Thực trạng và những giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam

Lời nói đầu “NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu là thường xuyên nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”. Hai mảng hoạt động chính của NHTM là huy động và cho vay vốn, đây là 2 mặt đối lập trong một chỉnh thể thống nhất là hoạt động kinh doanh tiền tệ. Tất cả các NHTM đều sử dụng 1 lượng vốn lớn hơn nhiều làm số vốn tự có của mình để cho vay. Để có được lượng vốn lớ

doc45 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1332 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và những giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n đó, các NHTM phải huy động từ nhiều nguồn trong xã hội và phải hoàn trả một cách đầy đủ khi đến hạn. Trên cơ sở nguồn vốn đã huy động được công với vốn tự có của mình, các NHTM sẽ đầu tư trở lại cho nếu khi hai quá trình huy động và cho vay vốn được tiến hành 1 cách bình thường thì hoạt động kinh doanh của NHTM sẽ diễn ra trôi chảy, thuận lợi. Nhưng khi một trong hai quá trình đó bị ách tắc thì sẽ gây ra những khó khăn cho hoạt động của NHTM. Như vậy, hoạt động tín dụng (hoạt động cho vay vốn) của NHTM không chỉ là một trong hai hoạt động chủ yếu của NHTM, đem lạo phần lớn thu nhập cho NHTM mà còn là cách thức tài trợ vốn cho nền kinh tế. Ngày nay trong quá trình đổi mới, cải tổ hệ thống ngân hàng; hoạt động tín dụng của các NHTM ở Việt Nam không tránh khỏi những khó khăn, vướng mắc. Trong dồ án này em xin trình bày những tìm hiểu của mình về khó khăn mà các NHTM ở Việt Nam đang gặp phải trong hoạt động tín dụng và những giải pháp để tháo gỡ khó khăn, góp phần mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng trong các NHTM ở Việt Nam hiện nay. Với mong muốn như vậy, đề án sẽ bao gồm những phần sau: I. Những vấn đề chung về tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường 1.1. Sự hình thành và phát triển của quan hệ tín dụng 1.2. Sự tồn tại khách quan của quan hệ tín dụng trong nền kinh tế thị trường. 1.3. Khái niệm chung về tín dụng ngân hàng 1.4 Các hình thức tín dụng ngân hàng 1.5. Vai trò tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế II. Những tồn tại trong hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam 2.1. Thực trạng hoạt động tín dụng của các NHTM 2.2. Những khó khăn trong hoạt động tín dụng của NHTM III. Những giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam 3.1. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả 3.2. Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng 3.2.1. Các giải pháp của nhà nước 3.2.2. Các giải pháp của hệ thống ngân hàng Với nỗ lực của bản thân và sự hướng dẫn của cô giáo Phạm Hồng Vân em đã hoàn thành đề án này. Tuy nhiên, với hiểu biết còn hạn chế, đề án này sẽ còn nhiều hạn chế, khiếm khuyết. Em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô, bạn bè. Em xin chân thành cảm ơn. i. những vấn đề chung về tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường 1.1 Sự hình thành và phát triển quan hệ tín dụng Lịch sử kinh tế đã ghi nhận sự tồn tại và phát triển của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường hiện nay bắt nguồn từ những quan hệ tín dụng thô sơ, giản đơnkhi chế độ công xã nguyên thuỷ tan rã. Vào thời điểm đó, chế độ tư hữu tư liệu xuất hiện cùng với sự phát triển của phân công lao động xã hội, đã kéo theo sự ra đời của khái niệm “hàng hoá” và hoạt động sản xuất trao đổi hàng hoá. Tư liệu sản xuất và sản phẩm tiêu dùng không được phân bổ đồng đều mà tập trung vào một số ít người trong xã hội , dẫn đến sự phân chia giai cấp và phân hoá giàu nghèo. Trong xã hội đã xuất hiện tình trạng khó khăn, thiếu thốn tạm thời các tư liệu tiêu dùng và dần này sinh các quan hệ vay mượn dựa trên cơ sở tin tưởng lẫn nhau trong việc hoàn trả, là tiền thân của quan hệ tín dụng sau này. Trong giai đoạn đầu của xã hội, tín dụng được đặc trưng bởi tín dụng nặng lãi. Hình thức