mục lục
---
Lời mở đầu
Chương I
Vấn đề nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng
Của các ngân hàng thương mại
I/- Kinh doanh tín dụng của các Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế thị trường
1. Khái niệm Ngân hàng và hoạt động kinh doanh tín dụng của Ngân hàng Thương mại
2. Hoạt động tín dụng Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta
3. Các hình thức tín dụng
II/- Vấn đề nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng của Ngân hàng Thương mại
1. Bản chất nợ quá hạn
2. Các loại hình nợ q
49 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1500 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và những giải pháp nhằm hạn chế nợ quá hạn ở Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Thái Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uá hạn trong kinh doanh tín dụng của Ngân hàng Thương mại.
3. Thiệt hại do nợ quá hạn gây ra
4. Nguyên nhân nợ quá hạn
Chương II
Thực trạng nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng
ở ngân hàng công thương Thái Bình
I/- Khái quát về tình hình hoạt động của Ngân hàng Công thương Thái Bình
1. Những diễn biến cơ bản về tình hình kinh tế xã hội trong tỉnh và ảnh hưởng tới hoạt động Ngân hàng trong thời gian gần đây .
2. Tình hình hoạt động của Ngân hàng Công thương Thái Bình
II/- Thực trạng kinh doanh tín dụng của Ngân hàng Công thương Thái Bình những năm gần đây .
1. Về khai thác nguồn vốn
2. Về hoạt động cho vay
III/- Tình hình nợ quá hạn ở Ngân hàng Công thương Thái Bình
1. Thực trạng nợ quá hạn
2. Nguyên nhân nợ quá hạn
3. Những biện pháp ngăn ngừa, xử lý nợ quá hạn mà Ngân hàng Công thương Thái Bình đã áp dụng
Chương II
Những phương pháp nhằm hạn chế và xử lý nợ quá hạn
ở Ngân hàng Công thương Thái Bình
I/- Những giải pháp nhằm hạn chế và xử lý nợ quá hạn ở Ngân hàng Công thương Thái Bình
II/- Những kiến nghị
1. Kiến nghị đối với Nhà nước và các cơ quan chức năng
2. Kiến nghị đối với UBND tỉnh, chính quyền, các ngành địa phương
3. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước
4. Kiến nghị đối với Ngân hàng Công thương Việt Nam
Kết luận
Lời mở đầu
Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển từ kinh tế bao cấp sang kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Cùng với các ngành, các cấp, hệ thống Ngân hàng Việt Nam cũng thực hiện đổi mới trong toàn ngành, thể hiện ở hai pháp lệnh Ngân hàng năm 1990. ý thức được các ngân hàng là lĩnh vực đột phá khẩu trong toàn bộ sự đổi mới nền kinh tế nước ta, hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã được tách ra thành hệ thống Ngân hàng hai cấp. Ngân hàng Nhà nước với chức năng quản lý Nhà nước ở tầm vĩ mô và hệ thống Ngân hàng Thương mại thực sự tự do kinh doanh trong phạm vi pháp luật,với phương thức sử dụng các nguồn tiền gửi để cho vay. Từ khi thực hiện pháp lệnh Ngân hàng đến nay hệ thống Ngân hàng đã thực sự phát huy vai trò của mình, thực hiện tốt việc cung cấp tín dụng cho nền kinh tế và ổn định giá cả đồng tiền, điều chỉnh tỷ giá hối đoái ...
Trong hoạt động của Ngân hàng thì hoạt động tín dụng là một lĩnh vực quan trọng, quan hệ tín dụng là quan hệ xương sống, quyết định mọi hoạt động kinh tế trong nền kinh tế quốc dân và nó còn là nguồn sinh lợi chủ yếu, quyết định sự tồn tại, phát triển của Ngân hàng. Nó được xác định như là một trong những đòn bảy, là công cụ mạnh mẽ để thực hiện chức năng quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Thực tế trong những năm gần đây nhu cầu vay vốn ngày càng tăng, các khoản cho vay của Ngân hàng càng nhiều . Song chất lượng tín dụng ngày càng giảm sút. Nợ quá hạn ngày một gia tăng. Nợ quá hạn đang là vấn đề nóng bỏng trong hoạt động của toàn hệ thống Ngân hàng hiện nay. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự sống còn của Ngân hàng nói riêng và sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế nói chung .
Qua thời gian thực tập tại Ngân hàng Công thương Thái Bình (NHCTTB) tôi thấy nợ quá hạn của Ngân hàng Công thương Thái Bình cũng đang là vấn đề cấp bách cần phải giải quyết.
