Thực trạng và một số kiến nghị về thương hiệu và giải pháp cho thuỷ sản (cá da trơn) Việt Nam trên thị trường Mỹ và thị trường quốc tế

Lời nói đầu Đại hội Đảng lần thứ VI đã khẳng định chuyển đổi cơ cấu kinh tế nước ta từ bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Từ đó tới nay, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ mà không ai có thể phủ nhận. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế đã và đang được cải thiện một cách rõ rệt. Trên con đường hội nhập và phát triển, Việt Nam có những lợi thế nhất định, nhưng đồng thời cũng gặp phải những khó khăn. Một trong những khó khăn mà gần đây chúng t

doc34 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1263 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và một số kiến nghị về thương hiệu và giải pháp cho thuỷ sản (cá da trơn) Việt Nam trên thị trường Mỹ và thị trường quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a đang gặp phải là vấn đề về thương hiệu của hàng hoá nước ta khi xuất ra thị trường nước ngoài bị “đánh cắp”, gây ra những thiệt hại to lớn cho nền kinh tế nước nhà. Nó gây ra sự ngừng trệ sản xuất, thậm chí phá sản cho các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cá tra, cá basa; và gián tiếp ảnh hưởng đời sống của những người dân người dân làm việc trong lĩnh vực này. Thương hiệu có một vai trò rất quan trọng đối với các doanh nghiệp, sản phẩm của doanh nghiệp có tiêu thụ được hay không là phải nhờ tới thương hiệu của sản phẩm được dánh giá ra sao, nhưng làm thế nào để các doanh nghiệp có được một thương hiệu độc quyền khi hàng hoá của họ xuất khẩu sang nước ngoài? Đó là một câu hỏi mà lời giải đáp của nó đang dần được hé mở, là một dấu hiệu đáng mừng cho các doanh nghiệp nước ta. Giờ đây, các doanh nghiệp Việt Nam đã phần nào ý thức được sự liên quan mật thiết giữa thương hiệu và việc tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên vẫn còn muôn vàn khó khăn mà các doanh nghiệp còn gặp phải bởi thực ra thương hiệu đối với họ còn là một khái niệm tương đối mới mẻ mà không phải bất kì một doanh nghiệp nào cũng có thể hiểu được một cách thấu đáo. Một trong những vụ tranh chấp thương hiệu của hàng hoá Việt Nam với nước ngoài gần đây được nói tới nhiều nhất là sản phẩm cá basa, cá tra của VN khi xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ. Cá tra, cá basa của Việt Nam bắt đầu xuất khẩu sang thị trường Mỹ từ năm 1997 và từ đó đến nay đã thu được những thành quả to lớn do cá của ta giành được lợi thế so sánh tuyệt đối với cá cùng loại tại thị trường Mỹ. Đứng trước thực tế này, phía Hoa Kỳ đã nghĩ ra nhiều cách để có thể hạn chế được việc nhập khẩu cá tra, cá basa của ta sang thị trường họ. Chiêu bài đầu tiên mà phía Mỹ sử dụng là việc cấm phía Việt Nam dùng thương hiệu Catfish khi cá của ta xuất khẩu sang thị trường nước họ; tiếp theo với chiêu bài thứ hai, Mỹ kiện Việt Nam bán phá giá cá tra, cá basa. Thế là, các doanh nghiệp Việt Nam vừa mới đứng dậy sau vụ kiện thương hiệu giờ đây lại phải đương đầu với vụ kiện chống phá giá. Để làm rõ vấn đề trên, chúng tôi đã