tín dụng này tồn tại phổ biến trong chế độ phong kiến. Cơ sở tồn tại của tín dụng nặng lãi là nền sản xuất nhỏ, lạc hậu, phân tán phu thuộc vào điều kiện tự nhiên. Người vay vốn phần lớn là những người có đời sống bấp bênh, ít có sản phẩm dư thừa, trong đó nhu cầu vốn thì lại lớn và cấp thiết nhằm duy trì buôn bán, kinh doanh, thậm chí chỉ để đáp ứng nhu cầu tối thiểu trong đời sống. Những người có khả năng cho vay thường là những người giàu có, có nhiều quyền lực như địa chủ, quý tộc, quan lại… và những người chuyên cho vay nặng lãi. Thông thường, khi cho vay, người cho vay nặng lãi yêu cầu phải cầm có đất đai, trâu bò, nhà cửa và sẵn sàng tước đoạt hết tài sản này khi người vay không trả được nợ. Tín dụng nặng lãi được nhận dạng bởi các đặc điểm, đặc thù: +Thứ nhất: lãi suất cao, nhiều lúc không chỉ ăn vào sản phẩm thặng dư mà còn ăn thêm vào sản phẩm tất yếu của người lao động, bởi thông thường cầu tín dụng lớn hơn cung tín dụng và các nhu cầu đó thường là bấp bênh, không thể trì hoãn +Thứ hai: tín dụng nặng lãi thể hiện tính bóc lột đối với người đi vay. Đây là hậu quả của đặc điểm trên. + Thứ ba: tín dụng nặng lãi thường đáp ứng nhu cầu vốn cho tiêu dùng hơn là cho sản xuất. Điều này cũng là hậu quả của đặc điểm thể chất do mức lợi tức cho vay quá cao mà người vay không thể sử dụng vốn vay vào mà sản xuất kinh doanh được. Tín dụng nặng lại một mặt đã trở thành nhân tố kìm hãm sản xuất xã hội, mặt khác được xem như là một trong những nhân tố thúc đẩy kinh tế tự cung, tự cấp tan rã, mở rộng kinh tế hàng hoá và tạo tiền đề cho chủ nghĩa tư bản ra đời. Cùng với áp lực của một phương thức sản xuất mới tiên tiến đạt hiệu quả, phương thức sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa và áp lực của nhà nước với các công cụ quản lý và điều hành kinh tế, pháp luật, tôn giáo và các hội tín dụng, đã làm cho tín dụng nặng lãi không còn đất đất để phát triển , nhường chỗ cho sự bành trướng của tín dụng tư bản chủ nghĩa. Tín dụng tư bản chủ nghĩa. Tín dụng tư bản chủ nghĩa ra đời từng bước đáp ứng các nhu cầu đa dạng trong xã hội về vốn cho các dh sản xuất, tiêu dùng trong xã hội. Do vậy, đã trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Tín dụng tư bản xét từ góc độ tái sản xuất tư bản chủ nghĩa, là sự vận động của tư bản cho vay và có mối quan hệ trực tiếp với quá trình tuần hoàn và chu chuyển tư bản của các quá trình và sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Tín dụng tư bản chủ nghĩa ngày càng phátáinh lớn mạnh, đa dạng và phong phú, do sự lớn mạnh của cung cầu tín dụng và sự xuất hiện các “nhà mối lái”. Đó là các trung gian tín dụng như ngân hàng, quỹ tiết kiệm… Trong nền kinh tế thị trường tín dụng ngày càng mở rộng với sự tham gia của những chủ thể như: dân cư, chính phủ, tổ chức nước ngoài… cùng sự lớn mạnh của các trung gian tài chính, đã làm hoạt động tín dụng trở nên thường xuyên và không thể thiếu trong nền kinh tế. 1.2. Sự tồn tại khách quan của quan hệ tín dụng trong nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế hàng hoá mà cách thức tổ chức kinh tế, xã hội trong đó các quan hệ kinh tế giữa con người với nhau biểu hiện sự trao đổi, mua bán hàng hoá trên thị trường thì nền kinh tế đó là nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, cung cầu hàng hoá, dịch vụ gặp gỡ nhau, cân bằng nhau và các quan hệ hàng hoá, tiền tệ được phát triển mở rộng và bao quát nhiều lĩnh vực. Mọi quan hệ kinh tế và tác động rộng rãi của các quy luật riêng của hàng hoá có ý nghĩa phổ biến đối với sản xuất kinh doanh. Vì vậy, kinh tế thị trường là giai đoạn cao của kinh tế hàng hoá. Trong cơ chế thị trường, các quan hệ tín dụng tồn tại một cách khách quan vì 3 lí do sau: +Thứ nhất: do tính chất vốn dư thừa là tạo thời nhàn rỗi. Trong quá trình luân chuyển vốn (T-H…SX…..H’-T’…) có đặc điểm thừa và thiếu vốn tạm thời. Csc đơn vị kinh tế, các cá nhân này có thu nhập nhưng chưa cần phải tiêu hoặc chỉ tiêu chưa hết. Các đơn vị, cá nhân thiết vốn một cách tạm thời khi chưa có thu nhập nhưng đã có nhu cầu chi tiêu hoặc tổng thu không đủ chi. Như vậy, trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân sẽ xảy ra một hoạt động thừa và thiếu vốn một cách tạm thời trong cùng một thời gian. Trách nhiệm của nhà nước là điều hoà nguồn vốn giữa nơi thừa sang nơi thiếu để đảm bảo cho quá trình phát triển sản xuất của từng đơn vị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong thực tế, có 2 phương pháp điều hoàn lại nguồn vốn trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Đó là: - Thông qua con đường tài chính, tức là cấp phát vốn mà không hoàn lại. - Thông qua con đường tín dụng, tức là điều hoà vốn có hoàn lại. Như vậy, để điều hoà vốn một cách tạm thời thì chỉ có thể thông qua con đường tín dụng. + Thứ hai: do chế độ sở hữu khác nhau về vốn. Đa dạng hoá sở hữu là nhân tố cơ bản của nền kinh tế thị trường, tức là trong nền kinh tế thị trường có nhiều chủ sở hữu khác về vốn. Các nguồn vốn thuộc các chủ sở hữu khác trong quá trình luân chuyển cũng mang đặc điểm là thừa vốn và thiếu vốn một cách tạm thời. Do vậy, phải có sự đòi hỏi chuyển hoá về vốn giữa các hình thức sở hữu khác nhau và trong nội bộ từng hình thức sở hữu khác nhau và trong nội bộ từng hình thức sở hữu. Sự chuyển hoá số vốn đó là không xâm phạm đến quyền sở hữu của người chủ của nó. Do vậy, ở đây chỉ có thể thông qua con đường tín dụng có vay có trả. + Thứ ba: Do yêu cầu của chế độ quản lý kinh tế. Chế độ quản lý đòi hỏi các doanh nghiệp được tự chủ về vốn và có trách nhiệm bảo toàn vốn và phát triển vốn tự chủ sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm để thực hiện thu bù chi có lãi, đồng thời thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước. Do vậy, yêu cầu các đơn vị kinh tế phải sử dụng vốn một cách linh hoạt, kịp thời. 1.3. Khái niệm chung về tín dụng ngân hàng Danh từ tín dụng dùng để chỉ một số hành vi kinh tế rất phức tạp, như, bán chịu hàng hoá, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, kí thác, phát hành giấy bạc. Trong mỗi một hành vi tín dụng vừa nói, chúng ta thấy hai bên cam kết với nhau như sau: - Một bên thì trao ngay một số tài hoà hay tiên bạc. Số tài hoá đó trong một thời gian nhất định và theo một số điều kiện nhất định nào đó. Nhà kinh tế pháp, ông Lovis Baundin đã định nghĩa tín dụng như là “một sự trao đổi tài hoá hiện đại lấy một tài hoá tương lai”. ở đây, chúng ta thấy yếu tố thời gian đã xen lẫn vào và cũng vì có sự xen lẫn đó, cho nên có thể có sự bất trắc, rủi ro xảy ra và cần có sự tín nhiệm của hai bên đương sự đối với nhau. Hai bên đương sự dựa vào sự tín nhiệm, sử dụng sự tín nhiệm của nhau nên mới có danh từ tín dụng. Những hành vi tín dụng có thể do bất cứ ai, chẳng hạn hai người thường có thẻ cho nhau vay tiền. Tuy nhiên, với thời gian, chúng ta thấy một sự chuyên nghiệp đã xảy ra và ngày nay khi nói tới tín dụng người ta nghĩ ngay tới ngân hàng, vì các cơ quan này chuyên làm các việc như cho vay, bảo lãnh, chiết khấu, kí thác và cả phát hành giấy bạc nữa. Mặt khác, trong một nền kinh tế đã phát triển với thu nhập của những người làm công ăn lươbg gần tương đương nhau, một hệ thống NHTM hiện đại thì mọi người chỉ có thể vay mượn ngân hàng, hầu như không vay mượn lẫn nhau. Đó là lí do để người ta đồng nhất tín dụng với cho vay của ngân hàng. Luật Ngân hàng các nước định nghĩa tín dụng như sau: “Cấu thành một nghiệp vụ tín dụng bất cứ động tác nào, qua đó một người đưa hoặc hứa đưa vốn cho một người khác dùng, hoặc cam kết bằng chữ kí cho người này như bảo đảm, bảo chứng hay bảo lãnh mà có thu tiền”. Định nghĩa này nêu ra ba trường hợp: 1.3.1.Cho vay tiền hay còn gọi là cho vay ứng trước là nghiệp vụ tín dụng trong đod người cho vay cam kết giao cho người đi vay một khoản tiền và người đi vay cam kết sẽ hoàn trả sau thời gian nhất định. Giá trị hoàn trả lớn hơn giá trị khoản vay, phần