Để tìm hiểu kỹ thực trạng, nguyên nhân từ đó có những giải pháp phù hợp nhằm hạn chế nợ quá hạn, tôi đã chọn đề tài :
"Những giải pháp nhằm hạn chế nợ quá hạn ở Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thái Bình" Tôi mong rằng bài viết của mình sẽ đóng góp được phần nào giải pháp nhằm hạn chế nợ quá hạn cho Ngân hàng Công thương Thái Bình nói riêng và hệ thống Ngân hàng thương mại nói chung .
Bài viết chia làm 3 chương
Chương I:
Vấn đề nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng của các ngân hàng thương mại
Chương II :
Thực trạng nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng ở Ngân hàng Công thương Thái Bình
Chương III :
Những kiến nghị nhằm hạn chế nợ quá hạn ở Ngân hàng Công thương Thái Bình
Chương I
Vấn đề nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng
của Ngân hàng thương mại
I/- Kinh doanh tín dụng của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường
1. Khái niệm Ngân hàng và hoạt động kinh doanh tín dụng của Ngân hàng thương mại
a, Khái niệm
Theo luật các tổ chức tín dụng ngày 26/12/1997 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam .
- Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo qui định của luật này và các qui định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ Ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán .
- Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động. Các loại hình Ngân hàng gồm : Ngân hàng thương mại, Ngân hàng phát triển, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng hợp tác và các loại hình Ngân hàng khác .
- Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán .
- Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng .
b, Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại
Theo quan niệm cổ điển,tín dụng được coi là một quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay và người đi vay với điều kiện có hoàn trả cả vốn lẫn lãi sau một thời gian nhất định, hay nói một cách khác tín dụng là một phạm trù kinh tế mà trong đó mỗi cá nhân hay tổ chức nhường quyền sử dụng (chuyển nhượng) một khối lượng giá trị hoặc hiện vật cho một cá nhân hay tổ chức khác với những ràng buộc nhất định về thời gian hoàn trả (gốc và lãi) lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi .
Đối tượng chuyển nhượng bao gồm :
- Hình thái hiện vật - hàng hoá, đó chính là việc kéo dài thời gian thanh toán trong quan hệ mua bán .
- Hình thái giá trị thực chất là việc " ứng trước" hay " đầu tư" trực tiếp bằng tiền (cho vay bằng tiền) .
- Những điều kiện mà hai bên thường thỏa thuận
+ Khối lượng hàng hoá hay tiền tệ được chuyển nhượng
+ Thời gian sử dụng của người vay
+ Thu nhập mà người cho vay được hưởng
+ Những điều kiện ràng buộc nghĩa vụ hoàn trả của người đi vay .
Những điều kiện này mà một trong hai bên không chấp nhận thì không thể hình thành quan hệ tín dụng. Như vậy tín dụng thể hiện các đặc trưng cơ bản .
- Sự chuyển nhượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng
- Sau một thời gian thu hồi về mặt lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu, thu hồi đúng thời hạn cả gốc và lãi .
- Việc chuyển nhượng được thực hiện trên cơ sở sự tin tưởng của người chuyển nhượng với người sử dụng. Ngoài ra, trong quan hệ tín dụng còn có những đặc trưng khác như khả năng rủi ro, tính bảo đảm qui luật cung cầu, cạnh tranh giá trị và qui luật lưu thông tiền tệ .
Trong suốt sự phát triển lâu dài của tín dụng thì hình thức tín dụng Ngân hàng tỏ ra có ưu thế hơn là các hình thức tín dụng trước đó. Tín dụng cho vay nặng lãi, tín dụng thương mại .
Hình thức tín dụng Ngân hàng ra đời tỏ rõ ưu thế của mình bởi vì:
- Nguồn vốn cho vay rất lớn vì đó là toàn bộ nguồn vốn trong nền kinh tế mà Ngân hàng có thể tập trung huy động .
- Đây là hình thức tín dụng rất linh hoạt vì đối tượng vay mượn là tiền .
- Hình thức tín dụng Ngân hàng là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường và nó luôn đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt kịp thời .
Ngân hàng thương mại với chức năng cơ bản là làm trung gian tín dụng. Nó hoạt động như một chiếc cầu nối liền khả năng cung ứng và nhu cầu về vốn tiền tệ trong xã hội , là trung gian tín dụng, Ngân hàng đóng vai trò là người môi giới giữa một bên là những người có tiền cho vay và bên kia là những người có nhu cầu vay vốn. Thông qua cơ chế thị trường bằng những biện pháp kinh tế năng động và áp dụng các phương tiện kỹ thuật theo hướng hiện đại, tiên tiến,Ngân hàng có khả năng thu hút hầu hết những nguồn vốn tiền tệ, tiết kiệm, dự trữ trong xã hội để chuyển giao đúng nơi, đúng lúc, phù hợp với nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh. Chính nhờ tín dụng Ngân hàng mà những đồng tiền tạm thời nhàn rỗi đã trở thành tiền hoạt động, biến những đồng tiền nằm phân tán thành vốn tiền tệ tập trung phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh và qua đó mà làm cho phát triển mọi hoạt động sản xuất kinh doanh giúp cho nền kinh tế ngày càng phát triển .
