Lời nói đầu
Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang có những chính sách khuyến khích đẩy mạnh các ngành kinh tế trọng điểm, mũi nhọn nhằm dần dần từng bước thực hiện công cuộc Công Nghiệp Hoá - Hiện Đại Hoá đất nước, trong đó Xuất Nhập Khẩu là một trong những ngành được Nhà nước đặc biệt chú trọng quan tâm.
Tại công ty Vận Tải Thuỷ Bắc, tuy không phải là một doanh nghiệp chuyên về Xuất Nhập Khẩu nhưng hoạt động Nhập Khẩu luôn là một lĩnh vực hoạt động chính của công ty và
37 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1104 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nhập khẩu tại Công ty Vận tải Thuỷ Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vấn đề hiệu quả Nhập Khẩu cần phải thường xuyên được quan tâm, xem xét, đánh giá.
Từ phân tích trên trong thời gian thực tập tại công ty Vận Tải Thuỷ Bắc em đã chọn đề tài: “Thực trạng và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của Nhập Khẩu tại công ty Vận Tải Thuỷ Bắc” cho bài thu hoạch thực tập tốt nghiệp của mình.
Mục đích của bài thu hoạch thực tập này là dựa trên cơ sở số liệu thực tế trong những năm qua để đánh giá đúng thực trạng hoạt động Nhập Khẩu của công ty. Thông qua đó, xin đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm góp phần vào việc nâng cao hiệu quả Nhập Khẩu của công ty Vận Tải Thuỷ Bắc. Trong khuôn khổ một bài thu hoạch thực tập, với số trang và vốn kiến thức còn nhiều hạn chế, em xin được đề cập đến những nội dung theo ba chương sau:
Chương I: Những lý luận chung về hoạt động Nhập Khẩu và khái niệm hiệu quả kinh tế của Nhập Khẩu.
Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh Nhập Khẩu ở công ty Vận Tải Thuỷ Bắc.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của Nhập Khẩu tại công ty Vận Tải Thuỷ Bắc.
Chương I:
Những lý luận chung về hoạt động Nhập Khẩu và khái niệm hiệu quả kinh tế của Nhập Khẩu.
I. Sự cần thiết và vai trò của hoạt động Nhập Khẩu trong nền kinh tế quốc dân.
1. Sự cần thiết của hoạt động Nhập Khẩu
Hiện nay, trong cuộc sống, nhu cầu về hàng hoá của con người là rất lớn. Nó gia tăng theo sự phát triển của xã hội loài người. Như vậy tất yếu mỗi thành viên trong xã hội đều phải có nhu cầu trao đổi, mua bán hàng hoá với người khác. Trao đổi và lưu thông hàng hoá ngày càng phát triển cao hơn, lúc đầu chỉ trong phạm vi một lãnh thổ, dần dần tiến tới đã ra khỏi biên giới một quốc gia, hoạt động thương mại quốc tế cũng từ đó mà ra đời, trong đó Nhập Khẩu hàng hoá là một hoạt động không thể thiếu được đối với nền kinh tế của một quốc gia.
Thực tế đã chứng minh rằng các quốc gia dù đang phát triển hay phát triển cũng không đủ nguồn lực, tài nguyên để duy trì và phát triển một nền kinh tế bền vững đòi hỏi phải có sự kết hợp hài hoà giữa Xuất Khẩu và Nhập Khẩu. Đặc biệt, với một nước còn đang phát triển như nước ta, Nhập Khẩu càng là yếu tố cần thiết cho quá trình phát triển kinh tế. Nhập Khẩu là nhân tố tháo gỡ các khó khăn về công nghệ, về trình độ quản lý… Đồng thời xu thế Nhập Khẩu bổ sung sẽ là tất yếu, thông qua hoạt động Nhập Khẩu để thay đổi và từng bước hoàn thiện cơ cấu tiêu dùng của dân cư theo hướng hiện đại hoá, đồng thời nâng cao công nghệ trong nước , tiếp nhận khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới, để từ đó áp dụng vào nền kinh tế của ta- sản xuất ra những sản phẩm có lợi thế so sánh, dần dần thúc đẩy Xuất khẩu sang thị trường các nước. Điều này tuy đòi hỏi phải cần có thời gian, nhưng nếu từng bước phát triển dần cùng với các chính sách khuyến khích của Nhà nước sẽ là điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế và rút ngắn khoảng cách với các nước công nghiệp phát triển trên thế giới.
2. Vai trò của hoạt động Nhập Khẩu.
Nhập khẩu là một trong hai hoạt động quan trọng của hoạt động ngoại thương. Có thể hiểu Nhập Khẩu là việc mua bán trao đổi hàng hoá, dịch vụ từ nước ngoài về phục vụ cho nhu cầu trong nước. Như vậy Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất, kinh doanh trong nước là hình thức để bổ sung các hàng hoá mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất nhưng không đáp ứng được nhu cầu.