đi sâu tìm hiểu nguồn gốc cũng như diễn biến của việc này dựa vào nguồn thông tin như sách báo, tạp chí, qua các phương tiện truyền thông đại chúng; và đăc biệt là được sự giúp đỡ nhiệt tình của giáo viên hướng dẫn. Đề tài nhằm mục tiêu tìm ra một số giải pháp cho vấn đề thương hiệu của Việt Nam trên thị trường nước ngoài và tìm kiếm con đường tiếp theo cho ngành thuỷ sản Việt Nam nói chung và sản phẩm cá basa nói riêng. Với mục đích trên, ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài nghiên cứu được chia làm 4 phần: Phần I: Thương hiệu Việt Nam trên thị trường quốc tế Phần II: Thực trạng kinh doanh cá da trơn Việt Nam trên thị trường Mỹ Phần III: Một số kiến nghị về thương hiệu và giải pháp cho cá da trơn Việt Nam trên thị trường Mỹ và thị trường quốc tế. Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện được những mục tiêu đề ra, song do khả năng có hạn, bài viết của chúng em không tránh khoie những hạn chế và thiếu sót. Với thái độ cầu thị, chúng em mong muốn nhận được những đóng góp quý báu của các thầy, cô giáo cũng như toàn thể những ai quan tâm tới vấn đề này. Chúng em xin chân thành cảm ơn ! Phần I: Thương hiệu Việt Nam trên thị trường quốc tế I. Vai trò của thương hiệu trong kinh doanh Khái niệm chung về nhãn hiệu, thương hiệu sản phẩm Nhãn hiệu là tên, thuật ngữ, dấu hiệu, biểu tượng, hình vẽ hay sự phối hợp của chúng, có công dụng để xác nhận hàng hoá hay dịch vụ của một người bán hay một nhóm người bán và phân biệt chúng với hàng hoá và dịch vụ của đối thủ cạnh tranh. Một nhãn hiệu khi đã thành công thì việc kinh doanh sản phẩm sẽ thuận lợi hơn, do đó sẽ có những cơ sở nhỏ bắt chước hoặc làm giả. Vì vậy, để bảo vệ cho tài sản có giá trị này, các doanh nghiệp cần có sự bảo đảm về mặt pháp lí đối với nhãn sản phẩm, doanh nghiệp sẽ đăng kí bảo vệ nhãn hiệu cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Như vậy, nhãn hiệu này được gọi là nhãn hiệu đã đăng kí hay thương hiệu. Trong trường hợp này, doanh nghiệp sẽ ghi thêm vào tên hay biểu tượng nhãn một số kí hiệu như R hay C nhằm nhấn mạnh tính pháp lý, tính độc quyền của nhãn hiệu đó. 2. Tầm quan trọng của nhãn hiệu sản phẩm trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp 2.1 Những lợi ích đem lại cho doanh nghiệp khi có một thương hiệu mạnh Thứ nhất, một thương hiệu mạnh có thể giúp doanh nghiệp sở hữu nó vượt qua những thời kì khó khăn, và hạn chế được tối đa những nguy hiểm mà doanh có thể gặp phải. Nó góp phần lợi ích không nhỏ vào trong trường hợp doanh nghiệp đang phải đối mặt với những vấn đề nan giải cả về tài chính lẫn khả năng cạnh tranh. Nó có thể giúp cho doanh nghiệp vượt qua khủng hoảng về mặt tài chính, đối mặt với nguy cơ bị phá sản, bỏ xa các đối thủ cạnh tranh yếu. Ví dụ, vào những năm cuối của thập kỉ 70s, xảy ra cuộc khủng hoảng dầu mỏ, đã dẫn đến việc rất nhiều hãng sản xuất ô tô bị thua lỗ, thất bại do họ việc chi phí quá cao. Tuy nhiên, vẫn có một hãng sản xuất ô tô có sản lượng bán hàng tăng lên, đó là Mercedes-Benz, một hãng sản xuất ô tô nổi tiếng nhất thời kì bây giờ. Thương hiệu