2. Hoạt động tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta .
Trước khi chuyển dịch sang cơ chế thị trường toàn bộ nền kinh tế nước ta hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp. Hoạt động của hệ thống Ngân hàng cũng chịu sự chi phối của cơ chế đó. Ngân hàng hoạt động theo cơ chế một cấp. Ngân hàng Nhà nước vừa đảm nhiệm chức năng quản lý Nhà nước về lưu thông tiền tệ và tín dụng vừa đảm nhiệm chức năng kinh doanh. Trên thực tế, Ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh của mình hoàn toàn theo sự chỉ đạo bằng kế hoạch của Nhà nước. Vốn hoạt động của Ngân hàng phần lớn lấy từ nguồn cấp phát chứ không phải từ nguồn vốn huy động trong xã hội việc cho vay của Ngân hàng thực hiện theo kế hoạch của Nhà nước với các đối tượng cho vay theo chỉ đạo. Chính vì vậy, việc cấp tín dụng chỉ dựa trên kế hoạch và sự chỉ đạo của cấp trên mà không cần xem xét hiệu quả sử dụng vốn vay của khách hàng, khả năng thu hồi vốn và lãi các khoản cho vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với Ngân hàng không hề ảnh hưởng đến bản thân sự tồn tại cùng hoạt động của Ngân hàng .
Trong cơ chế thị trường, hệ thống Ngân hàng được chia thành hai cấp: Ngân hàng Nhà nước đảm nhiệm chức năng quản lý vĩ mô và các Ngân hàng thương mại (NHTM) thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng. Ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh độc lập trên cơ sở hạch toán lỗ lãi " lời ăn lỗ chịu". Nguồn vốn kinh doanh trong Ngân hàng thương mại giờ đây không còn do Nhà nước bao cấp mà phải huy động từ những nguồn nhàn rỗi tạm thời trong xã hội tiến hành các hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận bù đắp các chi phí đầu vào trên qui tắc phù hợp với các chế độ chính sách kinh tế xã hội hiện hành của Nhà nước. Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh quan trọng nhất, mang lại phần lớn lợi nhuận cho Ngân hàng thương mại (trên 70%) được thực hiện cơ sở tính toán về khối lượng các nguồn vốn mà Ngân hàng huy động có thể sử dụng cho vay và nhu cầu về vốn tín dụng trong xã hội. Các khoản tín dụng Ngân hàng thương mại cấp ra phải đảm bảo được hiệu quả kinh tế thu hồi được lãi và vốn đúng hạn. Lãi thu được không chỉ bù đắp phần lãi mà Ngân hàng phải trả cho người gửi tiền và các chi phí khác trong việc thực hiện khoản cho vay mà còn phải tạo ra lợi nhuận cho hoạt động tín dụng .
Cũng như các doanh nghiệp khác trong cơ chế thị trường, hoạt động của Ngân hàng thương mại phải chịu sự chi phối của các qui luật kinh tế khách quan, trong đó có qui luật cạnh tranh. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường luôn dẫn đến kết quả một người thắng và nhiều kẻ thất bại, và cạnh tranh là quá trình diễn ra liên tục, các doanh nghiệp luôn phải cố gắng để là người chiến thắng. Ngược lại điều đó cũng thể hiện kinh doanh trong nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn những rủi ro thất bại .
Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế luôn phải đương đầu với áp lực của cạnh tranh và hoạt động của nó luôn chứa đựng khả năng xảy ra rủi ro. Rủi ro có thể xảy ra trong bất cứ loại hình hoạt động nào của Ngân hàng thương mại, như rủi ro về tín dụng, rủi ro về thanh toán, rủi ro về chuyển hoàn vốn, rủi ro về lãi suất, rủi ro vê hối đoái. Trong đó rủi ro kinh doanh tín dụng là rủi ro mà hậu quả do nó gây ra có thể tác động nặng nề đến các hoạt động kinh doanh khác, thậm chí đe doạ sự tồn tại của Ngân hàng thương mại. Rủi ro trong hoạt động tín dụng Ngân hàng thương mại xảy ra khi xuất hiện các biến cố làm cho bên đối tác (khách hàng) không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình đối với rủi ro tín dụng là loại rủi ro gắn liền với việc không thu hồi được nợ đến hạn từ các khách hàng của Ngân hàng thương mại .
