm xuất phát chung là hình thành và đi lên từ đất đai,
chủ yếu là đất hoang hoá, đất rừng, một số không nhỏ được hình thành từ quá trình
tích tụ và tập trung đất đai vượt hạn điền thông qua việc thực hiện chính sách giao
quyền sử dụng đất, giao khoán đất, đấu thầu, cho thuê đất có thời hạn..[9],[19]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
* Các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước có liên quan đến phát
triển kinh tế trang trại
Tháng 1/1981 Chỉ thị 100/CT-BBT ra đời đánh dấu quá trình đổi mới trong
nông nghiệp, nông thôn, thực sự giải phóng sức sản xuất cho nông dân.
Đại hội VII (tháng 12/1986) đề ra chủ trương đổi mới nền kinh tế nước ta.
Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (tháng 4/1987) về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
nông nghiệp, khẳng định hộ gia đình xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ, khuyến
khích phát triển.
Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương tháng 12/1997
và Nghị quyết số 06 ngày 10/11/1998 của Bộ Chính trị về phát triển nông
nghiệp, nông thôn.
Luật đất đai 1993 khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước
quản lý. Nhà nước giao cho hộ nông dân sử dụng ổn định, lâu dài với 5 quyền
đó là: quyền sử dụng, thừa kế, thế chấp, trao đổi, chuyển nhượng.
+ Nghị định 64/CP (1993) quy định giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình
và các cá nhân sử dụng lâu dài, thời hạn là 20 năm.
+ Nghị định 02/CP (1994) quy định giao đất nông nghiệp cho các tổ chức,
cá nhân, hộ gia đình thời hạn 50 năm.
+ Nghị định 01/CP (1994) quy định giao khoán kinh doanh rừng và đất
rừng lâu dài cho các cá nhân và hộ gia đình.
+ Nghị quyết 03 ngày 02/02/2000 của Chính phủ về kinh tế trang trại.
+ Thông tư số 423/2000/QĐNHNN ngày 22/9/2000 về chính sách tín dụng
với kinh tế trang trại.
+ Thông tư 23/2000/TTBNĐXH hướng dẫn áp dụng một số chế độ đối với
người lao động làm việc trong trang trại.
+ Thông tư 69/2000/TTNB-BNN-TCTK và Thông tư số 62/TT-NBN-
TCTK ngày 20/5/2003 hướng dẫn tiêu chí kinh tế trang trại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
* Tình hình kinh tế trang trại của cả nước từ sau khi có Nghị quyết 03 đến nay
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê thì sau 6 năm thực hiện Nghị quyết
03 của Chính phủ. Kinh tế trang trại phát triển nhanh về số lượng ở tất cả các
vùng trong cả nước, đến thời điểm 01/7/2006, cả nước có 113.730 trang trại, so
với năm 2001 tăng 52.713 trang trại (+86,4%), so với năm 2004 tăng 2.898 trang
trại (+2,5%). Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên là
những vùng có nhiều đất đai, mặt nước thuận lợi để mở rộng qui mô trồng trọt,
chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản là những vùng tập trung số lượng trang trại
nhiều nhất. Ba vùng này có 80077 trang trại, chiếm 70,4%. Riêng đồng bằng
sông Cửu Long hiện có 54425 trang trại chiếm gần 50% số trang trại cả nước.
Loại hình sản xuất của trang trại ngày càng đa dạng và có sự chuyển dịch về cơ
cấu theo hướng giảm tỷ trọng các trang trại trồng cây hàng năm và cây lâu năm
và tăng tỷ trọng các loại trang trại chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản và sản xuất
kinh doanh tổng hợp. Tỷ trọng trang trại trồng cây hàng năm giảm từ 35,6%
(năm 2001), xuống còn 28,7% (năm 2006); trang trại trồng cây lâu năm từ
27,2% giảm xuống còn 20,2%; trang trại chăn nuôi từ 2,9% tăng lên 14,7%;
trang trại nuôi trồng thuỷ sản từ 27,9% tăng lên 30,1% trong thời gian tương
ứng. Vùng đồng bằng sông Cửu Long có 54425 trang trại; trong đó 24425 trang
trại trồng cây hàng năm, chiếm 44,9% số lượng trang trại của vùng, 25147 trang
trại nuôi trồng thuỷ sản, chiếm 46,2%. Đông Nam Bộ có 16867 trang trại chiếm
14,8% của cả nước; trong đó 9537 trang trại trồng cây lâu năm, chiếm 56,5% số
lượng trang trại của vùng, 3839 trang trại chăn nuôi, chiếm 22,8%. Tây Nguyên
có 8785 trang trại, chiếm 7,7% của cả nước; trong đó 7046 trang trại trồng cây
lâu năm, chiếm 80,2% số lượng trang trại của vùng. Đồng bằng sông Hồng có
13.863 trang trại chiếm 12,2% của cả nước, trong đó 7.562 trang trại chăn nuôi,
chiếm 54,5% của vùng. [21]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
* Trang trại sử dụng ngày càng nhiều ruộng đất, dấu hiệu tích tụ ruộng đất
- điều kiện tiên quyết cho nền sản xuất lớn nông nghiệp
Tại thời điểm 01/7/2006, diện tích đất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản do các
trang trại đang sử dụng là 663,5 nghìn ha, tăng 290,3 nghìn ha so năm 2001
(bình quân 1 trang trại sử dụng 5,8 ha). Trong cơ cấu đất nông, lâm nghiệp và
thuỷ sản trang trại đang sử dụng năm 2006, đất trồng cây hàng năm chiếm tỷ
trọng lớn nhất với 286,4 nghìn ha (43,2%); đất trồng cây lâu năm 148 nghìn ha
(22,3%); đất lâm nghiệp 94,7 nghìn ha (14,3%) và đất nuôi trồng thuỷ sản 134,4
nghìn ha (20,2%). Diện tích đất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản bình quân 1 trang
trại cao nhất là ở vùng Tây Bắc 9,82 ha, Đông Bắc 8,87 ha, Bắc Trung Bộ 7 ha,
chủ yếu là do các vùng này có nhiều trang trại lâm nghiệp (tiêu chí qui định từ
10 ha trở lên). Đặc điểm đất đai của các trang trại là đất sản xuất liền bờ, liền
khoảnh, qui mô lớn nên rất thuận lợi cho việc tổ chức sản xuất, bảo vệ, vận
chuyển sản phẩm và nhất là cơ giới hoá, thủy lợi hoá, xây dựng kết cấu hạ tầng
kỹ thuật. [21]
* Kinh tế trang trại phát triển góp phần tạo việc làm và tăng thu nhập cho
lao động nông thôn
Tại thời điểm 01/7/2006, các trang trại đã sử dụng 395,9 nghìn lao động
làm việc thường xuyên, gấp 1,7 lần so năm 2001; trong đó lao động của hộ chủ
trang trại là 291,6 nghìn người, chiếm 73,6% tổng số lao động, còn lại là lao
động thuê mướn. Do tính chất thời vụ của sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
nên ngoài lao động thuê mướn thường xuyên, các trang trại còn thuê mướn lao
động thời vụ. Những trang trại trồng cây hàng năm, trồng cây lâu năm, nuôi
trồng thuỷ sản sử dụng nhiều lao động thường xuyên nhất.