Trong xu thế hội nhập quốc tế thì nhập khẩu càng đóng vai trò quan trọng nó như chiếc cầu nối nền kinh tế của một quốc gia với thế giới tạo điều kiện rút ngắn khoảng cách giữa các nước đang phát triển và kém phát triển.
Xã hội ngày càng phát triển và nhu cầu của con người ngày càng phong phú và đa dạng. Bằng con đường Nhập Khẩu không những thoả mãn các nhu cầu của con người, mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước cải thiện mức sống của dân cư mà còn là điều kiện để phát triển kinh tế trong mỗi quốc gia.
Nhập khẩu bổ sung kịp thời những mất cân đối của nền kinh tế bảo đảm phát triển kinh tế cân đối và ổn định đồng thời có vai trò tích cực đến thúc đẩy hoạt động Xuất Khẩu. Sự tác động này thể hiện ở chỗ Nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất hàng Nhập khẩu tạo môi trường thuận lợi cho Xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.
Với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, hoạt động Nhập khẩu càng có ý nghĩa quan trọng. Đó là việc thúc đẩy nền sản xuất phát triển qua việc kích thích, khuyến khích các nhà sản xuất trong nước phải cải tiến sản phẩm, giá cả cũng như nâng cao chất lượng hàng hoá nhằm tạo uy tín của mình không chỉ tạo thị trường trong nước mà còn phát triển ở thị trường nước ngoài, góp phần đáng kể vào xoả bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ nền kinh tế đóng, tự cung tự cấp trước kia.
Tuy nhiên, việc Nhập khẩu hàng hoá nhiều quá ở thị trường nước ngoài sẽ không có lợi cho sự phát triển kinh tế, thậm chí Nhập khẩu tràn lan sẽ làm suy yếu nền kinh tế trong nước, không khuyến khích được các thành phần kinh tế.
Mặt khác;khi các sản phẩm của ta có đủ sức mạnh cạnh tranh không khẳng định được tên tuổi của mình trên thị trường dẫn đến tình trạng: “ bảo hộ sản xuất trong nước” của Nhà nước ta bị hạn chế, điều này ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển kinh tế của đất nước. Vì vậy cần phải có chính sách đúng đắn, biện pháp hợp lý khai thác triệt để vai trò của Nhập khẩu, tránh trường hợp sự tham gia quá sâu của Nhà nước làm mất đi sự linh hoạt trong hoạt động Nhập khẩu.
Nhìn chung cho tới nay, tuy chỉ mới qua một thời gian ngắn chuyển sang cơ chế thị trường sôi động với lượng hàng hoá nước ngoài rất phong phú đã tạo ra sự cạnh tranh khá khốc liệt với hàng nội. Điều này đã thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường trong nước và thế giới.
I. Khái niệm về hiệu quả kinh tế của Nhập khẩu.
Mọi hoạt động của con người nói chung và trong sản xuất kinh doanh thương mại dịch vụ nói riêng là phải phấn đấu để đạt được kết quả, nhưng không phải là kết quả bất kỳ mà phải là kết quả có mục tiêu và có lợi ích cụ thể nào đó. Những kết quả đó được ở mức độ nào với giá nào đó chính là vấn đề cần phải xem xét vì nó là chất lượng của hoạt động tạo ra kết quả. Vì vậy đánh gia hoạt động nói chung và hoạt động Nhập khẩu nói riêng không chỉ là đánh giá kết qủa mà còn phải đánh giá chất lượng của hoạt động để tạo ra kết quả đó. Vấn đề không phải chỉ là chúng ta Nhập khẩu bao nhiêu tỷ đồng hàng hoá, thu được bao nhiêu đồng doanh thu bán hàng mà còn là với chi phí bao nhiêu chúng ta đã bỏ ra để có được kết quả như vậy. Nói cách khác hoạt động của một cá nhân hay tập thể nói chung hay hoạt động Nhập khẩu nói riêng chỉ thực sự có ý nghĩa khi đem lại hiệu quả thiết thực cho cá nhân và tập thể, qua đó trực tiếp hay gián tiếp cho xã hội. Việc đánh giá hiệu quả kinh tế là vô cùng quan trọng nhưng trước khi đánh giá được hiệu quả kinh tế ta cần phải hiểu: thế nào là hiệu quả?
Vậy hiệu quả là gì?
1. Hiệu quả.
Đó là mức kết quả làm việc (hay hoạt động) hoặc tính kinh tế với khối lượng chi phí tối thiểu để hoàn thành công việc (hay hoạt động). Nhưng chỉ có mức kết quả thì chưa đủ biểu thị hiệu quả (có thể có kết quả nhưng không phải là kết quả tốt nhất).
Cũng có thể nói như vậy về tính kinh tế (có thể có những chi phí tối thiểu nhưng kết quả chưa có). Do đó hiệu quả là quan hệ so sánh tối ưu giữa kết quả công việc (hay hoạt động) với chi phí bỏ ra cho công việc hay hoạt động đó.
2.Hiệu quả kinh tế .