3. Các hình thức tín dụng:
Hình thức tín dụng cho vay nặng lãi là hình thức tín dụng đầu tiên trong lịch sử. Đặc điểm nổi bật nhất của tín dụng nặng lãi là lãi suất cao, không có giới hạn và là hình thức tín dụng tiêu dùng chủ yếu để giải quyết những nhu cầu sinh hoạt hàng ngày .
Khi sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển theo sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản thì hình thức tín dụng nặng lãi không còn chỗ đứng vì các nhà tư bản kinh doanh với mục đích lợi nhuận. Tín dụng nặng lãi thậm chí còn cản trở sự phát triển của nền kinh tế. Vì vậy, hoạt động của nó bị thu hẹp và xuất hiện tín dụng thương mại. Đây là tín dụng giữa các nhà sản xuất kinh doanh với nhau và do đó các chủ thể tham gia quá trình vay mượn này cũng là các nhà sản xuất kinh doanh theo MARK : "tín dụng thương mại không phải là cho vay bằng hàng hoá mà là cho vay bằng tiền của hàng hoá bán chịu"
Quan hệ mua bán hàng hoá chịu sự diễn ra giữa các đơn vị liên quan trực tiếp với nhau, chính vì thế mà nó không đáp ứng được nhu cầu vay mượn ngày càng tăng của nền sản xuất hàng hoá. Khắc phục được điểm này tín dụng Ngân hàng đã ra đời .
Trên đây mới chỉ bàn đến tín dụng, theo lịch sử phát triển của nó qua các giai đoạn của hình thức sản xuất. Tuy nhiên trong nền kinh tế hiện đại tín dụng có phạm vi hoạt động rộng lớn và đa dạng. Việc phân loại chỉ có tính chất tương đối trên cơ sở các căn cứ phân loại khác nhau mà hình thành các hình thức tín dụng khác nhau .
* Căn cứ vào thời hạn trong quan hệ tín dụng hiện hành
- Tín dụng ngắn hạn : Là các khoản cho vay mà thời hạn không quá 12 tháng. Mục đích là đáp ứng nhu cầu vốn lưu động phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp về mua nguyên vật liệu, chi phí sản xuất .
- Tín dụng trung hạn : thường là trên 1 năm đến 5 năm tuỳ theo điều kiện ở mỗi quốc gia. Mục đích là vay vốn để sửa chữa, khôi phục, thay thế TSCĐ hoặc cải tiến kỹ thuật hợp lý hoá sản xuất, đổi mới những công trình loại nhỏ, thời han thu hồi vốn nhanh .
- Tín dụng dài hạn: Trên 5 năm tuỳ theo điều kiện ở mỗi nước. Mục đích là sử dụng vốn vay gần như tín dụng trung hạn nhưng với những công trình qui mô lớn, thời hạn thu hồi vốn lâu hơn .
* Căn cứ vào mục đích tín dụng :
- Tín dụng phục vụ sản xuất lưu thông hàng hoá
- Tín dụng tiêu dùng
* Phân loại theo thành phần kinh tế
- Tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh bao gồm tổ sản xuất, hợp tác xã, công ty cổ phần, công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân và hộ cá thể.
- Tín dụng đối với kinh tế quốc doanh : là các doanh nghiệp Nhà nước .
* Phân loại theo đặc điểm luân chuyển vốn :
- Tín dụng vốn lưu động : là loại tín dụng được cung cấp để bổ sung vốn lưu động cho các tổ chức kinh tế .
- Tín dụng vốn cố định : là loại tín dụng được cung cấp để hình thành lên TSCĐ cho các tổ chức kinh tế
* Căn cứ vào chủ thể tín dụng được chia thành các loại sau :
- Tín dụng Ngân hàng : là quan hệ tín dụng giữa các cá nhân, các doanh nghiệp với Ngân hàng .
- Tín dụng thương mại : là quan hệ tín dụng bằng hàng hóa giữa những doanh nghiệp hoạt động trực tiếp trong lĩnh vực sản xuất lưu thông hàng hoá được hình thành trên cơ sở mua bán chịu hàng hoá .
- Tín dụng Nhà nước : là quan hệ tín dụng được thực hiện bằng hình thức tiền tệ hoặc hiện vật giữa một bên là Nhà nước và một bên là tất cá các tổ chức, cá nhân trong xã hội .