Thu nhập bình quân 1 lao động làm việc thường xuyên của trang trại là
17,5 triệu đồng/năm cao gấp trên 2 lần so lao động khu vực nông thôn. Tuy
nhiên, lao động làm việc trong trang trại chủ yếu vẫn là lao động phổ thông,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
chưa qua đào tạo chỉ có khả năng đảm nhiệm những công việc giản đơn như làm
đất, trồng cây, chăn dắt gia súc, gia cầm, chế biến thức ăn,…; có rất ít lao động
đảm nhiệm các khâu yêu cầu trình độ kỹ thuật như điều khiển máy móc, chọn
giống cây, con, kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, mua vật tư, bán sản phẩm,… Điều
đó đang đặt ra yêu cầu cấp bách đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn
kỹ thuật cho khu vực nông nghiệp, nông thôn. [21]
* Qui mô vốn sản xuất, kinh doanh của trang trại tăng nhanh do các chủ
trang trại tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất, thâm canh cây trồng vật nuôi
Tại thời điểm 01/7/2006, tổng vốn sản xuất, kinh doanh của các trang trại là
29320,1 tỷ đồng, bình quân một trang trại 257,8 triệu đồng, tăng 122,7 triệu
đồng so năm 2001 (+90,8%). Vốn sản xuất, kinh doanh bình quân 1 trang trại
cao nhất là vùng Đông Nam Bộ 575,5 triệu đồng (tăng 341,6 triệu đồng so năm
2001) do chủ yếu trang trại trồng Cao su, Cà phê, Hồ tiêu, Điều, tiếp đến là Tây
Nguyên 279,6 triệu đồng (+100,7 triệu đồng); đồng bằng sông Cửu Long 206,6
triệu đồng (+135,2 triệu đồng); đồng bằng sông Hồng 200,9 triệu đồng (+94,3
triệu đồng); Tây Bắc 200 triệu đồng (+90,5 triệu đồng); Đông Bắc 192,1 triệu
đồng (+107,2 triệu đồng); thấp nhất là Duyên hải Nam Trung Bộ 144,4 triệu
đồng do chủ yếu trang trại trồng cây hàng năm cần ít vốn hơn. Những tỉnh có
vốn sản xuất, kinh doanh bình quân 1 trang trại từ 500 triệu đồng trở lên là: Lâm
Đồng, Bình Phước, Tây Ninh, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu. [21]
* Kinh tế trang trại phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá ngày càng
lớn, gắn với thị trường
Tổng thu sản xuất, kinh doanh của các trang trại năm 2006 đạt 19.826 tỷ
đồng, gấp 3,6 lần năm 2001, bình quân 174,9 triệu đồng 1 trang trại, gấp 1,9 lần
so năm 2001. Tổng thu sản xuất, kinh doanh bình quân 1 trang trại cao nhất là
vùng Đông Nam Bộ 221 triệu đồng; đồng bằng sông Hồng 193 triệu đồng; đồng
bằng sông Cửu Long 181 triệu đồng; Tây Nguyên 148,6 triệu đồng; Đông Bắc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
139 triệu đồng; Duyên hải Nam Trung Bộ 112 triệu đồng; Tây Bắc 100 triệu
đồng và thấp nhất là Bắc Trung Bộ 105 triệu đồng.
Giá trị sản phẩm và dịch vụ nông, lâm nghiệp và thuỷ sản bán ra năm 2006
là 18031 tỷ đồng, gấp 3,6 lần so năm 2001, bình quân 1 trang trại 159 triệu đồng
gấp 1,9 lần, tỷ suất hàng hoá là 95,2%. Các vùng có tỷ suất hàng hoá cao là:
Đông Nam Bộ 98,2%, Duyên hải Nam Trung Bộ 98,1%, Tây Nguyên 96,2%,
đồng bằng sông Hồng 95,6%, thấp nhất là Tây Bắc 89,8%
Thu nhập trước thuế của các trang trại năm 2006 đạt 6.979 tỷ đồng gấp 3,5
lần so năm 2001, tỷ lệ thu nhập trước thuế so tổng thu là 35,2% (giảm 0,2% so
năm 2001); thu nhập trước thuế bình quân 1 trang trại 61,4 triệu đồng gấp 1,9
lần so năm 2001. Mức chênh lệch giữa các vùng, các địa phương về thu nhập
bình quân 1 trang trại còn lớn: cao nhất là Đông Nam Bộ 85,2 triệu đồng gấp
hơn 2 lần vùng thấp nhất là Duyên hải Nam Trung Bộ 38,3 triệu đồng, đồng
bằng sông Cửu Long 64 triệu đồng, Đông Bắc 52,3 triệu đồng, đồng bằng sông
Hồng 47,6 triệu đồng. Tỷ lệ thu nhập trước thuế so tổng thu sản xuất, kinh
doanh của trang trại cũng có sự chênh lệch lớn giữa các vùng do chịu ảnh hưởng
của loại hình sản xuất và hiệu quả của sản xuất, kinh doanh: cao nhất là Tây Bắc
47,1%, Tây Nguyên 43,4%, Đông Nam Bộ 38,6%, thấp nhất là đồng bằng sông
Hồng 24,6%. [21]
1.2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.2.1- Phƣơng pháp thu thập thông tin
- Thu thập thông tin từ các tài liệu đã công bố ( Tài liệu thứ cấp)
Đó là những tài liệu liên quan đã được công bố của các cơ quan thống kê các
cấp, các trường đại học, các cơ quan nghiên cứu và các cơ quan cấp trên, kết quả
nghiên cứu của các đề tài nghiên cứu có cùng nội dung. Cập nhật những thông tin,
vấn đề phục vụ cho nội dung của đề tài. Tiến hành hệ thống hoá bổ sung cơ sở lý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
luận của đề tài, những thông tin về trang trại để nghiên cứu, xây dựng cơ sở định
hướng.
- Thu thập thông tin qua điều tra (Tài liệu sơ cấp)
Tài liệu sơ cấp sẽ được thu thập thông qua điều tra, phỏng vấn các chủ
trang trại theo phiếu điều tra với bảng câu hỏi đã được chuẩn bị sẵn, phạm vi
điều tra là các trang trại trên địa bàn huyện.
Theo báo cáo của Phòng Thống kê và Phòng Nông nghiệp & PTNT huyện,
đến nay toàn huyện có 63 trang trại, phân bố trên địa bàn của 12/18 xã, thị trấn.
