Thực trạng và những giải pháp hỗ trợ phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Thái Nguyên

Mở đầu Gần hai mươi năm thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến to lớn sức sản xuất được giải phóng nhiều tiềm năng được khơi dậy, hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển mạnh mẽ số lượng các doanh nghiệp trong cả nước nói chung và Thái Nguyên nói riêng tăng lên nhanh chóng nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp này đang giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế, làm cho nền kinh tế năng động hiệu quả hơn góp phần vào công cuộc công nghiệp hoá hi

doc92 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1293 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và những giải pháp hỗ trợ phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ện đại hoá đất nước. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có lợi thế là chi phí đầu tư không lớn, dễ thích ứng với sự biến đổi của thị trường,phù hợp với trình độ quản lý kinh doanh của phần lớn chủ doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Tuy vậy các doanh nghiệp này hiện đang gặp nhiều khó khăn đặc biệt là các doanh nghiệp ở Thái Nguyên cả từ bên trong (Như năng lực quản lý kinh doanh còn hạn chế,công nghệ lạc hậu, chất lượng sản phẩm thấp) và từ môi trường kinh doanh. Để có thể tồn tại, phát triển và tiến hành hoạt động kinh doanh có hiệu quả các doanh nghiệp này rất cần sự giúp đỡ của toàn xã hội. Đến nay vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa được đánh giá đúng mức, chưa có khái niệm thống nhất về doanh nghiệp vừa và nhỏ, thiếu môi trường pháp lý phù hợp thiếu hệ thống chính sách và tổ chức hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp này. Để góp phần hình thành căn cứ khoa học cho việc tạo lập môi trường chính sách vĩ mô thuận lợi nhằm thúc đẩy sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, được sự hướng dẫn giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của thầy giáo TS :Phan Đăng Tuất,phó trưởng khoa Công nghiệp & Xây dựng em đã nghiên cứu đề tài "Thực trạng và những giải pháp hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Thái Nguyên “ Qua đây em xin chân thành cảm ơn thầy giáo tiến sỹ Phan Đăng Tuất cảm ơn chú Nguyễn Đình Cung cán bộ Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh Kế Trung Ương, Thư viện trường Đại học KTQD Hà Nội đã cung cấp thông tin để giúp em hoàn thành đề tài này. Do điều kiện nhận thức còn hạn chế và nhất là lần đầu làm quen với công tác nghiên cứu khoa học, chắc chắn sẽ không tránh khởi những sai sót và rất mong sự thông cảm và đóng góp ý kiến của bạn đọc. Phần I Lý luận chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ I. Tiêu chí và định nghĩa về doanh nghiệp vừa và nhỏ. 1. Khái niệm doanh nghiệp. Để nhận diện DNV&N một cách có cơ sở khoa học chúng ta đi từ việc xác định doanh nghiệp nói chung. Có khá nhiều định nghĩa doanh nghiệp ở hình thức này hay hình thức khác. Theo Viện thống kê và nghiên cứu kinh tế Pháp - INSEE “ Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế mà chức năng chính là sản xuất ra các của cải vật chất hoặc dịch vụ để bán” Luật công ty nước ta xác định : “Doanh nghiệp là đơn vị kinh doanh được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh", bao gồm doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, công ty” Theo Luật Doanh nghiệp mới ban hành: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo qui định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh” 2. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt nam Cho đến nay, nước ta vẫn chưa có được một khái niệm thống nhất và hoàn chỉnh về DNV&N. Các khái niệm được sử dụng trên thực tế hiện nay chỉ là khái niệm của các ngành, địa phương, tổ chức tự đưa ra nhằm phục vụ cho mục đích riêng của mình. Trong số các khái niệm về DNV&N hiện nay ở nước ta thì khái niệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư được áp dụng rộng rãi nhất. Khái niệm này phát biểu như sau: “DNV&N ở Việt Nam là các chủ thể sản xuất kinh doanh được thành lập theo các qui định của pháp luật có qui mô về vốn và / hoặc số lao động phù hợp với qui định của Chính phủ” Theo khái niệm này thì DNV&N ở Việt Nam không phân biệt thành phần kinh tế, bao gồm: - Các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ thành lập và đăng ký theo Luật doanh nghiệp nhà nước. - Các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ được thành lập và đăng ký theo Luật doanh nghiệp. - Các hợp tác xã có qui mô vừa và nhỏ được thành lập và đăng ký hoạt động theo luật hợp tác xã. - Các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ được thành lập và đăng ký theo Luật doanh nghiệp. - Các hợp tác xã có qui mô vừa và nhỏ được thành lập và đăng ký hoạt động theo luật hợp tác xã. - Cá nhân, nhóm sản xuất kinh doanh được thành lập và hoạt động theo Nghị định số 66- HĐBT ( nay là Chính phủ). Theo nghị định 90 của Thủ tướng chính phủ ra ngày 23 tháng 11 năm 2001 thì định nghĩa về doanh nghiệp vừa và nhỏ như sau : “ doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng và số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người” 3. Tính tất yếu khách quan của sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N). Lịch sử ra đời và phát triển nền sản xuất hàng hoá gắn liền với sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp. Giai đoạn tiền sử ( C. Mác gọi là sản xuất hàng hoá giản đơn) không có sự phân biệt giữa giới chủ và người thợ. Người sản xuất hàng hoá là người sở hữu các tư liệu sản xuất, vừa là người lao động trực tiếp, vừa là người điều khiển (quản lý) công việc của mình (của gia đình), vừa là người trực tiếp mang sản phẩm của mình ra trao đổi trên thị trường. Đó là loại doanh nghiệp cá thể, doanh nghiệp gia đình, còn gọi là doanh nghiệp cực nhỏ. Trong thời kì hiện đại, thông thường đại đa số những người khi mới trưởng thành để làm việc được, đều muốn thử sức mình trong nghề kinh doanh. Với số vốn ít trong tay, với một trình độ tri thức nhất định lĩnh hội được trong các trường chuyên nghiệp, bắt đầu khởi nghiệp, phần lớn họ đều thành lập doanh nghiệp nhỏ chỉ của riêng mình, tự sản xuất- kinh doanh. Trong sản xuất kinh doanh có một số người gặp vận may và đặc biệt là nhờ tài ba, biết chớp thời cơ, có sáng kiến cải tiến kĩ thuật, khéo điều hành và tổ chức xắp xếp công việc, cần cù, chịu khó, tiết kiệm...đã thành đạt, ngày càng giàu lên, tích luỹ được nhiều của cải, tiền vốn thường xuyên mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh, đến một giai đoạn nào đó lực lượng lao động của gia đình không đảm đương hết công việc cần phải thuê người làm và trở thành ông chủ. Ngược lại, một bộ phận lớn người sản xuất hàng hoá khác, hoặc do không gặp vận may, hoặc do kém cỏi không biết chớp thời cơ, không biết sáng kiến cải tiến kĩ thuật hoặc thiếu cần cù chịu khó...đã dẫn đến thua lỗ triền miên, buộc phải bán tư liệu sản xuất đi làm thuê cho người khác. Những giai đoạn đầu các ông chủ và những người thợ cùng trực tiếp lao động với nhau và người thợ làm thuê thường là bà con họ hàng và láng giềng của ông chủ, về sau mở rộng ra đến những người ở xa đến. Các nhà nghiên cứu thường xếp những loại doanh nghiệp này vào phạm trù doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, một số người thành đạt đã phát triển doanh nghiệp của mình bằng cách mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh, và như vậy nhu cầu về vốn đòi hỏi nhiều hơn. Nhu cầu về vốn sẽ ngày càng tăng, nhằm nâng cao công suất và hiệu quả sản xuất kinh doanh đã thôi thúc các nhà doanh nghiệp hoặc là một số người góp vốn thành lập xí nghiệp liên doanh (xí nghiệp chung vốn), hoặc phát hành cổ phiếu thành lập công ty cổ phần. Bằng hình thức liên kết ngang, dọc hoặc hỗn hợp nhiều tập đoàn kinh tế, nhiều doanh nghiệp lớn hình thành và phát triển. Nền kinh tế của một quốc gia là do tổng thể các doanh nghiệp lớn, bé tạo thành. Phần đông các doanh nghiệp lớn trưởng thành, phát triển từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua liên kết với các doanh nghiệp vừa và nhỏ khác. Qui luật đi từ nhỏ đến lớn là con đường tất yếu của sự phát triển bền vững mang tính phổ biến cuả đại đa số các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường và trong quá trình công nghiệp hóa. Đồng thời, sự tồn tại đan xen và kết hợp các loại qui mô doanh nghiệp làm cho nền kinh tế của mỗi nước khắc phục được tính đơn điệu, sơ cứng tạo nên tính đa dạng, phong phú linh hoạt vừa đáp ứng các xu hướng phát triển đi lên lẫn những biến đổi nhanh chóng cuả thị trường trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đảm bảo tính hiệu quả chung của toàn nền kinh tế. Để phát triển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa không thể không có các doanh nghiệp qui mô lớn, vốn nhiều, kĩ thuật hiện đại làm nòng cốt trong từng ngành, nhằm tạo ra sức mạnh để cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Ngoài việc xây đựng doanh nghiệp qui mô lớn cần thiết, chúng ta còn thực hiện các biện pháp tăng khả năng tích tụ và tập trung của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo điều kiện cho chúng nhanh chóng vươn lên trở thành các doanh nghiệp lớn. Sự kết hợp các loại qui mô doanh nghiệp trong từng ngành cũng như trong toàn nền kinh tế, trong đó nhấn mạnh đến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là phù hợp với xu thế chung và thích hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay. Vì vậy phát triển mạnh các doanh nghiệp vừa và nhỏ với công nghệ hiện đại thích hợp nhằm thu hút nhiều lao động là phương hướng quan trọng của quá trình phát triển kinh tế- xã hội theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở Việt Nam. 4. Tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ. Việc đưa ra một khái niệm chuẩn xác về doanh nghiệp vừa và nhỏ có ý nghĩa rất quan trọng và lớn lao để xác định đúng đối tượng cần hỗ trợ. Nếu vi phạm vì đối tượng được hỗ trợ quá rộng sẽ không đủ sức bao quát và tác dụng hỗ trợ sẽ giảm đáng kể. Vì hỗ trợ tất cả có nghĩa là không hỗ trợ ai. Còn nếu phạm vi đối tượng được hỗ trợ quá hẹp sẽ không có ý nghĩa và ít có tác dụng trong nền kinh tế và do đó không thể kịp thời hỗ trợ cần thiết các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính vì thế hầu hết các nước đều rất chú trọng nghiên cứu tiêu thức phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ Tuy nhiên không có tiêu thức thống nhất để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ cho tất cả các nước vì điều kiện kinh tế xã hội ở mỗi nước khac nhau. Và ngay trong một nước sự phân loại cũng khác nhau tuỳ theo tùng thời kỳ từng ngành nghề và vùng lành thổ. Có hai tiêu chí phổ biến để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ đó là tiêu chí định tính và tiêu chí định lượng. Nhóm tiêu chí định tính : Dựa trên những đăc trưng cơ bản của các doanh nghiệp vừa và nhỏ như: chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít mức độ phức tạp của quản lý thấp, các tiêu chí này có ưu thế là phản ánh đúng bán chất của vấn đề nhưng thường khó xác định trên thực tế. Do đó nó thường chỉ làm cơ sở để tham khảo kiểm chứng mà ít đươc sủ dụng trong thực tế. Nhóm tiêu chí định lượng : Có thể sử dụng các tiêu chí như số lao động, giá trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận, trong đó : Số lao động có thể là lao động trung bình trong danh sách, lao động thường xuyên và lao động thực tế. Tài sản hoặc vốn có thể dùng tổng giá trị tài sản ( hay vốn ), tài sản hay vốn cố định, giá trị tài sản còn lại. Doanh thu có thể có thể là doanh thu/năm, Tổng giá trị gia tăng / năm Hiện nay có xu hướng sử dụng chỉ số này. ) ở nhiều nước trên thế giới tiêu chí định lượng để xác định quy mô doanh nghiệp rất đa dạng. ở các nước APEC tiêu chí được sủ dụng phổ biến nhất là số lao động. Một số tiêu chí khác thì tuỳ thuộc vào điều kiện từng nước như: Vốn đầu tư, tổng giá trị tài sản doanh thu và tỷ lệ góp vốn. Số lượng