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế đặc biệt quan trọng phản ánh yêu cầu của quy luật tiết kiệm thời gian, phán ánh trình độ sử dụng lực lượng sản xuất và mức độ hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền sản xuất xã hội. Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu xã hội tổng hợp dùng để lựa chọn các phương án hoặc quyết định trong quá trình hoạt động thực tiễn của con người ở mỗi lĩnh vực và mỗi thời điểm. Bất kỳ một quyết định nào cho phép (về khả năng nguồn lực) đều phải đạt được phương án tốt nhất là giải pháp thực hiện có cân nhắc, tính toán chính xác, phù hợp với sự tất yếu của quy luật khách quan trong điều kiện cụ thể thích hợp. Trong phạm vi hoạt động kinh doanh hiệu quả kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố của quá trình kinh doanh để đạt được kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất. Hiệu quả nói nên chất lượng hoạt đông thông qua việc so sánh yếu tố đầu ra và yếu tố đầu vào, là lợi ích lớn nhất thu được với một chi phí nhất định hoặc một kết quả nhất định với chi phí nhỏ nhất trong kế hoạch và quản lý kinh tế nói chung.
Gắn liền với hiệu quả kinh tế là thuật ngữ hiệu quả kinh tế xã hội. Hiệu quả kinh tế được xét ở tầm vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Thông qua đóng góp của các doanh nghiệp vào việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội như : Tạo việc làm đóng góp ngân sách cải thiện đời sống nhân dân, góp phần thay đổi cơ cấu nền kinh tế … Các doanh nghiệp cần quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội chứ không chỉ là hiệu quả tài chính. Hiệu quả kinh tế xã hội là tiền đề và điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Dù rằng lợi nhuận là mục tiêu của các doanh nghiệp nói chung và của các doanh nghiệp hoạt động Nhập khẩu nói riêng, nhưng hiệu quả mới là nhân tố quyết định tới sự phát triển lâu dài và bền vững của doanh nghiệp. Hiệu quả hoạt động kinh doanh không chỉ là vấn đề sống còn của doanh nghiệp mà còn phản ánh trình độ tổ chức quản lý kinh doanh, sử dụng nguồn nhân lực của doanh nghiệp. Hiệu quả vì vậy cần luôn được nghiên cứu đánh giá cần được so sánh với từng thời kỳ, từng hoạt động để không ngừng được nâng cao trong doanh nghiệp, trong ngành và trong nền kinh tế quốc dân.
3. Các loại hiệu quả kinh tế trong hoạt động xuất nhập khẩu.
Hiệu qua được thể hiện ở những dạn khác nhau, trong đó mỗi dạng thể hiệnnhững đặc trưng, ý nghĩa cụ thể của hiệu quả. Việc phân loại hiệu quả kinh tế trong hoạt động Xuất nhập Khẩu theo những tiêu thức khác nhau chính sách ú nghĩa thiết thực cho công tác quản lý. Đây chính là cơ sỏ để xác định các chỉ tiêu và mức hiệu quả cũng như xác định các biện pháp nâng cao hiệu quả trong hoạt động Xuât Nhập Khẩu.
a.Hiệu quả kinh tế cá biệt (hiệu quả kinh doanh ) và hiệu quả kinh tế xã hội.
Hiệu quả kinh tế cá biệt là hiêu quả kinh tế thu được từ hoạt động của từng doanh nghiệp. Biểu hiện chung của hiệu quả kinh tế cá biệt là doanh lợi mà mỗi doanh nghiệp đạt được.
Trong khi đó, hiệu quả kinh tế xã hội mà hoạt động Xuất Nhập Khẩu đem lại cho nền kinh tế quốc dân là sự đóng góp của hoạt động Xuât nhập khẩuvào việc phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động xã hội, tích luỹ ngoại tệ, tăng thu cho ngân sách, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống nhân dân…
Hiệu quả kinh tế cá biệt là hiệu quả trực tiếp, trên cơ sở xác định được hiệu quả kinh tế cá biệt ta xác định được cả về mặt định tính và định lượng hoạt động kinh doanh cuat doanh nghiệp. Thông qua nó ta đánh gí được doanh nghiệp hoạt động tốt hay không. Hiệu quả kinh tế xã hội là hiệu quả gián tiếp, được thể hiện về mặt định tính dễ hơn, định lượng tương đối khó xác định. Thế nhưng, giữa hiệu quả kinh tế cá biệt và hiệu quả kinh tế xã hội có mối quan hệ nhân quả, tác động qua lại lẫn nhau. Hiệu quả kinh tế xã hội chỉ có thể đạt được trên cơ sở hoạt động có hiệu quả của các doanh nghiệp hoạt động XNK (trừ một số trường hợp đặc biệt vì hiệu quả kinh tế xã hội mà không có hiệu quả kinh doanh). Và ngược lại, hiệu quả kinh tế xã hội là tiền đề và điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả trong quá trình kinh doanh. Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra cho hoạt động XNK là phải kết hợp hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội.
b. Hiệu quả chi phí bộ phận và chi phí tổng hợp.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, có nhiều công đoạn, nhiều việc phải làm, tương ứng với mỗi việc có một khoản chi phí phải bỏ ra. Đó là chi phí bộ phận. Tổng các chi phí bộ phận để đạt được kết quả cuối cùng của một hoạt động cụ thể là chi phí tổng hợp.