Mercedes đã có uy tín lớn với khách hàng và khi nhu cầu trở thành động cơ, họ mua Mercedes để đáp ứng nhu cầu cấp bách đó. Thứ hai, Một khi thương hiệut tạo ra được nhóm khách hàng trung thành doanh nghiệp sẽ có thể kéo dài khả năng kinh doanh đối với sản phẩm đó. Người ta thương nói, một thương hiệu mạnh thường không bị ảnh hưởng bởi khái niệm “chu kì sống” . Ví dụ, qua một cuộc nghiên cứu ở Mỹ cho thấy trong 30 thương hiệu dẫn đầu ở Mỹ từ năm 1930 đến nay, 27 thương hiệu vẫn là người dẫn đầu trong thị trường sản phẩm đó, gồm xà bông tắm IVORY, bột ăn Gold medal, dầu ăn CRYSCO... Thứ ba, khi thương hiệu đã thành công trên thị trường thì hoạt động phân phối của doanh nghiệp cũng trở nên dễ dàng hơn, có khả năng xâm nhập nhanh hơn, sâu hơn vào các khu vực thị trường mới. Ví dụ, Coca Cola ngày đầu mới chỉ xuất hiện ở Mỹ, đã có thời kì Coca Cola gặp rất nhiều khó khăn khi thuyết phục các siêu thị nhận phân phối sản phẩm của mình. Tuy nhiên, khi Coca Cola trở nên nổi tiếng thì việc có mặt sản phẩm này trên thị trương thế giới là điều không mấy ngạc nhiên. Hay ví dụ như Mark&Spencer (M&S) – bước vào ngành dịch vụ tài chính thông qua việc một sở giao dịch vào cuối những năm 80s; dần dần, với khách hàng, nhãn hiệu M&S đồng nhất với sản phẩm dịch vụ có chất lượng và giá trị tiền tệ lớn. M&S đã rất dễ dàng thành công với tài sản vô hình này. Ngay cả khi trên thực tế hiện nay, M&S không còn kinh doanh trên lĩnh vực này, nhưng uy tín từ lĩnh vực đầu tiên này đã tạo cho M&S một động lực lớn để tham gia vào các ngành khác đầy tiềm năng. Thứ tư, Một thương hiệu mạnh là động lực tốt để thúc đẩy cán bộ công nhân viên làm việc có hiệu quả. Nó giúp doanh nghiệp thu hút và giữ lại được những nhân viên giỏi. Bởi đó là niềm tự hào và khuyến khích sự trung thành của người lao động. Rất nhiều chuyên gia quản lý đã hướng tới làm việc cho những doanh nghiệp có những thương hiệu hàng đầu bời vì những kinh nghiệm mà họ hi vọng sẽ nhận được từ những doanh nghiệp naỳ. Thương hiệu có hai chức năng chính: khẳng định nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm và giá trị tiêu dùng của sản phẩm; phân biệt sản phẩm này với sản phẩm khác. Thương hiệu có tác dụng lớn vì nó luôn in sâu vào tâm trí của khách hàng. Trong khi khách hàng tìm các sản phẩm và dịch vụ để đáp ứng những mong muốn hay giải quyết các vấn đề đang gặp, khách hàng luôn muốn tìm cho mình các sản phẩm “đủ tốt”. Thương hiệu hứa hẹn sản phẩm với độ tin cậy cao. Người ta thường nói:"Chúng ta đứng sau sản phẩm của chúng ta”, điều này cũng dễ hiểu thôi, bởi khi doanh nghiệp sản xuất ra hàng hóa, họ luôn phải dõi theo hàng hoá đó có đáp ứng được nhu cầu của thị trường không, liệu nó có tiêu thụ tôt không? Điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào tâm lý tiêu dùng của khách hàng đối với sản phẩm mà họ làm ra. Thương hiệu truyền thông trực tiếp ở mức “các giác quan nhạy cảm” và do đó dễ tạo cho người tiêu dùng một niềm tin mãi mãi. Ngày nay, thương hiệu có một vai trò vô cùng quan trọng trong khâu tiêu thụ sản phẩm. Khi khoa học công nghệ phát triển, các