- Tín dụng HTX
- Tín dụng quốc tế
* Căn cứ vào sự bảo đảm trong quan hệ tín dụng
- Tín dụng có bảo đảm (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh)
- Tín dụng không có bảo đảm (tín chấp )
* Ngoài ra còn có nghiệp vụ cho thuê tài chính.
Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị và các hoạt động sản xuất theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê.
II/- Vấn đề nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng của Ngân hàng thương mại
1. Bản chất nợ quá hạn
Hoàn trả đầy đủ khoản nợ gốc và lãi cho Ngân hàng đến thời điểm đáo hạn là hành động hoàn tất một mối quan hệ tín dụng hoàn hảo giữa Ngân hàng và khách hàng. Như vậy nợ quá hạn trong tín dụng Ngân hàng thương mại là hiện tượng phát sinh từ mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo khi người đi vay (khách hàng) không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình cho Ngân hàng đúng hạn .
Thực chất tín dụng là một quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, giữa họ có mối quan hệ với nhau thông qua sự vận động của giá trị vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ và hàng hoá từ người cho vay chuyển sang người đi vay và sau một thời gian nhất định quay về với người cho vay với lượng giá trị lớn hơn ban đầu. Tín dụng được cấu thành nên từ sự kết hợp của 3 yếu tố chính là : lòng tin, thời hạn của quan hệ tín dụng và hứa hẹn hoàn trả. Như vậy, phạm trù tín dụng có các đặc trưng chủ yếu sau :
- Tín dụng là có niềm tin
- Tín dụng là có thời hạn
- Tín dụng là có tính hoàn trả .
Người ta chỉ cho vay khi người ta tin rằng người sử dụng giá trị đó sẽ thu được lượng giá trị lớn hơn, tính hiệu quả sau một thời gian nhất định .
Một mối quan hệ tín dụng được gọi là hoàn hảo nếu được thực hiện với đầy đủ các đặc trưng trên. Nghĩa là người đi vay hoàn trả được đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn .
Tuy nhiên trong thực tế không phải mọi việc lúc nào cũng diễn ra một cách trôi chảy, có không ít những trường hợp người đi vay không thực hiện nghĩa vụ của mình đối với chủ nợ do các nguyên nhân khách quan hay chủ quan gây ra. Đó là các trường hợp khi đến hạn hoàn trả vốn vay, người đi vay không thể thực hiện được việc trả nợ cho người cho vay, dẫn đến các khoản nợ quá hạn .
Như vậy nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng là hiện tượng đến thời hạn thanh toán khoản nợ người đi vay không có khả năng thực hiện ngay nghĩa vụ của mình đối với người cho vay .
Nợ quá hạn là kết quả của mối quan hệ tín dụng không hoàn hảo, trước hết nó vi phạm đặc trưng cơ bản của tín dụng là tính thời hạn . Sau nữa nó có thể dẫn đến vi phạm đặc trưng thứ hai. Tính toán trả đầy đủ, gây nên sự đổ vỡ lòng tin của người cấp tín dụng đối với người nhận tín dụng .
2. Các loại hình nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng của Ngân hàng thương mại
Nợ quá hạn là điều kiện không lành mạnh của quá trình hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại, báo hiệu sự rủi ro đối với Ngân hàng và các khách hàng .
Nợ quá hạn có nhiều loại hình khác nhau, căn cứ vào bản chất của chúng và các tiêu thức, phân loại ta có thể phân chia chúng thành các loại sau :
* Căn cứ vào thời gian :
+ Nợ quá hạn phát sinh tạm thời có thể thu hồi trong thời gian ngắn : là nợ quá hạn có khả năng thu hồi trong thời gian ngắn dưới một tháng .
+ Nợ qúa hạn sau một thời gian mới thu hồi được là nợ quá hạn có khả năng thu hồi nhưng phải sau một thời gian nhất định (từ 1 đến 6 tháng) .
+ Nợ quá hạn không thể thu hồi được : là nợ quá hạn không có nguồn thu nên không thể thu hồi được (không xác định được thời gian thu)
* Căn cứ vào khả năng thu hồi có thể chia ra :
+ Nợ quá hạn thu hồi được 100%
+ Nợ quá hạn thu hồi được một phần
+ Nợ quá hạn mất trắng
* Căn cứ vào mức độ đảm bảo :
+ Nợ quá hạn được đảm bảo hoàn toàn : là nợ quá hạn có tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh toàn bộ .
+ Nợ quá hạn được đảm bảo một phần : là nợ quá hạn có tài sản thể chấp, cầm cố, bảo lãnh làm đảm bảo một phần nợ .