Trong kinh doanh ngoại thương thường có các chi phí sau:
+ Thu mua hàng.
+ Vận tải, bảo hiểm.
+ Lao động.
+ Chi phí khác.
Khi đánh giá hiệu quả kinh doanh của hoạt động XNK, không thể không đánh giá hiệu quả tổng hợp của các loại chi phí trên, nhưng lại cần phải xem xét hiệu quả của từng loại chi phí. Đó là điều cần làm giúp cho hoạt động kinh doanh tìm được cách giảm chi phí cá biệt của doanh nghiệp từ đó tăng hiệu quả kinh tế chung. Hiệu quả kinh tế trong hoạt động XNK nói chung được tạo thành trên cơ sở hiệu quả các loại chi phí cấu thành. Các đơn vị sản xuất và kinh doanh ngoại thương là nơi trực tiếp sử dụng các yếu tố của quá trình sản xuất để tạo ra các giá trị sử dụng khác nhau. Vì vậy, bản thân các đơn vị sản xuất và kinh doanh ngoại thương phải quan tâm những biện pháp đồng bộ để thu được hiệu quả toàn diện trên các yếu tố của quá trình tái sản xuất.
c. Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh.
Trong công tác quản lý hoạt động kinh doanh, việc xác định hiệu quả nhằm hai mục đích cơ bản sau:
Thứ nhất: Là để thể hiện đánh gía trình độ sử dụng các dạng chi phí hoạt động của mình đã hợp lý hay chưa.
Thứ hai: Là để phân tích, luận chứng về kinh tế giữa các phương án khác nhau trong việc thực hiện một nhiệm vụ cụ thể nào đó, từ đó lựa chọn phương án tối ưu là có lợi nhất.
Hiệu quả tuyệt đối là lượng hiệu quả được tính toán cho từng phương án cụ thể bằng cách xác định mức lợi ích thu được với lượng chi phí bỏ ra. Còn hiệu quả so sánh được xác định bằng cách so sánh các chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối của các phương án với nhau. Mục đích của việc tính toán này là so sánh mức độ hiệu quả của các phương án từ đó cho phép lựa chọn một cách làm có hiệu quả cao nhất.
Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh trong hoạt động XNK không tách rời nhau. Người ta xác định hiệu quả tuyệt đối khi phải bỏ chi phí ra để thực hiện một thương vụ nào đó, để biết được những chi phí bỏ ra sẽ thu được những lợi ích cụ thể và mục tiêu cụ thể gì, từ đó quyết định có nên bỏ chi phí hay không cho thương vụ đó, người ta không chỉ tìm thấy một cách mà có thể đưa ra nhiều cách khác nhau. Muốn đạt hiệu quả kinh tế cao, người làm công tác quản lý và kinh doanh ngoại thương phải biết tận dụng mọi sự hiểu biết đưa ra nhiều phương án khác nhau rồi so sánh hiệu quả kinh tế của các phương án từ đó chọn ra một phương án có lợi nhất. Để làm được điều này, người ta phải so sánh mức hiệu quả của từng phương án với nhau trên cơ sở đã tính toán những hiệu quả tuyệt đối của từng phương án. Nói cách khác, xác định hiệu quả tuyệt đối là cơ sở để xác định hiệu quả so sánh.
Chương II :
Thực trạng hoạt động kinh doanh Nhập khẩu ở công ty Vận Tải Thuỷ Bắc.
I. Giới thiệu vài nét về công ty Vận Tải Thuỷ Bắc.
1.Quá trình hình thành và phát triển của công ty.
Công ty Vận Tải Thuỷ Bắc nguyên là tổng công ty Vận Tải Sông I theo quyết định số 284/QĐ - TCCB – ND ngày 27/2/1993 khi tổ chức ngành đường sông thay đổi. Sau đó, theo quyết định số 1108/ QĐ - TCCB – ND ngày 3/6/1993 của Bộ Giao Thông Vận Tải Sông I được chuyển thành công ty Vận tải Thuỷ Bắc thuộc Bộ Giao Thông Vận Tải Sông I.
Ngày 30/7/1997 theo đề nghị của hội đồng quản trị Tổng Công Ty Hàng Hải Việt Nam, tại quyết định 598/TTG, thủ tướng chính phủ đã cho phép chuyển công ty Vận Tải Thuỷ Bắc làm thành viên của Tổng Công Ty Hàng Hải Việt Nam.
Tên chính thức của công ty hiện nay :
Công ty Vận Tải Thuỷ Bắc
Tên giao dịch
Northern Waterway Transport Co- operation
Trụ sở chính đặt tại:
278 – Tôn Đức Thắng – Hà Nội
Những hoạt động sản xuất kinh doanh chính của công ty là:
Xuất Nhập khẩu kinh doanh vật tư ,phụ tùng, thiết bị ngành đường thuỷ.