Trong đó tập trung nhất là ở 2 xã: xã Thành Công 21 trang trại; xã Phúc Thuận
18 trang trại, số còn lại nằm rải rác ở các xã như Tiên Phong 5; Hồng Tiến 5;
Phúc Tân 3, Tân Hương 3; Đồng Tiến 2; Trung Thành 2, còn lại Đắc Sơn, Ba
Hàng, Minh Đức và Bãi Bông mỗi xã, thị trấn chỉ có 1 trang trại.
Về loại hình sản xuất được chia ra như sau: trang trại trồng cây lâu năm 6;
trang trại chăn nuôi 27; trang trại lâm nghiệp 14 và trang trại sản xuất kinh
doanh tổng hợp 16.
Việc chọn mẫu điều tra : Trang trại chăn nuôi và trang trại trồng cây Lâu
năm được tiến hành điều tra 100% số trang trại hiện có; Trang trại Lâm nghiệp
chọn điều tra 9 / 14 trang trại (64,3%); Trang trại Tổng hợp chọn điều tra 8/16
trang trại (50%).
Để thu thập số liệu sơ cấp, chúng tôi sử dụng các phương pháp chủ yếu sau:
+ Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn PRA : trực tiếp tiếp xúc với chủ
trang trại, tạo điều kiện để cho họ tự bộc lộ, tự mô tả những điều kiện sản xuất,
những kinh nghiệm, những khó khăn và mong muốn của họ, để thu thập được
thông tin cần thiết và tìm ra những thuận lợi, khó khăn khi tạo lập, vận hành
trang trại làm cơ sở đưa ra định hướng và giải pháp.
+ Phương pháp điều tra trực tiếp chủ trang trại:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
Phiếu điều tra chúng tôi có đủ thông tin về trang trại như nguyên nhân tạo
lập trang trại, kết quả sản xuất. Phiếu điều tra được xây dựng cho từng trang trại
và đã được chuẩn bị từ trước.
Những thông tin về tình hình cơ bản của trang trại như: họ tên, tuổi, dân
tộc, giới tính, trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật, loại hình trang trại, số khẩu,
số lao động, diện tích đất đai, vốn sản xuất, tình hình trang bị sản xuất.
Những thông tin về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại
như: tình hình các khoản chi phí, các khoản thu cả hiện vật và giá trị.
Những thông tin về ý kiến, nguyện vọng, nhu cầu, thuận lợi, khó khăn của
chủ trang trại. Các yếu tố sản xuất như: vốn, kỹ thuật, lao động, giá cả thị
trường, các chính sách của Đảng và Nhà nước về kinh tế trang trại, sự giúp đỡ
của chính quyền địa phương, của nhân dân với vấn đề kinh tế trang trại.
1.2.2. Phƣơng pháp xử lý và phân tích số liệu
Khi đủ số liệu, sẽ tiến hành làm sạch biểu tức là kiểm tra, rà soát và chuẩn hoá lại
thông tin, loại bỏ thông tin không chính xác, sai lệch trong điều tra.
Toàn bộ số liệu điều tra thu thập được tổng hợp, tính toán và phân tổ thống
kê theo những tiêu thức khác nhau, các chỉ tiêu giá trị được hiện tại hoá bằng
đơn giá thống nhất theo giá hiện hành của năm điều tra. Trên cơ sở đó sử dụng
các phương pháp phân tích sau:
- Phương pháp thống kê kinh tế
+ Phân tích so sánh kết quả của số liệu điều tra, thu thập: tính hiệu quả,
đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả sản xuất của trang trại (vốn, đất đai,
lao động, trình độ quản lý), so sánh kết quả loại hình trang trại, nhận xét xu
hướng của trang trại. Hạch toán các khoản mà trang trại đã chi ra, các khoản thu
của trang trại, sử dụng phương pháp này trong công tác điều tra, tính các chỉ tiêu
hiệu quả làm cơ sở cho sự định hướng đưa ra các giải pháp cho sự phát triển của
kinh tế trang trại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
+ Sử dụng phương pháp thay thế liên hoàn để phân tích ảnh hưởng của giá
đến thu nhập của trang trại.
- Phương pháp phân tích định lượng bằng hàm sản xuất
Dùng để lượng hoá mối quan hệ tác động qua lại giữa các yếu tố đầu vào và kết
quả đầu ra trong sản xuất của trang trại. Từ đó thấy được các mức độ ảnh hưởng của
từng yếu tố để có hướng tác động tối ưu cho kinh tế trang trại phát triển.
- Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo
Đảm bảo tính chính xác chúng tôi tham khảo ý kiến của các chuyên gia
trong ngành, những người am hiểu sâu sắc các lĩnh vực liên quan đến đề tài, thu
thập thêm thông tin của các nhà khoa học, các nhà quản lý ở địa phương, cán bộ
cơ sở. Những tài liệu sách báo đã được công bố ở các trường đại học, trung học
nông nghiệp. Chúng tôi dùng trong gi._.ản xuất và cung cấp máy
móc, thiết bị, công cụ cho sản xuất nông nghiệp.
- Nâng cao vai trò chủ đạo của các doanh nghiệp Nhà nước, các cơ sở
nghiên cứu trong sản xuất và cung cấp giống cây trồng vật nuôi phục vụ nhu cầu
sản xuất của các trang trại.
- Quan tâm đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp nông thôn giúp
các trang trại nhanh chóng tiếp cận với các yếu tố của thị trường và tiêu thụ sản
phẩm.
- Các cơ quan chức năng của Nhà nước, địa phương cần tăng cường vai trò
kiểm tra, kiểm soát thị trường đảm bảo phục vụ tốt cho các hoạt động mua bán,
trao đổi vật tư, nguyên liệu hàng hoá có nguồn gốc, xuất xứ, chất lượng và giá
cả phù hợp.
Đối với thị trường các yếu tố đầu ra
- Nhà nước cần có cơ chế và hệ thống cung cấp thông tin thị trường chuyên
ngành đến các cấp chính quyền địa phương và nông dân về thị trường và dự báo
thị trường làm công cụ định hướng cho kế hoạch sản xuất trong các trang trại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
88
- Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư và kinh doanh các dịch vụ
thu mua, chế biến và bảo quản hàng hoá nông sản. từng bước hình thành các cơ
sở, nhà máy chế biến nông sản một cách ổn định.
- Củng cố và mở mang thêm các chợ nông thôn, chợ đầu mối, các khu, cụm
công nghiệp - đô thị, các trung tâm thương mại để mở rộng thị thường tiêu thụ
và xúc tiến thương mại.