chênh lệch đó là lãi cho vay. Lãi cho vay tỷ lệ với số lượng tiền và thời hạn vay. Loại cho vay dựa trên 3 nguyên tắc cơ bản: - Tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi - Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích - Vốn vay phải có tài sản tương đương làm đảm bảo. 1.3.2. Cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền: loại tín dụng này chủ yếu dựa trên cơ sở mua bán các công cụ tài chính (hối phiếu, lệch phiếu…), tạo ra nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu của ngân hàng, tức là mua nợ tính trên khoảng thời gian còn lại cho đến lúc đáo hạn của thương phiếu. Trong loại tín phiếu này, về phương diện pháp lý, ngân hàng không phải chovay mà là được mua một trái quyền. ở đây, ngân hàng ứng trước trị giá của một thương phiếu chưa đến hạn và đổi lại ngân hàng nắm quyền sở hữu trái quyền của thương phiếu đó. Như vậy, trong loại cho vay này, hành vi thương mại đã phát sinh, nên việc thu nợ có cơ sở vững chắc. Cũng trong loại tín dụng này, khách hàng là chủ một trái quyền có kì hạn, nhưng muốn có vốn ngay lập tức nên họ phải yêu cầu các ngân hàng cấp cho ngay số tiền đó trừ đi phần trả lại. Đổi lại, họ chuyển nhượng trái quyền cho ngân hàng và khi đến hạn, ngân hàng đòi tiền người thụ trái hoặc ngân hàng sẽ đem chiết khấu tại NHTW khi cần vốn. Như vậy, tín dụng dựa trên việc chuyển giao trái quyền cho ngân hàng chủ yếu là phương thức chiết khấu, thương phiếu và chuyển nhượng khoản cho vay nghề nghiệp. 1.2.3. Cho vay qua cam kết bằng chữ ký Trong hình thức tín dụng này, ngân hàng không ứng tiền ra, mà chỉ cam kết khách hàng không trả được. Chính vì lí do bảo lãnh cho khách hàng bằng uy tín của mình mà người ta gọi hành vi cam kết bảo lãnh của ngân hàng là tín dụng qua chữ kí. Bảo lãnh là đưa ra những cam kết của ngân hàng dưới hình thức cấp chứng thư và hạch toán theo dõi ở ngoài bảng cân đối, chứ thực tế không hoặc hưa phải sử dụng ngay vốn để cho vay như các loại tín dụng thông thường. Tín dụng ở đây mới là “tiềm tàng” và có những loại sau: -Bảo lãnh ngân hàng - Tín dụng chấp nhận Tóm lại, có thể hữu tín dụng giống như quan điểm các nhà kinh tế học pháp Robert Raymond: “tín dụng, biểu hiện của một nhu cầu tiền tệ”. Đứng về mặt kinh tế thì tín dụng là việc ngân hàng cho khách hàng của mình vay một khoản tiền và sau đó có thể thu hồi lại nó cộng thêm phần lãi. Việc ứng tiền của NHTM có thể ngay lúc khách hàng yêu cầu hoặc sau đó. Tuy nhiên đứng về mặt pháp lí thì tín dụng ngân hàng không chỉ là việc cho vay tiền đơn thuần mà nó còn bao gồm các nghiệp vụ khác như: chiết khấu, bảo lãnh… 1.4. Các hình thức tín dụng ngân hàng Có nhiều tiêu thức khác nhau để thực hiện phân loại tín dụng 1.4.1. Theo thời hạn ngân hàng giao cho khách hàng sử dụng. Tín dụng được chia làm 3 loại: tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn và tín dụng dài hạn. Tín dụng ngắn hạn thời gian sử dụng tối đa là 1 năm Tín dụng trung hạn thời gian sử dụng từ 1 tháng đến dưới 3 năm Tín dụng dài hạn thời gian sử dụng là trên 3 năm 1.4.2. Tín dụng cấp ra kèm theo hoặc không kèm theo cam kết của ngân hàng -Một số loại tín dụng, thường rất ngắn hạn, là kết quả của sự khoan dung của ngân hàng. Trong trường hợp này ngân hàng không cam kết dứt khoát với khách hàng và do đó có thể tự do chấm dứt cho vay, trừ trường hợp quá hạn lạm quyền. - Những tín dụng thường phát sinh từ một cam kết dứt khoát của ngân hàng, hoặc là cấp một khoản tín dụng cụ thể, hoặc là mở một hạn ngạch tín dụng cho khách hàng của họ. Khi chúng ta nói là “mở tín dụng”, tức là khách hàng được tự do sử dụng khả năng này để yêu cầu ngân hàng cho vay tới hạn ngạch đã thoả thuận khi mở tín dụng. 1.4.3. Tín dụng có thể huy động và tín dụng không thể huy động - Tín dụng có thể huy động là những khoản tín dụng mà ngân hàng có thể nhượng lại được tiền trước kì hạn đã định. - Tín dụng không huy động là tín dụng mà ngân hàng cấp ra không thể đem