doanh nghiệp có thể sản xuất ra các mặt hàng có chức năng, hình thức, chất lượng không có sự khác nhau nhiều, dẫn đến tình trạng cạnh trạnh rất gay gắt. Để hàng hoá tiêu thụ được là cả một vấn đề lớn mà bất kì một doanh nghiệp nào cũng phải nghĩ tới. Vì vậy, một chiến lược xây dựng thương hiệu là chìa khoá cho các nỗ lực bán hàng, dịch vụ khách hàng và truyền thống công ty. Mỗi công ty, thậm chí một doanh nghiệp mới khởi đầu cũng cần có một chiến lược nhãn hàng thích hợp trước khi khởi đầu một chương trình marketing. 2.2 Lợi ích của thương hiệu mang lại cho người tiêu dùng Việc đặt tên cho sản phẩm giúp cho người tiêu dùng phân biệt được sản phẩm, họ sẽ có cơ hội so sánh và lựa chọn giữa nhiệu nhãn hiệ khác nhau trên thị trường để có được sản phẩm phù hợp cho mình. Thương hiệu sẽ cung cấp cho khách hàng một số thông tin ban đầu. Ví dụ khi người tiêu dùng nghe tới ti vi SONY, họ sẽ nghĩ ngay tới đây là một thương hiệu rất tốt, đã được chấp nhận qua nhiều năm bởi chất lượng tốt, mẫu mã đẹp. Nói tới SONY, họ còn thấy đây là sản phẩm của Nhật, nơi có những con người thông minh, cần cù, chịu khó, có công nghệ sản xuất hiện đại vào bậc nhất của thế giới. 3. Giá trị tài chính của thương hiệu Một thương hiệu manh tạo ra cho doanh nghiệp những lợi ích rất lớn. Vì vậy, ngày nay người ta quan tam nhiều hơn tới giá trị thực tế của cac thương hiệu qua việc đánh giá khả năng sinh lời của chúng. Ví dụ: trước đây, Rickett & Colman (R&C) đã mua lại airwick Group từ tay Ciba Geigy với giá 165 triệu bảng thay vì giá trị thực tài sản là 55.8 triệu bảng. Đến năm 1998, dưới sức ép của thị trường, ông chủ hãng đã bán lại công ty và thương hiệu R&Cđược coi là tài sản vô hình với giá trị lên tơí 678 triệu bảng. Còn ở Việt Nam, hãng KAO đã mua lại P/S với giá cao hơn nhiều lần so với giá trị thực của một công ty P/S gần như phá sản. Và họ đã vực dậy công ty với thương hiệu P/S đã có chỗ đứng vững chắc trong tâm trí người Việt Nam. Và họ cũng thuyết phục được khách hàng Việt Nam với hình ảnh của một sản phẩm truyền thống của người Việt Nam 4. Quản lý và đánh giá thương hiệu Mục tiêu marketing khi xây dựng thương hiệu là tạo dựng trong tâm trí khách hàng một lòng tin vững chắc về nhãn hàng của doanh nghiệp. Đầu tiên, doanh nghiệp dành nỗ lực để làm cho khách hàng nhận biết sản phẩm và tạo nên những liên tưởng tích cực trong tâm trí của họ. Qua thời gian, sự nhận biết và thái độ tích cực đó chuyển thành lợi nhuận khi người tiêu dùng trung thành với thương hiệu sản phẩm của doanh nghiệp. Các thông điệp marketing luôn là cầu nối để giới thiệu sản phẩm của doanh nghiệp tới người tiêu dùng, giúp cho họ hiểu được những lợi ích mà sản phẩm ấy mang lại. Mỗi hoạt động chiến lược marketing, đòi hỏi phải được lựa chọn cẩn thận để hỗ trợ cho thương hiệu. Những quảng cáo, xúc tiến bán hàng, những sự kiện đặc biệt hoặc bảo trợ sự kiện của doanh nghiệp đều phải củng cố cho thương hiệu. Mỗi một quan điểm của khách hàng với sản phẩm đều là một cơ hội để doanh nghiệp xây dựng thương hiệu. Việc xây dựng thương hiệu không phải là một hoạt động