Nâng cao khả năng tiếp thị cho các chủ trang trại
- Tổ chức kế hoạch sản xuất kinh doanh bám sát nhu cầu thị trường, yêu
cầu của khách hàng và thị hiếu người tiêu dùng trên cơ sở các hợp đồng kinh tế
đã được thương thảo, ký kết với khách hàng.
- Sản xuất kinh doanh của trang trại phải đi liền với quá trình chế biến và
tiêu thụ sản phẩm.
- Có chiến lược nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm đảm bảo yêu
cầu cạnh tranh trên thị trường.
- Hình thành các mối liên kết, hợp tác trong sản xuất kinh doanh giữa các
trang trại để tăng cường sức mạnh kinh tế, bảo vệ quyền lợi và giảm bớt rủi ro
trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
3.3.1.4. Các giải pháp về công tác khuyến nông và đưa tiến bộ khoa học
kỹ thuật vào sản xuất
Công tác khuyến nông, khuyến lâm trên địa bàn huyện trong những năm
qua đã có nhiều đóng góp và thúc đẩy sản xuất phát triển. Tuy nhiên, qua nghiên
cứu thực trạng hoạt động của các trang trại thì hiện nay họ đang gặp rất nhiều
khó khăn trong việc lựa chọn, quyết định những giống cây con cho năng suất
cao, phẩm chất tốt để thay thế các loại giống cũ, năng suất, chất lượng thấp
không đủ tiêu chuẩn sản xuất sản phẩm hàng hoá đáp ứng được nhu cầu của thị
trường. Bên cạnh đó là hàng loạt những khó khăn về quy trình kỹ thuật canh tác,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
89
về chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng, về phòng chống bệnh dịch,…. do vậy, cần chú
trọng thực hiện tốt các giải pháp cụ thể sau:
- Nhà nước cần củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy và hoạt động công tác
khuyến nông từ tỉnh, huyện đến các xã, thôn. Thường xuyên tổ chức các lớp tập
huấn, bồi dưỡng kiến thức khoa học kỹ thuật nhất là phương thức canh tác tiên tiến
cho người dân, cho các chủ trang trại và người lao động. Thường xuyên tiếp súc
với các trang trại để hỗ trợ, giúp đỡ, khuyến cáo những vấn đề về kỹ thuật thâm
canh, về xử lý các tình huống, các hiện tượng phức tạp trong phòng chống bệnh
dịch…
- Tỉnh, huyện cần chú trọng đầu tư giúp đỡ các trang trại trong việc lựa
chọn, cung ứng các loại giống cây trồng vật nuôi có năng suất cao, phẩm chất tốt
để thay thế các loại giống cũ, giống thoái hoá, giống không đủ tiêu chuẩn sản
xuất hàng hoá ra thị trường.
- Tổ chức nhân rộng các mô hình kinh tế trang trại làm ăn có hiệu quả
thông qua việc tổ chức tham quan, học tập, giới thiệu kinh nghiệm của các mô
hình làm ăn giỏi trong các trang trại với nhau.
- Cán bộ khuyến nông, khuyến lâm cần có những người giỏi về chuyên
môn, nhiệt tình, gắn bó với nông thôn và nông dân, vì vậy nhà nước cần có
chính sách đãi ngộ thoả đáng cho họ.
Trên phương diện vĩ mô, nhà nước cần có cơ chế thích hợp trong việc chuyển
giao tiến bộ khoa học công nghệ mới phù hợp cho các trang trại, thúc đẩy nhanh
việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Xây dựng mối liên kết, hợp đồng giữa các trang trại với nhà khoa học. Nhà
khoa học nghiên cứu, chế tạo máy móc thiết bị, chuyển giao công nghệ, nghiên
cứu, lai tạo giống cây trồng, vật nuôi, hướng dẫn kỹ thuật canh tác làm tăng
năng suất, tăng hàm lượng chất sám trong các sản phẩm sản xuất của trang trại.
Ngược lại, các trang trại tạo môi trường cho các nhà khoa học nghiên cứu và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
90
thực nghiệm. Mối liên kết này được thực hiện thông qua các hợp đồng nghiên
cứu, chuyển giao công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
3.3.1.5. Các giải pháp về tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kỹ thuật nghiệp vụ và
quản lý cho các chủ trang trại và người lao động trong các trang trại
Nhân tố con người và nguồn nhân lực là nhân tố quan trọng hàng đầu, có
ảnh hưởng lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh của trang trại. Từ thực trạng
phân tích trên, để cho kinh tế trang trại phát triển va mang lại hiệu quả cao, rất
cần thiết phải đặt vấn đề tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cho các chủ trang trại và
những người lao động làm việc trong các trang trại.
Việc tổ chức đào tạo bồi dưỡng cho các chủ trang trại cần tập trung vào những
kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn về tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh,
về cách tiếp cận với kinh tế thị trường, tiếp cận với khoa học kỹ thuật công
nghệ mới, cách lập và thực hiện các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh, dự án vay
vốn, kế hoạch sản xuất kinh doanh, phương pháp quản lý và hạch toán kinh tế
trong trang trại…
Trước mắt cần thực hiện điều tra, đánh giá, phân loại năng lực trình độ thực
tế của chủ trang trại và các vấn đề mà họ quan tâm để có kế hoạch mở các lớp
tập huấn, bồi dưỡng cho phù hợp, nội dung tập huấn, bồi dưỡng tập trung vào kỹ
thuật canh tác các cây trồng, vật nuôi cụ thể và nghiệp vụ quản lý, điều hành
hoạt động sản xuất kinh doanh trong trang trại.
Về căn bản địa phương phải có chiến lược đào tạo nguồn nhân lực cho khu
vực nông thôn, nông nghiệp nói chung và cho phát triển kinh tế trang trại nói
riêng. Đây là việc làm hết sức cần thiết để thúc đẩy kinh tế nông nghiệp nông
thôn phát triển. Về hình thức tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cần kết hợp đa dạng các
hình thức đào tạo, bồi dưỡng nhưng về chủ đạo Nhà nước phải có chương trình,
dự án quốc gia về phát triển nguồn nhân lực cho khu vực nông thôn nông
nghiệp, trong đó đối tượng hưởng lợi có cả các trang trại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
91
Đối với lao động làm thuê trong các trang trại cũng phải được đào tạo, bồi
dưỡng thành những lao động có kỷ luật, kỹ thuật và tay nghề vững vàng. Đồng
thời Nhà nước cần có các quy định ràng buộc chặt chẽ về quyền và nghĩa vụ
giữa chủ trang trại và người làm thuê trong các hợp đồng lao động để các bên
hoàn toàn thoả mái, yên tâm dưới sự bảo vệ của pháp luật Nhà nước.