chuyển nhượng để vay lai vốn. 1.4.4. Phân loại tín dụng theo phương thức tạo lâp tiền tệ Việc cấp phát tín dụng được thực hiện theo 2 cách: một là tiền tệ hàng hoá các giấy nợ thương mại do người vay lưu giữ nhưng chưa đến kì hạn, hai là cho vay đơn thuần. - Tiền tệ hoá giấy tờ thương mại Nguyên tắc của nghiệp vụ này đơn giản: người cung ứng thoả thuận một thời hạn chi trả với khách mua của nó. Để cụ thể hoá khoản nợ thương mại của nó, nó phát ra một hối phiếu mà khách hàng mua chấp nhận tuỳ thuộc tình hình. Sau đó người cung ứng nhượng lại kì phiếu này cho chủ ngân hàng của nó và nhận lấy tiền tệ đề bù lại. Đó là kỹ thuật rất quan thuộc của chiết khấu thương mại. -Tiền cho vay đơn thuần trực tiếp: Trái với trường hợp trên, tín dụng được thoả thuận với khách mua chỉ có thể theo một hình thức tiền cho vay phù hợp tuỳ theo tình hình với việc nắm giữ thế chấp về của cải được mua (thế chấp xe hơi, cầm cố nhà…). Trong quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng với các xí nghiệp sản xuất và thương mại người ra gọi đó là tín dụng người mua. Nếu cho vay đối với tư nhân, đó sẽ là tín dụng tiêu dùng hay nhà ở. Ngoài những phân loại như trên, tín dụng của NHTM còn được chia thành: tín dụng ngân quỹ(cho vay vốn lưu động), tín dụng thuê mua và tín dụng tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu. Hiện nay, tại các NHTM ở các nước phát triển csac hình thức tín dụng phát triển ngày càng phong phú, đa dạng. Tại các NHTM ở Việt Nam cũng đã có hầu hết các hình thức tín dụng so với nhu cầu của nền kinh tế và so với trình độ chung của hệ thống NHTM trên thế giới như: cho vay, chiết khấu, bảo lãnh… những hình thức cho vay ứng trước phổ biến nhất và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong hoạt động tín dụng của NHTM Việt Nam. 1.5. Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường : Do nghiệp vụ cho vay chiếm tỉ trọng lớn trong hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam nên dưới đây em chỉ đề cập tới vai trò của nghiệp vụ cho vay của các NHTM đối với nền kinh tế đang phát triển, có định hướng theo cơ chế thị trường của Việt Nam dưới hai hình thức cho vay ngắn hạn và cho vay trung- dài hạn. 1.5.1. Cho vay ngắn hạn: được dùng để bổ sung sự thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của doanh nghiệp, cho vay phục vụ sinh hoạt cá nhân như tiêu dùng và nhà ở. Cho vay ngắn hạn phục vục mục tiêu dùng chủ yếu là mua sắm xe gắn may, tư liệu sinh hoạt… nhập khẩu. Từ vài năm gần đây, việc cho vay đối với CBVNV để mua nhà trả góp bắt đầu khởi sắc cùng với các dự án di dời, giải toả, qui hoạch đo thị mới… Bên cạnh đó,các quĩ xoá đói giảm nghèo, quỹ hỗ trợ việc làm… cùng tiến hành hoạt động cho vay trả góp để tài trợ học nghề, làm kinh tế hộ gia đình, kinh tế hợp tác xã. 1.5.2. Cho vay trung – dài hạn: Đó là các khoản tín dụng định kì dp ngân hàng trực tiếp cấp vốn cho người vay. Mức cho vay được xác định theo nhu cầu các dự án cho vay, quy mô các khoản vay khác nhau đáng kể giữa các ngành công nghiệp khác nhưng thường trên nguyên tắc dành khoản cho vay lớn cho các doanh nghiệp đầu tư lớn về nhà máy và trang thiết bị, phương thức cấp tiền vay và hoàn trả tiền vay của loại tín dụng này là có thể cấp vốn 1 lần hoặc nhiều lần, còn khi hoàn trả (khác với vay ngân hàng hẹn phải trả một lần) có thể trả vào 1 lần mà cũng có thể trả theo thời gian biểu. + Cho vay trung – dài hạn đáp ứng nhu cầu về vốn của nền kinh tế quốc dân, là trung gian điều hoà lượng cung cầu vốn trong nền kinh tế. Hoạt động tín dụng làm nhiệm vụ thông dòng cho vốn chảy từ nơi thừa đến nơi thiếu. Qua thực tế, chúng ta thấy rằng còn tồn tại quan hệ hàng hoá tiền tệ thì hoạt động tín dụng không thể mất đi, mà trái lại ngày càng phát triển mạnh mẽ. + Cho vay trung – dài hạn tạo thị trường sử dụng vốn ngắn hạn để đầu tư trang thiết bị doanh nghiệp, làm kích thích sản xuất phát triển. Do đó, doanh nghiệp lại cần thêm nhiều vốn lưu