+ Nợ quá hạn không được đảm bảo : là nợ quá hạn không có tài sản thế chấp, cầm cố bảo lãnh đảm bảo. Việc phân loại này có ý nghĩa quan trọng trong việc đề ra các giải pháp, biện pháp xử lý thu hồi gốc và lãi, giảm tỷ lệ rủi ro tới mức thấp nhất .
3. Thiệt hại do nợ quá hạn gây ra :
Nợ quá hạn gây ra tình trạng mất vốn, mất khả năng thanh toán của một Ngân hàng thương mại, có thể dẫn đến sự sụp đổ của Ngân hàng thương mại đó. Sự sụp đổ của một Ngân hàng thương mại trong hệ thống các Ngân hàng thương mại có tác động rất mạnh đe doạ sự tồn tại của các Ngân hàng khác nhiều khi có thể kéo theo sự sụp đổ dây truyền của nhiều Ngân hàng thương mại trong cùng hệ thống. Sự sụp đổ này sẽ làm rối loạn lưu thông tiền tệ trong nước làm giảm giá đồng tiền bản tệ,dẫn đến đình trệ sản xuất kinh doanh gây khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Sự tác động này không chỉ ảnh hưởng mạnh mẽ trong phạm vi một quốc gia mà nó có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế của các nước có liên quan, ảnh hưởng đến nền tài chính thế giới .
4. Nguyên nhân nợ quá hạn
a, Các dấu hiệu của khoản cho vay có thể dẫn tới nợ quá hạn trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại, một số dấu hiệu sau đây ám chỉ khó khăn về tài chính của người đi vay :
- Thu nhập của người đi vay không thường xuyên ổn định .
- Trì hoãn việc nộp các báo cáo tài chính
- Có biểu hiển thiếu thiện chí trong mối quan hệ tin cậy, hợp tác với Ngân hàng .
- Sử dụng vốn sai mục đích
- Số vòng quay vốn tín dụng thực tế nhỏ hơn trong hợp đồng tín dụng đã ký dẫn tới ứ đọng vốn .
- Số dư tài khoản tiền gửi giảm sút, séc rút quá " số dư"
- Có sự gia tăng bất thường về hàng tồn kho, các khoản bán chịu chưa thu được tiền .
- Khách hàng có ý kiến xin hoãn nợ hoặc khất nợ.
- Hoàn trả nợ vay Ngân hàng chậm, hoặc quá kỳ hạn, không đầy đủ như cam kết.
- Hoạt động kinh doanh có chiều hướng phát triển không lành mạnh.
- Sự thay đổi của lãnh đạo doanh nghiệp .
- Các thảm hoạ do thiên tai gây ra như: bão lụt, hoả hoạn, hoặc mất trộm, tham ô.
- Các dấu hiệu này là biểu hiện những khó khăn về mặt tài chính từ phía người đi vay, các dấu hiệu này phát sinh là xuất hiện khả năng khách hàng khó hoàn trả món vay và dẫn đến nợ quá hạn .
b, Nguyên nhân dẫn đến khoản nợ quá hạn :
Nguyên nhân gây nợ quá hạn trong kinh doanh tín dụng có rất nhiều, rất đa dạng, muôn hình muôn vẻ, song nhìn chung chúng có thể được xếp vào các loại nguyên nhân chính sau :
1. Nguyên nhân từ phía người đi vay :
Đây là một trong những nguyên nhân chính và cổ điển gây ra rủi ro tín dụng
1.1- Rủi ro trong SXKD của người đi vay
Do trình độ quản lý kinh doanh của doanh nghiệp còn nhiều yếu kém, hiệu quả kinh doanh thấp. Việc tính toán triển khai dự án đầu tư SXKD của doanh nghiệp không khoa học, kỹ càng, xác thực, các số liệu về mức tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, chỉ tiêu cấu thành nên giá thành chất lượng nguyên vật liệu không đầy đủ chính xác .
- Thiệt hại của doanh nghiệp do biến động của thị trường cung cấp, giá cả nguyên vật liệu biến động tăng làm tăng giá thành công xưởng của sản phẩm. Nếu giá bán của sản phẩm không đổi nó sẽ làm cho thu nhập tạo ra trên một sản phẩm giảm làm giảm lợi nhuận ảnh hưởng xấu đến việc trả nợ Ngân hàng . Thiếu nguyên vật liệu phù hợp với dây truyền công nghệ sẵn có của doanh nghiệp vì vậy phải sử dụng nguyên vật liệu thay thế không thích nghi với dây truyền công nghệ , do vậy tốn kém chi phí để qua khâu chế biến gia công để phù hợp với dây truyền hoặc cải tạo dây truyền. Như vậy cũng ảnh hưởng làm tăng giá thành sản phẩm và giảm lợi nhuận .
