lời nói đầu
...
Đại hội VI của Đảng đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt lịch sử trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở Nước ta. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã nỗ lực khắc phục khó khăn, tìm tòi khám phá con đường đổi mới chưa có một khuôn mẫu cho trước. Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng những thành tựu đạt được của đất nước đã xác nhận khả năng tự đổi mới của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam.
Chính sách đổi mới của nền kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế
72 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1238 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và một số vấn đề về cho vay hộ sản xuất ở Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) huyện Nguyên Bình tỉnh Cao Bằng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thị trường có sự điều tiết của Nhà nước đã có tác dụng to lớn đối với mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội ở Nước ta. Nền kinh tế đất nước khởi sắc với sự chuyển biến lớn mạnh của các thành phần kinh tế. Đặc biệt là kinh tế hộ sản xuất.
Công cuộc đổi mới trong 10 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội Đảng đã đề ra nhiệm vụ cho chặng đường đầu của thời kỳ qúa độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Cùng với việc chuyển đổi cơ chế quản lý hành chính bao cấp sang thực hiện cơ chế kinh tế thị trường, trong lĩnh vực sản xuất Nông nghiệp, Đảng và Nhà nước ta đã có những đổi mới. Chú trọng phát triển sản xuất hàng hoá trong Nông nghiệp, tự do lưu thông hàng hoá, lấy hộ nông dân làm đơn vị kinh tế cơ sở. Các chính sách đổi mới phù hợp với yêu cầu thực tế đã tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và đối với sản xuất Nông nghiệp nói riêng.
Từ chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, nghị quyết 10 của Bộ chính trị (khoá VI); Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc khoá VI và nghị quyết Trung ương V (khoá VII) của Ban chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra ngị quyết.
"Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế xã hội nông thôn". Vấn đề này Đảng đã chủ trương đổi mới quản lý Nông nghiệp nhằm thực sự giải phóng sức sản xuất, đưa kinh tế hộ trở thành một chủ thể của sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp. Nhưng nhìn chung vào thực trạng nông thôn nước ta hiện nay nhiều vấn đề mang tính thuần nông, ngành nghề tiểu thủ công ở nông thôn phát triển rất chậm, lao động nông nhàn còn phổ biến chưa được sử dụng có hiệu quả, thu nhập bình quân đầu người quá thấp, đời sống còn khó khăn, hộ nghèo thiếu vốn, sản xuất chiếm tỷ lệ cao.
Như vậy bước đường tất yếu của nông thôn phát triển sản xuất cùng với việc đưa khoa học kỹ thuật vào Nông nghiệp để nâng cao năng xuất lao động, cây trồng, vật nuôi, tận dụng hết lao động dư thùa để phát triển kịp công cuộc hiện đại hoá đất nước là thực tế khách quan.
Giải quyết tốt vấn đề này sẽ tạo ra bộ mặt mới của nông thôn hiện nay đó là đa dạng về ngành nghề lao động, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội.
Công cuộc đổi mới trong quản lý kinh tế đã thực sự tạo điều kiện cho quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất trong thời kỳ qúa độ đi lên chủ nghĩa xã hội, đủ điều kiện để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển đặc biệt là trong lĩnh vực Nông nghiệp - nông thôn.
Phát triển sản xuất là quá trình tái sản xuất mở rộng với quy mô không ngừng tăng lên về quan hệ sản xuất ở nông thôn, người nông dân đã thực sự được cởi trói, có điều kiện để phát triển sản xuất nhưng muốn phát triển sản xuất đòi hỏi phải có vốn. Vì vậy việc tạo ra một thị trường vốn đến tay người nông dân, đáp ứng được các yêu cầu của sản xuất Nông nghiệp như tính chất mùa vụ, lãi xuất hợp lý cũng là một nhu cầu cấp thiết và sự ra đời của ngân hàng Nông nghiệp đã đáp ứng được yêu cầu khách quan này.
Từ khi ra đời đến nay, Ngân hàng Nông nghiệp đã cố gắng thực hiện tốt vai trò của mình, hướng hoạt động vào phục vụ kinh tế hộ nông dân thông qua:
- Về chính sách chế độ: Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT đã ban hành kịp thời thể lệ cho vay đối với hộ sản xuất, không ngừng sửa đổi các quy định trong thể lệ cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn hợp lý. Cụ thể: Đã có quy định 180/QĐ-HĐQT ngày 25 tháng 12 năm 1988 và các văn bản khác quy định cho vay đối với khách hàng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ sản xuất đủ vốn để thực hiện phương án sản xuất kinh doanh của mình, không ngừng nâng cao đời sống của mỗi gia đình cũng như toàn xã hội.
- Về nguồn vốn: Để tạo ra nguồn vốn, ngoài các biện pháp huy động vốn thông thường đã kết hợp huy động bằng kỳ phiếu, trái phiếu theo từng thời kỳ đáp ứng vốn trong nền kinh tế phục vụ kịp thời vụ mùa sản xuất.
- Về sử dụng vốn: Ngoài cho vay tất cả các thành phần kinh tế NHNo đã dành một tỷ lệ thích đáng cho vay phục vụ nhu cầu sản xuất Nông nghiệp, trong đó chủ yếu là cho vay các hộ sản xuất. Thị trường tín dụng nông nghiệp nông thôn ngày càng được mở rộng và phát huy hiệu quả.
Cao Bằng là một tỉnh miền núi biên giới phía Bắc, có nền kinh tế xã hội còn nghèo nàn và lạc hậu so với cả nước. Địa bàn nông thôn tổ chức sản xuất chủ yếu là qui mô nhỏ, tự cung tự cấp. Trong nghị quyết về phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Đảng bộ Cao Bằng đã xác định phát triển nền kinh tế theo hướng Nông - lâm - công nghiệp - thương mại và dịch vụ. Muốn phát triển nông nghiệp thì Cao Bằng cần tạo ra những đòn bẩy kinh tế có tính chất quyết định để từng bước chuyển đổi nền sản xuất nông nghiệp từ sản xuất đơn giản tự cung tự cấp lên sản xuất hàng hoá. Những công cụ kinh tế quan trọng là: Chính sách tín dụng, thuế, ứng dụng KHKT ...
Nguyên Bình là một huyện phía Tây của tỉnh Cao Bằng, kinh tế nông - lâm nghiệp là chủ yếu. Đối với kinh tế hộ sản xuất còn mang tính chất tự cung, tự cấp, tập quán canh tác còn lạc hậu, tình trạng du canh còn phổ biến, sinh hoạt còn lạc hậu, kinh tế hàng hoá trong nông thôn chưa phát triển.
Xuất phát từ những yêu cầu của công tác tín dụng đối với phát triển kinh tế xã hội tỉnh Cao Bằng nói chung, huyện Nguyên Bình nói riêng, tôi đã chọn đề tài:
"Một số vấn đề về cho vay hộ sản xuất ở Ngân hàng Nông nghiệp huyện Nguyên Bình tỉnh Cao Bằng".
Với mục đích đánh giá lại công tác cho vay hộ sản xuất tại Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT huyện Nguyên Bình trong thời gian qua, từ đó đề xuất một số ý kiến nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của công tác cho vay hộ sản xuất, góp phần phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn.
Đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận được bố trí thành 3 chương như sau:
- Chương I: Hộ sản xuất trong nền kinh tế Nước ta và vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển cuả hộ sản xuất.
- Chương II: Thực trạng cho vay hộ sản xuất ở Ngân hàng Nông nghiệp huyện Nguyên Bình tỉnh Cao Bằng.
- Chương III: Những giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả đầu tư của Ngân hàng Nông nghiệp huyện Nguyên Bình.
Đề tài được nghiên cứu phân tích thông qua việc kết hợp các phương pháp: Khảo sát thực tế, sử lý phân tích có hiệu quả thống kê.
Bằng kiến thức được trang bị trong nhà trường kết hợp với nghiên cứu thực tế, tôi hy vọng sẽ góp một phần rất nhỏ bé công sức của mình vào giúp xoá đói giảm nghèo, lạc hậu thông qua đề tài này.
Đề tài này được hoàn thành với sự giúp đỡ của cô Đỗ Thị Kim Hảo và các đồng nghiệp.
Vì điều kiện khả năng còn hạn chế tôi mong được sự đóng góp quý báu và xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến các thầy cô giáo và các đồng nghiệp đã giúp đỡ tôi hoàn thành bản luận văn này.
chương I
Hộ sản xuất trong nền kinh tế nước ta và vai trò tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển của hộ sản xuất
I/ Kinh tế hộ trong nền kinh tế nước ta.
1- Đặc điểm sản xuất của kinh tế hộ nông dân.
a- Khái niệm hộ sản xuất.
Hộ sản xuất bao gồm chủ yếu cha mẹ, con cái, ông bà cùng chung hộ khẩu, các thành viên trong hộ gắn bó với nhau chặt chẽ thể hiện.
- Thông qua mối liên hệ hôn nhân và huyết thống.
- Về kinh tế: Các thành viên trong hộ gắn bó với nhau trên các mặt quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm và quan hệ quản lý.
Các thành viên trong hộ cùng chung mục đích và lợi ích thoát khỏi nghèo đói hoặc nâng cao mức sống và làm giàu; Do đó hộ sản xuất là một tế bào của nền kinh tế xã hội.
Hộ sản xuất là tập hợp các thành viên trong một gia đình, đại diện là chủ hộ, tự chủ trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh. Là chủ thể trong quan hệ sản xuất kinh doanh, lao động tự nguyện và tự giác, tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của mình.
b- Các loại hộ sản xuất tồn tại trong nông thôn hiện nay.
Có 3 loại hộ sản xuất tồn tại trong nông thôn hiện nay là:
- Loại hộ những người không còn sức lao động hoặc không tích cực lao động đang tồn tại trong xã hội. Trong quá trình phát triển của nền sản xuất hàng hoá sẽ có sự phân biệt của các nhà kinh doanh kém hiệu quả, do đó sẽ diễn ra quá trình chuyển hoá thường xuyên giữa các loại hộ bổ sung cho đội quân lao động dư thừa. Phương pháp giải quyết loại hộ gia đình này là nhờ vào sự cứu trợ nhân đạo hoặc quỹ trợ cấp thất nghiệp. Là trách nhiệm lương tâm của cộng đồng để không chỉ giúp họ về mặt vật chất mà còn giúp họ về phương diện kỹ thuật đào tạo tay nghề để họ vươn lên làm chủ cuộc sống.
- Loại hộ có sức lao động làm việc cần mẫn nhưng trong tay không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất, thiếu vốn lại cư trú ở những nơi chưa có môi trường kinh doanh. Loại hộ này chiếm đa số trong xã hội hiện nay cần phải giúp đỡ họ làm quen với nền sản xuất hàng hoá và với tài chính Ngân hàng tạo điều kiện cho họ tiếp tục đi lên. Mở rộng tín dụng đi vào những vùng đã có quy hoạch sản xuất giúp họ mua vật tư, phương tiện, công cụ tương ứng với chương trình đã xác định kết hợp với sự mở mang ngành nghề, phát triển kinh tế tổng hợp trong mỗi gia đình và đồng bộ hoá quá trình từ khâu sản xuất đến tiêu thụ...là loại hộ có tính chất tự cung tự cấp.
- Loại hộ thứ 3 là loại hộ sản xuất hàng hoá có vốn, có kỹ năng lao động, biết tiếp cận với môi trường kinh doanh. Kinh doanh theo luật định bao gồm những hộ tư nhân hoặc hộ là nhóm sản xuất kinh doanh do một người phụ trách đối với loại hộ này việc cho vay bổ sung phần vốn theo yêu cầu mở rộng sản xuất là cần thiết.
c- Đặc điểm của hộ sản xuất.
Hộ sản xuất được hình thành theo những đặc điểm tự nhiên rất đa dạng. Tuỳ thuộc vào hình thức sinh hoạt ở mỗi vùng và địa phương mà hộ hình thành một kiểu cách sản xuất, một tổ chức riêng rẽ trong phạm vi gia đình. Các thành viên trong hộ quan hệ với nhau hoàn toàn theo cấp vị, có cùng sở hữu kinh tế.
Trong mô hình hộ sản xuất chủ hộ là những người lao động trực tiếp làm việc hoàn toàn tự giác có trách nhiệm.
Sản xuất của hộ khá ổn định, vốn luân chuyển chậm so với các ngành khác như thương nghiệp, dịch vụ.
Đối tượng sản xuất là những cây, con, sinh trưởng và phát triển hết sức đa dạng và phức tạp. Vì vậy sản xuất của họ có nét đặc thù riêng biệt. Chi phí sản xuất thường là thấp, vốn cần cho đầu tư có thể rải đều trong quá trình sản xuất.
Sản xuất của hộ mang tính thời vụ cùng một lúc có thể kinh doanh hoặc sản xuất nhiều loại như cây trồng, vật nuôi, thả động vật hoặc tiến hành các ngành nghề khác lúc nông nhàn. Vì vậy thu nhập cũng rải đều, đó là một yếu tố quan trọng tạo điều kiện cho nền kinh tế hộ phát triển toàn diện.
Trình độ sản xuất ở nước ta đa phần ở mức thấp, chủ yếu là sản xuất thủ công, máy móc có chăng cũng còn ít, đơn giản, tổ chức sản xuất mang tính tự phát, phạm vi nhỏ, không được đào tạo bài bản, hộ sản xuất hiện nay nói chung vẫn hoạt động theo tính chất truyền thống, thái độ lao động thường bị chi phối bởi tình cảm, đạo đức gia đình và nếp sống sinh hoạt theo phong tục tập quán địa phương...
2- Vai trò của kinh tế hộ sản xuất trong phát triển kinh tế nước ta.
a- Kinh tế hộ đối với sản xuất Nông nghiệp.
Trước đây sản xuất dưới hình thức tập thể và quan điểm hợp tác xã là nhà, xã viên là chủ. Song do chúng ta chưa có đủ điều kiện và kinh nghiệm để tổ chức sản xuất Nông nghiệp tập thể, mặt khác có nhiều vấn đề dẫn đến năng xuất lao động hợp tác xã rất hạn chế, tính làm chủ và khả năng vươn lên trong mỗi gia đình không phát huy được.
Thời kỳ 1961-1965 miền Bắc đã có khoảng trên 4 vạn hợp tác xã bậc cao thu hút khoảng 85% hộ nông dân lao động. Trong suốt những năm này và những năm tiếp theo chúng ta lấy tập thể làm động lực mà coi nhẹ động lực trực tiếp là xã viên. Vì thế sản xuất không phát triển được, tình trạng trì trệ kéo dài trong những năm cuối của giai đoạn này, bên cạnh đó lại cấm đoán phát triển kinh tế gia đình, kinh tế tư nhân, cá thể. Coi kinh tế tư nhân, cá thể là kẻ thù của CNXH, địa vị xã hội bị thấp kém, sản xuất kinh doanh của họ bị trói buộc, kìm hãm vì bị kinh tế tập thể chèn ép.
Thời kỳ 1966-1981 đây là thời kỳ mà quan điểm của Đảng và Nhà nước ta coi kinh tế tập thể và kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, quyết định sự thành bại của Đất nước. Những năm kinh tế hợp tác xã Nông nghiệp làm ăn sa sút, xuống cấp nghiêm trọng, thu nhập kinh tế tập thể đối với một gia đình không còn đảm bảo với nhu cầu tối thiểu. Do đó họ đã nghĩ tới việc phát triển kinh tế phụ gia đình song lại bị trói buộc bởi cơ chế, chính sách.
Thời kỳ từ 1982 đến nay:
Chỉ thị 100 của Ban bí thư ra đời. Đảng ta đã xác định đưa Nông nghiệp lên mặt trận hàng đầu. Kinh tế gia đình dần dần được đưa vào vị trí xứng đáng, vị trí người nông dân được khôi phục trong qúa trình sản xuất thông qua cơ chế phân phối lợi ích thích hợp. Kinh tế cá thể trong sản xuất Nông nghiệp đã được xác định và đặt đúng vị trí của nó trong nền Nông nghiệp nước ta. Chỉ thị 100 ra đời khẳng định mô hình hợp tác xã Nông nghiệp nước ta hoạt động kém hiệu quả, về lâu dài là không phù hợp, còn kinh tế gia đình của nông dân ngày càng phát triển.
Từ năm 1986 chúng ta đã nhận thức đúng hơn vai trò của kinh tế hộ đối với sản xuất Nông nghiệp. Từ nhận thức đó Đảng ta đã có những chính sách quản lý kinh tế vĩ mô phù hợp nhằm tạo môi trường thuận lợi cho kinh tế hộ phát triển.
Từ năm 1988 Nghị quyết 10 của Bộ chính trị xác định hộ sản xuất là đơn vị kinh tế cơ bản trong nền kinh tế Nông nghiệp, người nông dân thực sự làm chủ trong sản xuất kinh doanh...Khoán 10 do Đại hội Đảng VI đề ra tạo ra một bước tiến quan trọng về tổ chức lại sản xuất trong Nông nghiệp. Trong khoán 10 kinh tế hộ đã xác định là một chủ thể sản xuất hàng hoá ở nông thôn, họ phấn khởi hăng say sản xuất, họ đã mang hết khả năng tiềm tàng chứa trong đất đai, lao động, vốn liếng...mà trước kia chưa được sử dụng để làm giàu cho gia đình, đất nước.
b- Kinh tế hộ trong nền kinh tế nước ta hiện nay.
Trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay dân số khoảng 80% là sản xuất Nông nghiệp, với hơn 12 triệu hộ nông dân sống ở khu vực nông thôn do đó phát triển Nông nghiệp và nông thôn là vấn đề chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt đối với Đảng và Nhà nước ta để đưa nước ta đi lên góp phần thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh". Đó là một trong những yếu tố quyết định để phát huy tiềm năng về đất đai, lao động và các nguồn lợi tự nhiên khác nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược Nông nghiệp.
Sản xuất Nông nghiệp đã đóng góp 80% giá trị tổng sản phẩm xã hội góp phần lớn đưa giá trị tổng sản lượng tăng, GDP đầu người tăng, tăng trưởng kinh tế.
Từ những nhận định đến thực tế đối với Nông nghiệp Việt Nam ta có thể khẳng định được vai trò của kinh tế hộ sản xuất đã và đang đóng góp một vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế đất nước nói chung, trong nền kinh tế Nông nghiệp nói riêng, cụ thể:
- Kinh tế hộ phát triển có thu hút nhiều tầng lớp lao động trong xã hội, trước hết là lực lượng lao động phổ thông đang dư thừa trong nông thôn. Dự báo từ nay đến năm 2000 dân số nước ta khoảng 75 đến 80 triệu người, trong đó có 45 triệu lao động, 75% số lao động này là ở nông thôn. Vì thế việc thu hút lao động trong lĩnh vực kinh tế hộ ở Nông nghiệp là có ý nghĩa quan trọng.
- Tận dụng được nguồn tài nguyên, đất đai, tiền vốn...bởi vì đất đai, rừng, biển, hồ, ao đầm...còn nhiều, thuộc phạm vi quản lý của các đơn vị quốc doanh hay tập thể thì khả năng tận dụng để khai thác còn rất hạn chế. Khi Nhà nước giao quyền sử dụng về gia đình thì khả năng khai thác được tận dụng và hợp lý do đó mang lại hiệu quả kinh tế cao, tạo môi trường, môi sinh lành mạnh.
- Kinh tế hộ với quy mô nhỏ song rất linh hoạt, dễ thích ứng với nền kinh tế thị trường, mang lại hiệu quả kinh tế cao so với kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể cùng loại ngành nghề: Vì chi phí trung gian ít, tiền vốn không bị lãng phí, tận dụng triệt để đất đai, tiền vốn, lao động, trang thiết bị và có điều kiện dễ dàng điều chỉnh, thay đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi cho phù hợp với yêu cầu của thị trường, với lợi thế này kết hợp với chính sách điều tiết vĩ mô của Nhà nước sẽ là cơ sở để kinh tế hộ phát triển không ngừng và chính là điều kiện để chuyển dịch nền Nông nghiệp tự nhiên sang kinh tế hàng hoá có quy mô lớn.
- Kinh tế hộ phát triển sẽ thúc đẩy phát triển ngành nghề mới và khôi phục ngành nghề truyền thống, tạo điều kiện cho ngành công nghiệp và các ngành khác phát triển.
II/ Tín dụng ngân hàng đối với sự tồn tại và phát triển của kinh tế hộ sản xuất.
1- Tín dụng Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
a- Khái niệm tín dụng:
Công thức chung của một chu kỳ sản xuất kinh doanh (T-H-T) nhưng khoảng thời gian từ T-H và H-T trong mỗi Doanh nghiệp khác nhau, trong thực tế nói chung giai đoạn từ T-H là giai đoạn cần nhiều vốn (T) nhiều Doanh nghiệp ở giai đoạn này thiếu vốn để đầu tư vào quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm hàng hoá (H). Còn giai đoạn từ H-T là giai đoạn Doanh nghiệp bán được sản phẩm hàng hoá (H) thu tiền về (T), lúc này nếu Doanh nghiệp tiếp tục ngay chu kỳ sản xuất tiếp theo thì không có vấn đề gì lớn cần nói, nhưng đối với Doanh nghiệp theo thời vụ hay vì lý do gì đó mà chưa tiếp tục chu kỳ sản xuất tiếp theo được thì rõ ràng các Doanh nghiệp đó đang thừa vốn.
Quá trình tuần hoàn và luân chuyển vốn không đều giữa các đơn vị dẫn đến tình trạng trong cùng một thời gian có hiện tượng Doanh nghiệp này thừa vốn nhưng Doanh nghiệp khác lại thiếu vốn và ngược lại.
Để giải quyết mâu thuẫn về vốn, các đơn vị sản xuất lại phải tự điều chỉnh bằng quan hệ tín dụng thương mại. Tuy nhiên quan hệ tín dụng thương mại có nhược điểm lớn là chỉ thực hiện được trong phạm vi rất hạn chế, không đáp ứng nhu cầu vốn của quá trình tái sản xuất mở rộng. Như vậy chỉ dựa trên quan hệ này thì không thể đáp ứng được nhu cầu vốn sản xuất cũng như tiếp nhận hết được số vốn dư thừa trong xã hội. Vì nhu cầu không phù hợp nhau dẫn đến vốn không đáp ứng được về quy mô và thời hạn...mà chỉ có tín dụng Ngân hàng là tổ chức sẵn sàng tiếp nhận hết được các nguồn vốn nhàn rỗi dưới các hình thức tiền gửi của dân cư, các tổ chức kinh tế...và cho vay đối với các Doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và dân cư thiếu vốn sản xuất.
Ngân hàng là trung gian lớn nhất điều chỉnh vốn từ người thừa vốn sang người thiếu vốn và ngược lại.
Tín dụng Ngân hàng là quan hệ kinh tế trong đó có sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị dưới hình thái tiền tệ hoặc hiện vật từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định thì lượng giá trị đó đã trở về tay người sở hữu nhưng lớn hơn lượng giá trị ban đầu với những điều kiện mà hai bên đã thoả thuận với nhau (lợi tức, thời hạn...).
b- Các hình thức tín dụng trong nông thôn hiện nay.
Có hai hình thức tín dụng đang tồn lại trong nông thôn hiện nay đó là:
- Thị trường tín dụng chính thức là hình thức tín dụng được pháp luật thừa nhận, các chủ thể tham gia thị trường này là các Ngân hàng thương mại quốc doanh, Ngân hàng cổ phần thương mại hoặc các hình thức tín dụng khác. Hình thức này hiện nay chiếm tỷ trọng lớn.
Thị trường này là nguồn cung ứng tín dụng lớn nhất và dần dần chiếm lĩnh thị trường tín dụng ở nông thôn mà nòng cốt là Ngân hàng Nông nghiệp. Xuất phát từ những đòi hỏi cung ứng vốn cho sản xuất của hộ sản xuất.
Để đảm bảo cho hình thức tín dụng chính thức thực sự chiếm lĩnh thị trường nông thôn đòi hỏi thị trường vốn phải phát triển đúng hướng và phát huy hiệu quả trong quá trình chuyển kinh tế sang sản xuất hàng hoá.
- Thị trường tín dụng không chính thức là thị trường không được pháp lý công nhận. Bản chất là cho vay nặng lãi, thậm chí không có giới hạn, thủ tục rất đơn giản chủ yếu là thoả thuận giữa hai cá nhận hoặc hai gia đình về mức vay, lãi xuất, thời hạn... hết hạn thì trả. Có thể vay bằng tiền hoặc hiện vật. Hình thức này thường sảy ra trong nền sản xuất tự túc, tự cấp hiện nay vẫn còn tồn tại nhưng chiếm một tỷ trọng rất nhỏ.
c- Tín dụng trong nền kinh tế thị trường.
Trong thời kỳ bao cấp Ngân hàng được coi như một công cụ cấp phát theo kế hoạch đã định thay ngân sách. Không thúc đẩy sản xuất phát triển mà có nơi, có lúc lại còn kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Năm 1998 hệ thống Ngân hàng Việt Nam chuyển từ hệ thống Ngân hàng 1 cấp chuyển thành hệ thống Ngân hàng 2 cấp, đó là Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng thương mại. Ngân hàng Nhà nước với chức năng quản lý Nhà nước về mặt tiền tệ, tín dụng Ngân hàng. Các Ngân hàng thương mại với chức năng kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ tín dụng, thanh toán dịch vụ Ngân hàng. Từ tháng 10 năm 1990 hệ thống Ngân hàng được sắp xếp theo khuôn khổ pháp lý về kinh doanh tiền tệ. Pháp lệnh Ngân hàng hình thành trật tự quản lý mới theo sự quản lý của Nhà nước.
Sau khi hai pháp lệnh Ngân hàng ra đời hệ thống Ngân hàng thương mại bao gồm Ngân hàng công thương, Ngân hàng ngoại thương, Ngân hàng đầu tư và Ngân hàng Nông nghiệp. Hai luật Ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ tháng 10 năm 1998 đã góp phần khẳng định vị thế của hệ thống Ngân hàng và đưa hoạt động của các Ngân hàng thương mại vào thế ổn định mà luật đã quy định.
Trong nền kinh tế thị trường các Ngân hàng thương mại hoạt động theo cơ chế là một Doanh nghiệp, thông qua hoạt động tín dụng các Ngân hàng thương mại đã tự thải loại những khách hàng là Doanh nghiệp, tư nhân và cá thể không thể đứng vững và đi lên với tốc độ phát triển chung của nền kinh tế tín dụng, Ngân hàng cũng đã tự lựa chọn khách hàng cho mình, những Doanh nghiệp không đủ khả năng trả nợ hoặc kinh doanh không có hiệu quả thì không đầu tư. Từ đó tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp có su hướng làm ăn tốt ngày càng phát triển, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển thông qua việc thu hút vốn và đầu tư, các Ngân hàng thương mại đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng Ngân hàng đã thực sự phát huy hiệu quả cụ thể là:
Hiệu quả về mặt kinh tế.
- Tín dụng Ngân hàng nhằm bổ sung nhu cầu vốn lưu động phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của các Doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế nói chung đã thúc đẩy sản xuất phát triển từ đó tăng lợi nhuận.
- Thông qua hoạt động tín dụng Ngân hàng thực hiện được việc kiểm soát bằng đồng tiền đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các Doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế.
- Tín dụng Ngân hàng góp phần khai thác khả năng tiềm tàng của mỗi Doanh nghiệp nói riêng, của toàn bộ nền kinh tế nói chung.
- Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện phát triển ngành nghề mới, tiếp thu và ứng dụng khoa học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ vào quá trình sản xuất kinh doanh, nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật.
Hiệu quả về mặt xã hội:
- Nâng cao trình độ dân trí, đời sống văn minh.
- Giải quyết được công ăn, việc làm, giảm nạn thất nghiệp.
2- Vai trò của tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp đối với sự phát triển kinh tế hộ sản xuất ở nước ta hiện nay.
a- Tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp.
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn là một Ngân hàng thương mại quốc doanh hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực Nông nghiệp và nông thôn, với nhiệm vụ "đi vay để cho vay". Góp phần đắc lực vào sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá Nông nghiệp và nông thôn, cung ứng vốn cho nông dân.
Tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp chủ yếu là tín dụng về chi phí sản xuất, là loại khoản mà Ngân hàng cho hộ nông dân vay để chi phí cho sản xuất về giống cây trồng, vật nuôi, thức ăn gia súc, phân bón, thuốc trừ sâu...Ngoài ra tín dụng Ngân hàng còn bao gồm các khoản cho vay trung và dài hạn để cải tạo đồng ruộng, vườn đồi, mua sắm trang thiết bị phục vụ cho sản xuất, chăn nuôi đại gia súc....