3.3.2. Những giải pháp riêng cho từng loại hình trang trại
3.3.2.1. Đối với trang trại trồng cây lâu năm
Trang trại trồng cây lâu năm trên địa bàn huyện là loại hình trang trại có
nhiều ưu thế phát triển với các sản phẩm chủ lực là sản xuất chè, cây ăn quả kết
hợp chăn nuôi đại gia súc được đánh giá là loại hình trang trại có mức thu nhập
khá và tương đối ổn định, với nguồn gốc từ kinh tế hộ qua tích luỹ phát triển lên
thành kinh tế trang trại. Ngoài những giải pháp trên bình diện chung đã đưa ra
để thực hiện cho các loại hình trang trại, chúng tôi xin đề cập một số giải pháp
riêng cho loại hình trang trại này như sau:
- Các trang trại trồng cây lâu năm trên địa bàn hiện nay đang đứng trước
một số thực trạng khó khăn trong sản xuất cây chè, cây ăn quả.
Về sản xuất cây Chè, hiện nay phần lớn diện tích Chè trong các trang trại
vẫn là chè giống cũ, năng suất thấp, chất lượng nguyên liệu chưa đáp ứng được
nhu cầu chế biến và tiêu thụ trên thị trường, vì vậy, giải pháp hàng đầu hiện nay
là cần nhanh chóng tiến hành cải tạo, trồng mới và trồng lại diện tích chè giống
cũ để tăng nhanh sản lượng, nâng cao phẩm cấp nhằm đáp ứng nhu cầu thu mua,
chế biến của công ty chè Bắc Sơn, công ty chè Quân Chu. Tỉnh, huyện cần có kế
hoạch trợ giúp về giống, vốn, kỹ thuật cho các trang trại, các hộ sản xuất trong
vùng sớm hoàn thành kế hoạch cải tạo giống chè trên địa bàn. Mặt khác, các
trang trại cũng đang rất cần Nhà nước quan tâm về công tác thuỷ lợi cho vùng
đồi, núi, hỗ trợ đầu tư theo phương pháp tưới chè nhỏ giọt để đẩy mạnh thâm
canh và nhất là để sản xuất chè vụ đông, nâng cao hiệu quả kinh tế cây chè.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
92
Về cây ăn quả, khó khăn, hạn chế lớn nhất vẫn là khâu chế biến và tiêu
thụ sản phẩm; vì các sản phẩm sản xuất chủ yếu của các trang trại trên địa
bàn là các cây ăn quả phổ biến như Vải, Nhãn, Hồng, Na,… mặc dù luôn
được mùa nhưng thường mất giá và khó khăn trong khâu tiêu thụ, phụ thuộc
chủ yếu vào thị trường trái cây tự do. Đây cũng là tình hình chung hiện nay
và rất cần được Nhà nước quan tâm, quy hoạch và thu hút đầu tư các cơ sở
công nghiệp chế biến, tiêu thụ sản phẩm cho nông dân nói chung và cho các
trang trại nói riêng. Về phía các trang trại, cũng cần phải nỗ lực tìm kiếm đối
tác, mở rộng thị trường tiêu thụ ra bên ngoài. Bên cạnh đó , cần thực hiện
trồng xen canh cây hàng năm để tận dụng diện tích và bù đắp chi phí theo
phương châm lấy ngắn nuôi dài.
Sơ đồ 3.1 : Cây giải pháp phát triển trang trại cây lâu năm.
Giải pháp phát triển trang trại cây lâu năm
Hình
thành cơ
sở chế
Tự chế
biến
của
Đầu tư
kết cấu
hạ tầng
Cho
vay vốn
dài hạn
Thực
hiện lấy
ngắn
Cải tạo
vườn
tạp
Hoàn
thiện
phương
Tổ chức
mạng
lưới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
93
biến
chung
trang
trại
nuôi dài thức
canh tác
khuyến
nông
Trong sơ đồ cây giải pháp nêu trên, chúng tôi cho rằng cần tập trung vào
các giải pháp thiết yếu sau:
- Đối với Nhà nước và địa phương cần quan tâm xây dựng và hoàn thiện
quy hoạch phát triển vùng chuyên canh sản xuất cây chè, cây ăn quả đối với các
xã phía tây của huyện như Phúc Thuận, Phúc Tân, Bắc Sơn... gắn với kế
hoạch đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và dịch vụ, giải quyết tốt vấn đề cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đẩy mạnh các chương trình dự án đầu
tư cải tạo và nâng cao chất lượng giống chè, giống cây ăn quả, nâng cao
hiệu quả hoạt động công tác khuyến nông đi đôi với việc giải quyết tốt nhu
cầu về vay vốn trung và dài hạn cho các hộ sản xuất nói chung và cho các
trang trại nói riêng.
- Đối với các chủ trang trại cần tập trung cải tạo vườn tạp, hoàn thiện
phương thức canh tác, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất,
quan tâm đầu tư nhiều hơn vào các khâu chế biến và tiêu thụ sản phẩm để nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của trang trại.
3.3.2.2. Đối với trang trại chăn nuôi
Đây là loại hình trang trại phổ biến nhất hiện nay của Phổ Yên, với mô
hình chăn nuôi lợn hướng nạc là chủ yếu, ngoài ra còn một số mô hình chăn
nuôi Trâu, Bò, chăn nuôi gia cầm. Đối với loại hình trang trại chăn nuôi của
huyện thì các giải pháp được thể hiện theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 3.2 : Cây giải pháp phát triển trang trại chăn nuôi.
giải pháp phát triển trang trại Chăn nuôi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
94
Nâng cao kiến thức
khoa học kỹ thuận cho
chủ trang trại
Áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào
sản xuất
Tổ chức quản lý và
công tác khuyến nông
Tập
huấn
kỹ
thuật
Cung
cấp tài
liệu
Tổ
chức
thăm
quan
Áp
dụng
giống
mới
Chế
độ
thức
ăn
phù
hợp
Chăm
sóc
nuôi
dưỡng
đúng
quy
định
Hoàn
thiện
chế độ
chăn
nuôi
Chỉ
dẫn
công
tác thú
y
Xây
dựng
câu lạc
bộ
Tổ
chức
mạng
lưới
khuyến
nông
Cần tập trung vào các giải pháp ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật
trong chăn nuôi mà trước hết là về giống, công tác thú y, quản lý tốt nguồn
giống từ bên ngoài, phấn đấu chủ động được con giống tại địa phương, tăng
cường công tác phòng chống, kiểm soát bệnh dịch.