tiêu chí dùng để phân loại có thể có từ một đến hai và cao nhất là 3 tiêu chí phân loại. 5. Một số vấn đề về tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sự phân loại doanh nghiệp theo qui mô lớn, vừa, nhỏ chỉ mang tính chất tương đối và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như : Trình độ phát triển kinh tế của một nước. Trình độ càng cao thì trị số các tiêu trí càng tăng lên. Do vậy với các nước phát triển, đang phát triển, chậm phát triển thì chỉ số về số lượng lao động vốn để phân loại doanh nghiệp là rất khác nhau. Chẳng hạn ở Nhật Bản, doanh nghiệp có 300 lao động và 1 triệu USD tiền vốn là doanh nghiệp vừa và nhỏ còn doanh nghiệp có qui mô như vậy ở Thái Lan lại là doanh nghiêp lớn. Cùng với trình độ phát triển kinh tế của một nước thì tính chất, ngành nghề cũng là một yếu tố ảnh hưởng tới việc phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do đặc điểm của ngành nghề có những ngành sử dụng nhiều lao động (như dệt, may), có ngành sử dụng nhiều vốn (như hoá chất, điện). Do đó cần tính đến tính chất này để có sự so sánh đối chứng trong phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ giữa các ngành khác nhau. Trên thực tế ở nhiều nước, người ta thường phân chia thành hai đến ba nhóm ngành với các tiêu chí phân loai khác nhau. Chẳng hạn các ngành sản xuất chỉ số thường cao hơn. Việc căn cứ tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ còn tuỳ thuộc vào vùng lãnh thổ. Do trình độ phát triển giữa các vùng khác nhau nên số lượng và qui mô doanh ngiệp cũng khác nhau. Chẳng hạn một doanh nghiệp ở thành phố được coi là nhỏ nhưng ở vùng núi và nông thôn nó lại là lớn. Không chỉ phụ thuộc vào những yếu tố kể trên mà việc phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ còn phụ thuộc vào tính lịch sử. Một doanh nghiệp trước đây được coi là lớn nhưng qua thời gian hiện tại và tương lai nó chỉ được coi là vừa thậm chí là nhỏ. ở Đài Loan năm 1997 trong ngành công nghiệp doanh nghiệp có quy mô dưới 130000 USD ( 5 triệu đô la Đài Loan ) là doanh nghiệp vừa và nhỏ trong khi năm 1989 tiêu chí này là 1,4 triệu USD ( 40 triệu đô la Đài Loan ). Và cuối cùng việc phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ cần phải chú ý tới mục đích phân loại. Chẳng hạn khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ với mục đích phân loại để hỗ trợ các doanh nghiệp mới ra đời sẽ khác với doanh nghiệp vừa và nhỏ được phân loại với mục đích là giảm thuế với các doanh nghiệp có công nghệ sạch, hiện đại và không gây ô nhiễm môi trường. Nếu gọi Ia, Ib, Id là tương ứng các hệ số vùng, ngành, và hệ số phát triển quy mô của doanh nghiệp. Sa : Quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ chung trong một nước F(Sba) : Quy mô doanh nghiệp thuộc một ngành trên địa bàn cụ thể thì : Ia x Ib F (Sba) = x Sa Id ở Việt nam trước đây khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được sử dụng để phân loại doanh nghiệp Nhà Nước với mục đích xác định mức cấp phát trong cơ chế bao cấp và định mức lương cho các giám đốc doanh nghiệp : Doanh nghiệp I, Doanh nghiệp loại II, doanh nghiệp loại III Tiêu chí phân loại chủ yếu là lao động trong biên chế và theo phân cấp Trung ương – Địa phương. Theo văn bản pháp lý năm 1993 thì việc phân loại doanh nghiệp ở Việt Nam theo 3 hạng ( Hạng đặc biệt, hạng I, II,III, IV ) dựa trên hai nhóm yếu tố là Độ phức tạp của quản lý và hiệu quả sản xuất kinh doanh gồm 8 tiêu chí : Vốn sản xuất kinh doanh, trình độ lao động và công nghệ, phạm vi hoạt động, số lượng lao động thực hiện nghĩa vụ với Nhà Nước. Lợi nhuận thực hiện, doanh thu và tỉ suất lợi nhuận trên vốn. Cách phân loại này phức tạp vì sử dụng nhiều tiêu chí và chưa tính đến tính chất đặc thù của từng ngành nghề và từng địa phương. Mặt khác đối tượng phân loại là nhằm phục vụ cho việc sắp xếp lại tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp Nhà Nước làm căn cứ để xếp lương chứ không phục vụ cho định hướng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ và hỗ trợ các doanh nghiệp này phát triển. Nhằm định hướng hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển ở một số địa phương, các cơ quan chức năng đã đưa ra các tiêu phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngân hàng công thương Việt nam coi doanh nghiệp vừa và nhỏ là những doanh nghiệp có số lao động dưới 500 người và giá trị tài sản cố định dưới 10 tỷ đồng số dư vốn lao động dưới 8 tỷ đồng và doanh thu hàng tháng dưới 20 tỷ đồng. ở thành phố Hồ Chí Minh những doanh nghiệp có vốn pháp định trên 1 tỷ đồng, lao động trên 100 người và doanh thu hàng tháng dưới 10 tỷ đồng là các doanh nghiệp vừa còn dưới giới hạn trên là các doanh nghiệp nhỏ. ở Đồng Nai những doanh nghiệp có doanh thu dưới 100 tỷ đồng môt năm là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Một số nhà nghiên cứu cho rằng cần phân định doanh nghiệp vừa và nhỏ theo lĩnh vực sản xuất và dịch vụ. Trong lĩnh vực sản xuất doanh nghiệp có số vốn dưới 1 tỷ đồng, số lao động dưới 100 người là doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp có từ 1 tỷ đồng đến 10 tỷ đồng và số lao động từ 100 người đến 500 người là doanh nghiệp vừa. Trong thương mại và dịch vụ doanh nghiệp có số vốn dưới 500 triệu đồng và dưới 50 lao động là doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp có số vốn từ 500 triệu đến 5 tỷ đồng và có từ 50 đến 250 lao động là doanh nghiệp vừa. Trên thế giới việc phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các tiêu chí phân loại phụ thuộc vào nhiều yếu tố phù hợp với trình độ phát triển điều kiện và mục đích phân loại của mỗi nước và nhiều điểm khác nhau tuy vậy vẫn có một số điểm chung giống nhau. Chẳng hạn việc phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ của các nước nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp này phát triển để thực hiện các mục đích như ( Huy động mọi tiềm năng vào sản xuất, Đáp ứng nhu cầu phong phú và đa dạng của xã hội Góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của mỗi nước, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tạo thêm viêc làm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đa dạng hoá và tăng thu nhập trong dân cư, Giảm bớt dòng người đổ ra thành phố tăng sự năng động hiệu quả của nền kinh tế giảm đến mức tối đa rủi ro trong kinh doanh, số lượng và chủng loại hàng hoá, hình thức cấu trúc nhiều tầng, thiết lập quan hệ kinh doanh giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ với các doanh nghiệp lớn. Qua nghiên cứu chúng ta thấy có thể tham khảo cách phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước trên thế giới và trong khu vực như sau : Đài Loan : Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ bắt đầu được hình thành và sử dụng từ năm 1967. Ngay từ đầu doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đài Loan đã đươc phân biệt theo hai nhóm ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp thương mại vận tải và dịch vụ khác. Từ năm 1977 họ lại thêm nhóm ngành thứ 3 là ngành khai khoáng. Người ta dùng tiêu chí vốn góp và lao động trong thương mại và dịch vụ khác dùng tiêu chí doanh thu và lao động Trong thời gian hơn 30 năm qua tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đài Loan đã đựoc thay đổi 6 lần. Sự thay đổi trong khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ theo hướng tăng dần trị số giữa các tiêu chí (Trong sản xuất số vốn góp từ năm triệu lên 40 triệu đô la Đài Loan tổng giá trị tài sản từ 20 triệu lên 120 triệu, doanh thu từ 5 triệu lên 40 triệu ) Và phân ngành hẹp hơn nhưng bao quát hơn nhiều lĩnh vực công nghiệp và xây dựng. Hiện nay ở Đài Loan doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp : - Trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng : Có vốn góp dưới 40 triệu đô la Đài Loan (1,4 triệu USD), và số lao động thường xuyên là dưới 300 người - Trong khai khoáng : Có vốn góp dưới 40 triệu Đô la Đài Loan số lao động thường xuyên dưới 500 người - Trong thương mại, vận tải và dịch vụ khác : Có tổng doanh thu hàng năm dưới 40 triệu đô la Đài Loan, lao động khoảng 50 người Nhật Bản : Doanh nghiệp vừa và nhỏ được phân loại theo khu vực : Khu vực sản xuất : Doanh nghiệp có dưới 300 lao động và 1 triệu USD vốn đầu tư. Khu vực thương mại và dịch vụ : Doanh nghiệp có dưới 100 lao động đối với doanh nghiệp buôn bán hay 50 lao động ( Đối với doanh nghiệp bán lẻ và dịch vụ ) Vốn đầu tư dưới 300000USD (Đối với doanh nghiệp buôn bán) và 100000 USD đối với doanh nghiệp bán lẻ và dịch vụ. Liên Minh Châu Âu : doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có dưới 250 lao động, doanh số không quá 40000ECU, hoặc tổng số vốn hàng năm không quá 27 triệu ECU có cổ phần không quá 25% ở Một xí nghiệp lớn Ngoài ra có nhiều cách phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước khác song ở đây tôi chỉ muốn đưa ra một vài ví dụ về các cách phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước trên thế giới và khu vực. Dưới đây là bảng tổng hợp tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước trên thế giới Bảng 1: Bảng tổng hợp tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước trên thế giới Nước Loại doanh nghiệp Số lao động (Người) Tổng số vốn Doanh thu/năm CHLB Đức DNV&N Trong đó doanh nghiệp nhỏ <500 <9 <100triệu Dmác < 1 triệu Dmac Canada DNV&N <500 < 20 triệu $ Canada Nhật DNV&N trongCN DNV&N trong bán buôn DNV&N trong bán lẻ <300 <100 <50 <100 triệu yên <30 triệu yên < 10 triệu yên Hàn Quốc DNV&Ntrong CN DNV&N trong DV <100 <20 Hồng Kông DNV&Ntrong Cn DNV&N trong DV <100 <50 Đài Loan DNV&N < 120 triệu $ Hồng Kông Singapore DNV&N <100 < 500 triệu $ Singapore Thái Lan DNV&N <200 <50 triệu Bath Có thể khái quát lại việc phân chia doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ ở các nước theo ngành nghề và khác nhau trong từng thời kỳ. Các tiêu chí này được sử dụng phổ biến ở nhiều nước đó là số lao động thường xuyên vốn đầu tư, doanh thu. Còn trị số các tiêu chí thì rất khác nhau và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của từng nước. Để xác định tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam một cách phù hợp cần căn cứ vào điều kiện cụ thể của nước ta là một nước có trình độ phát triển kinh tế còn thấp, năng lực quản lý hạn chế, thị trường còn thiếu, chưa có thước đo quy mô doanh nghiệp một cách đích thực. Ngoài ra cần tính đến các yếu tố khác tác động tới việc phân loại như: Mục đích phân loại, Tính chất ngành nghề, Địa bàn. Tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ theo hai tiêu chí là lao động thưòng xuyên và vốn sản xuất là hợp lý vì các tiêu chí này có tính phổ dụng tính bao quát và tính sát thực. Tính phổ dụng thể hiện ở chỗ, tất cả các doanh nghiệp đều có số liệu về hai tiêu thức này, Tính bao quát của các tiêu chí này đựoc thể hiên ở chố có thể xác định hai tiêu chí này ở mọi cấp độ: Toàn bộ nền kinh tế, ngành, doanh nghiệp. Tính sát thực thể hiện ở chỗ trong điều kiện của Việt Nam đây là hai tiêu chí có thể các định tương đối chính xác trị số của chúng. Tuy vậy hai tiêu chí này chỉ mới thể hiện được quy mô đầu vào mà chưa phản ánh được kết quả tổng hợp thông qua kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Nếu căn cứ vào các tiêu chí khác để phân loại như doanh thu, vốn pháp định, vốn cố định, vốn lưu động, lợi nhuận đều hạn chế vì rất khó xác định hoặc số liệu khác chuẩn xác. Tiêu chí doanh thu ( Hoặc giá trị gia tăng có nhiều ý nghĩa vì nó phản ánh quy mô doanh nghiệp qua kết quả hoạt động của nó ( Gắn với hiệu quả ). Nhưng trong điều kiện của Việt Nam tiêu chí này rất khó xác định và khó có số liệu chuẩn xác ( Chẳng hạn do việc giấu doanh thu để trốn thuế hoặc do trình độ hạch toán của doanh nghiệp còn thấp Các tiêu chí khác như vốn pháp định, vốn cố định hay số dư vốn lưu động không phản ánh đầy đủ và thực chất quy mô của doanh nghiệp trong các ngành khác nhau, Chẳng hạn vốn pháp định thường khác xa vốn thực tế và chỉ mang tính hình thức. Vốn cố định có sự khác biệt lớn trong các ngành sản xuất thương mại. Vốn lưu động cũng khác biệt rất lớn giữa các lĩnh vực ngành nghề. Về lĩnh vực ngành, cần phân biệt hai lĩnh vực chính là sản xuất công nghiệp, thưong mại và dịch vụ. Cần chú ý là việc phân loại theo hai nhóm ngành như vậy vẫn còn chung chung chưa phản ánh hết đặc thù ngành nghề. Chẳng hạn trong các ngành sản xuất công nghiệp thì tính chất và mức độ sử dụng vốn lao động và doanh thu làm căn cứ để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất khác nhau. Để đạt tới mức độ chuẩn xác hơn cần phân loại theo ngành hẹp hơn trên đặc tính sử dụng lao động, vốn của các ngành và đặc điểm của kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Muốn vậy cần tính toán các hệ số Ia x Ib F (Sba) = x Sa Id Như vậy quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ được xác định hợp lý nhất cho toàn bộ nền kinh tế là : Trong công nghiệp Vốn sản xuất dưới 5 tỷ đồng lao động dưới 300 người trong đó có dưới 1 tỷ đồng và dưới 50 lao động là doanh nghiệp nhỏ Trong thương mại, dịch vụ : Vốn sản xuất dưới 2 tỷ đồng và dưới 100 người là doanh nghiệp vừa còn doanh nghiệp có dưới 1 tỷ đồng tiền vốn và số lao động dưới 30 người là doanh nghiệp nhỏ. II Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong công cuộc công nghiệp hoá đất nước, phát triển kinh tế doanh nghiệp vừa và nhỏ có một vai trò hết sức quan trọng trong nhiều lĩnh vực như đóng góp vào việc phát triển kinh tế, giải quyết những vấn đề bức xúc của xã hội và góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 1. Về mặt kinh tế. Đóng góp vào tăng trưởng và phát triển kinh tế. Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những doanh nghiệp kinh doanh với quy mô không lớn nhưng lại có khả năng rất năng động và nhạy bén trong các cơ hội kinh doanh hơn nữa doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng đáp ứng được những nhu cầu nhỏ lẻ của thị trường, chính vì thế các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã đóng góp rất lớn vào kết quả hoạt động kinh tế, tạo môi trường tốt cho người lao động. Tổng sản phẩm trong nước mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ mang lại khoảng 26%, khu vực kinh tế cá thể chiếm 34 % còn lại là khi vực kinh tế Nhà Nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 40%. Năm qua tốc độ tăng trưởng bình quân GDP của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ khoảng 6,5%. Hàng năm giá trị sản xuất của doanh nghiệp vừa và nhỏ thực hiện được chiếm khoảng 31% tổng giá trị sản xuất của ngành công nghiệp. Khu vực ngoài quốc doanh là bộ phận quan trọng trong khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 78% tổng mức bán lẻ là 64% tổng lượng vận chuyển hàng hoá. b. Tạo sự năng động và hiệu quả cho nền kinh tế. Do số lượng doanh nghiệp tăng lên rất nhanh nên làm tăng tính cạnh tranh giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế đồng thời làm tăng số lượng và chủng loại hàng hoá dịch vụ trong nền kinh tế. Ngoài ra các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng thay đổi mặt hàng và công nghệ chuyển hướng kinh doanh nhanh chóng khi có những bất lợi ảnh hưởng tới quá trình kinh doanh, làm cho nền kinh tế năng động hơn. Sự có mặt của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế có tác dụng hỗ trợ các doanh nghiệp lớn kinh doanh có hiêụ quả hơn: Làm đại lý vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, giúp tiêu thụ hàng hoá cung cấp các đầu vào như nguyên liệu thâm nhập vào mọi ngõ ngách thị trường mà các doanh nghiệp lớn không với tới được. Một điều quan trọng là vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong đó phần lớn là khu vực tư nhân chủ yếu chỉ đầu tư vào các ngành nghề có hiệu quả kinh tế cao hơn trong tương lai gần. Do vậy việc tăng các cơ số này càng làm cho hiệu quả kinh tế cao hơn trong tương lai. Tuy nhiên cần lưu ý là Nếu các doanh nghiệp có qui mô quá nhỏ thì hiệu quả kinh tế sẽ khó tăng lên được. c. Khai thác tiềm năng phong phú trong dân cư Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong phát triển kinh tế không chỉ có đóng góp vào hoạt động kinh tế và làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả mà còn khai thác được những tiềm năng rất phong phú trong dân cư. Hiện nay còn nhiều tiềm năng trong dân chưa được khai thác:Tiềm năng về trí tuệ, tay nghề tinh xảo, lao động. vốn, điều kiện tự nhiên, bí quyết nghề quan hệ huyết thống, làng nghề với những hương ước nghề ngiệp. Việc phát triển các doanh nghiệp sản xuất các ngành nghề truyền thống trong nông thôn hiện nay là một trong những hướng quan trọng để xử dụng tay nghề tinh xảo của các nghệ nhân mà hiện đang có xu hướng mai một dần, thu hút lao đông nông thôn phát huy lợi thế của từng vùng để phát triển kinh tế. Hơn nữa ngày nay, việc thành lập doanh nghiệp vừa và nhỏ là tương đối dễ dàng đã làm có nhiều cá nhân và tập thể kinh doanh mà không gặp phải những khó khăn phức tạp do đó có thể khai thác được những tiềm lực nhỏ, lẻ trong dân cư. 2. Về mặt xã hội. Không chỉ có vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn có vai trò lớn với xã hội. Trước hết các doanh nghiệp này đã giải quyết được công ăn việc làm cho lao động, góp phần tăng thu nhập, tăng mức sống của người dân và thu hút được nguồn vốn đầu tư nhàn rối. Tạo việc làm cho người lao động Việt Nam là một nước có cơ cấu dân số trẻ, tốc độ tăng trưởng của dân số là trên 2% do vậy hàng năm có thêm khoảng hơn 1 triệu ngưới đến độ tuổi lao động có nhu cầu về việc làm. Đó là chưa kể số người thất nghiệp và bán thất nghiệp do cơ cấu lại nền kinh tế, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước số quân nhân giải ngũ. Thực tế vừa qua cho thấy, toàn bộ các doanh nghiệp nhà nước năm cao nhất cũng chỉ thu hút được khoảng 1,6 triệu lao động. Nếu tính cả nhân viên của bộ máy Nhà Nước cũng chỉ có trên 2 triệu lao động. Trong khi đó chỉ riêng kinh tế cá thể trong công nghiệp và thương mại đã thu hút gần 3,5 triệu lao động. Các công ty và doanh nghiệp tư nhân thu hút gần nửa triệu lao động. Chi phí trung bình để tạo ra một chỗ làm việc trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ khoảng 740 nghìn đồng chỉ bằng 3% so với các doanh nghiệp lớn. Nếu tính thêm cả số lao động ngoài doanh nghiệp do các doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo ra với hệ số mở rộng việc làm là 1,2 thì số lao động do các doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo ra có thể lên tới 4 đến 4,5 triệu người. Riêng ở Thái Nguyên, số liệu điều tra từ năm 1997 đến năm 2001của phòng đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và đầu tư cho thấy số lao động trong 3 năm của các doanh nghiệp Nhà Nước là 10474; 10393; 10078 trong khi đó số lao động mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng là 2700;3900;4500 và 6 tháng 2001 là 5974. Qua số liệu trên cho thấy doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng có vai trò đặc biệt trong việc tạo việc làm cho người lao động và với chi phí thấp chủ yếu bằng vốn và tài sản của nhân dân, Qua đó cũng giảm đáng kể những tệ nạn xã hội xuất phát từ nạn thất nghiệp. Tuy vậy số lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ mới chỉ chiếm 12 đến 15% lực lượng lao động so với các nước khác trong khu vực chỉ tiêu này là 50 % đến 60%. Như vậy tỷ lệ thu hút lao động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta còn thấp, tiềm năng của các doanh nghiệp này chưa được phát huy một cách đầy đủ. b. Đa dạng hoá và tăng thu nhập trong dân cư. Việt Nam là một nước nông nghiệp năng suất của nền sản xuất xã hội cũng như thu nhập của dân cư thấp. Thu nhập của dân cư nông thôn ( Chiếm trên 80% tổng dân số ) chủ yếu phụ thuộc vào nền nông nghiệp thuần tuý. Việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở thành thị cũng như ở nông thôn là phương hướng cơ bản nhằm tăng nhanh năng suất tăng thu nhập và đa dạng hoá thu nhập của dân cư. Kết quả điều tra cho thấy thu nhập của dân cư vùng có các doanh nghiệp phát triển gấp 4 lần thu nhập của các vùng thuần nông. Kết quả khảo sát ở một số địa phương cũng cho kết quả tương tự. Thu nhập bình quân của người lao động trong các doanh nghiệp bình quân khoảng 400 đến 500 nghìn đồng / tháng cao hơn gấp 2 đến 3 lần thu nhập của nông dân. Điều không kém phần quan trọng là thu nhập dân cư đa dạng hoá vừa có ý nghĩa nâng cao mức sống dân cư vừa làm cho cuốc sống giảm bớt rủi ro hơn nhất là ảnh hưởng lớn của thiên tai. c Thu hút vốn. Vốn là nhân tố cơ bả._.n của quá trính sản xuất có vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế của cả nước cũng như đối với từng doanh nghiệp. Nhờ có vốn mới có thể kết hợp được các yếu tố khác như lao động, đất đai công nghệ và quản lý. Thực tế cho thấy để đầu tư cho một chỗ làm việc ở Việt Nam trung bình phải mất 5 đến 10 triệu đồng tiền vốn. Vốn có vai trò lớn trong việc đầu tư trang thiết bị cải tiến công nghệ, nâng cao trình độ tay nghề của công nhân và trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp. Hơn thế nữa vốn còn có vai trò trong việc mở rộng quy mô sản xuất. Tuy nhiên có một nghịch lý hiện nay là các doanh nghiệp thiếu vốn trầm trọng trong khi vốn trong dân cư còn tiềm ẩn nhưng không huy động được. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó nhưng nguyên nhân chủ yếu là do môi trường đầu tư chưa thật thuận lợi và ổn định. Trong tình hình đó chính các doanh nghiệp vừa và nhỏ là người trực tiếp tiếp xúc với người cho vay gây được niềm tin nên có thể huy động được vốn hoặc chính người có tiền đứng ra đầu tư kinh doanh Theo số liệu điều tra của Thái Nguyên trong những năm từ 1997 đến tháng 3 năm 2001 thì số vốn đăng ký kinh doanh ở khu vực Nhà Nước giảm trong khi số vốn đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại tăng lên rất nhanh. Điều đó cho thấy càng ngày các doanh nghiệp vừa và nhỏ càng chiếm được niềm tin và càng ngày càng thu hút được nhiều vốn trong kinh doanh. d. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vai trò này của các doanh nghiệp vừa và nhỏ có ý nghĩa đặc biệt với khu vực nông thôn. Việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ có ý nghĩa lớn trong việc phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, xoá dần tình trạng thuần nông và độc canh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Hơn nữa sự phát triển mạnh các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Cơ cấu thành phần kinh tế thay đổi, các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên nhanh chóng, các doanh nghiệp Nhà Nước được sắp xếp và củng cố lại kinh doanh có hiệu quả để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Cơ cấu ngành : Phát triển nhiều ngành nghề đa dạng phong phú (Cả ngành nghề hiện đại và ngành nghề truyền thống) theo hướng lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo. Cơ cấu lãnh thổ : Các doanh nghiệp được phân bố đều hơn về lãnh thổ, cả nông thôn và đô thị, miền núi và đồng bằng. Tuy nhiên hiện nay các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn chủ yếu tập trung ở các đô thị lớn. Đây là vấn đề cần lưu tâm trong việc hoạch định chính sách. Ngoài ra doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò trong việc gieo mầm cho các tài năng kinh doanh. Đây là vấn đề hết sức quan trọng đối với Việt nam, vì trong nhiều năm qua đội ngũ kinh doanh gắn liền với cơ chế bao cấp chưa có kinh nghiệp với kinh tế thị trường. Sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ có tác dụng đào tạo thử thách chọn lọc qua thực tế các nhà kinh doanh trên mặt trận sản xuất kinh doanh. Kết quả điều tra cho thấy 63,2% ý kiến cho rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh ở Việt nam. III. Những ưu điểm và hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt nam. 1. Những ưu điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nếu như trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung bao cấp ở nước ta doanh nghiệp vừa và nhỏ tồn tại, phát triển chủ yếu ở dưới