Tín dụng Ngân hàng đối với hộ nông dân sẽ giải quyết các vấn đề ách tắc trong sản xuất (thiếu vốn). Tạo điều kiện thu nhập cao, đời sống đầy đủ, ổn định...
b- Vai trò của tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp với kinh tế hộ sản xuất nước ta hiện nay:
Ngân hàng Nông nghiệp có một thị trường tín dụng rộng, trải đều trên khắp đất nước, với mục đích tạo ra thị trường Tài chính tại nông thôn, mở địa bàn đầu tư tín dụng thúc đẩy sản xuất Nông nghiệp phát triển.
Đầu tư tín dụng là nguồn vốn lớn nhất, là thị trường tín dụng chủ yếu tại địa phương. Trong đầu tư phát triển Nông nghiệp, nó thực sự mang lại lợi ích đối với sản xuất và kinh doanh. Đây là cầu nối giữa sản xuất và lưu thông hàng hoá với lưu thông tiền tệ. Điều chủ yếu để chuyển nền kinh tế Việt Nam và Nông nghiệp Việt Nam sang xản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường là việc hình thành một thị trường Tài chính sống động và đa dạng ở nông thôn. Theo nghĩa rộng thì thị trường Tài chính là tổng hoà nhiều hoạt động tín dụng, lưu thông vốn ở nông thôn, tín dụng Ngân hàng là cầu nối giữa người có vốn tạm thời nhàn rỗi và người có nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh.
Tín dụng Ngân hàng đã góp phần đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung rộng đất, vốn để chuyển nhanh kinh tế hộ sản xuất hàng hoá. Hiện nay ở nông thôn Việt Nam có rất nhiều hộ nông dân có đất nhưng không sản xuất Nông nghiệp họ có nghề khác phù hợp hơn nên số đất được chia họ cho thuê mượn...Bên cạnh đó lại có những hộ có khả năng sản xuất Nông nghiệp, có lao động, có vốn lại biết cách làm và tính toán có hiệu quả, họ muốn mở rộng quy mô sản xuất nên phải thuê mướn đất, đấu thầu đất...nếu số vốn không đủ họ phải đi vay các tổ chức tín dụng. Bởi vậy đồng vốn tín dụng của Ngân hàng đã giúp cho họ khả năng giải quyết nhiều vấn đề. Từ khi có đất họ có thể mua sắm trang thiết bị, máy móc, chi phí để mở rộng sản xuất. Nếu quy mô sản xuất càng lớn thì sản lượng tăng, tỉ trọng hàng hoá càng nhiều giúp họ thắng lợi trong cạnh tranh thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất càng nhanh.
- Tín dụng Ngân hàng còn giúp họ có điều kiện thâm canh tăng năng xuất, cung ứng nguyên liệu hàng hoá cho công nghiệp và tăng những mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao.
- Tín dụng Ngân hàng góp phần khai thác tiềm năng tài nguyên, đất đai, lao động.
- Tiềm năng Nông nghiệp nước ta còn rất lớn nếu được Nhà nước quan tâm đúng mức, với chính sách quản lý vĩ mô thích hợp đặc biệt là chính sách đầu tư tín dụng hợp lý chắc chắn những tiềm năng lâu nay chưa được tận dụng sẽ được động viên khai thác triệt để và phát huy hiệu quả.
Khi hộ nông dân được xác định là một đơn vị kinh tế ngày 28/06/1991 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra chỉ thị 202/CT về việc cho vay trực tiếp đến hộ sản xuất. Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam đã cụ thể hoá chỉ thị trên bằng các quyết định 53, 64, 499/TDN; Đây là những chủ trương đúng đắn và kịp thời nhằm giúp nông dân được vay vốn có điều kiện để khai thác tiềm năng tại chỗ giải phóng sức lao động xã hội. Cũng từ đó mà mở rộng và nâng cao sức mua của thị trường nông thôn, sức tiêu thụ hàng hoá cho công nghiệp chế biến.
- Tín dụng Ngân hàng đã góp phần xây dựng kết cấu hạ tầng đảm bảo cho nông dân có điều kiện tiếp thu, ứng dụng khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ mới vào sản xuất.
Cùng với việc đầu tư của ngân sách Nhà nước, vốn tự có của dân, Ngân hàng không chỉ đầu tư vốn ngắn hạn mà còn đầu tư vốn trung dài hạn để xây dựng kết cấu hạ tầng trong Nông nghiệp như phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, xây dựng công trình thuỷ lợi, đường xá giao thông, điện...Nhằm phục vụ cho việc phát triển Nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Đây là những việc mà chỉ có sự hỗ trợ của Nhà nước mới có thể làm được. Cũng từ đó điều kiện mở mang nâng cao trình độ dân trí để nông dân có thể tiếp thu và thực hiện chuyển giao công nghệ. Kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất Nông nghiệp. Từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong Nông nghiệp góp phần xây dựng nông thôn giàu mạnh và văn minh.
Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện phát triển ngành nghề mới giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Chính việc xây dựng cơ sở vật chất, xây dựng các xí nghiệp chế biến nông sản, đầu tư chuyển đổi cơ cấu cây trồng...đã tạo công ăn việc làm thu hút lực lượng lao động dôi thừa trong nông thôn.
Việc đầu tư tín dụng của Ngân hàng đã khuyến khích hộ nông dân phát triển sản xuất tạo ra nhiều hàng hoá cung cấp cho công nghiệp, xuất khẩu giúp cho hộ nông dân không ngừng nâng cao trình độ sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho Nông nghiệp
Chuyển dịch cơ cấu sản xuất mới với các hình thức chuyên môn hoá thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng cường hạch toán kinh tế. Nghị quyết 10 ra đời cùng với những chính sách hỗ trợ kịp thời của Ngân hàng đã tạo cho kinh tế Nông nghiệp Việt Nam có thêm sức lực mới.
Hộ sản xuất là một đơn vị kinh tế tự chủ, sản xuất kinh tế lời ăn lỗ chịu, cơ chế thị trường là cạnh tranh do vậy đòi hỏi trình độ sản xuất cũng phải được nâng cao, cơ cấu kinh tế hợp lý, hạch toán kinh tế sao cho chi phí đầu vào thấp để thu được lợi nhuận cao. Chế độ chính sách cho vay của Ngân hàng là phải đảm bảo thu hồi đủ gốc và lãi đúng hạn và vốn vay phải thực sự mang lại hiệu quả (tổ chức cho vay phải lấy nguyên tắc hiệu quả kinh tế làm thước đo nên đã đưa kinh tế hộ từ sản xuất tự túc, tự cấp quen dần với nền kinh tế hộ sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường).
- Tín dụng Ngân hàng còn mang lại hiệu quả về mặt xã hội.
Trước đây chưa có chính sách cho vay hộ nông dân, người dân thiếu vốn phải đi vay ở thị trường ngầm với lãi xuất cao. Từ khi Nhà nước có chủ trương cho hộ nông dân vay vốn đã góp phần hạn chế nạn cho vay nặng lãi trong nông thôn.
Tóm lại: Ngân hàng Nông nghiệp đóng vai trò quan trọng không thể thiếu được trong việc cho vay vốn đến hộ nông dân, nó góp phần giải quyết một lượng lớn nhu cầu vốn phát triển sản xuất của nông dân, mở rộng vốn sản xuất; Chủ động về vốn, chủ động về kế hoạch sản xuất, mở rộng sản xuất, tăng năng xuất lao động, tăng sản lượng, góp phần lớn trong việc chuyển đổi cơ chế sản xuất trong Nông nghiệp theo nghị quyết 10.
Cho vay hộ sản xuất là một định hướng đúng đắn của Ngân hàng Nông nghiệp là một trong những công cụ kinh tế có hiệu quả cao trong hệ thống công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thực hiện xoá đói, giảm nghèo, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Ngoài ra phát triển kinh tế hộ Nông nghiệp còn tạo ra thị trường vốn rộng lớn, duy trì và phát triển tín dụng Ngân hàng.
III/ Cơ chế chính sách đối với hộ sản xuất.
1- Chính sách cho vay hộ sản xuất.
Với cơ chế khoán 10 sau khi có chỉ thị 202/HĐBT ngày 28/06/199._.1 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng thì việc đầu tư thuộc lĩnh vực Nông nghiệp đã chuyển từ hình thức cho vay hợp tác xã Nông nghiệp sang cho vay hộ sản xuất. Đây là một bước ngoặt quan trọng trong hoạt động cho vay của Ngân hàng đối với Nông nghiệp; Đảng ta xác định sản xuất nông - lâm - ngư - diêm - nghiệp là thế mạnh của kinh tế hàng hoá nước ta, sản xuất lương thực, thực phẩm, chế biến nông, lâm thủy sản và công nghiệp xuất khẩu là sản phẩm mũi nhọn có sự hỗ trợ về mặt kỹ thuật cũng như tiền vốn.
Thực hiện chính sách tín dụng khuyến khích toàn dân tiết kiệm để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Nghị quyết Trung ương Đảng lần V tháng 6/1993 của Trung ương Đảng khoá VII đã chỉ rõ:"...Mở rộng tín dụng Nhà nước và nhân dân tạo điều kiện thuận lợi để nông dân, nhất là hộ nông dân nghèo được vay vốn sản xuất kinh doanh".
Thực hiện chủ trương này trong những năm qua, hình thức cho vay hộ sản xuất đã khẳng định hướng đi đúng đắn, mang lại hiệu quả thiết thực góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển Nông nghiệp ở nước ta, giải quyết nhu cầu vốn rất lớn của các hộ gia đình nông dân, có hộ nông dân là khách hàng chính thống của hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam.
Sau những năm 1980 từ chỉ thị 100 của Ban bí thư, nghị quyết 10 của Bộ chính trị kinh tế gia đình xã viên dần được trở lại vị trí xứng đáng của họ.
Khoán 10 do Đại hội Đảng khoá VI đề ra có một bước tiến quan trọng về việc tổ chức lại sản xuất Nông nghiệp theo hướng mới sau khoán 10 (kinh tế hộ nông dân đã được xác định là một chủ thể sản xuất hàng hoá ở nông thôn, nông dân phấn khởi hăng say sản xuất, sử dụng triệt để những tài năng, tài nguyên, đất đai, vốn liếng, lao động cho sản xuất Nông nghiệp. Là động lực để chuyển dịch nền sản xuất tiểu nông sang sản xuất hàng hoá.
Ngày 25/8/1991 Hội đồng Bộ trưởng đã ra chỉ thị 202/CP về cho vay vốn hộ sản xuất nông - lâm - ngư - diêm - nghiệp đã mở hướng đầu tư cho Ngân hàng và 3 năm sau ngày 02/03/1993 Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định 14/CP kèm theo quy định về chính sách cụ thể cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển nông - lâm - ngư - diêm - nghiệp và kinh tế nông thôn.
Cùng với sự biến động của nền kinh tế Nước nhà hàng loạt các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước ra đời: Chính sách ruộng đất, đầu tư đặc biệt là chính sách đầu tư tín dụng của Ngân hàng biến động theo.
2- Những cơ chế tín dụng đối với hộ sản xuất.
Từ sự chuyển biến cơ chế quản lý tất yếu dẫn đến thay đổi quan hệ tín dụng. Vậy cơ chế tín dụng Ngân hàng phải thay đổi như thế nào khi hộ nông dân được xác định là một đơn vị kinh tế.
Đảng và Nhà nước đã đề ra các chỉ thị, Nghị quyết...về chính sách phát triển Nông nghiệp và kinh tế hộ nông dân như chỉ thị 100 của Ban bí thư, nghị quyết 10 của Bộ chính trị, chỉ thị 202, nghị định 14/CP của Chính phủ...Để tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế Nông nghiệp, nông thôn phát triển, tận dụng nguồn lực phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, thực hiện quyết định số 67/1999/QĐ-TTG ngày 30/03/1999 của Chính phủ ngành Ngân hàng đã cụ thể hoá tại công văn hướng dẫn số 320CV - NHNN ngày 16/4/1999 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Công văn số 791/NHNo ngày 26/4/1999 của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam về thực hiện một số chính sách tín dụng Ngân hàng phục vụ phát triển Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam.
Sau khi hai luật Ngân hàng có hiệu lực thi hành, ngày 30/09/1998 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có ban hành quyết định 324/1998/QĐ-NHNN về quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng và ngày 15/12/1998 Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam cụ thể hoá bằng quy định 180/QĐ-HĐQT quy định cho vay đối với khách hàng. Việc cho vay đối với hộ sản xuất đầu tiên phải lấy nguyên tắc tín dụng làm tiền đề, có thực hiện đầy đủ 3 nguyên tắc thì mới đảm bảo khả năng an toàn của vốn vay.
Các nguyên tắc đó là:
+ Hộ phải sử dụng tiền vay đúng mục đích đã cam kết trong đơn xin vay. Ngân hàng phát tiền vay theo tiến độ thực hiện chương trình hoặc dự án sản xuất kinh doanh vốn vay phải hoàn trả đủ gốc và lãi đúng hạn trên hợp đồng tín dụng với Ngân hàng.
+ Hộ muốn được vay vốn Ngân hàng phải đảm bảo các điều kiện, phải có dự án sản xuất kinh doanh phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương, phải có vốn tự có và hộ vay phải có tài sản thế chấp, bảo lãnh, cầm cố. Hộ vay phải chấp nhận sự kiểm tra giám sát của Ngân hàng trước, trong và sau khi nhận tiền vay.
+ Đối tượng cho vay đã được Ngân hàng cụ thể hoá theo từng loại vay ngắn hạn trung và dài hạn (thực tế hiện nay Ngân hàng Nông nghiệp chủ yếu đầu tư ngắn hạn và trung hạn).
Thời hạn cho vay đối với hộ phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất kinh doanh, khả năng hoàn vốn và tính chất nguồn vốn. Thời điểm hiện nay thực hiện theo công văn 324 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và quy định 180 của Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Nông nghiệp thì thời hạn cho vay ngắn hạn tối đa không quá 12 tháng, cho vay trung hạn từ 12-60 tháng, cho vay dài hạn từ 60 tháng trở lên nhưng không qúa thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với các pháp nhân và không quá 15 năm đối với các dự án phục vụ đời sống.
Mức cho vay:
Ngân hàng Nông nghiệp căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng, vốn tự có tham gia vào dự án, phương án sản xuất kinh doanh, tỷ lệ cho vay tối đa so với giá trị tài sản làm đảm bảo theo quy định của Nhà nước - Ngân hàng Nhà nước và hướng dẫn của Ngân hàng Nông nghiệp, khả năng trả nợ của khách hàng, khả năng nguồn vốn của Ngân hàng để quyết định mức cho vay.