Xuất khẩu thuyền viên dịch vụ tổng hợp, đại lý vận tải và các dịch vụ khác.
Vận tải hàng hoá và hành khách bằng đường biển.
Làm đại lý môi giới hàng hải.
Cung cấp dịch vụ vận tải đường sông ở miền Bắc.
sản xuất phao tiêu, biển báo, cột đèn… phục vụ công tác quản lý đường sông…
Tuy là một doanh nghiệp Nhà nước ra đời muộn song công ty Vận Tải Thuỷ Bắc đã nhang chóng ngày càng khẳng định vị trí của mình trên thương trường và trong quá trình hoạt động kinh doanh của công ty. Vì vậy chỉ với một số ít năm hoạt động liên tục nhưng công ty Vận Tải Thuỷ Bắc đã có những bước phát triển nhất định.
Về vốn kinh doanh:
Năm 1993:
Vốn cố định của công ty là: 3.792.322.878 đồng
Vốn lưu động là: 1.897.564.350 đồng (vốn này do ngân sách Nhà nước cấp)
Đến ngày 30/9/2001:
Vốn cố định là: 54.235.472.239 đồng
Vốn lưu động là : 9.565.284.357 đồng (trong đó do công ty tự huy động là chủ yếu song công ty luôn đảm bảo khả năng thanh toán không nợ quá hạn).
Về tài sản cố định:
Khi mới thành lập công ty Vận Tải Thuỷ Bắc chỉ có hai tàu biển cũ chở hàng khô trọng tải 400 tấn. Hiện nay, bằng sự năng động tự mình vươn lên trong cơ chế thị trường, công ty Vận Tải Thuỷ Bắc đã trang bị cho mình:
04 đoàn tàu, trọng tải mỗi đoàn 800 tấn
01 tàu biển trọng tải 400 tấn.
01 tàu biển trọng tải 200 tấn.
01 tàu biển trọng tải 5.100 tấn,
01 tàu biển trọng tải 6.500 tấn
01 đoàn tàu khách cao tốc
Về thị trường :
Những ngày đầu hoạt động công ty chủ yếu khai thác vận tải ven biển trong nước. Cho đến nay thị trường của công ty phát triển khá rộng, thị trường trong nước không những được củng cố mà công tycòn mở rộng ra thị trường thế giới.
Về công tác xã hội :
Từ khi công ty được thành lập, công ty đã không ngừng cố gắng đảm bảo việc làm cho người lao động, chú ý nâng cao thu nhập cho cán bộ công nhân viên cải thiện điều kiện làm việc cho mọi thành viên của Công ty. Bên cạnh đó, công ty cũng rất tích cực trong công tác từ thiện, cứu trợ, ủng hộ.
Nghiên cứu về sự phát triển của công ty Vận tải Thuỷ Bắc cho thấy công ty ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Doanh thu và nộp ngân sách ngày càng tăng. Đời sống cán bộ công nhân viên tuy chưa cao song việc làm luôn được đảm bảo và ổn định, thu nhập có xu hướng tăng lên. Hầu hết tài sản của công ty được trang bị bằng vốn vay dài hạn của ngân hàng song công ty luôn đảm bảo trả nợ đúng hạn không có nợ quá hạn, công ty luôn bảo toàn phát triển vốn, luôn chủ động về mặt tài chính.
2. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý của Công ty.
Bộ máy tổ chức của công ty hầu như không có sự thay đổi lớn kể từ ngày đầu thành lập. Đứng đầu bộ máy quản lý là giám độc công ty, có nhiệm vụ giữ vai trò chung toàn công ty, chỉ đạo các phòng ban chức năng. Giám đốc chịu trách nhiệm trước Nhà nước, Bộ Giao Thông Vận Tải, Tổng Công ty Hàng Hải Việt Nam về kết quả kinh doanh của công ty. Phó giám đốc là người hỗ trợ cho giám đốc, có nhiệm vụ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, thay mặt giám đốc giải quyết công việc khi giám đốc đi vắng, đồng thời có quyền ra lệnh cho các phòng ban trong phạm vi trách nhiệm.
Ngoài ra, giám đốc còn có sự hỗ trợ của kế toán trưởng và các phòng ban chức năng.
Các phòng ban chức năng bao gồm:
+ Văn phòng giám đốc.
+ Phòng kinh tế vận tải.
+ Phòng tài chính kế toán.
+ Phòng kỹ thuật vật tư.
+ Phòng kế hoạch đầu tư.
+ Phòng tổ chức cán bộ lao động.
+ Ban tầu khách.
+ Ban tầu sông.
Nhiệm vụ của các phòng ban:
* Văn phòng giám đốc: Phụ trách các công việc hành chính sự nghiệp, giải quyết các thủ tục giấy tờ có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, đăng ký, lập các dự án xin vốn, gọi vốn đầu tư trong nước cũng như ngoài nước.