- Thiệt hại doanh nghiệp phải gánh chịu do thị trường tiêu thụ. Sản phẩm sản xuất ra không phù hợp với nhu cầu tiêu thụ thực tế trên thị trường dẫn đến ảnh hưởng, bị ứ đọng làm doanh nghiệp không thu hồi vốn đúng hạn. Chất lượng sản phẩm không đáp ứng được nhu cầu thị trường vì vậy bán hàng hoá thấp hơn giá trị của nó, chịu lỗ trong kinh doanh .
- Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, không đảm bảo độ an toàn trong sử dụng vốn, gây lãng phí thậm chí mất vốn .
- Khách hàng gặp phải những khó khăn do nguyên nhân bất khả kháng : thiên tai, hoả hoạn, trộm cắp cũng làm mất vốn và khó có khả năng trả nợ Ngân hàng .
1.2- Năng lực tài chính của khách hàng không lành mạnh
- Khả năng thanh toán chung yếu kém, khách hàng mở rộng sản xuất kinh doanh vượt quá khả năng của mình, tỷ lệ vốn tự có thấp, vốn vay nhiều. Trong thời gian qua ở nước ta đã và đang tồn tại một thực tế là các doanh nghiệp hoạt động với qui mô lớn song lại tách rời khả năng vốn tự có của chính bản thân mình và đây chính là nguyên nhân dẫn tới việc kinh doanh thua lỗ, nợ nần chồng chất. Qua số liệu thống kê nhiều doanh nghiệp Nhà nước giá trị tài sản còn lại chỉ bằng 60% nguyên giá TSCĐ còn vốn lưu động do Nhà nước cấp cho các doanh nghiệp Nhà nước mới chỉ đạt 20% so với yêu cầu sản xuất kinh doanh, nhưng thực tế mới chỉ đạt10% so với định mức. Chính vì vậy, để hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp Nhà nước phải đi vay Ngân hàng với số lượng lớn, nhưng bộ máy quản lý còn cồng kềnh, trình độ quản lý thấp kém, trình độ kỹ thuật công nghệ lạc hậu dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh kém .
- Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD) : Trong thời gian qua các DNNQD đã được thành lập một cách ồ ạt, mở rộng với qui mô lớn song lại tách rời với khả năng tài chính. Một điều đáng lo ngại là ngoài sự yếu kém về trình độ công nghệp, trình độ quản lý các DNNQD hiện nay đang quá ít vốn do vậy hoạt động sản xuất của các DNNQD chủ yếu bằng vốn vay hoặc vốn đi chiếm dụng .
- Thực trạng tài chính trên của các doanh nghiệp đã nảy sinh tình trạng tỷ lệ vay vốn của các doanh nghiệp cao hơn gấp nhiều lần so với vốn tự có, điều này sẽ gây nhiều rủi ro cho Ngân hàng thương mại.
1.3- Do ý muốn chủ quan của người đi vay không trả nợ cho Ngân hàng
Nợ quá hạn loại này phát sinh do khách hàng có nguồn trả nợ Ngân hàng khi đến hạn nhưng do ý định chủ quan của người đi vay không muốn trả lại. Loại nguyên nhân gây ra nợ quá hạn này được xếp vào loại nguyên nhân rủi ro về tư cách, đạo đức người đi vay. Do công tác quản lý của các cơ quan Nhà nước còn nhiều sơ hở tạo điều kiện cho một số doanh nghiệp , cá nhân hình thành những công tư "ma" chuyên đi lừa đảo .
2. Nguyên nhân từ phía người cho vay
- Các Ngân hàng thương mại nhất là Ngân hàng thương mại quốc doanh do hoạt động tín dụng còn mang yếu tố bao cấp nên chưa có cơ chế thích hợp trong việc thẩm định và xét duyệt cho vay cũng như xử lý rủi ro trong hoạt động tín dụng .
- Các Ngân hàng thương mại chưa đánh giá đúng mức về khoản vay, người đi vay hoặc trong quá tin tưởng những doanh nghiệp quen thuộc nên không cần giám sát chặt chẽ và giải quyết cho vay chỉ dựa vào những thông tin do doanh nghiệp đó cung cấp, thay cho những số liệu tài chính đáng tin cậy .