+ Đối với cho vay ngắn hạn khách hàng phải có tối thiểu vốn tự có bằng 20% tổng nhu cầu vốn.
+ Đối với cho vay trung hạn và dài hạn khách hàng phải có tối thiểu vốn tự có bằng 30% tổng nhu cầu vốn.
Khách hàng có uy tín trong quan hệ tín dụng với Ngân hàng Nông nghiệp nơi cho vay thông qua Hội đồng tín dụng xem xét giải quyết...Đối với khách hàng đến hạn chưa trả được nợ do nguyên nhân khách quan như thiên tai, dịch bệnh, giá cả biến động không có lợi cho tiêu thu sản phẩm và các nguyên nhân bất khả kháng thì Ngân hàng Nông nghiệp nơi cho vay có thể gia hạn nợ hoặc điều chỉnh kỳ hạn trả nợ. Thời gian gia hạn nợ đối với cho vay ngắn hạn bằng một chu kỳ sản xuất kinh doanh nhưng không quá 12 tháng. Thời gian gia hạn nợ đối với cho vay trung và dài hạn tối đa bằng 1/2 thời hạn cho vay thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Các biện pháp của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam đối với cho vay kinh tế hộ nông dân là cho vay trực tiếp, cho vay qua tổ hợp tác, cho vay theo chương trình dự án khép kín vùng ngành và cho vay các chủ trang trại.
Đây là những chủ trương đúng đắn và kịp thời nhằm giúp nông dân được vay vốn, có điều kiện để khai thác tiềm năng tại chỗ, giải phóng sức lao động xã hội, cũng từ đó mà mở rộng nâng cao sức mua của thị trường nông thôn, sức tiêu thụ hàng hoá cho công nghiệp chế biến và là bạn hàng tạo nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến ngoài ra còn tạo điều kiện tập trung sản xuất các sản phẩm Nông nghiệp xuất khẩu làm cho kinh tế Nông nghiệp phát triển góp phần thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển.
chương II
Thực trạng cho vay hộ sản xuất tại Ngân hàng Nông nghiệp Nguyên Bình.
I. Đặc điểm tình hình tự nhiên, kinh tế - xã hội địa phương.
Nguyên Bình là huyện vùng cao của tỉnh Cao Bằng, trung tâm huyện cách Thị xã Cao Bằng 46km nằm ở phía Tây của tỉnh, tiếp giáp với các huyện bạn Thông Nông, Ngân Sơn, Hoà An, Bảo Lạc và Ba Bể. Huyện có địa hình phức tạp, một số vùng cao thiếu nước sinh hoạt và sản xuất, đặc biệt là đối với vùng núi đá. Toàn huyện có 20 đơn vị hành chính gồm 2 thị trấn và 18 xã (trong đó có 13 xã thuộc vùng III). Dân số toàn huyện 37.801 người, mật độ 46 người/km2, gồm 8 dân tộc anh em chung sống. (Kinh, Tày, Nùng, Dao, Ngái, Mông, Hoa, Cao Lan...). Trong đó dân tộc Dao chiếm đa số. Trình độ dân chí nhìn chung còn thấp, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, kinh tế nông nghiệp sản xuất có tính chất tự túc, tự cấp, thu nhập bình quân mới đạt 1,4 triệu đồng / năm / người.
Về cơ sở hạ tầng còn yếu kém, giao thông đi lại khó khăn, hiện còn 4 xã chưa có đường ô tô đến trung tâm xã đó là xã Mai Long, xã Hưng Đạo, Triệu Nguyên, Quang Thành. Về đất đai tự nhiên của huyện hình thành 2 vùng núi đá và núi đất rõ rệt. Kèm theo đó là điều kiện canh tác và phát triển kinh tế nông thôn ở từng vùng có những thuận lợi, khó khăn khác biệt nhau.
Toàn huyện có diện tích đất đai tự nhiên là 83.720ha trong đó diện tích canh tác lúa nước 5.239 ha chiếm tỷ lệ 6% đất đai toàn huyện, diện tích này hầu hết là đất đai phì nhiêu mầu mỡ. Toàn huyện có nhiều tiểu vùng khí hậu phù hợp với sinh trưởng của các loại cây quý hiếm. Huyện có ưu thế rất mạnh về công nghiệp khai khoáng như thiếc, quặng, sắt, ra đi um, vàng sa khoáng... là những ngành nghề truyền thống từ lâu đời.
Về lâm nghiệp có diện tích đất trồng cây ăn quả, cây xuất khẩu rất lớn.
Mặc dù là 1 huyện miền núi cao có nhiều dân tộc nhưng dân huyện Nguyên Bình sống yên ấm, đàm bạc thương yêu lẫn nhau trong khối đại đoàn kết dân tộc anh em.
Về chính trị, gần đây nhân dân các dân tộ huyện Nguyên Bình cùng tin tưởng, đi theo con đường đổi mới do Đảng ta khởi xướng lãnh đạo. Nhân dân các dân tộc trong toàn huyện cùng đoàn kết, quyết tâm phát triển kinh tế xã hội theo định hướng mà đại hội Đảng bộ huyện đã đề ra đó là chú trọng nông - lâm - công nghiệp khai thác, chế biến - xuất khẩu phù hợp với cơ chế thị trường.
Trong những năm qua nông, lâm, công nghiệp đã được khẳng định là ngành sản xuất vật chất quan trọng nhất của huyện, hầu hết các sản phẩm nông, lâm nghiệp là do nông dân tạo ra. Hơn 8.160 hộ nông dân với 18.000 lao động hàng năm tạo ra hơn 70% tổng thu nhập của huyện.
Về sản xuất nông nghiệp đã chỉ đạo phát triển diện tích đất đai trồng lúa nước, lúa nương, ngô lai hàng năm đạt 500 ha bằng 9,54% tổng diện tích canh tác lúa nước hiện có. Diện tích này chủ yếu phát triển dọc theo bờ sông, bờ suối, triền đồi nên năng suất cao do đất đai mầu mỡ.
- Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp nông thôn đã có nhiều đổi mới đã chuyển dần từ thế độc canh, thuần nông chuyển sang luân canh kết hợp giữa trồng trọt với chăn nuôi và nghề rừng, nông dân được sử dụng ruộng đất ổn định lâu dài, nhờ có kinh tế hộ trong nông thôn từng bước ổn định và có chiều hướng phát triển và xuất hiện một số mô hình kinh tế hộ làm kinh tế khá và giỏi.
Nét nổi bật trong Nông nghiệp là 5 năm qua các chính sách đầu tư của nhà nước, bằng nhiều dự án khác nhau, các tiến bộ khoa học kỹ thuật được chỉ đạo đưa vào sản xuất. Công tác khuyến nông, khuyến lâm, các loại giống lúa, ngô mới có năng suất cao đã được đưa vào gieo trồng trên diện rộng. Nhờ đó đã tăng đáng kể sản lượng lương thực qua các năm. Đây là nhân tố mới thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển.
Tổng sản lượng lương thực qua các năm đều tăng, năm sau cao hơn năm trước. Năm 1995 đạt 10.600 tấn, năm 1996 đạt 10.950 tấn, năm 1997 đạt 11.460 tấn, năm 1998 đạt 11.800 tấn, năm 1999 đạt 12.300 tấn.
Có được kết quả trên do huyện luôn luôn quan tâm phát triển sản xuất, đặc biệt chú trọng khâu giống mới có năng suất cao, cung ứng đầy đủ giống cho nông dân, công tác khuyến nông được chú trọng, các dịch vụ: Phân bón, thuốc trừ sâu luôn luôn đảm bảo nhất là công tác Thuỷ lợi được đặc biệt chú trọng.
Đã chỉ đạo phát triển vùng cây ăn quả, vùng cây xuất khẩu phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá phù hợp, chú trọng cải tạo vườn tạp và trồng mới đưa diện tích cây trồng xuất khẩu (như trúc, gỗ lát...) lên 4.500 ha đạt sản lượng xuất khẩu 50.700 tấn / năm.
Chăn nuôi đàn gia súc tăng 4%, bình quân mỗi hộ 1,2 con bò, 2,7 con lợn, sản lượng thịt tăng 5%. Phát triển phong trào chăn nuôi cá ở ao, hồ, cá ruộng và các con đặc sản khác như Rắn để xuất khẩu....
Đối với Lâm nghiệp, đã chuyển hướng rất mạnh, lấy khoanh nuôi, tái sinh rừng, bảo vệ rừng là chính, kết hợp giao đất, giao rừng, trồng mới tăng nhanh vốn rừng. Thực hiện giao đất giao rừng cho hộ quản lý chăm sóc và trồng mới gắn với đầu tư vốn theo các dự án và công tác khuyến lâm.
Từ 1995 đến nay diện tích rừng trồng mới đạt 121 ha. Trong đó: năm 1995 trồng 28,6 ha, năm 1998 đạt 92,9 ha gồm 86,3 ha trúc sào và 35,3 ha thông.
Khoanh nuôi rừng 7.341 ha rừng đầu nguồn Sông Hiến.
Phong trào phát triển kinh tế vườn đồi, vườn rừng theo mô hình VAC nông lâm kết hợp đang từng bước được mở rộng và đem lại hiệu quả đang khích lệ, các dự án nhỏ, vốn quốc gia giải quyết việc làm, vốn cho vay hộ sản xuất của Ngân hàng Nông nghiệp huyện đã thúc đẩy rõ rệt kinh tế vườn đồi, rừng, phát triển dần trang trại. Đây là một nhân tố mới có nhiều triển vọng trong những năm tới.
Công tác giao đất giao rừng tiến bộ rõ rệt, số hộ nông dân nhận đất ngày càng tăng, chỉ tính từ 1995 đến hết năm 1999 đã giao được 26.850 ha cho trên 450 hộ. Trong đó giao đất trong dự án 15.400 ha, ngoài dự án 11.450 ha.
Công tác quản lý, khai thác lâm sản được chỉ đạo chặt chẽ. Đồng thời gắn với công nghiệp chế biến nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm, hạn chế việc bán nguyên liệu thô ra ngoài huyện. Về công tác định canh định cư đã có nhiều đổi mới từ phương thức đầu tư phân tán, manh mún, hiệu quả thấp nay chuyển sang cơ chế đầu tư tập trung thông qua chương trình dự án như dự án 327, chương trình 06 thay thế cây thuốc phiện, dự án hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn.
Với những cố gắng của nhân dân các dân tộc trong toàn huyện, dưới sự lãnh đạo của Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện thời gian qua bộ mặt kinh tế - xã hội của huyện đã thay đổi hẳn đó là:
1) Kinh tế vùng núi có chuyển biến tích cực, giải quyết được công ăn việc làm của hộ nông dân, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, xây dựng mô hình trang trại.
2) Công tác quản lý tiểu thủ công nghiệp đã chấn chỉnh các dịch vụ khai thác sản xuất vật liệu, khai thác khoáng sản theo đúng pháp luật, và đôn đốc thu nộp được thuế tài nguyên nộp ngân sách.
3) Tập trung lãnh đạo và đầu tư tốt, có trọng điểm bằng nhiều nguồn vốn của ngân sách, tín dụng ngân hàng, vốn của doanh nghiệp.
4) Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội từ 1995 đến nay được đầu tư xây dựng đang kể, tốc độ xây dựng tăng ngày càng cao, nhiều công trình được xây dựng mới đã được nghiệm thu, và đưa vào sử dụng. Công tác xây dựng cơ bản được chỉ đạo chặt chẽ đi vào nề nếp, đúng qui định của Nhà nước đã tạo điều kiện để thu hút vốn đầu tư và sử dụng vốn có hiệu quả cao.
5) Phát triển mạnh hệ thống giao thống nông thôn với phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm. Trong 5 năm qua đã huy động được 71.882 ngày công đào đắp sửa chữa và làm mới được 239 km đường liên thôn, liên xóm tạo điều kiện thông thương về kinh tế.
6- Kinh tế dịch vụ, thương mại, xuất khẩu phát triển chiếm tỷ trọng đáng kể trong cơ cấu kinh tế. Thị trường vật tư hàng hoá phong phú, việc xuất khẩu quặng thiếc, quặng sắt đạt kim ngạch xuất khẩu 3,5 triệu USD/năm.
Công tác tài chính Ngân hàng có nhiều cố gắng, tăng thu ngân sách trên địa bàn mỗi năm tăng 15,94% đáp ứng tốt hơn công tác đầu tư và chi tiêu tại địa phương.
Về phía Ngân hàng nông nghiệp huyện đã thực hiện tốt việc chuyển mạnh kinh doanh, tăng khả năng huy động vốn trên địa bàn, mở rộng hình thức cho vay để phát triển sản xuất, phát triển Ngân hàng lưu động, đáp ứng vốn cho thời vụ vùng sâu, vùng xa, phục vụ tốt việc cung ứng vốn cho các thành phần kinh tế.
Dưới sự lãnh đạo của Huyện Uỷ, UBND huyện Nguyên Bình, có sự đầu tư cho vay vốn phát triển kinh tế theo định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lấy sản xuất nông, lâm nghiệp là thế mạnh sẵn có của địa phương để phát triển, đến nay trong toàn huyện đã có sự chuyển biến mạnh mẽ về kinh tế - xã hội - nền kinh tế nhiều thành phần đã được hình thành và phát triển, quan hệ sản xuất được điều chỉnh một bước quan trọng trên cả 3 mặt: Quan hệ sở hữu, chế độ phân phối, cơ chế quản lý, đời sống nhân dân các dân tộc ngày càng đi lên.
II/ Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp huyện Nguyên Bình.
1. Môi trường kinh doanh:
Bước vào thực hiện cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, trong năm qua Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Nguyên Bình đã xác định được cơ chế đúng đắn: Đó là Nông - Lâm và chế biến xuất khẩu. Đồng thời huyện đã từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó một cách hợp lý nhằm khai thác và sử dụng hết tiềm năng sẵn có của địa phương. Từ 1995 đến nay nhịp độ tăng trưởng kinh tế của huyện luôn đạt từ 4,5% đến 6,5% , trong đó giá trị tổng sản lượng nông - lâm tăng 8,5% đến 9%. Riêng đối với lâm nghiệp có mức tăng đến 10% do chuyển dịch nhanh theo hướng sản xuất hàng hoá (đặc biệt là trúc xuất khẩu). Việc chuyển dịch cơ cấu đã làm giảm đáng kể tính chất sản xuất tự nhiên, tự cung, tự cấp của huyện miền núi, cơ cấu kinh tế tiểu vùng từng bước chuyển lên rất rõ rệt, số lượng các xí nghiệp quốc doanh đang giảm dần trong 5 năm qua, đó là các đơn vị như: Nhà máy xi măng Nguyên Bình, nhà máy Miến dong, Công ty khai thác mỏ, xí nghiệp vôi đá......Kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên rất nhanh, xuất hiện nhiều mô hình kinh tế mới, tập trung chủ yếu trong lĩnh vực Nông - Lâm. Nguồn thu Ngân sách từ thành phần kinh tế ngoài quốc doanh từ chỗ chỉ chiếm 40% năm 1995 đến nay đã tăng tới 64%.