mà doanh nghiệp có thể hoàn thành trong một thời gian ngắn hoặc là mua sẵn từ một công ty tư vấn hay quảng cáo. Một thương hiệu thành công cần được xây dựng qua thời gian, từ hàng trăm những điều nhỏ mà doanh nghiệp làm đúng. Thương hiệu là một lời hứa hẹn, nó đảm bảo rằng sản phẩm hay dịch vụ mang nhãn đó sẽ sống cùng thời gian. Giá trị của nhãn đó tăng hay giảm cùng tên với tính chính trực của những người đứng sau nó. Quyền lực cuối cùng quản lý thương hiệu nằm trong tay những người đứng đầu doanh nghiệp. Để cải tiến tính sinh lợi lâu dài, doanh nghiệp cần đánh giá vị thế của nó trên thị trường. Để làm điều đó, doanh nghiệp cần phải tự đánh giá xem mình đang đứng ở đâu khi bắt đầu khởi xướng thương hiệu của mình. Trước khi triển khai một chiến lược xây dựng nhãn hàng, doanh nghiệp nên nghiên cứu để thăm dò những nhận thức của khách hàng đối với doanh nghiệp, nhãn hiệu và các sản phẩm mang nhãn hiệu. Dựa trên những hiểu biết đó, doanh nghiệp có thể xây dựng một thương hiệu để làm nổi bật những điểm mạnh . II. Thương hiệu Việt Nam trên thị trường quốc tế 1. Những vấn đề chung về thương hiệu Việt Nam trên thị trường quốc tế Trên con đường hội nhập và phát triển nền kinh tế quốc tế, Việt Nam đang dần chuyển mình từng bước để theo kịp bước tiến của thời đại. Nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực, ngày càng có nhiều doanh nghiệp thành đạt hơn. Khi những doanh nghiệp này có tiềm lực mạnh mẽ, họ luôn nghĩ tới việc xuất khẩu hàng hoá của mình ra nước ngoài, bởi đây là một thị trường đầy tiềm năng, nơi mà họ có thể thu được lợi nhuận lớn. Mặt khác, việc gia nhập thị trường nước ngoài là một dịp tốt để các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội cọ xát, học hỏi, tiếp thu khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của bạn, để từng bước hoàn thiện sản phẩm và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế. Với mục đích thâm nhập vào thị trường nươc ngoài, một trong những lĩnh vực đang được các doanh nghiệp đẩu tư mạnh mẽ, đó là phát triển thương hiệu. Đây là lĩnh vực mới mẻ ở Việt Nam nhưng nhiều doanh nghiệp đã nhận thức rõ ràng, nếu không đầu tư thì khó thu được thành công trên thương trường. Khi doanh nghiệp xây dựng được cho mình một thương hiệu độc quyền, có vị trí nhất định trong tâm trí người tiêu dùng, sẽ là điều kiện tiên quyết để tiêu thụ được sản phẩm nhanh chóng và lâu bền nhất. Tuy nhiên, để có thể giành được thắng lợi trong lĩnh vực này, điều kiện tối thiểu là các doanh nghiệp phải biết được luật chơi trên thị trường quốc tế. Việc thương hiệu của một số các doanh nghiệp như cà phê Trung Nguyên, bia Sài Gòn, may Việt Tiến, hay gần đây nhất là Petrol Việt Nam đã bị đánh cắp ở nước ngoài là một minh chứng rõ ràng cho sự thiếu hiểu biết về luật chơi. Và hậu quả là họ đã chịu những thiệt hại vô cùng lớn, uy tín của sản phẩm trên thị trường quốc tế bị giảm sút dẫn đến giảm sản lượng xuất khẩu, giảm lợi nhuận, ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của người dân làm việc trong nghề này. Đây sẽ là những bài học thật bổ ích không chỉ cho