* Phòng kinh tế vận tải: Ký kết hợp đồng định hạng cho tầu với khách hàng thuê tầu, khai thác hàng cho tầu, theo dõi hành trình tầu khi tầu hoạt động, xây dựng các kế hoạch sản xuất kinh doanh toàn công ty, phân tích kiểm tra tình hình thực hiện các kế hoạch đó, tổng hợp báo cáo lãnh đạo.
* Phòng tài chính kế toán: Cùng với các phòng ban chức năng trong công ty, phòng kế toán có chức năng nhiệm vụ phản ánh với giám đốc toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, giám sát việc bảo quản và sử dụng tài sản trong doanh nghiệp.
* Phòng kỹ thuật vật tư : Kiểm tra, kiểm soát chất lượng từng con tầu, theo dõi diễn biến hành trình tầu để có biện pháp kỹ thuật kịp thời khi có những sự cố kỹ thuật xảy ra. Cung cấp đầy đủ kịp thời vật tư thiết bị phụ tùng, nhiên liệu đảm bảm cho tàu hoạt động liên tục và có hiệu quả, lập các kế hoạch sửa chữa và nâng cấp tàu khi đến hạn.
* Phòng kế hoạch đầu tư : Lập các kế hoạch kinh doanh, dự án xin vốn, góp vốn, cấp vốn và các kế hoạch đầu tư chung và dài hạn.
* Phòng tổ chức cán bộ lao động: Thực hiện công tác quản lý tổ chức nhân sự , thực hiện chế độ lương và bảo hiểm xã hội.
* Ban tầu khách: Quản lý các tuyến, các chuyến tầu phục vụ khách, chịu mọi trách nhiệm trong quá trình tàu vận chuyển hành khách.
* Ban tàu sông: Chịu trách nhiệm quản lý các chuyến tầu sông vận tải thuỷ nội địa.
Bên cạnh đó xuất phát từ đặc điểm chức năng của công ty và để thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh các cấp lãnh đạo công ty đã tổ chức và dần hoàn thiện bộ máy tổ chức kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm:
+ Trung tâm XNK Đông Phong.
+ Trung tâm XNK CKD.
+ Trung tâm Dịch Vụ Tổng Hợp.
+ Chi nhánh Hải Phòng.
+ Chi nhánh Quảng Ninh.
+ Chi nhánh TP . Hồ Chí Minh.
+ Xí nghiệp cơ khí và vật liệu xây dựng .
Nhiệm vụ của các trung tâm này là:
* Trung tâm XNK Đông Phong có nhiệm vụ chính là nhập khẩu các máy móc thiết bị, vật tư đường thuỷ, sau đó tiến hành buôn bán trực tiếp cho các doanh nghiệp trong nước hoặc thông qua các trung gian là đại lý để tiến hành hoạt động kinh doanh của mình.
* Trung tâm xuất nhập khẩu CKD: Hoạt động nhập khẩu của trung tâm này cũng giống như trung tâm Đông Phong, chủ yếu nhập các máy móc, phụ tùng phục vụ cho đường thuỷ trong nước.
* Trung tâm dịch vụ tổng hợp: Làm các dịch vụ vật tư, thiết bị, cho thuê nhà nghỉ, văn phòng, xuất khẩu lao động.
* Chi nhánh Hải Phòng: Vận tải đường sông, đường biển, làm dịch vụ đại lý vận tải như đại lý tầu biển, đại lý container, đại lý giao nhận vận tải và các dịch vụ khác.
* Chi nhánh Quảng Ninh: Vận tải đường sông và dịch vụ vận tải.
* Chi nhánh TP . Hồ Chí Minh: Chủ yếu thực hiện dịch vụ vận tải.
* Xí nghiệp cơ khí và vật tư xây dựng: sản xuất cơ khí, vật liệu xây dựng và sửa chữa cơ khí.
Sơ đồ bộ máy tổ chức quản lý tại công ty vận tải Thuỷ Bắc
Giám đốc
Phó giám đốc
phòng
Kỹ thuật
phòng Kế hoạch Đầu tư
phòng Tài chính Kinh Kế toán
phòng Tổ chức cán bộ lao động
phòng Vận tải biển
phòng Vận tải sông
phòng Tầu khách
chi nhánh
Quảng Ninh
chi nhánh
Hải Phòng
chi nhánh TP
Hồ Chí Minh
Trung tâm XNK
Đông Phong
Trung tâm
XNK
CKD
Trung tâm Dịch vụ xuất khẩu lao động
Xí nghiệp cơ khí vật liệu xây dựng
II. Tình hình hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty.
1. Cơ cấu mặt hàng và kim ngạch nhập khẩu của công ty.
Các mặt hàng nhập khẩu của công ty chủ yếu là các thiết bị máy móc phục vụ cho đường thuỷ. Từ đó, công ty tiến hành kinh doanh trong nước dưới nhiều hình thức hoặc bán buôn trực tiếp cho các doanh nghiệp hoặc thông qua các trung gian là các đại lý trực tiếp cho khách hàng. Sản phẩm chính được nhập khẩu từ nước ngoài của công ty tập trung chủ yếu vào sản phẩm như:
+ Máy tầu thuỷ.