2. Công cụ điều hành nền kinh tế địa phương :
Tác động vào quá trình chuyển biến cơ cấu kinh tế nói trên, chính sách thuế và chính sách tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng hàng đầu.
2.1. Về chính sách thuế.
Về lĩnh vực thuế đã được sử dụng như một công cụ điều chỉnh và kích thích quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua các biện pháp.
- Vận dụng đúng đắn chính sách thuế nông nghiệp trước đây và hiện nay đó là thuế đất nông nghiệp, qua đó đã kích thích việc hình thành các vùng chuyên canh trong huyện như vùng cây thuốc lá ở Lang Môn, Bắc Hợp, cây chè ở Nà Bao, cây vầu ở Quang Thành, Tam Kim, cây trúc xuất khẩu ở Mai Long, Phan Thanh... khôi phục lại các vùng trồng thông lấy nhựa, sa mộc, chè, đỗ tương, trúc trước đây lại thu hẹp do cơ chế quan liêu bao câp gây ra. Việc thu thế nông nghiệp từ đó đã không ngừng tăng lên từ 500 triệu năm 1995; năm 1997 là 800 triệu; năm 1999 là 1,5 tỉ chiếm 16,4% tổng thu ngân sách huyện.
- Xây dựng chính sách thu thuế rừng, thuế tài nguyên khoáng sản đúng đắn phù hợp tạo điều kiện bảo vệ rừng tự nhiên, hạn chế việc khai thác bừa bãi tài nguyên rừng và khoáng sản.
- Có chính sách miễn giảm thuế phù hợp với cơ sở kinh doanh ở miền núi tạo điều kiện cho việc lưu thông hàng hoá giữa miền xuôi với miền núi, giữa các vùng trong huyện với toàn tỉnh được thuận lợi, nhanh chóng. Đã vận dụng miễn giảm thuế đối với dây chuyền công nghệ mới trong chế biến sản phẩm nông, lâm nghiệp, miễn giảm thuế với các cơ sở sản xuất mới đi vào hoạt động, đối với các nghề truyền thống cần kích thích phát triển như dệt thổ cẩm xuất khẩu, làng nghề miến dong, trồng nấm hương.
Việc vận dụng các chính sách thuế đúng đắn đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển bình đẳng. Thông qua việc thực hiện các chính sách thuế đã khẳng định hướng đi cho các Doanh nghiệp, cho hộ sản xuất kinh doanh trong địa bàn huyện chuyển dịch theo cơ chế kinh tế hàng hoá.
2.2. Về công tác Ngân hàng thực hiện nguyên tắc:
- Ngân hàng Nguyên Bình chỉ đầu tư vốn cho các hộ có dự án kinh tế có hiệu quả cho các vùng sản xuất hàng hoá, không đầu tư tràn lan, áp đặt như trước đây.
- Đối với các đơn vị quốc doanh làm ăn thua lỗ dứt khoát không cho vay.
- Tập trung vốn chuyển mạnh sang cho vay hộ sản xuất theo đúng tinh thần chỉ thị 202/HĐBT và Nghị định 14/CP, quyết định 67/TTg.
Trong cơ chế kinh tế thị trường, chính sách thuế và chính sách tín dụng Ngân hàng là chính sách kinh tế vô cùng quan trọng của Nhà nước có quan hệ chặt chẽ với nhau. Kinh tế miền núi hiện nay không phải lúc nào cũng phải trông chờ vào sự bao cấp của Nhà nước, nhưng với chính sách thuế và tín dụng Ngân hàng nói trên, việc vận dụng thực tế phải tính toán cụ thể, mềm dẻo và linh hoạt.
Với nhận thức đúng đắn về vai trò nhiệm vụ của Ngân hàng trong kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, Ngân hàng nông nghiệp Nguyên Bình đã đặt công tác tín dụng đối với việc phát triển kinh tế nông nghiệp, và nông thôn hiện nay là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Ngân hàng huyện. Điều đó được thể hiện qua công tác huy động nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn.
III. Thực tế tình hình cho vay hộ sản xuất:
1- Công tác huy động vốn:
Ngân hàng nông nghiệp huyện đã quyết tâm chuyển các hoạt động Ngân hàng sang cơ chế thị trường, nhanh chóng thực hiện biện pháp tuyên truyền trên các phương tiện thông tin, tiếp cận khách hàng thực hiện mức lãi xuất huy động vốn và lãi xuất cho vay theo quan hệ cung cầu vốn trên thị trường.
Công tác huy động trên địa bàn huyện hiện nay đang có những mặt rất thuận lợi.
+ Có mạng lưới giao dịch trải đều khắp địa bàn huyện, có một Ngân hàng loại 4 tại thị trấn Tĩnh Túc, một bàn giao dịch tại khu vực Nà Bao, được trang bị một xe ô tô chuyên dùng theo mô hình Ngân hàng lưu động để đi khắp các xã trong huyện.
+ Được độc lập trong công tác huy động vốn vì tại huyện chỉ có duy nhất Ngân hàng nông nghiệp huyện nên không bị cạnh tranh về huy động vốn và sử dụng vốn. Các đơn vị khác như Kho bạc Nhà nước, Bưu điện chưa thực hiện huy động tiền gửi như trái phiếu, tiết kiệm Bưu điện.
+ Có biên chế phù hợp với quy mô hoạt động kinh doanh trên địa bàn.
+ Phong cách giao dịch văn minh lịch sự.
+ Hầu hết đội ngũ cán bộ nhân viên đều ở độ tuổi 45 trở xuống có trình độ chuyên môn đồng đều, có sức khoẻ tốt để phục vụ công tác.
Từ những việc làm và điều kiện thuận lợi trên Ngân hàng huyện đã thực hiện tốt phương châm "đi vay để cho vay" thực hiện tốt công tác tiếp thị, dự báo kinh doanh, chủ động điều chỉnh cơ cấu huy động vốn gửi không kỳ hạn, 3 tháng, 6 tháng, loại trên 12 tháng cho phù hợp điều kiện thực tế kinh doanh trên địa bàn. Từ tháng 8/1999 Ngân hàng huyện đã tạm dừng huy động tiền gửi trên 12 tháng. Đến cuối tháng 12/1999 tiếp tục tạm ngừng huy động loại tiền gửi 6 tháng nên đã tác động tích cực trong cơ cấu nguồn vốn, hạ giá đầu vào, đảm bảo hiệu quả kinh doanh, thích ứng với biến động giảm nhanh lãi suất cho vay trong thời gian qua; Kể cả việc giảm lãi suất sử dụng vốn của Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam (đơn vị thiếu vốn phải trả lãi sử dụng vốn trung tâm là 0,6%, đơn vị thừa vốn được trung tâm trả lãi thừa vốn 0,6%). Đảm bảo đủ vốn cho nhu cầu phát triển kinh tế địa phương và thừa vốn điều về Ngân hàng nông nghiệp tỉnh.
Kết quả huy động vốn được thể hiện:
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm
Năm
Năm
Đến
So sánh 30/9/2000 với
1995
1998
1999
30/9/2000
Năm 1995
Năm 1999
1- Nguồn vốn tự huy động trên địa bàn
14.000
17.500
21.000
25.7000
+83,57%
+22,38%
Trong đó: Tiền gửi tiết kiệm
9.000
12.000
15.000
22.000
+144,44%
+46,66%
2- Nguồn vốn uỷ thác
1.000
2.500
4.500
6.000
+500%
+33,33%
Tổng vốn lưu động
15.000
20.000
25.500
31.700
211%
+124%
* Nhận xét:
Tổng nguồn vốn huy động và quản lý năm 1995 là 15.000 triệu đồng thì năm 1998 đã tăng lên 20.000 triệu đồng, năm 1999 là 25.000 triệu đồng, đến 30/9/2000 tăng lên tới 31.700 triệu đồng. Năm 2000 so với 1995 tăng +16.700 triệu đồng tỷ lệ tăng 111%. Năm 2000 so với 1999 tăng +6.200 triệu đồng tỷ lệ tăng 124%.
Ngân hàng Nguyên Bình đã chủ động khai thác vốn trên địa bàn, khơi tăng nguồn vốn từ tiền gửi tiết kiệm của nhân dân, nhận chi trả tiền mặt cho Kho bạc Nhà nước, nhận vốn uỷ thác làm cho nguồn vốn năm sau lớn hơn năm trước.
Tính bình quân theo phương pháp tích số (Biểu 01/946A). 9 tháng năm 2000 có dư vốn huy động đạt 28.500 triệu đồng tăng so với năm 1999 (theo tích số) 5.000 triệu đồng tỷ lệ tăng 21,27%.
Như vậy nếu so sánh cả số dư cuối kỳ, số bình quân vốn lưu động trong năm 2000 mặc dù chưa hết năm nhưng đều lớn hơn năm 1999. Điều đó thể hiện sự phát triển vượt bậc của Ngân hàng nông nghiệp huyện trong thực hiện hoạt động kinh doanh. Thừa vốn đến 30-9-2000 điều về Ngân hàng tỉnh là 11.700 triệu đồng.
Nguồn vốn uỷ thác (của NHPVNN và của MISEREO - Đức) đến 30-9-2000 là 6.000 triệu đồng tăng +1.500 triệu đồng tỷ lệ tăng 33,3% so với 31-12-1999, đáp ứng được tương đối đầy đủ nhu cầu vay vốn của đồng bào nghèo trong huyện Nguyên Bình.
Cơ cấu huy động vốn đến 30-9-2000 như sau:
+ Tiền gửi không kỳ hạn chiếm tỷ trọng 23,25% tổng nguồn vốn tăng 1.320 triệu đồng so với năm 1999 tỷ lệ tăng 22,83%.
+ Tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng chiếm tỷ trọng 58,05% tổng nguồn vốn, tăng 2.100 triệu đồng so với năm 1999 tỷ lệ tăng 22,83%.
+ Tiền gửi trên 12 tháng chiếm tỷ trọng 18,7% tổng nguồn vốn tăng 1.730 triệu đồng so với năm 1999 tỷ lệ tăng 85,31%.
2. Sử dụng vốn.
Do nhận thức rõ trách nhiệm của tín dụng Ngân hàng là công cụ, là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển, nhất là phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn nhằm nâng cao đời sống của nông dân. Ngân hàng nông nghiệp Nguyên Bình đã xác định đúng đắn đối tượng phục vụ là hộ sản xuất nói chung và hộ nông dân nói riêng. Nói như vậy không phải là phủ nhận vai trò của thành phần kinh tế tập thể và kinh tế quốc doanh trong nền kinh tế nhưng kể từ khi có cơ chế khoán 10, kinh tế hộ sản xuất đã khẳng định rõ nét vai trò của nó trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. Chỉ thị 202/CT của Chính phủ là một chủ trương đúng đắn kịp thời, giúp cho nông dân có đủ vốn đề tiến hành sản xuất kinh doanh. Nhìn chung Ngân hàng huyện đã làm tốt vai trò huy động vốn và sử dụng vốn trên địa bàn huyện và đạt được những kết quả về cho vay hộ sản xuất góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo công ăn việc làm cho nông dân các dân tộc huyện Nguyên bình.
Đứng trước tình hình diễn biến phức tạp về kinh tế trong thời gian qua Ngân hàng nông nghiệp huyện vẫn thực hiện tốt chỉ đạo về công tác tín dụng của Ngân hàng nông nghiệp tỉnh Cao Bằng đó là:
+ áp dụng hình thức khoán trong hoạt động kinh doanh đến tổ và người lao động để khuyến khích tăng năng xuất lao động với chất lượng cao.
+ Quyết tâm không co cụm mà phải tích cực tìm kiếm thị trường khai thác đầu tư mới trong địa bàn nông nghiệp nông thôn, thực hiện tốt định hướng tín dụng thương mại, tín dụng chính sách (cho vay hộ nghèo) cùng tăng trưởng trong đó tín dụng chính sách tăng nhanh hơn để phù hợp với điều kiện thực tế của huyện miền núi vùng sâu, vùng xa.
Số liệu về doanh số cho vay, thu nợ, dư nợ mà Ngân hàng huyện đã đầu tư cho các thành phần kinh tế trong huyện thời gian qua có thể phân tích, đánh giá được tình hình hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nguyên Bình.
Nhận xét:
Đến 30-9-2000 tổng doanh số cho vay ra các thành phần kinh tế đạt 26.280 triệu đồng tăng +3.300 triệu đồng so với 1999, tỷ lệ tăng 14,36%. So với năm 1995 tăng 16.430 triệu đồng, tỷ lệ tăng 166,80%.
Nguyên nhân trong năm 2000 tăng ít do chưa thực hiện tốt kế hoạch cho vay của Ngân hàng nông nghiệp và NHPVNN.
Trong đó doanh số cho vay theo vốn Ngân hàng nông nghiệp và Ngân hàng phục vụ người nghèo như sau:
Doanh số cho vay bằng vốn tín dụng thương mại đạt 19,780 triệu đồng tăng 10.930 triệu đồng so với 1995, tỷ lệ cho vay tăng 123,5% so với năm 1999 tăng 5.300 triệu đồng, tỷ lệ cho vay tăng 36,6%. Đối với thành phần kinh tế quốc doanh: Doanh số cho vay đạt 980 triệu đồng, so với năm 1995 giảm 820 triệu đồng, tỷ lệ cho vay giảm 45,55%, so với năm 1999 tăng 380 triệu đồng, tỷ lệ cho vay tăng 63,33%.
Đối với thành phần kinh tế HTX là: Doanh số cho vay có xu hướng giảm dần, 9 tháng năm 2000 cho vay 200 triệu đồng. Nhìn chung mô hình kinh tế HTX tại địa bàn chưa phát huy được vai trò trong nền kình tế thị trường, tại một số nơi đang củng cố dần mô hình HTX kiểu mới theo khoán 10. Số lượng HTX hiện còn tồn tại chủ yếu là các HTX tiểu thủ công nghiệp như vôi đá, vật liệu không nung .