những doanh nghiệp nêu trên mà còn cho cả những doanh nghiệp có mong muốn được xuất khẩu hàng hoá của mình ra nước ngoài. Có thể nói, thương hiệu đóng một vai trò quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với các doanh nghiệp. Quan hệ Việt Nam và Mỹ sau chiến tranh Chưa có một cuộc chiến tranh nào ở Mỹ mà giới báo chí lại tốn nhiều giấy mực như cuộc chiến tranh ở Việt Nam, cuộc chiến kéo dài 20 năm ấy giờ đây đã là quá khứ. Kể từ ngày cuộc chiến chấm dứt tới nay đã hơn một phần tư thế kỷ, cả hai dân tộc Việt Nam và Mỹ đều muốn khép lại quá khứ, mở ra một tương lai: hợp tác, hữu nghị, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi. Đối với Việt Nam, chủ trương “bình thường hoá”, “đa dạng hoá”, “làm bạn với tất cả các nước trên thế giới” luôn định hướng hàng đầu trong chính sách đối ngoại. Cũng vậy, đối với Mỹ, nhất là trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới hiện nay, Mỹ cũng không đi chệch khỏi quỹ đạo khi quay lại làm bạn với một đất nước hình chữ S cách mình nửa vòng trái đất. Vì thế cả hai nước đều có những nỗ lực để cho tiến trình bình thường hoá trở thành hiện thực: Từ nới lỏng cấm vận, cho đến bỏ cấm vận, rồi bình thường hoá, thiết lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ giữa hai nhà nước, giao dịch thương mại, đầu tư, viện trợ.....và đặc biệt là Hiệp định thương mại Việt – Mỹ chính thức có hiệu lực từ tháng 5/2002 là minh chứng rõ ràng cho nỗ lực này. Xác định Mỹ là thị trường đầy tiềm năng Tuổi đời của nước Mỹ mặc dù còn rất trẻ xong những thành tựu kinh tế mà nó đạt được thì không một quốc gia nào có thể phủ nhận. Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai làm cho nền kinh tế Nhật Bản, Đông Âu bị khủng hoảng nghiêm trọng, ngược lại, Mỹ giầu lên nhanh chóng nhờ việc buôn bán vũ khí với giá cao cho vay nặng lãi...Kể từ đó tới nay, dựa trên một tiềm lực kinh tế mạnh mẽ, thu hút được nhiều nhân tài từ mọi nơi trên thế giới, Mỹ đã gây đựng được một nền kinh tế hùng mạnh vào loại bậc nhất của Thế giới, với GDP hơn 9000 tỷ $ chiếm khoảng 22% GDP thế giới, có nền khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến Với một diện tích rộng lớn, cùng với lượng dân cư đông đúc là một thị trường rộng lớn cho tất cả các mặt hàng. Hàng năm, nước Mỹ phải nhập khẩu một số lượng rất lớn các loại hàng hoá, đặc biệt là trong lĩnh vực hàng tiêu dùng cá nhân. Xúc tiến thương mại với Hoa Kỳ, sẽ tạo điều kiện tăng kim ngạch xuất khẩu cho nền kinh tế Việt Nam, gián tiếp tạo động lực thu hút nhiều hơn nữa các công ty nươc ngoài vào hoạt động đầu tư cho sản xuất hàng hoá xuất khẩu ở Việt Nam. Tăng cường giao dịch, buôn bán với Mỹ giúp Việt Nam ngày càng hoà nhập hơn nữa vào thị trường thế giới. Bên cạnh đó, Việt Nam có điều kiện để cải thiện hơn mạng lưới buôn bán của mình, điều này giúp Việt Nam theo kịp nhịp độ tự do buôn bán với các nước trong ASEAN, mở đường cho sự tham gia đầy đủ của Việt Nam vào các hoạt động hợp tác kinh tế với các nước thành viên của hiệp hội. Tuy nhiên, môi trường kinh doanh ở đây cũng rất phức tạp, doanh nghiệp nào muốn đứng