+ Máy phát điệm: gồm máy phát điện tầu thuỷ và tổ máy phát điện trên bờ.
+ Tổ máy phát điện có thiết bị bảo vệ đặc biệt.
Bên cạnh đó, công ty còn nhập các sản phẩm như :
+ Các loại máy cắt, máy nén khí, máy lái thuỷ lực, máy xúc lật.
+ Cẩu thuỷ lực, cẩu Diezel, kích thuỷ lực, uốn tôn, tời kéo neo.
+ Các loại phụ tùng, đầu phát hộp số.
+ Các tổ máy dùng trong nông nghiệp, máy lắp cho công trình như máy lu làm đường.
Nhìn chung, các mặt hàng nhập khẩu của công ty tương đối đa dạng về chủng loại và mẫu mã. Mặt hàng “máy thuỷ” (cỡ lớn) còn nằm trong danh mục hàng hoá miễn thuế nhập khẩu của nhà nước, do đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của công ty. Khác với những hàng hoá khác, mặt hàng nhập khẩu của công ty chủ yếu là động cơ Diezel, các phụ tùng lắp đặt trên tàu thuỷ, các máy phát điện có nhiệm vụ cung cấp toàn bộ điện năng cho con tàu... Chính vì vậy các đặt tính nổi bật mà bản thân công ty cũng như khách hàng của công ty quan tâm đến như là: Công suất vòng quay, việc tiêu hao nguyên liệu, chế độ lắp đặt, chế độ vận hành cũng như các chế độ theo dõi, bảo dưỡng của máy móc.
Tổng kim ngạch nhập khẩu của công ty năm 2000 và đến
tháng 9/2001 được thể hiện qua bảng sau:
TT
Tên hàng
Năm 2000
Từ tháng 1- 9/2001
Giá trị (USD)
TT (%)
Giá trị
( USD)
TT (%)
1
Máy thuỷ
384653
36
458653
35.45
2
Hộp số
273366
25.4
274699
21.45
3
Tời kéo lưới
43702
4.06
50701
3.95
4
Kích tay thuỷ lực
123138
11.44
136044
11
5
Máy phát điện
97380
9
167706
13.09
6
Phụ tùng máy thuỷ
86902
8
93843
7.32
7
Cần cẩu
57455
4048
8
Các mặt hàng khác
66897
6.1
41862
3.26
Tổng kim ngạch nhập khẩu
1.076.056
100
1.280.963
100
Qua bảng cơ cấu mặt hàng nhập khẩu của công ty Vận tải Thuỷ Bắc trong năm 2000 và 9 tháng đầu năm 2001 ta thấy tình hình nhập khẩu của công ty như sau:
* Máy thuỷ : Đây là mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của công ty. Hiện nay máy thuỷ có doanh số bán ra nhiều nhất so với các mặt hàng nhập khẩu khác của công ty. Tuy nhiên trong nước ta đã sản xuất loại máy thủy cỡ nhỏ nhưng với loại máy thuỷ cỡ lớn thì chưa có cơ sở nào sản xuất. Mặt hàng này còn được nhà nước miễn thuế nhập khẩu do đó tạo điều kiện thuận lợi cho công ty trong hoạt động kinh doanh của mình. Nhìn chung, trong năm 2000 và 9 tháng đầu năm 2001 số lượng máy thủy nhập tương đối ổn định, năm 2000 chiếm 36% tổng kim ngạch nhập khẩu, từ tháng 1đến tháng 9/2001 chiếm 35,45%. Con số này phần nào thể hiện hoạt động kinh doanh “Máy thuỷ” của công ty là tương dối cao, chiếm trên 1/3 tổng kim ngạch nhập khẩu. Thời gian tới công ty dự kiến nhu cầu về mặt hàng này còn tăng, công ty Thuỷ Bắc ngoài việc giữ nguyên nhập khẩu để có một phần lợi nhuận ổn định công ty còn chủ trương nhập thêm từ nhiều thị trường khác, đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú từ phía người tiêu dùng.
Bên cạnh đó, các sản phẩm nhập khẩu của công ty thường có điểm khác so với các hàng hoá khác là khách hàng thường có nhu cầu mua liền các mặt hàng của công ty với nhau như : “Máy thuỷ” hay bán kèm với “Tời”, còn “Máy phát điện” thường bán kèm với “hộp số” và “phụ tùng”, vì vậy khi có nhập vê một mặt hàng nào đó công ty thường dự kiến nhập bổ sung đề phòng trường hợp có nhu cầu đột xuất, công ty vẫn chủ động giao cho khách hàng được ngay, nhưng hiện tại chủ yếu vẫn nhập bổ sung các mặt hàng có giá trị nhỏ vì công ty còn thiếu vốn.
Hộp số: là mặt hàng chiếm tỷ trọng khá cao chỉ đứng sau Máy thuỷ. Tuy 9 tháng đầu năm 2001 mặt hàng này mới chiếm có 21,45% tổng kim ngạch nhập khẩu nhưng cũng phản ánh được hiệu quả hoạt động của công ty.