Cho vay hộ sản xuất đến 30-9-2000 đạt doanh số 14.500 triệu đồng, so với năm 1995 tăng 11.300 triệu đồng, tỷ lệ cho vay tăng tới 352,12%. So với năm 1999 doanh số cho vay tăng 6.000 triệu đồng, tỷ lệ tăng 70,58%.
Riêng đối với hộ nông dân: Doanh số cho vay đến 30.9.2000 đạt 10.300 triệu đồng. So với 1995 tăng 1.500 triệu đồng, tỷ lệ tăng 267,85%. So với năm 1999 tăng 3.600 triệu đồng, tỷ lệ tăng 53,73%.
Do điều kiện kinh doanh trên địa bàn huyện vùng sâu, vùng xa, hơn 85% nhân lực lao động là nông nghiệp nông thôn nên Ngân hàng huyện Nguyên Bình đã xác định cho vay hộ sản xuất nói chung và hộ nông dân nói riêng là nhiệu vụ trọng tâm hàng đầu để tạo công ăn việc làm cho nhân dân các dân tộc, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế phát triển theo định hướng nông, lâm , dịch vụ nông nghiệp mà Nghị quyết Đảng bộ khoá XV nhiệm kỳ 1994 - 1999 và khoá XVI nhiệm kỳ 1999-2004 đã đề ra.
Cho vay bằng vốn tín dụng Ngân hàng phục vụ người nghèo:
Thực hiện tăng về số tiền cho vay mỗi hộ và cả về số hộ được vay trong năm 1999 đã cho vay trên 3.500 lượt hộ vay vốn với số tiền là 8.500 triệu đồng, tăng gấp 1,4 lần so với 1998. Bình quân 1 lượt hộ cho vay vốn là 2,42 triệu đồng. Đã góp phần giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cải thiện đời sống cho hàng ngàn hộ nông dân.
Như vậy qua số liệu trên tay thấy thời gian qua việc đầu tư cho hộ sản xuất nói chung và hộ nông dân nói riêng đã được Ngân hàng huyện thực hiện tốt, chú trọng tập trung đầu tư vốn đúng thành phần kinh tế với tỷ trọng tăng trưởng rất lớn. Tỷ lệ thực hiện năm 2000 so với năm 1995 đối với hộ sản xuất là +352,12% và hộ nông dân là +267,85%. Tốc độ tăng trưởng từ năm 1995 đến nay đạt mức bình quân đối với hộ sản xuất đạt 39,80%, đối với hộ nông dân là 32,62%.
Hoạt động của Ngân hàng huyện không chỉ đơn thuần về khối lượng cho vay mà còn hướng mạnh vốn vào khai thác tiềm năng sẵn có của huyện, tính toán hiệu quả kinh tế tốt trong từng vùng, từng dự án của mỗi hộ sản xuất. Trong 5 năm qua Ngân hàng huyện đã làm sống dậy các ngành nghề sản xuất trong lĩnh vực Nông - lâm nghiệp, phát triển ngành nghề, dịch vụ trong nông nghiệp, tạo công ăn việc làm cho nông dân, tăng thu nhập tạo nên những sắc thái mới trong nông thôn của huyện miền núi.
Với cơ cấu đầu tư hợp lý 60% cho chăn nuôi trồng trọt, 20% cho phát triển rừng, 20% cho phát triển kinh doanh dịch vụ đã làm cho kinh tế huyện có một tương lai đầy hứa hẹn trên con đường đổi mới.
Với sự trợ giúp về vốn của Ngân hàng Nông nghiệp đã làm sống dậy một số ngành nghề truyền thống như: Chế ._.ộng thì khả năng rủi ro tín dụng lại rất lớn. Đó là nỗi lo, nỗi trăn trở của Ngân hàng vì Ngân hàng đi vay về để cho vay mà cũng không phải là vốn riêng của Ngân hàng.
- Hợp tác xã với chức năng làm dịch vụ cho nông dân, làm bật ra nhu cầu vốn của nông dân, là tổ chức trung gian để Ngân hàng cho hộ nông dân vay vốn, nhưng hiện tại rất kém. Đến nay còn khoảng từ 5-7 HTX (chủ yếu vùng thấp) có làm dịch vụ cho hộ nông dân, còn lại là làm cầm chừng, hoặc chỉ tồn tại trên danh nghĩa, đối với HTX này Ngân hàng không tin tưởng giao vốn để họ cung cấp cho hộ nông dân. Vì vậy đã hạn chế đến diện và số lượng vốn cho hộ nông dân vay. Càng cho hợp tác xã vay thì vốn Ngân hàng càng thêm nguy cơ đóng băng.
+ Thủ tục vay còn gây nhiều phiền hà (phải có nhiều chữ ký, dấu, mới đủ điều kiện vay) nông dân phải đi lại nhiều lần, mất thời gian tốn kém chi phí. thời gian cho vay còn gò ép, chưa phù hợp với chu kỳ sản xuất nông nghiệp.
Đặc biệt là về lãi xuất cho vay đối với hộ sản xuất nông nghiệp, cũng đang là những vấn đề cần quan tâm. Vấn đề này đang là những yếu tố cơ bản hạn chế đến việc mở rộng cho vay đối với hộ sản xuất, ảnh hưởng đến hiệu quả của sản xuất và lợi ích của người nông dân.
Vấn đề này được thể hiện ở một số điểm sau:
+ Lãi xuất cho vay hộ nông dân hiện nay nếu so với các loại lãi xuất khác trên thị trường vốn không phải là thấp.
Chính yếu tố này cũng tác động tới việc mở rộng đầu tư tín dụng vào lĩnh vực nông nghiệp nông thôn và kinh tế trang trại, tác dụng kích thích sản xuất chưa cao vấn đề đặt ra là hạ lãi suất đầu vào để có thể giảm lãi suất đầu ra, tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ với lãi suất bình quân 0,65%/tháng thì người vay có thể chấp nhận được.
+ Mô hình tài chính tín dụng nông thôn chưa được hình thành, hoạch định và hiện nay ở nông thôn đang có quá nhiều mức lãi suất khác nhau, do nguồn vốn cho vay của Nhà nước còn giao cho nhiều tổ chức quản lý và thực hiện cho vay. Chẳng hạn như nguồn vốn tài trợ quốc tế, do một số tổ chức đoàn thể thực hiện cho vay lãi xuất chỉ có dưới 1%/tháng.
Nguồn vốn giải quyết việc làm của Chính phủ 327 do Kho bạc thực hiện thì lãi suất cũng rất thấp....và nhiều nguồn vốn tài trợ khác. Điều đó đã gây ra tình trạng suy nghĩ chông chờ vào các nguồn vốn cho vay lãi suất thấp, đồng thời còn phát sinh nhiều tiêu cực làm giảm đi tính chất ưu đãi về lãi suất cho vay đối với hộ nông dân và làm cho bản chất của tín dụng Ngân hàng là "đi vay để cho vay" bị thu hẹp lại.
+ Về phía Ngân hàng đầu tư cho hộ nông dân nhận thức từ một số nhân viên còn rất yếu kém biểu hiện:
- Nhận thức cho vay hộ nông dân còn đơn giản (nhất là thời gian từ 1991, 1992, 1993 một bộ phận quá chậm đổi mới, tư tưởng bao cấp vẫn còn nặng nề, không ít nơi, ít người ngại cho hộ nông dân vay.
- Cho vay hộ nông dân là vấn đề khó, là vấn đề khoa học nhưng trình độ năng lực cán bộ nhân viên Ngân hàng nông nghiệp Nguyên Bình còn bất cập mặc dù trình độ cán bộ Ngân hàng nông nghiệp huyện, với 27% đại học và tương đương đại học, 73% trung cấp nhưng vẫn còn chưa am hiểu hết về kỹ thuật nông nghiệp, thiếu kiến thức khoa học kỹ thuật về cây, con giống...Do đó việc cho vay trong lĩnh vực nông nghiệp còn nhiều lúng túng chưa đáp ứng được đòi hỏi thực tiễn của nông nghiệp nông thôn miền núi. Việc xác định mức vốn vay, định kỳ hạn nợ, tính toán hiệu quả kinh tế...còn thiếu cơ sở khoa học, thiếu thực tiễn kiểm tra sau khi cho vay chưa được thường xuyên cho nên mức độ an toàn cũng như hiệu quả chưa thật cao trong việc cho vay hộ nông dân nói chung vẫn sảy ra tình trạng không có khả năng trả nợ Ngân hàng, nợ quá hạn khó thu hồi.
+ Chỉ tiêu doanh thu thực hiện ở mức độ thấp đã ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả tài chính và đời sống cán bộ công nhân viên.
+ Nguyên nhân của những tồn tại là do:
Việc chấp hành cơ chế, thể lệ chế độ, chấp hành quy trình, kỷ luật tín dụng chưa được nghiêm và thật triệt để. Tình trạng vi phạm chế độ, thể lệ nghiệp vụ khi sảy ra chưa được Ngân hàng huyện tự giác chấn chỉnh kịp thời và xử lý kiên quyết, nhất là đối với những cán bộ vi phạm do thiếu trung thực, ý thức kém, lạm dụng vì tư lợi cá nhân.
+ Công tác kiểm tra, kiểm soát tuy có làm thường xuyên nhưng hiệu quả chưa cao. Việc tổ chức sửa sai phát hiện qua thanh tra kiểm tra còn chậm. Cán bộ giám định viên đặt tại Ngân hàng cơ sở ít phát huy tác dụng, có trường hợp bị vô hiệu hoá kiểm tra chuyên đề của các Phòng ban chức năng của Ngân hàng huyện thiếu thường xuyên và bài bản.
+ ý thức trách nhiệm của cán bộ công nhân viên chưa cao. Một số cán bộ quản lý điều hành còn bàng quan trước lợi ích chung chưa sâu sát, thiếu cụ thể. Công tác điều hành chỉ đạo còn mang nặng tư tưởng chông chờ ỷ lại, cung cách làm ăn còn những biểu hiện tuỳ tiện, gia đình chủ nghĩa.
Hiện nay huyện có 5.562 hộ nông dân, đang tiến hành sản xuất rải rác ở 18 xã đòi hỏi phải có một đội ngũ lực lượng cán bộ khoảng 60% làm tín dụng, nhưng hiện nay mới có 36,84% cán bộ làm tín dụng cho hộ nông dân vay đó là một điều chưa hợp lý trong tổ chức màng lưới, vì vậy trong thời gian qua Ngân hàng Nguyên Bình chưa bao quát được sâu rộng trong nông thôn, bạn hàng nông dân.
Vì vậy kết quả đầu tư cho hộ nông dân còn hạn hẹp cả về diện lẫn số lượng.
Việc điều hành cụ thể của Ngân hàng Nguyên Bình từng lúc, từng nơi còn thiếu năng động, thiếu sự hợp tác với các ngành, các cấp, giữa các nghiệp vụ bộ phận công tác...nên chưa tạo ra sức mạnh tổng hợp trong qúa trình thực hiện nhiệm vụ cho vay hộ nông dân.
Việc rút kinh nghiệm không thường xuyên chưa tiến hành nghiên cứu khoa học trên diện rộng và lượng vốn đầu tư còn ít, mức độ an toàn của tín dụng chưa cao, hiệu quả kinh tế - xã hội chưa nhiều.
Chương III
Những đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện
phát triển cho vay đối với hộ sản xuất
I. Định hướng về mở rộng đầu tư tín dụng đối với hộ sản xuất trong những năm tới.
Xuất phát từ thực tiễn cung cấp tín dụng cho hộ nông dân trong những năm qua của đơn vị đã đạt được những kết quả đáng kể, song còn bộc lộ nhiều vấn đề cần phải quan tâm để giúp và góp phần cho hộ nông dân xóa đói, giảm nghèo thì không phải một sớm một chiều mà thực hiện được, mà ở đây phải có một quá trình lâu dài, vận dụng Chỉ thị và Nghị quyết của Đảng và Nhà nước. Đồng thời phải có sự phối hợp với các ngành các cấp. Một mình ngành Ngân hàng hay một vài ngành khác thì không thể nào thực hiện được những mục tiêu của Đảng đề ra về nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
Với nhận thức và trình độ còn hạn hẹp. Tôi xin mạnh dạn nêu lên một số vấn đề để Ngân hàng Nông nghiệp huyện Nguyên Bình cũng như cá nhân tôi góp phần nhỏ bé vào trong toàn xã hội nhất là giúp đỡ nông dân thoát khỏi đói nghèo như hiện nay ở hầu hết một số vùng của Tỉnh Cao Bằng nói chung và huyện Nguyên Bình nói riêng.
II. Những kiến nghị đề xuất:
1. Kiến nghị đối với Nhà nước.
- Đề nghị với Nhà nước có nguồn vốn ngân sách tài trợ ban đầu cho nông nghiệp, nông dân, thông qua công cụ, tín dụng, không lấy lãi Ngân hàng nông nghiệp (như vốn tái tạo rừng, vốn thuỷ lợi, vốn khai hoang, vốn cho trồng mới, vốn cho chăm sóc cây chè....) để cho Ngân hàng nông nghiệp đầu tư cho hộ nông dân với mức lãi suất thấp, phù hợp với điều kiện sản xuất, canh tác tập quán của hộ dân miền núi.
Tập trung những khoản vốn viện trợ,vốn vay nước ngoài phần thuộc dự án đầu tư trực tiếp cho nông nghiệp nông dân thông qua con đường tín dụng. Đây là nguồn vốn quan trọng vì nếu phân tán như hiện nay thì hiệu quả sử dụng các nguồn vốn này rất kém. Việc tập trung, thống nhất các nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp vào một đầu mối có tác dụng chẳng những tăng thêm năng lực, tạo vốn cho Ngân hàng nông nghiệp, mà còn làm thay đổi cơ cấu nguồn vốn, hình thành mức lãi suất cho vay hợp lý mà hộ nông dân ở miền núi có thể chấp nhận được.
Về phương diện lý luận: Ngân hàng với bản chất vốn có là tín dụng mà lịch sử hình thành phát triển ở mọi hình thái xã hội, thì nó vẫn là cơ quan tập trung, thống nhất, mạnh nhất.
Về hoạt động tín dụng được tạo lập bằng nguồn vốn ''đi vay để cho vay''. Mặt khác xét trên cơ sở thực tiễn, thì ngân hàng từ trước tới nay được Nhà nước giao nhiệm vụ hơn 50 năm qua đã đầu tư cho nông nghiệp và đã hình thành hệ thống tổ chức từ Trung ương đến các Huyện, Thị (nay đã xuống đến Xã như HTX tín dụng, Quỹ tín dụng Nhân dân) có nhiều kinh nghiệm cho vay Hộ nông nghiệp qua nhiều thập kỷ, có thể mạnh dạn khẳng định là: Ngân hàng Nông nghiệp có kinh nghiệm cho vay Hộ nông dân hơn Hệ thống Kho bạc và các tổ chức tín dụng khác .