hai loại hình doanh nghiệp hợp tác xã và doanh nghiệp nhà nước thì hiện nay chúng tồn tại, phát triển ở mọi ngành mọi thành phần kinh tế với các loại hình khác nhau như xí nghiệp quốc doanh vừa và nhỏ chiếm 85,7% tổng số xí nghiệp quốc doanh,30% xí nghiệp liên doanh với nước ngoài,80-90% các hợp tác xã, xí nghiệp tư nhân công ty TNHH công ty cổ phần. Thứ nhất: các doanh nghiệp vừa và nhỏ năng động linh hoạt trước những thay đổi của thị trường đặc biệt là khả năng đáp ứng nhu cầu nhỏ lẻ có tính địa phương do doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng chuyển hướng kinh doanh và chuyển hướng mặt hàng nhanh. Thứ hai :Nơi làm việc của người lao động có tính ổn định và ít bị đe doạ mất nơi làm việc. Thực tế này không những đúng với nước ta trong thời gian qua mà còn đúng với các nước khác trên thế giới. Người lao động ở doanh nghiệp lớn sẽ dễ mất việc làm đặc biệt là khi có suy thoái kinh tế. Chẳng hạn ở Đức giai đoạn 1970- 1987 các công ty lớn giảm nhân công ở con số 360.000 (khoảng 10%) thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ lai tạo ra số việc làm ở con số 1,6 triệu người. ở các nước NIC giai đoạn 1985-1987, lao động trong các cơ sở kinh doanh nhỏ chiếm 23 -33% khu vực sản xuất. Trong những năm 1980 ở Mỹ số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng từ 500-700 nghìn đơn vị tạo ra gần 20 triệu việc làm mới,trong khi đó riêng 500 công ty lớn ở Mỹ giảm đi 3,5 triệu chỗ làm việc. ở Trung Quốc từ năm 1979 đến 1987gần 70 triệu người đã tìm được việc làm trong đó có sự đóng góp của hàng chục triệu doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ khắp thành thị và nông thôn. ở Viêt Nam theo số liệu thống kê tính đến tháng 12/1994 số lao động được thu hút ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ với các loại hình công ty cổ phần, công ty TNHH xí nghiệp tư nhân HTX đã đạt con số 3,5 triệu chiếm 11% lao động xã hội. Các doanh nghiệp qui mô vừa và nhỏ là các doanh nghiệp thu hút rất nhiều lao động có thể cùng lúc tạo ra rất nhiều công ăn việc làm góp phần giẩm bớt nạn thất nghiệp ở mỗi địa phương nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. Theo tư liệu mấy năm gần đây các doanh nghiệp công nghiệp chế tạo có cơ hội tạo công ăn việc làm cho người lao động tăng nhanh hơn các doanh nghiệp lớn. Hơn nữa quan hệ giữa những người lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ khá chặt chẽ do đó sự phối hợp để sản xuất dễ dàng và có thể nâng cao dược hiệu quả sản xuất kinh doanh. Thứ ba: Mặt khác doanh nghiệp vừa và nhỏ tổ chức sản xuất quản lý linh hoạt gọn nhẹ, các quyết định quản lý được thực hiên nhanh, công tác kiểm tra điều hành trực tiếp. Qua đó góp phần tiết kiệm chi phí quản lý doanh nghiệp. Vốn đầu tư ban đầu ít hiệu quả cao, thu hồi nhanh điều đó tạo ra sự hấp dẫn trong đầu tư sản xuất kinh doanh của nhiều cá nhân, mọi thành phần kinh tế vào khu vực này. Doanh ngiệp công nghiệp vừa và nhỏ rất nhạy cảm với những thay đổi của thị trường. Có thể nói khi nhu cầu thị trường thay đổi các doanh nghiệp này rất dễ chuyển đổi các mặt hàng kinh doanh của mình theo thị trường cho phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng do việc đổi mới trang thiết bị công nghệ không đòi hỏi nhiều vốn. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể sản xuất sản phẩm có chất lượng tốt ngay cả khi điều kiện sản xuất kinh doanh có nhiều hạn chế. Và một ưu điểm mà không ai phủ nhận được đó là trong khi các doanh nghiệp có qui mô lớn rất ít mạo hiểm đầu tư vào các lĩnh vực mới thì các doanh nghiệp qui mô vừa và nhỏ lại sẵn sàng đầu tư cả vào những lĩnh vực có độ rủi ro cao. 2. Những hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Song bên cạnh những đặc điểm thể hiện những ưu điểm trên, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có những đặc điểm gây nên những bất lợi như: Nguồn vốn tài chính hạn chế, đặc biệt là nguồn vốn tự có cũng như bổ sung để thực hiên quá trình tích tụ, tập trung nhằm duy trì và phát triển mở rộng sản xuất kinh doanh. Cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ kỹ thuật công nghệ còn yếu kém, lạc hậu, nhà xưởng nơi làm việc trực tiếp và trụ sở giao dịch quản lý của đa phần các doanh nghiệp rất chật hẹp khó khăn trong việc đầu tư công nghệ mới đặc biệt là công nghệ đòi hỏi vốn đầu tư lớn, từ đó ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng và hiệu quả ,hạn chế khả năng cạnh tranh trên thị trường. Hơn nữa trình độ quản lý nói chung và quản lý các mặt theo chức năng còn hạn chế. Đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa được đào tạo cơ bản,đặc biệt những kiến thức về kinh tế thị trường về quản lý kinh doanh,họ quản lý bằng kinh nghiệm thực tiễn là chủ yếu. Ngoài ra nước ta trong giai đoạn chuyển sang nền kinh tế thị trường do trình độ quản lý nhà nước còn hạn chế nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ bộc lộ những khiếm khuyết của nó trong hoạt động sản xuất kinh doanh như :Trốn lậu thuế, một số doanh nghiệp còn trốn đăng ký kinh doanh hoặc kinh doanh không đúng như đăng ký, làm hàng giả, kém chất lượng, hoạt động phân tán khó quản lý. Tuy còn có những hạn chế nhưng chúng ta không thể không thừa nhận vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế nước ta hiện nay IV Một số vấn đề liên quan đến doanh nghiệp vừa và nhỏ. 1. Những đặc trung kinh doanh của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do việc thành lập các doanh nghiệp vừa và nhỏ tương đối dễ dàng cho nên trong trong những năm gần đây đã ra đời rất nhiều các loại hình doanh nghiệp này, các doanh nghiệp vừa và nhỏ với những ưu thế về việc kinh doanh không đòi hỏi nhiều vốn quá, lại thu hút được lượng lao động rất lớn. Hơn nữa việc các doanh nghiệp này kinh doanh chủ yếu những mặt hàng thiết yếu cho cuôc sống cho nên không đòi hỏi phải đầu tư công nghệ kỹ thuật máy móc nhiều mà thay vào đó là sử dụng lượng lao động với giá rẻ càng làm cho việc kinh doanh của các doanh nghiệp này tương đối dễ dàng và thông thoáng. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất nhạy cảm với những thay đổi trong kinh doanh nhanh chóng nắm bắt các cơ hội kinh doanh mối khi có thể. Một yếu tố nữa là do bộ máy tổ chức của các doanh nghiệp này tương đối gọn nhẹ cho nên mỗi khi ra các quyết định kinh doanh thường rất nhanh. Tuy nhiên cũng do thiếu vốn cho nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng thường bị mất di các cơ hội kinh doanh do thiếu vốn các doanh nghiệp nghĩ tới việc vay ngân hàng nhưng đợi cho tới khi ngân hàng cho vay vốn thì các cơ hội kinh doanh cũng đã qua đi. Trình độ lao động thấp phương tiện kỹ thuật lạc hậu, trình độ quản lý chất lượng sản phẩm kinh doanh thấp cũng là những yếu tố làm cho sản phẩm của các doanh nghiệp này thường bị coi là kém chất lượng và làm giả ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. 2. Xu hướng phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế tri thức. Trong điều kiện nền kinh tế ngày càng phát triển và tăng trưởng với tốc độ cao như ngày nay. Nền kinh tế thế giới và khu vực chuyển dần sang nền kinh tế tri thức. Trong bối cảnh đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ chịu tác động rât lớn từ môi trường kinh doanh. Có thể nói xu hướng phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ có xu thế phát triển theo hướng : - Các doanh nghiệp sản xuất theo hướng chuyên môn hoá và hợp tác hoá sâu sắc. Mỗi một doanh nghiệp tập trung sản xuất một sản phẩm mũi nhọn. Các doanh nghiệp này sẽ không tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh mà thay vào đó là sự hợp tác giữa nhiều doanh nghiệp trong việc tạo ra một sản phẩm chính. Mỗi một doanh nghiệp chỉ sản xuất một hoặc vài chi tiết sản phẩm mà những chi tiết sản phẩm này của doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh. - Trong sản xuất các doanh nghiệp vừa và nhỏ áp dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại, các phát minh sáng chế làm tăng năng suất lao động cũng được áp dụng vào sản xuất, Do đó làm tăng hàm lượng công nghệ kỹ thuật hiện đại trong các sản phẩm. - Lao động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế tri thức có trình độ tay nghề cao và cùng vào đó là xu hướng sử dụng ít lao động trong sản xuất. - Xu hướng kinh doanh hợp tác toàn cầu, ngày nay các doanh nghiệp đã và sẽ kinh doanh vượt qua khỏi phạm vi một nước tìm kiếm thị trường rộng lớn trên thế giới. Các hình thức thương mại điện tử, thư tín dụng, kinh doanh trên mạng...đang phát triển mạnh trong những năm gần đây. Qua các hình thức kinh doanh trên các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tìm kiếm thị trường, đối tác làm ăn trên toàn thế giới mà không phải đi xa và mất công sức. Trong nền kinh tế tri thức các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt nam nói chung và ở Thái Nguyên nói riêng do mới được khuyến khích phát triển trong mấy năm gần đây nên cơ sở kỹ thuật trình độ còn hạn chế nhất là điều kiện tiếp xúc các thông tin về thị trường, sản phẩm, đối tác... còn thấp cho nên rất khó khăn khi nền kinh tế nước ta hội nhập kinh tế thế giới và khu vực. 3. Quan hệ với các doanh nghiệp lớn. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có mối quan hệ kinh tế với các doanh nghiệp lớn, nó vừa bổ sung, hỗ trợ, vừa nhận được sự trợ giúp từ các doanh nghiệp lớn, điều đó thể hiện qua các mối quan hệ sau : - Các doanh nghiệp vừa và nhỏ vừa là nơi cung cấp nguyên vật liệu đầu vào cho các doanh nghiệp lớn vừa là nơi tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá từ các doanh nghiệp này. - Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thiết lập các mối quan hệ với các doanh nghiệp lớn nhằm nâng cao trình độ tay nghề của người lao động. - Các doanh nghiệp lớn hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ về vốn, công nghệ và kỹ thuật. - Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể làm cơ sở sản xuất, chi nhánh, đại lý cho các doanh nghiệp lớn ở những nơi doanh nghiệp lớn không với tới được. - Thông qua các doanh nghiệp lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thế tiêu thụ sản phẩm của mình ở những thị trường rộng lớn hơn. - Doanh nghiệp lớn cung cấp thông tin về kinh doanh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận với nền kinh tế tri thức. 4. Sự can thiệp của chính phủ đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. a. Hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà nước Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của nhiều môi trường khác nhau: Môi trường kinh tế, chính trị, chính sách và luật pháp...Chúng hoặc là tạo điều kiện thuận lợi hoặc là gây khó khăn cản trở đối với sự ra đời hoạt động và phát triển của DNV&N. Hệ thống chính sách và luật pháp đồng bộ, hợp lý sẽ tạo môi trường hoạt động hiệu quả cho các DNV&N, hỗ trợ khuyến khích các doanh nghiệp này phát triển đi lên. ở nước ta trong những năm đổi mới hệ thống chính sách và pháp luật liên quan đến khu vực kinh tế ngoài quốc doanh( trong đó các DNV&N là chủ yếu) đã được hình thành và đổi mới từng bước với những kết quả tích cực. Các chính sách này đã tạo điều kiện khuyến khích, thúc đẩy sự hình thành và phát triển khá mạnh mẽ đối với các DNV&N, đặc biệt là đối với khu vực kinh tế tư nhân. Ngược lại một hệ thống chính sách và pháp luật thiếu đồng bộ nhất quán, kém hiệu quả và xa rời thực tế sẽ không tạo được môi trường hoạt động thông thoáng và bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp, không khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, nghiêm chỉnh tuân theo pháp luật; giảm và tiến tới xoá bỏ hiện tượng đối phó, lẩn trốn, tiêu cực, xa lạ đối với hoạt động sản xuất kinh doanh văn minh. Vì vậy để tạo điều kiện thúc đẩy mạnh mẽ sự hình thành và phát triển của DNV&N cần phải có sự đôỉ mới hoàn thiện hơn nữa chính sách và pháp luật của Nhà nước. b. Hệ thống tổ chức quản lý kiểm soát của Nhà nước và các thiết chế cộng đồng xã hội nông thôn Đây là nhân tố có ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả hoạt động của các DNV&N ở những nước có đặc điểm như nước ta. Hệ thống tổ chức quản lý kiểm soát của nhà nước từ trung ương đến các Tỉnh, huỵên, xã với nhiều ban ngành nếu có sự phối hợp chặt chẽ phân công trách nhiệm rõ ràng sẽ làm tăng hiêụ lực quản lý của bộ máy. Các hoạt động của các đội kiểm tra liên ngành, quản lý thị trường, công an, thuế vụ...nếu không có sự thống nhất sẽ chồng chéo, dẫm đạp lên nhau, nhiều khi còn đổ lỗi và có những hành động triệt tiêu hiệu quả công tác quản lý lẫn nhau. Như vậy sẽ gây khó khăn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì vậy cần thiết phải có sự kiện toàn, sắp xếp, đổi mới hệ thống và phương pháp quản lí, kiểm soát trên tinh thần hỗ trợ cho DNVC&N phát triển là chính. Sự hình thành và phát triển các DNV&N ở khu vực nông thôn còn chịu tác động của những quan hệ, thiết chế xã hội nông thôn với những thông số cơ bản là gia đình, dòng họ và làng, xã. ở Việt Nam, gia đình thực sự là đơn vị sản xuất kinh doanh rất cơ bản trong lịch sử, hiện tại và tương lai. Kết cấu dòng họ đã và đang góp phần ổn định trật tự xã hội, thực hiện tín chấp, tương trợ giúp nhau để làm ăn kinh tế, mở doanh nghiệp và xoá đói giảm nghèo. Làng Việt truyền thống là tổ chức cộng đồng tự quản, tự điều chỉnh bằng, bằng luật tục, bằng dư luận, bằng quản lí và đạo đức, có tác dụng tới sự hình thành và phát triển các DNV&N ở nông thôn cũng là kênh thông tin, chuyển giao công nghệ, không gian tìm việc làm và tạo dựng doanh nghiệp Tuy nhiên bản chất truyền thống của những thiết chế xã hội nông thôn đó cũng có những nhược điểm làm cản trở rất lớn đối với sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp trong điều kiện của nền kinh tế thị trường và công cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Đó là tính chất hẹp hòi, đố kỵ, bản vị khép kín ngay trong từng gia đình, dòng họ và làng, thôn. Chính nó là những tác nhân chủ yếu làm giam hãm xã hội nông thôn Việt Nam trong lịch sử và cho đến nay chưa vượt qua được vòng cương toả của sự đói nghèo và lạc hậu. Mặc dù hiện nay mức độ và phạm vi của những tính chất tiêu cực đó không còn sâu nặng như trước và đã được giải toả rất nhiều, song sự hình thành và phát triển của các DNV&N trong điều kiện hiện đại đòi hỏi phải khắc phục và giải toả hoàn toàn những tính chất tiêu cực nói trên. c. Hệ thống các biện pháp và tổ chức hỗ trợ của Nhà nước Hệ thống các biện pháp và tổ chức hỗ trợ của Nhà nước cũng như của các tổ chức phi Chính phủ và các tổ chức quốc tế nhằm khắc phục những khó khăn và thế bất lợi của các DNV&N để chúng nhanh chóng có đủ khả năng cạnh tranh một cách bình đẳng được với các doanh nghiệp khác trên thị trường. ở hầu hết các nước trên thế giới, việc tiến hành các biện pháp hỗ trợ cho các DNV&N được thông qua các chính sách ưu đãi về miễn giảm các loại thuế, các khoản vay với lãi suất ưu đãi từ các nguồn vốn tín dụng của nhà nước, thiết lập các tổ chức tư vấn và cung cấp thông tin, các trung tâm đào tạo kiến thức quản lý và kỹ năng lao động miễn giảm phí và thành lập các quỹ tín dụng hoặc bảo lãnh tín dụng riêng cho các DNV&N. ở Việt nam các chương trình tạo việc làm và xoá đói giảm nghèo, một số dự án với sự tài trợ của các tổ chức quốc tế cho các cơ quan của chính phủ và các tổ chức phi Chính phủ hỗ trợ các DNV&N triển khai trong vòng một số năm gần đây đã có tác dụng nhất định tới sự hình thành và phát triển các DNV&N. Tuy nhiên, hiện chủ chương chính sách hoặc các chương trình của Nhà nước thống nhất hỗ trợ dành riêng cho các DNV&N còn hạn chế. Đồng thời Nhà nước hướng dẫn và khuyến khích thành lập các tổ chức hỗ trợ và quản lí giám sát hoạt động của chúng chưa sâu sắc và triệt để. Cho nên các chương trình, dự án hoạt động rời rạc, các tổ chức hỗ trợ DNV&N còn ít, hoạt động kém hiệu quả và tác dụng của chúng đối với việc hỗ trợ thúc đẩy sự hình thànhvà phát triển các DNV&N còn rất hạn chế, cần có sự chấn chỉnh và hoàn thiện. Tuỳ từng đặc điểm kinh tế chính trị xã hội của mỗi nước mà có những quan điểm khác nhau. Song vai trò của DNV&N trong phát triển kinh tế, chính trị, xã hội là không thể phủ nhận được. Trong phần trên chúng ta đã xem xét những vấn đề chung nhất về loại hình DNV&N như : các quan điểm khác nhau về DNV&N, tiêu thức xác định... và đặc biệt là các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của các DNV & N. Đây là cơ sở cho sự phân tích thực trạng và đưa ra giải pháp thúc đẩy sự phát triển của các DNV&N của nước ta. Phần II Thực trạng các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Thái Nguyên I. Đặc điểm kinh tế xã hội ở Thái Nguyên và tình hình phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ từ năm 1997 đến nay. 1. Giới thiệu tổng quan chung về tình hình tự nhiên kinh tế xã hội của Thái Nguyên Thái Nguyên là một Tỉnh miền núi nằm trong vùng trung du miền Bắc bộ thuộc dải nối liền giữa Hà Nội với các Tỉnh miền núi phía Bắc. Thái Nguyên có diện tích tự nhiên là 3541,6 km2 bao gồm 7 huyện một thị xã và một Tỉnh. Toàn Tỉnh có số dân gần 1 ,1 triệu người là một Tỉnh không lớn lắm chỉ chiếm 1,13 % diện tích và 1,41% dân số cả nước. Tỉnh Thái Nguyên phía Bắc có đường danh giới tiếp giáp Bắc Kạn, Phía Tây với Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, Phía Đông với Lạng Sơn, Bắc Giang, Phía Nam với thủ đô Hà Nội. Với vị trí địa lý là một trong những trung tâm chính trị kinh tế của Việt Bắc nói riêng và của vùng trung du miền núi vùng Đông Bắc nói chung. Thái Nguyên là của ngõ giao lưu kinh tế xã hội giữa các vùng đồng bằng Bắc bộ. Sự giao thông đó được thực hiện thông qua hệ thống đường bộ đường sắt, đường sông hình rẻ quạt mà TỉnhThái Nguyên là đầu nút. Khí hậu Thái Nguyên là khí hậu của vùng nhiệt đới gió mùa với lượng mưa khá lớn, trung bình từ 2000 đến 2500 mm tổng lượng mưa tự nhiên Tỉnh Thái Nguyên dự tính trên 6,4 tỷ m3/năm tuy nhiên lượng mưa phân bố không đều theo thời gian và theo không gian. Tài nguyên thiên nhiên của Tỉnh khá phong phú nhất là tài nguyên khoáng sản, phong phú cả về chủng loại trong đó có nhiều khoáng sản có ý nghĩa với cả vùng và cả nước như sắt, than ( Đặc biệt là than mỡ ) điều này tạo cho Thái Nguyên một lợi thế so sánh trong việc phát triển các ngành công nghiệp luyện kim khai khoáng, Để trở thành một trong những trung tâm công nghiệp luyện kim lớn của cả nước trong giai đoạn trước mắt và kể cả lâu dài. Tài nguyên du lịch Thái Nguyên có Hồ Núi Cốc với diện tích 25 km2 trong lòng hồ và rất nhiều đảo lớn nhỏ là tiềm năng du lịch lớn nhất của Tỉnh. Ngoài ra Thái Nguyên cũng có lợi thế về thị trường và khả năng hợp tác kinh tế đối ngoại. Vì nằm ở trung tâm Việt bắc, Thái Nguyên có một vị trị đặc biệt quan trọng là đầu mối giao thông nối liền các Tỉnh trong khu vực miền núi Đông Bắc với đồng bằng sông Hồng với các Tỉnh phía nam là lá chắn của thủ đô Hà Nội về phía Bắc, là hậu phương trực tiếp của các Tỉnh biên giới. Về mặt kinh tế Thái Nguyên cũng có một vị trí quan trọng trong vùng cũng như trong cả nước. Về nông lâm ngư nghiệp Thái Nguyên có tổng quỹ đất phục vụ cho nông lâm nghiệp là khoảng 146745 ha. Điều kiện thuỷ văn khí hậu và đất đai phù hợp cho sự phát triển của nhiều loại cây công nghiệp dài ngày như chè, các cây ăn quả. Sản xuất nông lâm nghiệp trong những năm gần đây có sự tiến bộ đáng kể. Tốc độ phát triển bình quân là 4,8%. Điểm đáng chú ý ở đây là ngành trồng trọt có sự phát triển mạnh cả về diện tích lẫn sản lượng đặc biệt là cây chè và các loại cây ăn quả khác. Các ngành khác trong nông lâm nghiệp như chăn nuôi trồng chăm sóc và tái sinh rừng cũng phát triển đáng kể. Đối với công nghiệp : Công nghiệp Thái Nguyên chủ yếu phát triển mạnh ở các ngành khai khoáng công nghiệp sản xuất kim loại máy móc thiết bị, quặng phi kim loại. Công nghiệp Thái Nguyên ngoài lợi thế về khoáng sản tài nguyên thiên nhiên còn có lợi thế về cơ sở hạ tầng nguồn nhân lực. Giá trị sản xuất trên địa bàn Tỉnh năm 1999 ( Tính theo giá cố định năm 1994 ) là 623. 866 triệu đồng. Một số sản phẩm chủ yếu đạt khá như than sạch 402000 tấn, thiếc thỏi 1026 nghìn tấn, thép cán kéo là 238000 tấn. Nhiều sản phẩm hàng hóa hình thành và được thị trường chấp nhận như giấy, hàng may mặc, đồ uống, vật liệu xây dựng. Sự phát triển công nghiệp Thái Nguyên trong thời gian qua đã biết dựa vào các tiềm năng sẵn có của Tỉnh như tài nguyên khoáng sản, lao động. Đã khắc phục được tình trạng manh mún tản mạn của công nghiệp thời bao cấp trình độ quản lý của các doanh nghiệp được nâng lên rõ rệt. Một số xí nghiệp đã tích cực ứng dụng công nghệ mới thực hiện đa dạng hóa sản phẩm. Tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại như tính ổn định đầu ra của các sản phẩm chưa cao công nghệ còn lạc hậu hiệu quả sản xuất thấp. Đối với ngành dịch vụ : Tình hình chung của ngành dịch vụ trên địa bàn có nhiều khả năng phát triển, nhận định trên là do tiềm năng trong ngành của Tỉnh còn rất lớn. Đó là hệ thống giao thông trong Tỉnh phân bố tương đối hợp lý có quốc lộ 3 nối giữa thủ đô Hà Nội và Thái Nguyên với các Tỉnh miền núi phía Bắc, phần lớn các đường Tỉnh lộ đều xuất phát từ trục dọc quốc lộ 3 toả đi các trung tâm huyện lỵ các khu kinh tế vùng mỏ các khu du lịch và thông với các Tỉnh lân cận. Có mạng lưới điện tương đối hoàn chỉnh cho đến nay toàn Tỉnh đã có 122/145 xã có điện lưới quốc gia. Bên cạnh đó ngành bưu chính viễn thông của Thái Nguyên cũng phát triển khá nhanh trung bình có khoảng 1,8 máy điện thoại /100 dân. Du lịch Thái Nguyên có nhiều tiềm năng để phát triển như Hồ Núi Cốc, Hang Phượng Hoàng, các khu di tích lịch sử ATK, có thị trường hơn 1 triệu dân trong Tỉnh cũng như là trung tâm giao lưu của nhiều Tỉnh khác trong khu vực đổ về. II Hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Thái Nguyên: 1. Sự ra đời của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. a. Vài nét sơ bộ về tình hình phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. Quá trình phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều diễn ra theo nhiều giai đoạn với những đặc điểm khác nhau, Thời kỳ khôi phục kinh tế trước năm 1960. Việt nam thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần nhưng số doanh nghiệp lúc bấy giờ còn rất ít chủ yếu là các cơ sở tiểu thủ công nghiệp. Từ đầu những năm 1960 đến những năm 1986 hình thức doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là doanh nghiệp Nhà Nước các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp và hộ kinh tế cá thể. Trong đó chỉ các doanh nghiệp Nhà Nước và hợp tác xã được khuyến khích phát triển Sau khi thống nhất nước nhà (Năm 1975) riêng trong công nghiệp cả nước có 1913 xí nghiệp quốc doanh và công ty hợp danh. Miền Bắc có 1279 xí nghiệp, Miền nam có 643 xí nghiệp với 520 cán bộ công nhân trong đó phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài ra có hàng chục vạn hộ tiểu thủ công nghiệp với trên 1 triệu lao động. Sau mười năm cải cách xã hội chủ nghĩa đến năm 1985 số xí nghiệp quốc doanh và ông ty hợp danh trong công nghiệp lên tới 3220 xí nghiệp, số hợp tác xã và tổ hợp tác tiểu thủ công nghiệp lên tới 29971, khu vực tư nhân, cá thể chỉ còn 1951 cơ sở. Từ năm 1986 đến nay với các chính sách đổi mới kinh tế các thành phần kinh tế chính thức được thừa nhận và được tồn tại lâu dài. Tiếp đó một loạt văn kiện ra đời : Nghị quyết 16 của Bộ tài chính (1988) Nghị định 27,28,29/HĐBT về kinh tế cá thể, kinh tế hợp tác và hộ gia đình. Nghị đinh 66/HĐBT về nhóm kinh doanh dưới vốn pháp định và các Luật: Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty, Luật hợp tác xã, Luật doanh nghiệp Nhà Nước, Luật kuyến khích đầu tư trong nước và gần đây là Luật doanh nghiệp đã tạo cơ sở pháp lý và khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần phát triển sản xuất kinh doanh và các doanh nghiệp vừa và nhỏ thực sự được quan tâm và khuyến khích phát triển. Hơn mười năm qua khu vực kinh tế tư nhân tăng nhanh về số lượng vốn kinh doanh, lao động. Kinh tế tư nhân phát triển rộng khắp