Các mặt hàng khác như: máy phát điện, kích tay thuỷ lực, phụ tùng máy thủy của công ty nhìn chung nhập với số lượng tương đối ổn định, không có sự tăng giảm nên xuống một cách rõ rệt, năm 2000 và 9 tháng đầu năm 2001 đều chiếm tỷ trọng xấp xỉ bằng nhau. Điều này một phần phản ánh do thị trường trong nước hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp, công ty nhà nước và tư nhân cũng tiến hành hoạt động nhập khẩu các thiết bị, vật tư máy móc đường thuỷ này, một phần cũng do công ty ra đời muộn, tên tuổi của sản phẩm cũng chưa được biết đến nhiều trên thị trường nên công ty cần phải đẩy mạnh, phát triển hoạt động quảng cáo, tuyên truyền, giới thiệu sản phẩm cuả mình.....
2. Thị trường nhập khẩu của công ty.
Trong hoạt động thương mại thì thị trường là khâu đầu tiên và rất quan trọng cho cả hoạt động xuất hoặc nhập khẩu. Việc tìm kiếm thị trường trong kinh doanh nhập khẩu bảo đảm cho các hoạt động kinh doanh diễn ra liên tục và đạt hiệu quả cao. Do hoạt động kinh doanh vượt ra khỏi biên giới quốc gia nên việc nghiên cứu thị trường trở nên rất phức tạp bởi tính đặc thù riêng của hoạt động nhập khẩu. Tuy nhiên, công ty đã rất tích cực trong nghiên cứu, tìm hiểu để có thể nắm vững được thị trường nhập khẩu.
Mặt khác, trong môi trường kinh doanh quốc tế hiện nay có rất nhiều nhà cung cấp máy móc, thiết bị, vật tư đường thuỷ với nhiều chủng loại, đặc tính kỹ thuật, mức giá khác nhau. Vì vậy, các cán bộ XNK của công ty phải tìm hiểu kỹ về đối tác để nắm vững thông tin cần thiết về khả năng cung cấp cũng như năng lực thực sự của họ.
Hiện tại, công ty Vận tải Thuỷ Bắc thực hiện nhập khẩu từ các thị trường: Trung Quốc, Tiệp Khắc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và đôi khi nhập khẩu một số phụ tùng, thiết bị từ nhiều quốc gia khác, sau đó tiến hành hoạt động kinh doanh trong nước. Để lựa chọn đúng nguồn nhập khẩu, công ty Vận tải Thuỷ Bắc rất chú trọng việc lựa chọn nhà cung ứng. Các nhà cung ứng của công ty có thể là các nhà doanh nghiệp trực tiếp sản xuất hoặc là các nhà kinh doanh thương mại – Họ tập trung hàng hoá từ nhiều nguồn khác nhau để tiến hành hoạt động xuất khẩu. Việc lựa chọn nhà cung ứng của công ty dựa trên các yếu tố sau:
* Chất lượng và giá cả: đây là 2 yếu tố mà có thể nói công ty đặt lên hàng đầu. Công ty phải chắc chắn rằng nhà cung ứng này có thể cung cấp hàng hoàn toàn phù hợp với tiêu chuẩn và quy cách phẩm chất của người mua. Do các mặt hàng nhập về phục vụ chủ yếu cho Vận tải đường thuỷ nên công ty rất chú trọng ngoài điều kiện về thương phẩm bao gồm quy cách về phẩm chất, số lượng, chất lượng ... Công ty còn phải nắm vững tình hình sản xuất của mặt hàng đó: chế độ lắp đặt, chế độ vận hành, chế độ theo dõi, bồi dưỡng... Cụ thể, với các sản phẩm như máy phát điện, máy tầu thuỷ thì các yếu tố phải chú ý đến: tốc độ chạy, công suất , việc tiêu hao nguyên liệu có hợp lý hay không... Để từ đó công ty lựa chọn được một mức giá nhập khẩu tối ưu. Tính ổn định trong cung ứng: Công ty quan tâm tới yếu tố này bởi vì nó đảm bảo cho công ty có thể nhập đủ số lượng, đúng thời gian. Đồng thời, nó giúp cho công ty không bị gián đoạn trong việc cung ứng hàng hoá cho khách hàng trong nước.
* Điều kiện giao hàng và vận tải: yếu tố này là một trong yếu tố cấu thành lên chi phí nhập khẩu. Những nhà cung ứng khác nhau ở những nước khác nhau thường có những điều kiện giao hàng khác nhau. Ngoài ra, vị trí địa lý từ những nước xuất khẩu đến nước ta có khoảng cách khác nhau nên cũng ảnh hưởng đến chi phí nhập khẩu. Chính vì vậy, với các mặt hàng nhập khẩu có mức giá phù hợp, chất lượng vẫn đảm bảo thì công ty vẫn ưu tiên nhập từ các thị trường gần, do đó giảm được một khoản tương đối lớn về chi phí vận chuyển, hạn chế rủi ro...._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28861.doc