Trên địa bàn huyện đã có doanh nghiệp đầu tư cơ sở công nghiệp chế biến
sữa và đồ uống, đây là điều kiện hết sức thuận lợi cho việc hình thành các trang
trại, các hộ chăn nuôi bò sữa, tạo vùng nguyên liệu sản xuất sữa tươi cung cấp
cho nhà máy chế biến. Vì vậy, chính quyền địa phương cần có cơ chế, chính
sách hỗ trợ về giống, vốn, kỹ thuật chăn nuôi để tạo điều kiện cho việc hình
thành và phát triển loại hình trang trại chăn nuôi bò sữa trên địa bàn. Tuy nhiên,
việc phát triển chăn nuôi bò sữa tuy đạt hiệu quả cao song yêu cầu về vốn đầu tư
lớn, đòi hỏi quy trình kỹ thuật chăm sóc về sinh sản, dinh dưỡng và thú y vượt
quá khả năng đầu tư và trình độ kỹ thuật của người sản xuất nên các trang trại cần
phải có sự kết hợp với chăn nuôi bò thịt để hạn chế yếu tố rủi ro trong sản xuất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
95
Trang trại chăn nuôi, nhất là chăn nuôi Bò sữa, Lợn, gia cầm là loại hình
sản xuất kinh doanh đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn so với các loại hình trang trại
khác. Do vậy, cần đẩy mạnh các giải pháp huy động vốn đầu tư dưới nhiều hình
thức như việc huy động vốn qua mô hình quan hệ tay ba gữa chủ trang trại,
doanh nghiệp thương nghiệp, chế biến và ngân hàng nông nghiệp. Đây là hình
thức cung cấp giống, phân bón phục vụ sản xuất gắn với cho vay vốn vốn sản
xuất dựa trên cơ sở xác lập mối quan hệ bằng các hợp đồng kinh tế giữa các đối
tác có tính chất pháp lý, mối quan hệ đó là:
- Quan hệ về cung ứng giống, vật tư và tiêu thụ sản phẩm cho trang trại
giữa doanh nghiệp với trang trại.
- Quan hệ giữa ngân hàng nông nghiệp và trang trại là quan hệ tín dụng.
Ngân hàng ký khế ước cho trang trại vay vốn sản xuất kinh doanh và khi hết hạn
vay các trang trại có nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng theo khế ước đã ký.
- Quan hệ giữa ngân hàng với doanh nghiệp là mối quan hệ thanh toán cho
cho doanh nghiệp giá trị vật tư, giống, theo hoá đơn giao hàng khi cung cấp cho
trang trại với giá cả phù hợp.
Một giải pháp thiết thực khác là: đẩy mạnh phát triển mô hình chăn nuôi
gia công để tranh thủ sự hỗ trợ vốn, kỹ thuật theo quy trình chăn nuôi khép kín
từ khâu cung ứng con giống, thức ăn đến bao tiêu sản phẩm; đảm bảo chủ động
phòng, chống dịch bệnh, chia sẻ rủi ro với người chăn nuôi. Đây cũng là kinh
nghiệm và là hướng đi có nhiều triển vọng trong phát triển trang trại chăn nuôi
hiện nay.
3.3.2.3. Đối với các trang trại lâm nghiệp
Đây là những trang trại có quy mô lớn về diện tích, chu kỳ sản xuất dài,
yêu cầu về vốn đầu tư lớn trong khi có nhiều khó khăn về điều kiện hạ tầng.
Phát triển các trang trại lâm nghiệp có nhiều ý nghĩa về kinh tế xã hội và môi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
96
trường, để khắc phục phần nào khó khăn và đảm bảo sản xuất kinh doanh có
hiệu quả cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
- Các cấp chính quyền địa phương có cơ chế tạo điều kịên cho các chủ
trang trại tiếp cận và tranh thủ các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài như các
chương trình, dự án đầu tư cho miền núi, vúng sâu vùng xa, đầu tư trồng
rừng,… để tiếp tục mở rộng và đầu tư chiều sâu để nâng cao năng suất và hiệu
quả kinh tế cho trang trại.
- Hoàn thiện việc giao đất giao rừng, quy hoạch đất rừng, đất gò đồi ổn
định lâu dài tạo điều kiện các chủ trang trại yên tâm đầu tư phát triển sản xuất
cũng như có cơ sở pháp lý thuận lợi trong các quan hệ giao dịch huy động vốn
phát triển sản xuất.
- Kết hợp trồng rừng với chăn nuôi đại gia súc nhằm tận dụng lợi thế vùng đồi
núi, áp dụng các biện pháp kỹ thuật hợp lý trong việc quy hoạch, trồng mới,
chăm sóc và khai thác cây trồng, mạnh dạn sử dụng lao động thuê ngoài để triển
khai trồng mới và chăm sóc kịp thời vụ nâng cao tỷ lệ cây sống, rút ngắn thời
gian thu hoạch.
- Thực hiện việc giao khoán hợp lý với lao động làm thuê, tránh tình trạng
chạy theo số lượng, khoán theo diện tích, bỏ qua yêu cầu kỹ thuật trồng, chăm
sóc. Phấn đấu chủ động cây giống tại chỗ để giảm chi phí, bảo đảm chất lượng
cây giống. Khi chưa đến kỳ khai thác cần kết hợp với phát triển các ngành nghề
để cải thiện tình trạng nông nhàn.
- Trên cơ sở có quy hoạch cụ thể về rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng
sản xuất để có cơ chế chính sách phù hợp với các trang trại trồng các loại rừng
khác nhau, đặc biệt là rừng phòng hộ.
- Hầu hết các trang trại lâm nghiệp hoạt động theo mô hình nông lâm kết
hợp với cơ cấu sản xuất kinh doanh phong phú, đa dạng nên rất cần được bồi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
97
dưỡng, tập huấn chuyên môn kỹ thuật tổng hợp cho cả chủ trang trại và lao động
làm việc trong các trang trại.
Sơ đồ 3.3 : Cây giải pháp phát triển trang trại lâm nghiệp
giải pháp phát triển trang trại lâm nghiệp
Bảo vệ
trồng
rừng
Phòng
chống
cháy
rừng
Đầu tư
phương
tiện vận
chuyển
Thực
hiện giao
đất giao
rừng
Cơ sở
chế biến
Nông
lâm kết
hợp
Giống
cây
Tập
huấn
kỹ
thuật
3.3.2.4 Đối với các trang trại kinh doanh tổng hợp
Loại mô hình trang trại này có quy mô diện tích khá, đa dạng về cơ cấu sản xuất,
cơ cấu cây trồng, vật nuôi nên dễ dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải, thiếu trọng tâm. Vì
vậy, các chủ trang trại cần chú trọng trong việc xác định hướng kinh doanh chuyên
môn hoá, xác định một vài ngành kinh doanh mũi nhọn.
Các trang trại cần mạnh dạn chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ cấu
sản xuất theo hướng tăng tỷ trọng sản xuất hàng hoá, trước hết ưu tiên các
loại cây trồng vật nuôi có giá trị kinh tế cao, thu hẹp quy mô sản xuất các sản
phẩm cho hiệu quả kinh tế thấp để tập trung được nguồn vốn đầu tư cho các
sản phẩm chủ lực.