trong các ngành nghề mà pháp luật không cấm, Số cơ sở nhiều nhất là trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ xây dựng, tiếp đến là công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển rộng khắp trong cả nước nhưng tập trung cao ở các đô thị những đại phương có nhiều điều kiện thuận lợi được quan tâm khuyến khích phát triển hỗ trợ. Khu vực kinh tế tư nhân so với bộ phân doanh nghiệp và công ty kinh doanh cá thể có số lượng đông đảo và lớn hơn về sử dụng lao động xã hội, huy động vốn đầu tư góp phần vào GDP và nộp ngân sách Nhà Nước làm tiền đề cho phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ tư nhân tổ hợp tác và hợp tác xã. Các doanh nghiệp công ty tư nhân mới được hình thành từ khoảng 10 năm gần đây có tốc độ tăng trưởng rất nhanh về số lượng doanh nghiệp, vốn kinh doanh và lao động góp phần sản xuất hàng hoá có chất lượng tham gia xuất khẩu nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Số lượng đơn vị sản xuất kinh doanh trong khu vực kinh tế tư nhân nói chung tăng lên, trong đó số hộ kinh doanh cá thể tăng chậm số doanh nghiệp tăng nhanh hơn. Trong cơ cấu các hình thức tổ chức kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhiều nhất là số doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn còn các công ty cổ phần chiếm tỷ trọng nhỏ, công ty hợp danh chiếm tỷ trọng không đáng kể. Số doanh nghiệp vừa và nhỏ đăng ký kinh doanh và số thực tế hoạt động tăng rất nhanh nhất là từ sau khi thực hiện Luật doanh nghiệp. Tập trung cao nhất trong các lĩnh vực là thương mại, dịch vụ tiếp đến là công nghiệp sau đó đến các ngành nghế khác. Nhiều nhất là các doanh nghiệp tư nhân, tiếp đến là các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần. Số doanh nghiệp đăng ký trong năm 1996 là 5522 doanh nghiệp trong năm 2000 là 14438 doanh nghiệp. Gấp 2,6 lần so với năm 1996. Số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh tăng nhanh sau khi thực hiện Luật doanh nghiệp. Chỉ tính riêng số doanh nghiệp đăng ký từ đầu năm 2000 đến tháng 9 năm 2001 đã được 24384 doanh nghiệp. Nhiều hơn cả số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh 5 năm trước đó cộng lại. Tính đến 30/9/2001 cả nước có 66780 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh trong đó doanh nghiệp tư nhân chiếm tỷ trọng lớn nhất 58,76% công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm 38,68% công ty cổ phần chiếm 2,5% công ty hợp danh chiếm tỷ trọng không đáng kể 0,03%. b. Tình hình doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Thái Nguyên. Cùngvới xu hướng phát triển chung của cả nước, Thái Nguyên với những điều kiện thuận lợi vốn có đã tạo ra cơ sở cho việc phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Số hộ kinh doanh công thương ngày càng tăng 7000 hộ ( 1997), lên tới 10174 hộ ( 2000) và trong 6 tháng đầu năm 2001 là 10050 hộ. Số vốn đăng ký kinh doanh và lao động của các hộ kinh doanh cũng tăng nhanh. Năm 1997 vốn đăng ký là 50 tỷ đồng thu hút 28080 lao động. Đến tháng 6 năm 2001 vốn đăng ký đã là 130 tỷ đồng tăng 260 %. Lao động thu hút được 39780 người tăng 141,6 %. Số doanh nghiệp tư nhân đến nay của toàn Tỉnh có 338 doanh nghiệp (Gồm 11 công ty cổ phần, 66 công ty trách nhiệm hữu hạn, 261 doanh nghiệp tư nhân) Vốn đăng ký là 224 tỷ đồng. Về tình hình phát triển của doanh nghiệp tư nhân từ năm 1997 đến tháng 6 năm 2001 chia làm hai thời kỳ phát triển chính : Giai đoạn năm 1997 đến 1999 : Là thời kỳ mà các doanh nghiệp tư nhân giảm mạnh về số lượng, Nhiều doanh nghiệp thua lỗ phải giải thể chuyển đổi hình thức kinh doanh. Cụ thể giảm từ 162 doanh nghiệp năm 1997 xuống còn 148 doanh nghiệp năm 1999. Số doanh nghiệp được thành lập mới trong 3 năm là 37, giải thể 55 doanh nghiệp. Vốn trong thời kỳ này cũng tăng không đáng kể. Giai đoạn năm 2000 đến tháng 6 năm 2001 : Đây là thời kỳ Luật doanh nghiệp có hiệu lực. Số cơ sở kinh doanh nói chung, doanh nghiệp tư nhân nói riêng tăng nhanh, quy mô của các doanh nghiệp cũng tăng đáng kể. Thời kỳ này thành lập mới 190 doanh nghiệp, hàng trăm doanh nghiệp đăng ký bổ xung._.tiếp huy động vốn. - Cho phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ được phép thanh toán và sử dụng các phương tiện thanh toán như thư tín dụng, séc ngoại tệ dễ chuyển đổi để thanh toán trong nước và quốc tế. - Hiện nay ngành công nghiệp khai thác và chế biến chè – một đặc sản ở Thái Nguyên đang rất phát triển nhưng do thiếu vốn mà việc khai thác chưa tương xứng với tiềm năng. Do vậy các ngân hành Nông nghiệp nên hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất và chế biến chè tỉnhm như cho các doanh nghiệp này vay đinh mức vốn là 200 triệu VNĐ trong vòng 5 năm đầu với lãi suất không đáng kể để các doanh nghiệp này hoạt động có hiệu quả hơn. -Nên thành lập trung tâm thẩm định tài sản thế chấp tại tỉnh để thực hiện công việc thẩm định tài sản thế chấp của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhanh hơn hiệu quả hơn tránh tình trạng thẩm định ở nhiều cấp dẫn đến chậm chễ trong vay vốn làm mất đi các cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp. - Ưu đãi lãi suất: Lãi suất vay hiện nay là khá cao đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, do số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế khá lớn mà nguồn tài chính để hỗ trợ thì có hạn, nên khó có thể ưu đãi được tất cả các doanh nghiệp này. Do vậy, trong chính sách ưu đãi vốn cần chọn đúng đối tượng với nguồn lực ít thì mới có thể hỗ trợ hiệu quả. Chỉ nên ưu đãi lãi suất cho các doanh nghiệp có triển vọng kinh doanh hiệu quả, các doanh nghiệp gắn với nhiệm vụ chiến lược và hộ trợ cho các hoạt động đầu tư vào công nghệ mới, sản xuất thử, nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ mới, đào tạo nghề, các hoạt động dịch vụ tư vấn...tuy nhiên để hỗ trợ được nhiều doanh nghiệp trong điều kiện tài chính có hạn cần có những giải pháp đặc biệt, một trong những giải pháp đó là trợ cấp lãi suất cho đối tượng được hỗ trợ, tức là bù chênh lệch giữa lãi suất thị trường và lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay. - Thành lập các quỹ hỗ trợ: Cần huy động các nguồn vốn để thành lập quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đối với các địa phương như Tỉnh Thái Nguyên thì các nguồn vốn có thể là: Từ ngân sách Tỉnh từ các doanh nghiệp lớn, từ các tổ chức trong và ngoài nước. Quỹ này có thể do nhà nước quản lý và cũng có thể thuê một trung tâm chuyên trách quản lý. Quỹ này hỗ trợ cho các hoạt động như đào tạo chủ doanh nghiệp, đào tạo nghề, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ cho các trung tâm tư vấn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hoạt động về cung cấp thông tin kinh tế, khoa học công nghệ...cần thiết cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Thành lập trung tâm bảo lãnh: Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ một trong những khó khăn nhất là không có tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng. Do đó rất cần các tổ chức trung gian làm cầu nối giữa doanh nghiệp và ngân hàng để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn. Một trong các hình thức đó là quỹ bảo lãnh tín dụng. Quỹ này vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn, vừa là hình thức ràng buộc chặt chẽ giữa người vay vốn (doanh nghiệp), người cho vay (ngân hàng), tổ chức trung gian (các công ty bảo lãnh) là Nhà nước, nhờ đó mà giảm bớt được mức độ rủi ro khi vay vốn. 4. Đổi mới chính sách thuế. * Hệ thống thuế chung đổi mới theo hướng : - Đơn giản hoá hệ thống thuế suất, hạ mức thuế suất - Tránh đánh thuế chồng chéo - Cải cách cơ chế thu nộp, kiểm tra thuế theo hướng có sự độc lập giữa các bộ phận này, có thể kiểm tra lẫn nhau - Thực hiện cơ chế tự khai báo mức thuế, Nhà Nước kiểm định và doanh nghiệp tự nộp thuế. - Bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế đồng thời ưu tiên các doanh nghiệp trong nước hơn các doanh nghiệp nước ngoài Hiện nay đang có tình trạng trái ngược nhau : Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có nhiều ưu thế hơn mạnh hơn thì chỉ nộp thuế lợi tức 10- 15%. trong khi đó các doanh nghiệp trong nước phải nộp thuế lợi tức tới 35-50%. - Thực hiện các cam kết cắt giảm thuế đối với hàng hoá khi Việt nam ra nhập APTA Các cam kết thực hiện APTA của Việt nam I. thuế quan * Đối với hàng hoá thuộc danh mục loại trừ ngay : Mức thuế quan giảm xuống còn từ 0% -5%. Quá trình cắt giảm được thực hiện theo hai lộ trình : 1. Lộ trình cắt giảm bình thường : Thực hiện chủ yếu đối với các sản phẩm như máy móc thiết bị, sắt thép... - Mức thuế suất cao hơn 20 % phaải giảm xuống còn 20% vào 1-2003 và tiếp tục giảm xuống còn 0 đến 5% vào 1-2006 - Mức thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% phải giảm xuống còn 0-5% vào 1-2003 2. Lộ trình cắt giảm nhanh : bao gồm 15 nhóm sản phẩm như dầu thực vật, hoá phẩm ,phân bón, cao su, bột giấy và giấy gỗ... - Mức thuế suất cao hơn 20 % phải được giảm xuống 0-5% vào 1-2003 - Mức thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% phải đựoc giảm xuống 0 –5% vào 1-2001 * Đối với hàng hoá thuộc danh mục loại trừ tạm thời : - Cắt giảm dần 20% / Năm và chuyển sang danh mục loại trừ ngay - Giảm mức thuế xuống còn 0-5% * Đối với danh mục nhạy cảm : Giảm thuế xuống còn 0-5% * Đối với các hạng mục hàng hoá ( Trừ hàng hoá thuộc danh mục loại trừ hoàn toàn ) : Mức thuế suất giảm xuống còn 0%, riêng một số hạng mục hàng hoá nhạy cảm có thể giảm xuống 0% vào năm 2018 * Đối với các hàng hoá thuộc Khuôn khổ hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO) ; Giảm mức thuế xuống còn 0-5% * Đối với các sản phẩm công nghệ thông tin truyền thông ; giảm xuống 0% 1996-2006 2001-2006 2003 2003 2001 1999-2003 1999-2006 2004-2013 2015 2003-2008 II. Phi thuế quan * Đối với hàng hoá thuộc danh mục loại trừ ngay và danh mục nhạy cảm : Tất cả các hàng rào phi thuế quan sau đây phải được dỡ bỏ ; - Các hạn chế định lượng ( Quota, giấy phép, việc cấm xuất nhập khẩu) - Các hạn chế ngoại hối liên quan đến chi trả hàng hoá - Các khoản phụ thu hải quan dưới thuế - Các hàng rào phi thuế quan khác * Đối với hàng hoá công nghệ thông tin, truyền thông : tất cả các hàng rào phi thuế quan phải được dỡ bỏ 1996-2006 1996-2003 1996 1996-1999 1996-2006 2003-2008 * Chính sách thuế đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ cần đổi mới theo hướng mở rộng đối tượng được ưu đãi thuế, tăng mức độ ưu đãi. - Mở rộng đối tượng được ưu đãi : Đến nay trong các chính sách thuế của Nhà Nước, loại đối tượng được được ưu đãi về thuế không nhiều chỉ có các doanh nghiệp được thành lập sau năm 1993 ( mà phần lớn đã qua 2 năm được ưu đãi như luật định ) Các doanh nghiệp ở vùng núi như số doanh nghiệp trong ngành chế biến nông sản. Như vậy trong chính sách ưu đãi thuế chưa quan tâm đến sự yếu ớt của các doanh nghiệp vừa và nhỏ để hỗ trợ các doanh nghiệp này đứng vững và kinh doanh có hiệu quả. Do đó trong chính sách ưu đãi thuế cần mở rộng đối tượng hơn nữa vì có như vậy mới nuôi dưỡng được nguồn thu đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tích luỹ để phát triển sản xuất mở rộng quy mô. - Hiện nay thuế VAT đang tồn tại ở 4 mức thuế là 0%, 5%, 10%, và 20%, trừ một số loại hàng hoá như rượu bia, thuốc là và hàng xa xỉ phẩm còn lại tất cả các hàng hoá khác của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chính quyền Tỉnh Thái Nguyên nên đánh thuế ở đồng mức là 5 % để tiến tới hội nhập APTA . Vì các doanh nghiệp đang xin giảm thuế từ 20% xuống còn 10%, từ 10% xuống còn 5%, trong điều kiện quản lý doanh thu sát với doanh thu thực tế thì việc thuế suất 5% áp dụng với các doanh nghiệp sé giảm bớt được sự kêu ca suy tị và gian lận trong kê khai nộp thuế. Đồng thời việc đưa về chung một thuế suất 5% sẽ bãi bỏ hết những quy định về miễn giảm thuế ,điều này làm cho chính sách thuế đơn giản hơn hạn chế được việc lợi dụng để trốn thuế và tiêu cực trong qủan lý thu nộp thuế . Mặt khác tạo điều kiện để thực hiện đúng