Ngân hàng nông nghiệp đã trở thành bạn đồng hành, chung thuỷ với nông nghiệp, nông thôn và nông dân, bằng cách thông qua bằng nhiều biện pháp tín dụng Ngân hàng thích hợp, cung ứng vốn cho chi phí thời vụ dưới nhiều hình thứ khác nhau, được quần chúng nhân dân đồng tình ủng hộ. Mặt khác nếu các nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn và nông dân được tập trung vào một mối là Ngân hàng nông nghiệp thì Ngân hàng nông nghiệp có thể đáp ứng yêu cầu đòi hỏi cơ bản của sản xuất theo một chu kỳ khép kín, cho quá trình cung ứng vốn tới hộ nông dân như sau:
- Ngân hàng Nông nghiệp cho hộ nông dân vay chi phí thời vụ (ngắn hạn) sẽ bằng nguồn vốn huy động (tiết kiệm ....) nguồn vốn quản lý, vốn tự có, Ngân hàng nông nghiệp cho hộ nông dân vay trung hạn, dài hạn để xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật hạ tầng như các công trình thuỷ lợi và hoàn thiện hệ thống thuỷ nông, trạm bơm, có vốn để trồng rừng, trồng cây đặc sản như trúc, chè.... và chăn nuôi đại gia súc như bò, dê, ngựa cũng như những thực phẩm khác có giá trị hàng hoá cao như ếch, ba ba, rắn, lươn, hươu, nai.... mở rộng ngành nghề truyền thống của dân tộc....
- Đề nghị Chính phủ miễn thu thuế đối với Ngân hàng Nông nghiệp, vì nếu phải nộp thuế thì Ngân hàng Nông nghiệp không thể ưu ái riêng cho hộ nông dân được vay vốn với lãi suất thấp.
- Cho hộ nông dân ở Miền núi vay chủ yếu là hộ nông dân nghèo, vì vậy cho hộ nông dân nghèo vay mà có thể trả nợ được thì đề nghị Nhà nước có chính sách ưu đãi tài trợ cho nông dân hơn nữa.
+ Như chính sách tài trợ đầu vào, đầu ra tiêu thụ sản phẩm như chè, thuốc lá, sản phẩm từ chăn nuôi .....
+ Xây dựng chính sách giá cả có lợi cho nông dân, đảm bảo cho nông dân bù đắp được chi phí và có tích luỹ hợp lý.
+ Tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất của hộ nôn gdân như: Sự hình thành thị trường vốn ở nông thôn, nâng cao trình độ dân trí, quan tâm xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông thôn (nhất là các xã vùng cao, vùng sâu...)
Đây là những yếu tố rất quan trọng, nhưng hiện nay đang ở ngoài tầm hoạt động của Ngân hàng nông nghiệp, cần được Đảng và Nhà nước chỉ đạo.
- Để tiếp tục mở rộng cho vay hộ nông dân, bản thân một mình ngành Ngân hàng nông nghiệp vừa đảm nhiệm việc huy động vốn cho vay đối với hộ nông dân không thể đảm nhiệm hết được (do không bao quát được hết chi phí lớn....). Ngân hàng nông nghiệp cùng các xã duy trì và khuyến khích động viên hình thức cho vay tín chấp qua các tổ chức đoàn thể. Thực hiện cho vay theo Nghị quyết số 2038/NQLT/1999 ngày 9/10/1999 của TW Hội nông dân Việt Nam và NHNo Việt Nam.
-Việc cho vay hộ nông dân không đặt vấn đề lấy lợi nhuận là chính và nếu có lợi nhuận thì cũng đề nghị Nhà nước để lại cho Ngân hàng nông nghiệp để hình thành bổ xung quỹ rủi ro, vì đặc thù của sản xuất nông nghiệp cũng hay sảy ra rủi ro thường xuyên.
- Chỉ đạo các ngành chức năng khảo sát, quy hoạch xây dựng các dự án đầu tư phát triển kinh tế trong phạm vi từng vùng hoặc chung toàn Tỉnh về phát triển kinh tế cây trồng vật nuôi, mở mang ngành nghề trên cơ sở đó ngân hàng thẩm định cho vay đối với kinh tế hộ.
- Chỉ đạo cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép đăng ký kinh doanh, phải kiểm tra, giám sát kinh doanh, xác định mức vốn đăng ký phù hợp với quy mô kinh doanh của khách hàng và phải chịu trách nhiệm về tư cách pháp lý của khách hàng. Nếu khách hàng sản xuất kinh doanh không đúng ngành nghề như trong giấy phép kinh doanh thì cơ quan có thẩm quyền thu hồi giấy phép. Có như vậy mới buộc khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích, hạn chế rủi ro đạo đức do khách hàng gây ra....
2- Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước:
- Đối với Ngân hàng Nhà nước cần có chính sách tín dụng riêng về cho vay hộ nông dân để phù hợp với đặc điểm của Nông thôn và Nông dân nhất là Nông dân miền núi, dân tộc vùng cao, đường xá đi lại khó khăn, với mục tiêu giải quyết việc làm, ổn định cuộc sống là trên hết. Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn, để tiến kịp miền xuôi... là lâu dài. Mà ở miền núi theo suy nghĩ của bản thân tôi là giải quyết cho dân đỡ đói nghèo, đời sống vật chất tinh thần được nâng lên một bước là lý tưởng, còn từ năm 2000 trở đi tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng, và có những giải pháp chính sách hữu hiệu hơn của Đảng thì đời sống của nông dân miền núi, vùng cao, vùng sâu sẽ nâng lên rõ rệt.
Chỉ đạo các hệ thống Ngân hàng mở rộng hoạt động thị trường liên ngân hàng để kịp thời điều hoá vốn giữa các Ngân hàng Thương mại trong nước. Mở rộng hình thức huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và trong các địa bàn, các tổ chức kinh tế xã hội, để có đủ nguồn vốn mở rộng doanh số cho vay hơn nữa tăng mức cho vay, cũng như số hộ được vay, nhất là ở vùng cao, vùng sâu. hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc , lãi xuất cho vay chiết khấu đối với NHNO và PTNT .
3- Kiến nghị đối với Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Việt Nam.
Những kiến thị thuộc về cơ chế chính sách tạo điều kiện cho ngân hàng cơ sở và khách hàng:
- Thủ tục hồ sơ xin vay :
Đề nghị Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Việt Nam nghiên cứu thu gọn lại. Do trình độ dân trí ở nông thôn còn thấp và tính truyền thống của nông dân là sự sòng phẳng, thì thủ tục vay vốn hiện nay vẫn còn phức tạp bởi nhiều loại giấy tờ, nội dung còn dài vì vậy cần đơn giản hơn và nên có mẫu mã riêng cho vùngáâu, vùng xa, cùng cao. Sự đơn giản là cần thiết nhưng thủ tục vẫn cần phải đảm bảo tính pháp lý.
Về thể lệ tín dụng hoặc biện pháp cho vay :
Hiện nay vừa qui định chung cho tất các đối tượng, vừa quy định cụ thể đối tượng được vay nên không phù hợp với thực tế đa dạng ở nông thôn. Nên có thể lệ tín dụng chung chỉ quy định đối tượng không được vay. Còn biện pháp cho vay cụ thể cho một số đối tượng đặc thù, một vùng đặc thù.
Về thế chấp tài sản :
- Sửa đổi những biểu hiện quy định vượt ra ngoài khả năng hợp lý kiểm tra của cán bộ tín dụng. Đồng thời xác định rõ trách nhiệm hành chính, kinh tế và pháp lý của khách hàng trong quan hệ vay trả, bảo vệ lợi tích và quyền lợi chính đáng của ngân hàng.
- Nên phân cấp đăng ký hợp đồng thế chấp tài sản cho UBND các xã là những người nắm vững nhất tình hình kinh tế, tài sản của từng gia đình do đó có thể xác nhận nhanh chóng và khi phải xử lý thì họ cùng với cơ quan pháp luật xử lý nhanh hơn. Cách làm này vừa tạo điều kiện thuận lợi cho dân, vừa có khả năng mở rộng đầu tư tín dụng và khả năng an toàn vốn cao hơn vì: UBND xã xác nhận họ có điều kiện để quản lý tài sản tốt hơn là công chứng hoặc UBND cấp Huyện. Mức vay vốn trên 20 triệu đồng thì hợp đồng thế chấp tài sản phải qua công chứng hoặc UBND cấp Huyện xác nhận. Ngày 29/3/1999 Chính phủ đã có Nghị định số 17/NĐ-CP về: ''Thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử dụng đất và thế chấp, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất'' và tiếp theo ngày 29/12/1999 ban hành tại Nghị định 178/NĐ-CP về "Đảm bảo tiền vay'' đề nghị cán bộ ngành hữu quan, đặc biệt là ngân hàng Nhà nước sớm ban hành các thông tư hướng dẫn cụ thể để tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại và các hộ vay vốn có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh (chỉ cần đăng ký thế chấp tài sản tại UBND xã, phường, thị trấn).
- Cần xem xét chỉnh sửa những điểm chưa hợp lý trong văn bản 806/NHNo. Về xử ký cán bộ cho vay để nợ quá hạn. Phải quy định mức vốn cho vay để quá hạn, nhưng do chủ quan của cán bộ tín dụng thì phải nghỉ đi thu nợ trong thời gian nhất định, không thu được thì phải bồi thường. Những nợ quá hạn do hành vi cố ý của khách hàng như lừa đảo, chụp dật, cố ý sử dụng sai mục đích vào các hành vi phạm pháp thì pháp luật phải xử lý khách hàng đó trước và phải có biện pháp xử lý kiên quyết để giữ nguyên kỷ cương phép nước và bảo vệ lợi ích chính đáng của ngân hàng và cán bộ ngân hàng.
- Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam cần nghiên cứu chế độ ưu đãi cho đội ngũ cán bộ tín dụng ở địa bàn nông thôn như về chế độ công tác phí thoả đáng, trang bị phương tiện làm việc hàng năm như: áo mưa đi mưa, mũ bảo hiểm xe máy.... Các chế độ ưu đãi về thu nhập để khuyến khích cán bộ tín dụng thời gian bám sát địa bàn thẩm định đầu tư vốn, phục vụ kịp thời nhu cầu vốn cho mở rộng sản xuất, kinh doanh của các hộ gia đình.
- Phải có chủ trương đào tạo cán bộ ngân hàng mà trước mắt là cán bộ tín dụng giỏi nghiệp vụ ngân hàng nhưng phải am hiểu các nghiệp vụ kinh tế chuyên ngành có như vậy cán bộ tín dụng mới đủ khả năng phát hiện hướng dẫn và thẩm định dự án kết quả. Đánh giá đúng hiệu quả kinh tế của dự án, am hiểu kỹ thuật, nắm vững các định mức kinh tế kỹ thuật thì mới giám sát khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích có hiệu quả và mới an toàn vốn vay.
4. Kiến nghị đối với UBND huyện Nguyên Bình .
4.1- Hoàn thiện việc giao đất, giao rừng trên địa bàn huyện theo nguyện vọng của nhân dân các dân tộc trong huyện. Trên cơ sở đó Nông dân yên tâm định canh định cư, Ngân hàng sẽ đầu tư cho vay hộ sản xuất để trồng rừng, cây ăn quả lâu năm, cây công nghiệp, tạo công ăn việc làm cho các đối tượng trong độ tuổi lao động.
4.2- Có chính sách ưu đãi đối với đồng bào thiểu số trước đây hạ sơn, song tan vỡ HTX nông nghiệp phải quay về du cư, du canh, hạn chế việc chặt phá rừng tràn lan, từ đó đồng bào thiểu số thấy được chính sách ưu việt của Chế độ XHCN, hạn chế cả việc di cư vào Nam. Từ đó tạo điều kiện cho NHNo huyện mở rộng màng lưới tín dụng trên toàn huyện.
4.3- Dùng Ngân sách Nhà nước đầu tư cho công tác tư vấn kỹ thuật về cây trồng vật nuôi, cơ cấu giống để tăng năng suất, hạn chế dịch bệnh, hạn chế rủi ro mất vốn của Ngân hàng, nâng cao đời sống của nhân dân.
4.4- Tuyên truyền phổ biến rộng rãi cơ cấu, thành phần đất đai trong huyện, thực hiện thâm canh tăng vụ, trồng xen màu, tạo ra môi trường đầu tư vốn cho Ngân hàng.
4.5- Làm tốt công tác dịch vụ về thuốc trừ sâu, phân bón, cây, con giống tăng năng suất cây trồng, vật nuôi từ đó tăng hiệu quả vốn vay Ngân hàng.
5- Kiến nghị đối với ngân hàng Nông nghiệp Nguyên Bình.
5.1- Tìm biện pháp khả thi tăng nguồn vốn trong địa bàn. Có chủ động được vốn thì mới có thể mở rộng được vốn vay bằng mọi biện pháp phải sử dụng tất cả các phương pháp huy động truyền thống. Phát huy mạng lưới rộng khắp các thôn xã đều có cán bộ tín dụng phụ trách địa bàn nắm bắt khả năng, vận động gửi vào ngân hàng mọi nguồn nội ngoại tệ nhàn rỗi.
- Tăng cường vận động khách hàng mở tài khoản tiền gửi như tư nhân và vận động thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng.
- Cải tiến lề lối làm việc, nâng cao ý thức phục vụ khách hàng, đây là yếu tố quan trọng nhất để thuyết phục người gửi tiền. Vì uy tín ngân hàng là an toàn, bảo toàn được vốn, thuận tiện đơn giản.
5.2- Tăng cường công tác tuyên truyền tiếp thị kể cả trực tiếp và gián tiếp, trong đó coi trọng khâu tiếp thị, tuyên truyền của cán bộ ngân hàng, Tập trung chủ yếu vào các quy trình thủ tục vay vốn, điều kiện vay vốn và các hình thức tiền gửi để khách hàng biết lựa chọn thực hiện việc đào tạo lại cán bộ cả về năng lực nghiệp vụ, kiến thức kinh tế mọi ngành để có đủ khả năng tư vấn xây dựng và thẩm định dự án đầu tư, từng bước nâng cao hiệu quả tín dụng....
5.3- Mở rộng hình thức cho vay qua tổ liên doanh đối với các món nhỏ từ 5 triệu đồng trở xuống thông qua các đoàn thể mà nòng cốt là Hội phụ nữ, Hội nông dân theo tinh thần Nghị quyết liên tịch giữa TW Hội nông dân Việt Nam với NHNo Việt Nam; Theo hướng dẫn tại Công văn số 2648/NHNo - 06 ngày 15/11/1999 của NHNo Việt Nam. Từ đó giảm lượng hồ sơ tín dụng, giảm bớt quá tải tăng thêm trách nhiệm và lực lượng kiểm tra, kiểm soát trước và sau khi cho vay.
5.4- Đa dạng hoá các loại cho vay ngoài tín dụng truyền thống có thể mở thêm các loại cho vay như vay cầm cố, cho vay tiêu dùng, cho vay trả góp, nghiên cứu mạnh dạn đầu tư các mô hình kinh tế mới có hiệu quả cao, tỷ suất hàng hoá lớn như kinh tế tiểu nông, kinh tế trang trại. Đặc biết là các trang trại nông lâm nghiệp, chăn nuôi là những tiềm năng thế mạnh của kinh tế địa phương để thu hút khách hàng, các loại cho vay này lâu nay chưa làm cần mạnh dạn mở rộng về quy mô đối tượng.
5.5- Thực hiện các biện pháp để không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng.
5.6- Tìm kiếm, phát hiện hướng dẫn khách hàng xây dựng các dự án khai thác, các thế mạnh trong địa bàn huyện nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, thực hiện thẩm định và đầu tư theo dự án.
5.7- Bố trí xắp xếp lại cơ cấu biên chế phòng tín dụng hợp lý đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cho vay ở huyện miền núi vì tỷ lệ cán bộ tín dụng hiện nay còn thấp (36%). Chủ động sáng tạo trong kinh doanh, sử dụng có hiệu quả 5 công cụ quản lý điều hành hoạt động kinh doanh là :
Lãi xuất - Kế hoạch - Tài chính - Kiểm soát và Thi đua.
Thường xuyên bảo đảm thông tin 2 chiều giữa khách hàng với ngân hàng để phục vụ tốt hơn nữa, giữa Ngân hàng với cấp Uỷ chính quyền địa phương để nắm bắt tình hình kinh tế - xã hội địa phương phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Cấp uỷ chính quyền huyện Nguyên Bình.
5.8- Vận dụng sáng tạo cơ chế khoán tài chính đến tổ và người lao động để tăng năng suất lao động, thực hiện khen thưởng kỷ luật nghiêm minh tránh hiện tượng dễ thì làm, khó thì bỏ trong công tác tín dụng.
6. Những kiến nghị đề xuất với hộ sản xuất:
- Các hộ gia đình phải có ý thức trong việc chủ động xây dựng phương án, dự án sản xuất kinh doanh trên cơ sở những khả năng, tiềm năng sẵn có của mình. Cung cấp đầyđủ đúng các thông tin về tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của mình để ngân hàng xem xét, tư vấn cho khách hàng và xác định mức vốn cho đầu tư hợp lý, phù hợp với năng lực quản lý của từng hộ.
- Phải có ý thức tích luỹ kinh nghiệm trong quá trình sản xuất kinh doanh, kinh nghiệp của những người xung quanh và tham gia các buổi tập huấn, chuyển giao công nghệ để học tập và tích luỹ những kiến thức khoa học kỹ thuật về đối tượng mà mình sắp đầu tư trước khi vay vốn ngân hàng để đầu tư. Có như vậy mới đủ khả năng quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả....
Kết luận
Chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, trong nông thôn lấy hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ thì việc đầu tư tín dụng đến hộ nông dân là một tất yếu khách quan. Hay nói đúng hơn là hộ nông dân muốn phát triển sản xuất, muốn giảm bớt đói nghèo thì phải có vốn, trong đó tín dụng ngân hàng là một kênh vốn chiếm vai trò rất quan trọng .
Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu: là trọng tâm là khâu đột phá cho sự phát triển kinh tế nông thôn ở nước ta.
Từ ý nghĩa tầm quan trọng, vai trò của sự phát triển nông nghiệp ở nước ta, cho thấy giải pháp về tín dụng cho hộ sản xuất là một giải pháp cơ bản và quan trọng hàng đầu. Nó phù hợp ý mong muốn của lòng dân. Tuy nhiên chủ trương tín dụng đối với hộ nông dân là một chủ trương mới có tầm về quốc gia. Nhất định không tránh khỏi những sai xót trong quá trình thực thi trên phạm vi rộng lớn.
Bằng kinh nghiệm thực tế và tính năng động của mình, việc đầu tư cho hộ nông dân của Ngân hàng Nông nghiệp huyện Nguyên Bình trong thời gian qua đã đạt được những kết quả bước đầu rất quan trọng mở ra hướng mới, trong việc giải quyết cho vay vốn sản xuất nông nghiệp trên địa bàn hiện nay, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương.
Tuy vậy việc đầu tư cho hộ nông dân ở Nguyên Bình không phải là vấn đề đơn giản, vì nó phải tiến hành trong điều kiện nền kinh tế chủ yếu là tự cung, tự cấp, hạ tầng cơ sở miền núi rất yếu kém, năng suất lao động thấp, cơ cấu kinh tế chưa hợp lý... thêm vào đó là tình hình quan hệ sản xuất ở nông thôn chưa theo kịp với chuyển hướng sản xuát theo các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước.
Đời sống đại bộ phận nông dân là đang nghèo khó thiếu vốn trầm trọng, các yếu tố sản xuất ở nông thôn liên kết được với nhau. Việc đầu tư trực tiếp tới hộ nông dân của Ngân hàng Nguyên Bình là một hướng đi đúng cả về trước mắt cũng như về lâu dài và nó phù hợp với thực tế sản xuất của các dân tộc trên địa bàn hiện nay.
Sau thời gian học tập tại Học viện Ngân hàng và thực tế ở đơn vị tôi đã chọn đề tài "Cho vay kinh tế hộ sản xuất ở Ngân hàng Nông nghiệp huyện Nguyên Bình'' làm luận văn tốt nghiệp. Đề tài này khái quát những vấn đề lý luận về kinh tế hộ, cơ sở hình thành và vai trò của kinh tế hộ trong sản xuất nông nghiệp. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế trang trại. Đề tài đã phân tích về cho vay kinh tế hộ ở Ngân hàng Nguyên Bình, quan hệ giữa Ngân hàng Nông nghiệp với thành phần kinh tế hộ sản xuất trong thời gian qua và đã chỉ ra những mặt mạnh và một số tồn tại của tín dụng Ngân hàng đối với cho vay kinh tế hộ. Trên cơ sở phân tích về thực trạng quan hệ tín dụng đối với hộ để từ đó đưa ra những giải pháp kiến nghị cụ thể đối với các cấp các ngành có liên quan.
Bản thân tôi với khả năng nghiên cứu còn hạn chế nhất định cho nên bài viết này chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Vì vậy tôi mong muốn nhận được sự đóng góp của các thầy giáo, cô giáo, đồng nghiệp và bất cứ ai quan tâm đến lĩnh vực này ./.
Tài liệu tham khảo
1- Niên giám thống kê tỉnh Cao Bằng.
2- Ngân hàng Việt Nam quá trình xây dựng và phát triển.
3- Báo cáo thống kê Ngân hàng nông nghiệp huyện Nguyên Bình.
4- Báo cáo định kỳ của giám định viên tại đơn vị.
5- Báo cáo tổng kết công tác từ năm 1995-1999 của Ngân hàng nông nghiệp Nguyên Bình.
6- Báo cáo tổng kết thực hiện nhiệm vụ mục tiêu kinh tế xã hội nhiệm kỳ 1994-1999. Phương hướng nhiệm vụ nhiệm kỳ 1999-2004 của Uỷ ban nhân dân huyện Nguyên Bình.
7- Báo cáo nhiệm kỳ 1994-1999 của Hội đồng nhân dân huyện Nguyên Bình.
8- Báo cáo quyết toán ngân sách huyện Nguyên Bình cuối năm từ 1995 đến 1999.
9- Báo cáo tổng kết thực hiện xoá đói giảm nghèo huyện Nguyên Bình các năm 1997, 1998, 1999.
10- Tạp chí Ngân hàng.
11- Báo cáo tình hình định canh định cư năm 1999 của Ban định canh định cư huyện Nguyên Bình.
12- Báo cáo tổng kết các năm từ 1995 đến 1999 Phòng nông nghiệp Nguyên Bình.
2.1 - Cho vay: Đơn vị: Triệu đồng.
Năm
Năm
Năm
Đến
So sánh đến 30-9-2000 tăng giảm
Chỉ tiêu
1995
1998
1999
so
Số tiền
Tỷ lệ
9/2000
So 1995
So 1999
So 1995
So 1999
1- Cho vay bằng vốn tín dụng thương mại
8.850
11.440
14.480
19.780
+10..930
+5.300
+123,50
+36,60
Trong đó:
+ Kinh tế quốc doanh
1.800
960
600
980
-820
+380
-45,55
+63,33
+ Kinh tế HTX
600
880
3.100
200
-400
-2.900
-66,67
-93,54
+ DN tư nhân
2.900
3.000
1.920
3.800
+850
+1.880
+28,81
+97,91
+ Cho vay khác
300
700
360
300
0
-60
0
-16,66
+ Hộ sản xuất
3.200
5.900
8.500
14.500
+11.300
+6.000
+352,12
+70,58
Trong đó: Riêng hộ nông dân
2.800
4.300
6.700
10.300
+7.500
+3.600
+267,85
+53,73
2- Cho vay NHPVNN
1.000
6.001
8.500
6.500
+5.500
-2.000
+550%
-23,52
Tổng doanh số cho vay
9.850
17.441
22.980
26.280
+16430
+3.300
166,80
+14,36
32
* 2.2 - Thu nợ . Đơn vị: Triệu đồng
Năm 2000 tăng, giảm
Chỉ tiêu
Năm 1995
Năm 1998
Năm 1999
Đến
Số tiền
Tỷ lệ
30.9.2000
So 1995
So 1999
So 1995
So 1999
1- Thu nợ vốn tín dụng Thương mại
2.480
8.740
11.480
15.980
+13.500
+4.500
5.544,3
+39,19
Trong đó: + Kinh tế Quốc doanh
500
2.360
800
830
330
+ 30
+ 66
+ 3,75
+ Kinh tế Hợp tác xã
90
380
2.600
0
- 90
-2.600
- 100
0
+ Doanh nghiệp tư nhân
600
2.300
2.420
3.400
+2.800
+1.980
+466,66
+139,43
+ Cho vay khác
200
500
480
80
-120
- 400
- 60
- 83
+ Hộ sản xuất
1.090
3.200
6.180
11.670
+10.580
+5.490
+970,64
+88,83
Trong đó riêng hộ nông dân
954
3.200
4.680
7.820
+6.866
+3.140
+ 719,7
+ 61,09
2- Thu nợ NH phục vụ NN
0
2.001
6.500
3.500
+3.500
+3.000
0
-46,15
Tổng cộng doanh số thu nợ
2.480
10.741
17.980
19.480
+17.000
+1.500
+685,48
+8,34
36
2.3 - Dư nợ : Đơn vị : Triệu đồng .
Năm 2000 tăng, giảm
Chỉ tiêu
Năm 1995
Năm 1998
Năm 1999
Đến
Số tiền
Tỷ lệ
30.9.2000
So 1995
So 1999
So 1995
So 1999
1- Dư nợ vốn tín dụng Thương mại theo thành phần kinh tế
10.500
13.200
16.200
20.000
+ 9.500
+ 3.800
+ 90,47
+ 23,45
Trong đó: Quốc doanh
2.500
1.100
900
1.050
- 1.450
+ 150
- 58
+ 16,67
Tỷ trọng
21,73%
6,05%
3,87%
3,5%
+ Hợp tác xã
900
1.400
1.900
2.100
+ 1.200
+ 200
+ 133,34
+ 10,52
Tỷ trọng
7,82%
7,69%
8,19%
7%
+ Doanh nghiệp tư nhân
1.900
2.600
3.100
3.500
+ 1.600
+ 400
+ 84,21
+ 12,90
Tỷ trọng
16,7%
14,28%
13,36%
11,66%
+ Cho vay khác
300
500
380
600
+ 300
+ 200
+ 100
+ 57,89
Tỷ trọng
3%
2,75
1,65%
2%
+ Hộ sản xuất
4.900
7.600
9.920
12.750
+ 7.850
+ 2.830
+ 160,20
+ 28,52
Tỷ trọng
42,6%
41,76%
42,76%
42,5%
Trong đó: Hộ nông dân
3.400
6.000
8.020
1.050
+ 7.100
+ 2.480
+ 208,82
+ 30,92
Tỷ trọng
29,56%
32,96%
34,57%
35%
2- Dự nợ tín dụng NHPVNN
1.000
5.000
7.000
10.000
+ 9.000
+ 3.000
+ 900
42,85
Tỷ trọng
8,69%
27,4%
30,17%
33,34%
Tổng dư nợ .
11.500
18.200
23.200
30.000
18.750
6.800
163,04
29,31
* Chỉ tiêu cho vay hộ sản xuất (có cả số liệu NHPVNN): Đơn vị: Triệu đồng
Năm 2000 tăng, giảm
Chỉ tiêu
Năm
Năm
Năm
Đến
Số tuyệt đối
Tỷ lệ %
1995
1998
1999
30.9.2000
So 1995
So 1999
So 1995
So 1998
1- Lượt hộ vay
2.500
4.300
5.450
7.300
+ 4.800
+ 1.850
+ 192%
+ 33,94%
Trong đó: Hộ nông dân
1.600
2.670
4.000
5.690
+ 4.290
+ 1.690
+ 268,12%
+ 42,25%
2- Số tiền bình quân lượt hộ vay (triệu đồng)
0,7
3,5
4
5
+ 4,3
+ 1
+ 614,28%
+ 25%
Trong đó: Hộ nông dân
0,4
2,3
2,8
3
+ 2,6
+ 0,2
+ 650 %
7,14%
3- Số hộ còn dư nợ cuối kỳ
2.030
3.400
4.090
5.120
+ 3.090
+ 1.030
+ 152,21%
+ 25,18%
4- Bình quân 1 hộ sản xuất vay (triệu đồng).
0,8
2,85
3,5
3,8
+ 3
+ 0,3
+ 375%
+ 8,57%
Trong đó: Hộ nông dân
0,6
2,4
2,7
3,2
+ 2,6
+ 0,5
+ 433,34%
+ 15,62%
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28199.doc