- Ngân hàng đã coi trọng tài sản thế chấp (TSTC) trong điều kiện vay vốn của khách hàng, các điều kiện khác không được xem xét kỹ lưỡng trong quá trình thẩm định đầu tư trong thời gian dài quan niệm tín dụng có hoàn trả bị đơn giản hoá . Do đó thường sau khi cho vay các Ngân hàng thương mại thường yên tâm với các tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh mà thiếu sự giám sát chặt chẽ với khoản đã cho vay. Trong khi đó TSTC cầm cố bảo lãnh còn bị đánh giá sai lệch về mặt giá trị hoặc hồ sơ thủ tục còn chưa đầy đủ. Như vậy TSTC từ chỗ là vật làm tin cuối cùng trở thành vật cứu cánh trong mọi quyết định cho vay .
- Khâu xử lý TSCĐ, vấn đề thế chấp tài sản đã phức tạp, xử lý TSTC còn phức tạp hơn nhiều đang có nhiều bất cập từ thủ tục hành chính rất phức tạp việc bán đấu giá TSTC phát mại theo trình tự phi tố tụng cũng rất khó khăn, giá cả TSTC bị giảm sút dẫn đến mất vốn Ngân hàng .
- Các Ngân hàng thương mại quá lạc quan, tin tưởng vào dự án đầu tư vào khoản cho vay và chạy theo số lượng cho vay càng nhiều càng tốt, chú trọng không đúng mức đến chất lượng tín dụng .
- Công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ có lúc còn lơi lỏng, còn xem nhẹ nên đã không phát triển và ngăn chặn kịp thời những hiện tượng tiêu cực trong hoạt động Ngân hàng .
- Công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ chưa được quan tâm đúng mức và thực tế có một số cán bộ tín dụng thiếu năng lực về phân tích và xử lý thông tin tín dụng để đảm bảo và giám sát các khoản vay, thậm chí còn có trường hợp cán bộ tín dụng làm sai qui trình tín dụng. Cán bộ tín dụng chưa được đào tạo đầy đủ không am hiểu về ngành kinh doanh mà mình đang tài trợ , trong khi Ngân hàng không có đầy đủ số liệu thống kê, các chỉ tiêu phân tích, so sánh đánh giá vai trò, vị trí của doanh nghiệp trong ngành thị trường hiện tại và tương lai, chu kỳ vòng đời sản phẩm ... dẫn đến việc xác định sai hiệu quả của dự án xin vay .
- Một số cán bộ Ngân hàng yếu kém về phẩm chất đạo đức, thiếu tinh thần trách nhiệm và bất cập về trình độ nên đã vi phạm về qui trình nghiệp vụ cho vay, thẩm định vốn vay không đầy đủ, cho vay không đúng đối tượng, cho vay quá mức nhu cầu cho vay, các khách hàng chưa hội tụ các điều kiện vay vốn theo qui định, coi nhẹ công tác kiểm tra sau ...
- Sự hợp tác giữa các Ngân hàng thương mại và trung tâm thông tin tín dụng (CIC) không đồng bộ và chưa đạt hiệu quả cao. Thậm chí có một số Ngân hàng thương mại vì sự cạnh tranh nên đã không thông tin cho CIC điều đó dẫn đến việc tìm hiểu khách hàng có quan hệ vay nợ tại nhiều tổ chức tín dụng rất khó khăn .
3. Nguyên nhân khác
3.1 - Khi nền kinh tế trong nước ở tình trạng suy thoái sản xuất bị đình đốn, thu nhập của mọi thành viên trong xã hội giảm sẽ ảnh hưởng đến việc trả nợ Ngân hàng của người vay hoặc khi nền kinh tế có hiện tượng lạm phát tăng vọt, giá cả đồng tiền giảm sút, chỉ số giá cả tăng nhanh, gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh cũng tác động đến việc thu hồi nợ của Ngân hàng .
Trong thời gian qua, ở nước ta môi trường kinh tế chưa thực sự ổn định, làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước gặp nhiều khó khăn như hàng hoá sản xuất ra không cạnh tranh được với hàng ngoại nhập tràn lan ngoài thị trường. Điều đó dẫn tới một số doanh nghiệp trong nước bị thua lỗ phải giải thể, phá sản .
- Do nguyên nhân bất khả kháng thuộc về thiên nhiên, thiên tai, địch hoạ... gây ra các biến động xấu ngoài dự kiến trong mối quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và khách hàng của mình làm gia tăng khối lượng các khoản nợ quá hạn .
3.2 - Nhân tố chính sách và quản lý vĩ mô
- Do sự thay đổi về chính trị, chính sách chế độ, luật pháp của Nhà nước hoặc thay đổi địa giới hành chính các địa phương, sự sát nhập hay tách ra của các bộ, ngành, tỉnh ... cũng ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu hồi nợ của Ngân hàng .
- Về chính sách kinh tế vĩ m._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28241.doc