Các loại hình trang trại tổng hợp ở đây chủ yếu là các mô hình nông lâm
kết hợp và chăn nuôi, do vậy cần chú ý kết hợp giữa cây ngắn ngày và cây dài ngày
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
98
theo phương thức lấy ngắn nuôi dài, kết hợp phát triển trồng trọt với chăn nuôi để
khai thác triệt để lợi thế phát triển của mô hình sản xuất kinh doanh tổng hợp.
Sơ đồ 3.4 : Cây giải pháp phát triển trang trại tổng hợp
Giải pháp phát triển trang trại tổng hợp
Lựa
chọn sản
phẩm
mũi
nhọn
Bố trí cơ
cấu sản
xuất hợp
lý
Xác
định cơ
cấu cây
trồng
vật nuôi
X ây
dựng
mô
hình
VAV
V ACR
Nông
lâm kết
hợp
Tập
huấn kỹ
thuật và
quản lý
Nguồn gốc các trang trại tổng hợp trên địa bàn chủ yếu được hình thành và
phát triển từ các mô hình kinh tế VAC; VACR. Vì vậy, việc phổ biến và nhân
rộng các mô hình kinh tế này là giải pháp khá thiết thực để phát triển kinh tế trang
trại tổng hợp. Trong đó, trọng tâm là việc cải tạo vườn tạp, trồng cây lâu năm, cây
công nghiệp gắn với phát triển chăn nuôi. Đối với những diện tích trồng cây lương
thực kém hiệu quả cần mạnh dạn chuyển đổi sang làm vườn, trồng cây ăn quả, cây
dược liệu, cây công nghiệp kết hợp nuôi trồng thuỷ hải sản. Đẩy nhanh cuộc vận
động dồn điền đổi thửa, khắc phục tình trạng ruộng đất quá manh mún, nhỏ lẻ như
hiện nay.
Tóm lại: để kinh tế trang trại trên địa bàn huyện phát triển nhanh, vững
chắc cần rất nhiều những giải pháp cụ thể, thiết thực và phải được sự quan tâm
tiến hành triển khai từ rất nhiều phía. Trong khuôn khổ của đề tài nghiên cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
99
này chúng tôi chủ yếu tập trung đề cập đến các giải pháp kinh tế và các giải
pháp thực thi cụ thể.
Ở tầm vĩ mô, đó là các giải pháp về quy hoạch gắn với đầu tư kết cấu hạ
tầng, chính sách đầu tư tín dụng, đầu tư phát triển khoa học công nghệ, chính
sách thị trường,.... Tập trung đi sâu vào các giải pháp về quy hoạch phát triển
sản xuất nông lâm nghiệp, quy hoạch các vùng phát triển kinh tế trang trại tập
trung gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ sản phẩm, xác định địa vị pháp lý cho
kinh tế trang trại, giao quyền sử dụng đất lâu dài, ổn định cho các trang trại.
Các giải pháp thực thi cụ thể được thực hiện chung cho các loại hình kinh tế
trang trại mà trước hết là việc nâng cao trình độ cho các chủ trang trại và tạo
ra các mô hình liên kết để sản xuất kinh doanh các trang trại có hiệu quả.
Bên cạnh đó là các giải pháp riêng áp dụng cho từng loại hình kinh tế trang
trại hiện có trên địa bàn.
Trong các giải pháp đã được đề cập, theo chúng tôi hiện nay cần tập trung
trước hết vào bốn giải pháp cơ bản và cấp bách đó là:
- Quy hoạch phát triển kinh tế trang trại gắn với đầu tư kết cấu hạ tầng.
- Giao quyền sử dụng đất ổn định lâu dài cho các trang trại.
- Xác định rõ địa vị pháp lý và thực hiện tốt chính sách ưu đãi đối với kinh
tế trang trại.
- Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho chủ trang trại.
Trên cơ sở đó, làm rõ địa chỉ và trách nhiệm cụ thể của các đối tượng có
liên quan trong việc thực thi các giải pháp đã đề ra.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
100
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận
1. Kinh tế trang trại là loại hình sản xuất đã trải qua quá trình lịch sử lâu
dài và phát triển theo quy luật khách quan của nền kinh tế hàng hoá trong lĩnh
vực nông, lâm, ngư nghiệp, là xu hướng phát triển tất yếu của kinh tế hộ sản
xuất hàng hoá trên thế giới và Việt Nam.
2. Mặc dù mới xuất hiện mấy năm gần đây nhưng kinh tế trang trại ở Phổ
Yên đã có bước phát triển đáng kể cả về số lượng, quy mô cũng như các loại
hình sản xuất ở hầu khắp các địa phương với những tiến bộ về nhiều mặt so với
kinh tế hộ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
101
- Hầu hết các trang trại hoạt động sản xuất kinh doanh đều mang lại hiệu
quả kinh tế cao hơn so với các hộ sản xuất ở cùng điều kiện. Nhiều trang trại cho
mức thu nhập mỗi năm lên tới hàng trăm triệu đồng, mức thu nhập bình quân
hiện nay cũng đã lên tới trên 100 triệu đồng.
- Kinh tế trang trại ở Phổ Yên đã góp phần huy động, khai thác tốt lượng
vốn trong dân để đầu tư cho phát triển, đặc biệt nó đã thực sự thúc đẩy tình hình
sử dụng đất đai có hiệu quả hơn. Các trang trại đã tích cực đi đầu trong đầu tư
thâm canh, khai phá đất hoang hoá, đất mặt nước, đất thầu khoán, đất trống, đồi
núi trọc để phát triển sản xuất.
- Kinh tế trang trại đã thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp nông thôn, thúc đẩy công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản phát triển,
tăng nhanh khối lượng sản phẩm hàng hoá, giải quyết việc làm, tăng thu nhập
cho lao động nông thôn.
3. Nhìn chung kinh tế trang trại đã và đang trở thành phương thức sản xuất
kinh doanh điển hình đối với người dân khu vực nông thôn của địa phương, là
loại hình làm ăn có hiệu quả phù hợp với tình hình kinh tế xã hội hiện nay.
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đã đạt được, kinh tế trang trại của Phổ
Yên cũng đang phải đối mặt với nhiều vấn đề cần phải được quan tâm giải quyết
như địa vị pháp lý của trang trại chưa rõ ràng, hầu hết các trang trại được hình
thành và phát triển một cách tự phát, thiếu định hướng nên gặp rất nhiều khó
khăn trong việc quy hoạch và đầu tư kết cấu hạ tầng, trong tập huấn và chuyển
giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cũng như trong giao quyền sử dụng đất lâu dài, phù
hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai của địa phương. Cơ sở vật chất kỹ
thuật trong các trang trại đều thô sơ, thiếu vốn, trình độ văn hoá, chuyên môn, quản
lý của các chủ trang trại còn thấp, sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm trong khi
đó thị trường, giá cả đầu vào, đầu ra bấp bênh, thiếu ổn định, tiêu thụ sản phẩm gặp
nhiều khó khăn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
102
4. Để kinh tế trang trại của huyện phát triển một cách vững chắc, những giải
pháp chung và giải pháp cụ thể cho từng loại hình trang trại đã được đề cập một cách
có hệ thống, nhưng trước hết cần đặc biệt chú trọng hai giải pháp cốt lõi, đó là:
- Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho chủ trang trại.