nguyên tắc có thu mới có khấu trừ thuế, không khấu trừ khống, mua hàng hoá có hoá đơn mới được khấu trừ thuế đầu vào . Từ đó khuyến khích sử dụng hoá đơn và tạo điều kiện quản lý thu sát thực tế hơn. - Thực hiện việc thu thuế tại cục thuế của Tỉnh nhằm tránh các hiện tượng hạch sách và gây khó khăn cho các doanh nghiệp vì các cán bộ của chi cục thuế nắm vững được chế độ chính sách, quyết đoán nhanh tránh sự kiểm tra thanh tra thuế từ nhiều cấp như chi cục và phường . Hơn nữa việc thu thuế tại chi cục vừa gần vừa thuận lợi lại có độ tin tưởng cao . - Nên ưu đãi thuế thấp ở mức 5% cho các mặt hàng xuất khẩu thế mạnh của Tỉnh như chè, khai khoáng, sắt thép . -Nên trợ cước cho vận chuyển hàng hoá lên vùng cao và miễn tiền thuê đất trong vòng 6 năm, giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp xuống còn 25% cho các doanh nghiệp kinh doanh ở vùng núi và các doanh nghiệp mới thành lập nhưng làm ăn có hiệu quả . - Hiện nay tại Thái Nguyên được biết việc đánh mặt hàng chè chế biến tỉnhm lại cao hơn các Tỉnh khác lân cận như Bắc Giang, Phú Thọ nên các doanh nghiệp tại Thái Nguyên thường vận tải chè nguyên liệu sang các Tỉnh khác để chế biến tỉnh . Điều đó đã làm giảm khả năng tạo việc làm cho cho người lao động trong Tỉnh mặt khác lại làm thất thu một khoản từ thu thuế chè tỉnhm . Do vậy cơ quan chính quyền tại Thái Nguyên nên giảm mức thu thuế đối với mặt hàng này nhằm vừa tạo việc làm cho người lao động vừa tăng nguồn thu cho ngân sách của Tỉnh - Tăng mức độ ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thời gian qua mức ưu đãi đã tăng lên nhưng vẫn còn chậm, chỉ miền giảm thuế cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong 1 đến 2 năm trong khi đó ở các nước khác là 4-5 năm. Hơn nữa mức giảm thuế còn thấp số đồi tượng được miễn thuế còn ít. Do đó để các doanh nghiệp có tích luỹ ban đầu cho phát triển sản xuất đứng vững được thì cần thiết phải tăng mức ưu đãi thuế lên 3 đến 5 năm. Miễn thuế cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư công nghệ hiện đại, công nghệ sạch, Miễn thuế cho các khâu như chi phí đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp cũng như đầu tư cho sản xuất sản phẩm mới. - Có hình thức và mức độ ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp thu hút nhiều lao động, huy động nhiều vốn. Hiện này đang có tình trạng, doanh nghiệp càng huy động thì mức thuế càng cao. Như vậy sẽ không khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng quy mô. Các nước đang phát triển đều có chính sách để mở rộng quy mô doanh nghiệp, vì quy mô quá nhỏ sẽ không có hiệu quả. 5. Đào tạo trình độ lao động trong các doanh nghiệp. Như đã trình bày, hiện nay trình độ đội ngũ lao động làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở TỉnhThái Nguyên khá thấp. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng sản phẩm và tính cạnh tranh của các doanh nghiệp. Để khắc phục tình trạng trên, Thái Nguyên cần phải có những giải pháp mang tính hệ thống và đồng bộ nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp. - Ngoài các tổ chức, các trung tâm dạy nghề các cơ sở đào tạo hiện có, cần sớm đào tạo dành riêng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đồng thời đầy mạnh hoạt động của các trung tâm hiện có. Thông qua các tổ chức đào tạo dành riêng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tỉnh có thể thực hiện sự tài trợ về tài chính cho việc đào tạo, tài trợ đội ngũ cán bộ giảng dạy và các chương trình giảng dạy. - Thường xuyên bồi dưỡng các kiến thức quản trị, kiến thức kinh tế thị trường cho đội ngũ các chủ doanh nghiệp. Tiến hành đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản trị đã có, cung cấp cho họ những thông tin, những kiến thức mới, những phương thức quản trị tiên tiến, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. - Thực hiện các khuyến khích về vật chất trong lao động sản xuất, chẳng hạn áp dụng mức thưởng bằng 1/3 tháng lương cho các công nhân có sáng kiến trong công việc làm tăng năng suất lao động . - Thành lập trung tâm tư vấn về quản trị kinh doanh thuộc Sở Kế Hoạch Đầu Tư nhằm tư vấn cho các doanh nghiệp những chính sách của Nhà Nước trong tương lai và xu hướng phát triển của nền kinh tế - Kết hợp với các trường đại học trên địa bàn như đại học Công Nghiệp, đại học Nông Nghiệp, Trường dạy nghề cơ điện để tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng chủ doanh nghiệp, tiến đến chỉ cấp giấy phép hoạt động cho các cơ sở có chủ doanh nghiệp đã được đào tạo. - Hiện nay việc đào tạo cho các chủ doanh nghiệp chưa đạt hiệu quả cao do việc tiếp thu của các chủ doanh nghiệp còn hạn chế và họ tham gia chỉ nhằm mục đích lấy chứng chỉ do vậy trong thời gian tới việc đào tạo phải theo hướng coi trọng vào chất lượng đào tạo . Để thực hiện được điều này thì trong khoá học phải cung cấp đầy đủ tài liệu và số lượng đào tạo mỗi lần nên ít đi để có hiệu quả hơn . - Đối với các nghệ nhân, lao động có kỹ thuật cao trong các nghề truyền thống như: Đúc gang, thép, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến lâm sản cần có chính sách để họ đóng góp phát triển các ngành nghề, mặt khác dạy nghề và truyền nghề cho lớp công nhân trẻ. - Thành lập các trung tâm tư vấn về quản trị kinh doanh với đối tượng chủ yếu và các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ. - Xem xét lại các chương trình đào tạo hiện có, đồng thời tăng cường các mối liên hệ, hợp tác trao đổi giữa các cơ sở đào tạo và các doanh nghiệp trong việc xây dựng chương trình, mục tiêu đào tạo để nâng cao chất lượng của công tác đào tạo và phục vụ có hiệu quả hơn, trực tiếp hơn cho các doanh nghiệp. - Tỉnh nên dành một nguồn ngân sách cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ để nâng cao trình độ lao động . Nguồn ngân sách này có thế có từ việc giảm thuế thu nhập cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ từ 35-40% xuống còn 25% để các doanh nghiệp này tái đầu tư cho nguồn nhân lực 6. Cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang rất thiếu thông tin về thị trường, công nghệ, luật pháp, kinh tế, khách hàng, đối tác kinh doanh...do đó cần thiết phải hỗ trợ thông tin cho các doanh nghiệp. Các giải pháp hỗ trợ thông tin có thể là : - Thành lập các ngân hàng dữ liệu về các doanh nghiệp vừa và nhỏ, về thị trường, công nghệ, thể chế... để cung cấp hoặc bán cho các doanh nghiệp với giá hợp lý. - Phổ biến những thông tin về pháp luật, chính sách... thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. - Phổ biến kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh bằng nhiều hình thức. - Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia các hội trợ triển lãm ở trong và ngoài nước, ký kết các hợp đồng kinh tế với các đối tác trong và ngoài nước. - Tổ chức các câu lạc bộ để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể trao đổi học tập kinh nghiệm lẫn nhau. - Khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư xây dựng cơ sở dữ liệu và sử sụng các phương tiện quản lý thông tin hiện đại như máy vi tính, mạng thông tin...để các doanh nghiệp có điều kiện tiếp xúc với các cơ sở dừ liệu hiện đại trong và ngoài nước 7. Xúc tiến xuất khẩu. -Nhà Nước khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng cường xuất khẩutạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ liên kết hợp tác với nước ngoài, mở rộng thị trường xuât khẩu hàng hoá và dịch vụ. Thông qua chương trình trợ giúp xúc tiến xuất khẩu, trợ giúp một phần chi phí cho doanh nghiệp vừa và nhỏ khảo sát học tập trao đổi hợp tác và tham dự hội trợ triển lãm giới thiệu sản phẩm tìm hiểu thị trường ở nước ngoài . Chi phí trợ giúp được bố trí trong trong Quỹ hỗ trợ xuất khẩu . 8. Thị trường và tăng khả năng cạnh tranh . Uỷ ban nhân dân tỉnh, tỉnh tạo điều kiện để doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng tiếp cận các thông tin thị trường, giá cả hàng hoá, trợ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm . - Trợ giúp việc trưng bày, giới thiệu quảng cáo, tiếp thị các sản phẩm có tiềm năng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ để tạo điều kiện mở rộng thị trường . - Chính phủ tạo điều kiện để các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia cung ứng hàng hoá và dịch vụ theo kế hoạch mua sắm bằng nguồn ngân sách Nhà Nước, các Bộ, ngành và địa phương có kế hoạch ưu tiên đặt hàng và các đơn hàng theo hạn ngạch phân bổ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất hàng hoá và dịch vụ bảo đảm chất lượng và đáp ứng yêu cầu - Chính phủ khuyến khích phát triển hình thức thầu phụ công nghiệp tăng cường sự liên kết giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ với các doanh nghiệp khác về hợp tác sản xuất sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ . - Thông qua chương trình trợ giúp, Chính phủ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đổi mới công nghệ, trang thiết bị máy móc, phát triển sản phẩm mới hiện đại hoá quản lý nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường III. Thành lập các trung tâm hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 1. Thành lập cục phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ Thành lập cục phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ và vừa trực thuộc Bộ kế Hoạch Đầu tư, để giúp Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư thực hiện chức năng quản lý Nhà Nước để xúc tiến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ . a. Cục phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhiệm vụ và quyền hạn chủ yếu sau : - Giúp Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư định hướng công tác xúc tiến doanh nghiệp vừa và nhỏ : xây dựng hoạc tham gia xây dựng chính sách, các văn bản quy phạm pháp luật về xúc tiến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trình cấp có thẩm quyền ban hành tổng hợp xây dựng các chương trình trợ giúp lập danh mục các đối tượng doanh nghiệp vừa và nhỏ cụ thể theo ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn hoạt động, nội dung trợ giúp, điều phối, hướng dẫn và kiểm tra thực hiện các chương trình trợ giúp sau khi được phê duyệt - Tổ chức tập huấn nhằm nâng cao năng lực cho cán bộ các tổ chức trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ và bồi dưỡng kỹ năng tác nghiệp trong việc xúc tiến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ - Thực hiện hợp tác quốc tế về xúc tiến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua cân đối nguồn lực và kêu gọi nguồn vốn từ bên ngoài để trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ . - Phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan để cung cấp các thông tin cần thiết cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ . - Phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan xúc tiến trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc tư vấn kỹ thuật và tiếp cận công nghệ, trang thiết bị mới, hướng dẫn đào tạo vận hành quản lý kỹ thuật và quản lý doanh nghiệp - Định kỳ 6 tháng một lần tổng hợp báo cáo về sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ và các vấn đề cần giải quyết để Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Chính phủ - Làm nhiệm vụ thư ký thường trực của Hội đồng khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ . - Thực hiện các hoạt động quản lý Nhà Nước khác về xúc tiến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch đầu tư giao. b. Cơ cấu tổ chức và quy chế hoạt động của Cục phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ : - Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của Cục phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ . Biên chế và kinh phí hoạt động của Cục phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư quyết định sau khi thoả thuận với Bộ trưởng, trưởng ban tổ chức – Cán bộ Chính phủ và Bộ trưởng Bộ tài chính trên tinh thần sử dụng nhân sự trong quá trình sắp xếp tổ chức của Bộ kế hoạch và đầu tư để bố trí bộ máy của Cục gọn nhẹ, hiệu quả và đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh hoạt động xúc tiến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tình hình mới . - Kinh phí hoạt động của Cục phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ do ngân sách Nhà Nước cấp được tổng hợp trong dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư . 2. Thành lập hội đồng khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ . a. Thành lập hội đồng khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ Làm nhiệm vụ tư vấn cho thủ tướng Chính phủ về cơ chế chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ . Các thành viên của hội đồng hoạt động kiêm nhiệm . Thủ tướng Chính phủ quyết định chức năng nhiệm vụ và số thành viên Hội đồng theo đề nghị của chủ tịch Hội đồng . b. Thành phần của Hội đồng khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ bao gồm - Chủ tịch hội đồng khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ vừa là Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư . - Thư ký thường trực của Hội đồng : Cục trưởng cục phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ . - Đại diện các Bộ Kế hoạch và Đầu tư ,Công nghệ, Tài chính, Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Công nghệ và môi trường, Giáo dục và đào tạo, Tư pháp ... - Đại diện phòng thương mại và công nghiệp Việt nam, Hội đồng trung ương liên minh các hợp tác xã, một số hiệp hội các doanh nghiệp . - Một số chuyên gia thuộc các lĩnh vực kinh tế, khoa học công nghệ và đào tạo c. quy chế làm việc của hội đồng do chủ tịch hội đồng quyết định . d. Kinh phí hoạt động của Hội đồng được tổng hợp trong kinh phí của Cục phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ 3. Thành lập trung tâm hỗ trợ kỹ thuật doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bộ Kế hoạch và Đầu tư thành lập trung tâm hỗ trợ kỹ thuật doanh nghiệp vừa và nhỏ ( Thuộc cục phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ) tại tỉnh Hà Nội . Hồ Chí Minh và Đà Nẵng . Trung tâm hỗ trợ kỹ thuật doanh nghiệp vừa và nhỏ là đơn vị sự nghiệp có thu có chức năng tư vấn cho Cục phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ và là đầu mối tư vấn về công nghệ và kỹ thuật cải tiến trang thiết bị hướng dẫn quản lý kỹ thuật ,bảo dưỡng trang thiết bị tạo điều kiện tiếp cận công nghệ mới cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ . Bộ Kế hoạch và Đầu tư lập đề án tổ chức và ban hành Quy chế hoạt động của các trung tâm này, sau khi thoả thuận với ban tổ chức, cán bộ Chính phủ và các cơ quan liên quan Hiện nay ở tỉnh Thái Nguyên cần thiết phải hình thành một trung tâm tư vấn hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung và các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ nói riêng với chức năng sau: - Hỗ trợ đào tạo các nhà quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ phấn đấu để các chủ doanh nghiệp khởi sự kinh doanh trên địa bàn Tỉnh Thái Nguyên đều có những kiến thức cần thiết về kinh doanh. Trung tâm có thể đặt quan hệ với các trường đại học ở địa phương, với các tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài trong việc đào tạo nhân sự cho các doanh nghiệp. - Chức năng thứ hai của trung tâm là tư vấn cho các chủ doanh nghiệp về các vấn đề như: lập dự án đầu tư, quảng cáo, kế toán, thực hiện dịch vụ cung cấp thông tin thị trường, nghiên cứu, xuất bản các sách báo nhằm nâng cao kiến thức về kinh doanh. - Làm trung gian giữa các doanh nghiệp trong và ngoài Tỉnh kể cả đối tác nước ngoài. Trung tâm có thể thực hiện việc đàm phán, giao dịch với các bạn hàng nước ngoài, các tổ chức phi Chính phủ, tổ chức triển lãm, giới thiệu sản phẩm, thông qua đó các chủ doanh nghiệp có thể tìm kiếm các đối tác đầu tư, tìm kiếm thị trường và các nguồn tài trợ từ bên ngoài để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cùng với quá trình phát triển các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ, trong một tương lai không xa hiệp hội các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Tỉnh Thái Nguyên cũng cần được thành lập. Hiệp hội sẽ cung cấp các dịch vụ cho các doanh nghiệp giải quyết các thủ tục hành chính, là chiếc cầu nối giữa các doanh nghiệp và các cơ quan quản lý Nhà nước giải quyết các vấn đề thủ tục. Hiệp hội cũng là nơi đứng ra bênh vực quyền lợi của các chủ doanh nghiệp. Trong hiệp hội này các doanh nghiệp có thể tìm thấy sự bảo trợ chính của hiệp hội. 4. Mô hình vườn ươm doanh nghiệp a. Kinh nghiệm của Thổ Nhĩ Kỳ: Bộ phận Incubator ( Vườn ươm ) kinh doanh trong các chương trình hỗ trợ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Thổ Nhĩ Kỳ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong kế họch đang tồn tại. Mặc dù những thử nghiệm trong lĩnh vực này đã có từ năm1986 nhưng những kết quả thành công thì gần đây mới xuất hiện và thông tin trong việc đánh giá những ảnh hưởng của các vườm ươm này còn rất hạn chế . Tuy nhiên sự quan tâm khai thác hình thái vườm ươm như một công cụ trong sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng đang phát triển đặc biệt trong lĩnh vực tạo ra các doanh nghiệp theo hướng công nghệ cạnh tranh . Nỗ lực đầu tiên để thành lập một trung tâm Incubator kinh doanh được thực hiện vào năm 1986 tại usak, một tỉnh kém phát triển trong phần Trung Đông của Thổ Nhĩ Kỳ có tỷ lệ thất nghiệp cao . Nỗ lực này đã không đạt được thành công chủ yếu thiếu vốn phát triển, ví dụ như vốn để yêu cầu để phát triển các dự án nhằm đạt được một kết quả kinh doanh hoàn chỉnh và chi tiết không được dề ra trong dự án và những người thất nghiệp trong khu vực không có đủ vốn ban đầu ví dụ như vốn để thành lập doanh nghiệp . Dự án này phải ngừng hoạt động sau 4 năm . Nỗ lực thư hai (ITAS) được thực hiện vào năm 1987 tại Imir bằng cách thành lập một công ty có 86 cổ đông chủ yếu từ các trường đại học địa phương chính quyền địa phương, phòng thương mại . phòng công nghệp, các công ty lớn và các nhà hảo tâm của địa phương . Mặc dù trường đại học đã cung cấp đất đai và vốn đầu tư ban dầu vào việc xây dựng nhà xưởng nhưng do thiếu vốn hoạt động đã làm cản trở bước tiến xa hơn của công ty này ...Vào cuối năm 1996 phòng công nghiệp của Imir đã thử làm hồi sinh lại ITAS bằng cách kêu gọi các cổ đông quyên góp thêm vốn. Nỗ lực tiếp theo được KOSGEB và hai trường đại học lớn nhất của Thổ Nhĩ Kỳ thực hiện đó là trường đại học kỹ thuật istanbUL và trường đại học kỹ thuật trung đông . 2 trung tâm Incubator này đã được thành lập vào năm 1991 và 1992, vì mối liên kết với các truờng đại học nên các doanh nghiệp trong các Incubator này thường tập trung vào các sản phẩm và quá trình sản xuất công nghệ cao và các trung tâm Incubator đại học hường về công nghệ này đượcgọi là các “ Trung tâm phát triển công nghệ”. Vào cuối năm thứ 3 thứ 4 các Incubator tại Thổ Nhĩ Kỳ đã đạt đựoc một số kết quả thành công. Một công ty trong istanbUL bắt đầu từ một doanh nghiệp sản xuất robot công nghiệp trong bối cảnh thiếu vắng nền công nghệ thương mại tại Thổ Nhĩ Kỳ . Vào năm 1996 công ty này đã nhận được các đơn đặt hàng trị giá 300. 000 đô la . Tại ODTU một công ty đã xuất khẩu đựoc các sản phẩm trị giá trên 500. 000 $ và một công ty khác đã tạo việc làm cho 19 người với chi phí là 1809 $ /nghề . Khi đem so sánh hai trung tâm Incubator của Thổ Nhĩ Kỳ với các trung tâm Incubator đặc trưng, nói chung hai trung tâm nàyphù hợp với các tiêu chí đã nêu ra . Mặc dù các Incubator của Thổ Nhĩ Kỳ vốn đầu tư ban đầu có cao hơn vì bao gồm cả chi phí xây dựng nhà xưởng mới .Vì những khu vực có thểcho thuê doanh nghiệp đã quá đông .Tỷ lệ tăng trưởng vào năm thứ 3 là gần với tiêu chí của loại hình Incubator đặc trưng b . Điều kiện để áp dụng tại Thái Nguyên : Thái Nguyên là một tỉnh công nghiệp trong đó có rất nhiều trung tâm công nghiệp đầu mối của các tỉnh phía Bắc, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi mà Luật doanh nghiệp tư nhân đã đi vào hoạt động có hiệu quả và làm cho việc kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất thông thoáng . Thì đã có rất nhiều mô hình kinh doanh khác nhau nổi lên trong thười gian gần đây . Tuy đã đưọc hưởng rất nhiều sự ưu đãi về moi mặt từ phía Nhà Nước và chính quyền trên địa bàn tỉnh nhưng khi mới bắt đầu kinh doanh, doanh nghiệp còn gặp rất nhiều khó khăn . Điều đó đòi hỏi phải có những chính sách và biện pháp riêng cho các doanh nghiệp này. Sau khi nghiên cứu mô hình kinh tế vườn ươm doanh nghiệp và học hỏi kinh nghiệp từ Thổ Nhĩ Kỳ chính quyền trên địa bàn tỉnh nên áp dung tại Thái Nguyên những điều kiện để thực hiện mô hình này.Xây dựng một vườn ươm doanh nghiệp tại khu công nghiệp Sông Kông, một nơi mà các điều kiện để hỗ trợ kinh doanh tương đối thuận lợi Chính quyền nên có những biện pháp như xây dựng các khu công nghiệp trong đó có các điều kiện thuận lợi để đưa các doanh nghiệp mới bắt đầu hoạt động vào trong đó, có chính sách giảm thuế ở mức 5% đối với các doanh nghiệp , xây dựng hệ thống điện, nước riêng cho vườn ươm, chú ý tới các điều kiện sinh hoạt của công nhân các doanh nghiệp trong mô hình vườn ươm . Ưu đãi lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp. Bên cạnh đó chính quyền cũng nên tìm kiếm thị trường sản phẩm cho doanh nghiệp như tìm kiếm các hợp đồng về mua bán sản phẩm của tỉnh cho các doanh nghiệp do trong thời gian mới kinh doanh doanh nghiệp chưa có nhiều thị trường sản phẩm. Sau khi doanh nghiệp đã bắt đầu làm ăn có hiệu quả, doanh thu lợi nhuân đều tăng lên và đã có thể tìm kiếm thị trường cho riêng mình và đứng vững trên thị trường cạnh tranh thì chính quyền mới thu phí và đưa doanh nghiệp này ra khỏi vườn ươm và thôi không hỗ trợ nữa Trên đây là một số giải pháp chủ yếu để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở Tỉnh Thái Nguyên hiện nay. Những giải pháp trên có liên quan chặt chẽ với nhau, do vậy trong quá trình thực hiện cần chú ý đến tính đồng bộ của nó. Tách rời các biện pháp hoặc chỉ thực hiện một cách cục bộ khó có thể đem lại những hiệu quả thiết thực, lâu dài. Kết luận và một số kiến nghị cá nhân Đất nước ta đang trên con đường công nghiệp hoá hiện đai hoá, để thực hiện tốt nhiệm vụ đó tất yếu chúng ta phải chú trọng tới việc phát triển kinh tế. Và doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ với những lợi thế của mình đang có vai trò rất quan trọng trong việc đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Tuy nhiên các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã đang gặp rất nhiều những khó khăn trong công việc kinh doanh của mình ,đòi hỏi phải có sự hỗ trợ từ phía Nhà Nước. Trong thời gian qua bằng một loạt các biện pháp và chính sách, Đảng và Nhà Nước đã thể hiện sự quan tâm của mình tới việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ Đặc biệt gần đây chính phủ đã thí điểm xây dựng mô hình cơ quan xúc tiến doanh nghiệp vừa và nhỏ quốc gia và hội đồng xúc tiến khu vực tư nhân tại Thái Nguyên,Hà Nội,Đà Nẵng ,Hồ chí Minh,Tây Ninh. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường đầy biến động như hiện nay việc đưa ra một hệ thống chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp này phát triển là công việc phức tạp đòi hỏi nhiều thời gian công sức và nỗ lực của nhiều ngành nhiều cấp, nhiều tổ chức và nhiều người do vậy trong thời gian tới ,theo ý kiến của cá nhân tôi Đảng và Nhà Nước cần thể hiện sự quan tâm của mình tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ hơn nữa nghiên cứu và hoàn thiện hệ thống chính sách cho phù hợp với giai đoạn hiện nay. Nhân rộng mô hình cơ quan xúc tiến doanh nghiệp vừa và nhỏ quốc gia và hội đồng xúc tiến khu vực tư nhân ra nhiều tỉnh trên cả nước. Với tư cách là một sinh viên và nhất là sinh viên năm cuối, em ý thức được đầy đủ vai trò và trách nhiệm của mình ,vai trò người chủ tương lai của đất nước em tự hứa sẽ ra sức học tập ,nghiên cứu và rèn luyện để có trình độ kiến thức đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước. Mục lục Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29776.doc