động hơn để đáp ứng nhu cầu trước mắt như mua sắm nguyên liệu, thuê thêm nhân công, thuê đại lí bán hàng… Từ đó dẫn đến thị trường vốn ngắn hạn được mở rộng theo tốc độ phát triển sản xuất . + Cho vay trung – dài hạn để phát triển ngành kinh tế theo chiều sâu, đó là đầu tư vào các công trình sản xuất, trang thiết bị, máy móc, TSCĐ… Do đó, thúc đẩy quá trình sản xuất nhiều loại sản phẩm, hàng hoá để tiêu thụ trong nước và để xuất khẩu. Việc xuất khẩu những hàng hoá sẽ tăng nhiều ngoại tệ cho quốc gia và đảm bảo cán cân thanh toán quốc tế. + Cho vay trung – dài hạn giúp cho sản xuất phát triển, doanh thu của các đơn vị sản xuất tăng. Các doanh nghiệp tăng thêm phần vốn góp vào ngân sách nhà nước, góp phần ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát 2.1. Thực trạng hoạt động tín dụng của các NHTM Tuy có những chuyển biến tích cực và đạt được một số thành quả nhất đinh nhưng tín dụng ngân hàng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu trong tình hình phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay. Theo kết quả điều tra củ phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam vào đầu năm 1999 thì phương hướng phát triển trong tươnglao, 89% số doanh nghiệp khẳng định quyết tâm tiếp tục đầu tư phát triển, 69% số doanh nghiệp muốn đa dạng hoá mở rộng ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh. Như vậy, nhu cầu về vốn của nền kinh tế là rất lớn.Trong khi thị trường chứng khoán ở nước ta vẫn chưa thể hiện được chức năng của nó thì tín dụng ngân hàng đương nhiên là nguồn đáp ứng chủ yếu cho nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp . Tuy nhiên, việc cung cấp tín dụng của hệ thống NHTM ở Việt Nam hiện nay lại đang có vấn đề. Một nền kinh tế như nước ta đang trong thời kỳ phát triển rất cần vốn đầu tư của tín dụng ngân hàng thì thị trường tín dụng lại có biểu hiện “đóng băng”. Tình trạng này đã được dự báo ngay từ 6 tháng đầu năm năm 1999, khi mà tốc độ cho vay của toàn ngành ngân hàng mới chỉ tăng 6% trong khi kế hoạch đặt ra là 18%. Sau gàn ba tháng áp dụng một loại các biện pháp nhằm “làm nóng” lại thị trường tín dụng của ngân hàng nhà nước thì tình trạng lại càng trở nên trì trệ bởi tốc độ tăng trưởng tín dụng chỉ nhích lên có 0,7%. Theo sự nhìn nhận của các chuyên gia kinh tế thì trong hơn 10 năm đổi mới hoạt động ngân hàng theo cơ chế thị trường, chưa bao giờ ngân hàng lại gặp nhiều khó khăn như hiện nay khi mà tốc độ tăng dự nợ cho vay chỉ bằng 1/2 so với tốc độ tăng vốn huy động. Ngay tại trung tâm thươngmại lớn nhất Việt Nam là thành phố Hồ Chí Minh(tổng nguồn vốn huy động và tổng dư nợ cho vay luôn luôn chiếm 30%-38% trong cả nước) thì tình hình cũng không khả quan hơn là bao nhiêu. Điều này được thể hiện rất rõ qua hai bảng vốn huy động và vốn cho vay sau: Vốn huy động theo từng hệ thống ngân hàng Đơn vị: tỷ đồng 31/12/98 30/06/99 31/12/99 T/8 tăng, giảm so với 31/12/98 T/8 tăng, giảm so với 30/06/99 NHTMQD 17.902 20.075 20.220 +12.94 +0,72% NHTMCP 10.429 11119 11.394 -9,25% +2,4% NHLD 1.805 1.759 1.572 -12,9% -10,63% NH nước ngoài 5.269 5.367 5.592 +6,13% +4,19% Tổng 35.405 38.320 38.778 +9,52% +1,19% Vốn cho vay theo từng hệ thống ngân hàng Đơn vị: tỷ đồng 31/12/98 30/06/99 31/12/99 T/8 tăng, giảm so với 31/12/98 T/8 tăng, giảm so với 30/06/99 NHTMQD 16.921 18.317 18.317 +8,25 +0,86% NHTMCP 9.308 9.492 9.608 +3,22% +1,22% NHLD 1.180 1.173 1.127 -4,49% -3,92% NH nước ngoài 9.619 9.974 9.940 +3,33% -0,34% Tổng 37.028 38.799 38.992 +5,3% +0,49% Mặc dù trong thời gian gần đây, chi nhánh ngân hàng nhà nước tại thành phố Hồ Chí Minh đã lập cả một Ban điều hành thống nhất điều phối các ngân hàng tham gia đầu tư trung – dài hạn cho các dự án liên quan tới cơ sở hạ tầng kỹ thuật, bệnh viện, trường học, nhà ở… nhưng trong 8 tháng đầunăm 1999, số dư nợ trung – dài hạn của hệ thống NHTM quốc doanh cũng chỉ tăng 7,4% và các NHTM cổ phần tuy có năng động hơn song cũng phải bằng