- Xác định rõ địa vị pháp lý cho kinh tế trang trại như quyền sử dụng đất
ổn định lâu dài; tư cách pháp nhân của trang trại để giúp họ được hưởng các
chính sách ưu đãi mà Nhà nước quy định.
Tóm lại: Phổ Yên là địa phương có nhiều thuận lợi để phát triển mạnh các
loại hình kinh tế trang trại trong cơ chế thị trường. Tuy nhiên, điều đó còn phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố, nhưng trước hết vẫn phải là nhận thức và hành động
của các cấp chính quyền trong quá trình tác động, thúc đẩy, tạo môi trường, điều
kiện thuận lợi cho kinh tế trang trại phát triển.
II. Kiến nghị
* Đối với Nhà nƣớc và địa phƣơng
1. Nhà nước cần xem xét cho các trang trại vay vốn với lãi xuất ưu đãi, cho vay
đúng mục đích, đúng đối tượng, đúng nhu cầu, đặc biệt cần đơn giản hoá các thủ tục
cho vay và thời hạn cho vay dài hơn, phù hợp với thời vụ và chu kỳ sản xuất để các
trang trại chủ động trong kế hoạch đầu tư sản xuất kinh doanh của mình.
2. Nhà nước cần tăng cường trợ giúp đào tạo kỹ thuật, chuyên môn, nghiệp vụ,
quản lý cho các chủ trang trại và người lao động trong trang trại. Đồng thời, cung cấp
thông tin, dự báo thị trường, hình thành quỹ bảo trợ nông nghiệp có sự tham gia tự
nguyện của các chủ trang trại để bảo hiểm giá cả nông sản, bảo hiểm mùa màng, giảm
bớt rủi ro trong sản xuất kinh doanh trang trại.
3. Nhà nước cần có quy hoạch phát triển trang trại, có định hướng cho các trang
trại phát triển sản xuất các loại sản phẩm, nông sản có khả năng chiếm lĩnh thị trường
tiêu thụ, đồng thời chú trọng đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông, thông tin liên lạc, điện,
thuỷ lợi, cung cấp dịch vụ… tạo điều kiện cho kinh tế trang trại phát triển.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
103
4. Đối với tiêu chí về trang trại. Ngoài các tiêu chí về giá trị đã được Bộ Nông
nghiệp & PTNT và Tổng cục Thống kê quy định, các tiêu chí khác nên giao cho các địa
phương căn cứ vào điều kiện cụ thể của địa phương để quy định cho phù hợp.
5. Chính quyền địa phương các cấp cần tổ chức tốt việc cấp giấy chứng nhận kinh
tế trang trại cho các gia đình, cá nhân có đủ tiêu chí trang trại để giúp họ được hưởng
các chính sách ưu đãi mà nhà nước quy định.
* Đối với các chủ trang trại
1. Không ngừng học tập nâng cao kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn về tổ chức
quản lý sản xuất kinh doanh, về tiếp cận với thị trường, tiếp cận với khoa học kỹ thuật
và công nghệ mới, cách xây dựng và thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh.
2. Các trang trại nên xây dựng các mô hình liên kết để nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh, tăng cường sức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
3. Các chủ trang trại cần mạnh dạn hơn trong khai thác, huy động vốn đầu tư mở
rộng quy mô sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng đất và bảo vệ tài nguyên
môi trường.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
104
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Ban Vật giá Chính phủ, Tư liệu về kinh tế trang trại, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh., 2000.
[2] Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
của quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta, tập 1 Nxb
Hà Nội, 1993.
[3] Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Báo cáo bước đầu tình hình và chủ
trương, giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở các tỉnh phía Bắc, 1999.
[4] Các văn bản pháp luật về kinh tế trang trại, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2001.
[5] Chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước về tiếp tục đổi mới và
phát triển nông nghiệp, nông thôn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1994.
[6] Cục Thống kê Thái Nguyên, Niên giám thống kê 2000-2005.
[7] Chu Hữu Quý, Trang trại gia đình: Một hiện tượng kinh tế xã hội mới xuất
hiện trên một số vùng nông thôn nước ta, Báo cáo tại hội thảo Việt Nam
học, 1996.
[8] Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001.
[9] Đoàn Quang Thiệu, Kinh tế trang trại vùng núi phía Bắc thực trạng và giải
pháp, Tạp chí con số và sự kiện Tổng cục Thống kê số 1+2 năm 2001.
[10] Huyện uỷ Phổ Yên (2005), Báo cáo chính trị trình Đại hội huyện Đảng bộ
Phổ Yên lần thứ 27.
[11] Lê Hữu Ảnh, Nguyễn Công Tiệp, Một số giải pháp phát triển kinh tế trang
trại huyện Sóc Sơn - Hà Nội, Tạp chí kinh tế Nông nghiệp, số 10 (28), 2000
[12] Luật đất đai 1993, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
105
[13] Nghị quyết 06/NQ-TW ngày 10/11/1998 của Bộ Chính trị (Khóa VIII)“Về
một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn” Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
[14] Nguyễn Điền, Trần Đức, Kinh tế trang trại gia đình trên thế giới và châu Á.
Nxb Thống Kê, Hà Nội, 1993.
[15] Nguyễn Đình Hương, Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam. Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2000.
[16] Nghị quyết 03/2000/NQ-CP về kinh tế trang trại.
[17] Phát triển kinh tế hợp tác xã và kinh tế trang trại gia đình ở Việt Nam
(1999), Tập I. Hội khoa học kinh tế Việt Nam.
[18] Phạm Vân Đình, Cần tạo điều kiện tốt cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn, Kỷ yếu khoa học, Hà Nội, 1994.
[19] Trần Ức Mô hình kinh tế trang trại vùng đồi núi, Nxb Nông nghiệp, Hà
Nội, 1998.
[20] Trần Đức, Trang trại gia đình ở Việt Nam và trên thế giới. Nxb Chính trị
quốc gia Hà Nội, 1995.
[21] Tổng cục Thống kê 2007, Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và
thuỷ sản 2006,.
[22] Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội (Tháng 5/1999), Số liệu điều tra,
khảo sát, phỏng vấn 3044 chủ trang trại và 756 cán bộ các cấp ở 15 tỉnh, thành
phố.
[23] UBND huyện Phổ Yên (2006), Báo cáo tổng hợp quy hoạch sử dụng đất
huyện Phổ Yên đến 2010 và tầm nhìn đến 2015.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9510.pdf