lòng với mức tăng 11,63%. Trong khi đó, số dư tín dụng của các ngân hàng liên doanh giảm 0,9% của các ngân hàng nước ngoài giảm 0,15%. Thành phố cần khoảng 5.300 tỷ đồng để công ty từ nay đến năm 2003 thì các NHTM đã đăng ký cho vay tới 8.533 tỷ đồng. Sự “sốt sắng” chưa từng có này đã cho thấy sự ứ đọng vốn trong các NHTM là nghiêm trọng đến mức nào. Và tình hình còn tiếp tục xấu đi khi tổng số vốn huy động vẫn liên tục gia tăng và đạt 41,473 tỷ đồng (tính đến cuối tháng 10/1999), trong đó, tiền gửi của các doanh nghiệp chiếm tới 47,8%, của dân cư là 49,5%. Một quan chức của ngân hàng công thương Việt Nam cho biết: ngân hàng này hiện đang tồn đọng hàng ngàn tỷ đồng chưa có địa chỉ cho vay và chỉ trông chờ cơ hội giải toả vốn thông qua các phiên đấu thầu trái phiếu kho bạc nhà nước. Tương tự như vậy, tổng dư nợ ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thông Việt Nam trong 7 tháng đầu năm 1999 cũng chỉ đạt 29.150 tỷ đồng , tăng 6,4% so với đầu năm. Đặc biệt đáng nói ở đây là trong khi dư nợ của các hộ sản xuất đạt 11.480 tỷ (tăng 6% với đầu năm), dự nợ của các hợp tác xã đạt 60 tỷ đồng tăng (15% so với cuối năm 1998) thì tại các doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty TNHH, dư nợ chỉ đạt 9.100 tỷ, không tăng so với đầu năm. Hiện tượng này đã chứng tỏ sự bế tắc của các doanh nghiệp trong việc tìm đầu ra cho sản phẩm cũng như vay vốn để đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Một nền kinh tế đang “đói” vốn như nước ta, mọi công trình đều cần vốn đầu tư phát triển mà để hàng chục ngàn tỷ đồng ứ đọng lại trong các loại két khôngcho vay, không đầu tư ra thì quả là lạ. Nếu như vốn huy động ngày càng tăng trong khi tổng dư nợ lại không tăng kịp thì khả năng NHTM bị lỗ và sụp đổ sẽ là điều không thể tránh khỏi. 2.1.2. Tỷ lệ nợ quá hạn cao Chất lượng của hoạt động tín dụng ngân hàng được thể hiện ở nhiều yếu tố nhưng trong đó, tỷ lệ nợ tồn đọng là yếu tố cơ bản nhất, quan trọng nhất. Hình thái đọng nợ hiện nay ở các ngân hàng có nợ quá hạn, nợ khoanh và nợ chờ xẻ lý. Nợ quá hạn là những nợ đã quá hạn mà các tổ chức vay vẫn chưa trả được. Nợ khoanh là những khoản nợ Chính phủ cho phép không thu nợ kể cả gốc và lãi. Công nợ chờ xử lý là những khoản nợ hiện nay đang nằm trong các vụ án chờ cơ quan pháp luật xét xử hoặc các khoản nợ chưa xác minh đầy đủ nguồn gốc để xử lý. Cả ba loại này cộng lại xem như là tổng nợ tồn đọng của nền kinh tế. Trên thế giới, ngân hàng nào trong quá trình hoạt động kinh doanh cũng đều xảy ra tình trạng nợ quá hạn ở những mức độ khác nhau. Đây là vấn đề rất bình thường của các NHTM nhưng ở Việt Nam hiện nay thì vấn đề này lại trở nên “không bình thường” chút nào. nếu như tỷ lệ nợ quá hạn của hệ thống NHTM Việt Nam vào năm 1991 là 8,8%, năm 1992 là 12,5%, năm 1993 ;à 9,6%, năm 1994 lfa 4,6%, năm 1995 là 3,5% thì tính đến cuối năm 1999, tổng tỷ lệ nợ quá hạn của toàn bộ các tổ chức tín dụng lên tới trên 10% so với tổng dư nợ, điều này cũng có nghĩa là có hàng chục ngàn tỷ đồng hiện nay đã trở thành vốn “chết”, không sinh lời được. Đây thực sự là một con số có thể làm choáng váng bất cứ ai có chút am hiểu về hoạt động tín dụng ngân hàng. Nếu xét về tác hại của nợ quá hạn thì đối với bản thân các NHTM, một tỷ lệ nợ quá hạn cao sẽ gây ra rất nhiều khó khăn cho hoạt động kinh doanh tiền tệ. Trước hết, nó làm cho NHTM không thu hồi được vốn và lãi đúng thời hạn đặt ra trong hợp đồng, và cho dù các khoản nợ quá hạn đó có thể thu hồi lại được toàn bộ sau một thời gian quá hạn nhất định thì điều đó cũng làm cho thời gian của một vòng quay vốn tín dụng thực tế lớn hơn vòng quay vốn tín dụng đã thoả thuận. Như vậy, nợ quá hạn đã làm giảm tốc độ chu chuyển vốn tín dụng của NHTM dẫn đến giảm hiệu quả sử dụng vốn, giảm lợi nhuận mang lại từ hoạt động tín dụng. Không những thế, nợ quá hạn còn làm giảm khả năng thanh toán thậm chí làm mất khả năng thanh toán của NHTM. Trên giác độ vĩ mô, nợ quá hạn thực sự làm giảm tính tích cực của hoạt động tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế. NHTM cấp tín dụng cho khách hàng luôn vì mục đích cung cấp thêm vốn đầu tư cần thiết cho sản xuất kinh doanh, mở rộng quy mô của sản xuất và lưu thông hàng hoá, tạo thêm nhiều sản phẩm mới cho xã hội. Vì thế, ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi đã xác định là đồng vốn cho vay sẽ được đầu tư hiệu quả, mang lại lợi ích kinh tế – xã hội trên cơ sở thu hồi được vốn và lãi từ người đi vay sau một quá trình sử dụng vốn. Vậy mà nợ quá hạn lại chứng tỏ người vay đã không thực hiện được hiệu quả đầu tư như đã đặt ra ban đầu. Điều này đã cản trở NHTM thực hiện tốt chức năng trung gian tín tụng, cung cấp vốn cho nền kinh tế. Bên cạnh đó, nợ quá hạn rất dễ chuyển thành nợ khó đòi. Mà nói nợ khó đòi là đã thấy tiềm ẩn trong đó sự lừa đảo chiếm dụng vốn vay của người vay. Điều này có thể là một ý kiến chủ quan nhưng nó lại khá đúng với tình hình Việt Nam trong những năm gần đây. Theo số liệu thống kê từ năm 1991 đến tháng 11/1997 đã xảy ra 335 vụ lừa đảo ngân hàng tổng số tiền lên tới 1.732,8 tỷ đồng (chưa kể thiết hại của vụ Epco-Minh Phụng) chủ yếu xuất phát từ nợ quá hạn, nợ khó đòi. Những vụ lừa đảo trên đã để lại hàng triệu m2 đất, hàng trăm ngàn căn nhà do các đối tượng vay đem thế chấp nhưng không trả được nợ cho ngân hàng. Số bât động sản này hầu như đều được khai khống giá cả lên nhiều lần, giấy tờ chủ quyền lại không đầy đủ nên không bán được do vậy ngân hàng không thể thu hồi được vốn. Tóm lại, tỷ lệ nợ quá hạn quá cao mà vẫn đang còn hướng gia tăng như hiện nay đã làm suy giảm nghiêm trọng chất lượng tín dụng, từ đó ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả kinh doanh của các NHTM. 2.1.3. Sự bất hợp lý trong cơ cấu tín dụng Hiện nay, cơ cấu cho vay các NHTM Việt Nam tuy đã có nhiều chuyển biến tích cực so với thời kỳ đổi mới nhưng vẫn chưa thực sự phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần như nước ta. Mặc dù đang ứ đọng vốn nhưng nhiều NHTM, nhất là csac NHTM quốc doanh vẫn xác định đối tượng khách hàng của họ là các doanh nghiệp nhà nước còn doanh nghiệp ngoài quốc doanh chi là khách hàng dự trữ. Ông Nguyễn Văn Phẩm, giám đốc sở giao dịch II, ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh, cho biết gần 90% tổng dư nợ hiện có khoảng 1.000 tỷ đồng, của Sở giao dịch II thuộc về các tổng công ty. Còn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ được vay mộ tỷ lệ dưới 10% tổng dư nợ. Tất nhiên, không phải ngân hàng nào cũng “từ chối” tư nhân. Tiêu biểu là ngân hàng Đông á, trên 70% tổng dư nợ là dành cho các cơ sở ngoài quốc doanh. Hay như Sài Gòn Công thương ngân hàng (Sai Gon Bank), tỷ lệ cho vay khu vực tư nhân so với khu vực nhà nước là 60/40. Tuy nhiên, số lượng ngân hàng có cơ cấu tín dụng như trên lại không nhiều lắm. Hơn nữa, đây mới chỉ là cơ cấu cho vay sản xuất kinh doanh trong nước chứ tài trợ xuất khẩu cho khu vực tư nhân thì ngay cả những ngân hàng trên cũng còn dè dặt. Nhiều quan chức ngân hàng đã thừa nhận không giám cho tư nhân vay tiền trên L/C đã mở bởi vì cho rằng : có L/C chưa chắc họ đã xuất hàng, xuất hàng chưa chắc đã có đầy đủ chứng từ, có bộ chứng từ chưa chắc đã thu được tiền. Do có quan điểm như vậy nên các doanh nghiệp tư nhân khi có L/C xuất khẩu thường liên hệ trực tiếp với chi nhánh ngân hàng nước ngoài để vay tiền. Họ biết chắc như đinh đóng cột rằng với L/C trong tay mà thiếu tài sản thế chấp thì các ngân hàng nội địa cũng không đầu tư tiền vào họ. Gần đây, một vài ngân hàng trong nước đã mạnh dạn cho vay đối với những cơ sở có L/C xuất khẩu nhưng chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp nhà nước, còn đối với khu vực tư nhân lại không đáng kể. Điều này không chỉ ảnh hưởng tới riêng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh do phả._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29348.doc