vững ở thị trường này, họ phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh với các đối thủ khác. Để làm được điều đó, quả thực không hề đơn giản, ngoài việc cập nhật những kĩ thuật mới, họ còn phải nắm vững được những quy định mà Mỹ đặt ra; những quy định này là rất quan trọng, có thể nói nó có ý nghĩa sống còn với các nhà xuất khẩu. Tuy vậy, khi hiểu được những điều đó, nhà xuất khẩu sẽ mở ra cho mình một cơ hội kinh doanh với lợi nhuận cao. Phần II: Thực trạng kinh doanh cá da trơn Việt nam trên thị trường Mỹ I. Tình hình cá basa trên thị trường Mỹ Sản phẩm cá tra, basa Việt Nam trên thị trường Mỹ Theo thông báo của phía Mỹ trong năm 2001, xuất khẩu cá tra, cá basa của ta sang thị trường Mỹ đạt 50 triệu $, riêng hai tháng đầu năm 2002, xuất khẩu cá tra, cá basa vào thị trường Mỹ đạt khoảng 30 triệu $. Còn theo báo cáo của Bộ Thuỷ sản, trong những tháng đầu năm 2002, xuất khẩu loại cá này vào thị trường Mỹ tăng 20%, chiếm 52.8% tổng xuất khẩu cá tra, cá basa của Việt Nam. Theo số liệu của công ty tư vấn Mỹ Willkie Farr và Gallagher cung cấp, Việt Nam bắt đầu xuất cá tra, cá basa sang Mỹ: năm 1998 với sản lượng 261.352 kg; năm 2001 con số này tăng lên đạt 7.765.319 kg, chiếm 94.54% thị phần nhập khẩu loại cá này của Mỹ. Từ đầu năm 2001 tới tháng 3/2002 khối lượng cá da trơn nhập khẩu vào Mỹ có xu hướng giảm nhẹ, tuy nhiên, xuất khẩu cá tra, cá basa của Việt Nam sang Mỹ vẫn tăng. Đến nay đã chiếm tới 99.49% thị phần nhập khẩu cá da trơn. Như vậy Việt Nam hầu như là nước duy nhất xuất khẩu loại cá này cho thị trường Mỹ. Năm 2000 mức giá trung bình của cá da trơn tại thị trường Mỹ có xu hướng giảm, giá cá của Việt Nam về cơ bản đã ở mức tương đương với giá trung bình của các nước nhập khẩu vào Mỹ.(khoảng 3.3$/kg). Đến năm 2001, mức giá trung bình có xu hướng giảm xuống mức 2.77 $/kg và giá cá của ta cũng giảm theo ở mức này. Đến tháng 3/2002, mức giá trung bình của ta và các nước khác đều ở mức 2.65 $/kg. Tuy nhiên theo báo cáo gần đây nhất của Bộ Thương Mại, hiện nay giá cả của Việt Nam tại thị trường Mỹ đã tăng từ 2.6 $/kg đến 3.7$/kg. Việc xuất khẩu cá basa, cá tra của Việt Nam vào thị trường Mỹ tiếp tục tăng là do trong những tháng đầu năm cá nheo của Mỹ chưa tới vụ thu hoạch nên cung thiếu. Đồng thời, luật 107-76 về ngân sách nông nghiệp 2002 của Mỹ (có hiệu lực từ tháng 10/2001 đến 30/9/2002) chỉ không cho dùng tên Catfish khi làm thủ tục nhập khẩu, chứ không cấm việc sử dụng tên gọi này ở các khâu tiêu thụ (bán buôn, bán lẻ, dịch vụ, nhà hàng) tại thị trường Mỹ. Mặt khác, việc chính phủ Mỹ và các doanh nghiệp sản xuất cá da trơn sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng tại Mỹ để tuyên truyền cho phong trào hạn chế nhập khẩu cá da trơn của ta vào Mỹ đã có phần nào tác dụng quảng cáo cho cá của ta tới đông đảo người tiêu dùng Mỹ. 2. Thương hiệu của cá da trơn Việt Nam trên thị trường Mỹ Cá da trơn Việt Nam đưa vào thị trường Mỹ có tên gọi Catfish, và đó cũng là tên chữ cái tiếng Anh chỉ tất cả các loài cá da trơn (không có vẩy), bao gồm cá trê, cá nheo, cá tra, cá basa, cá lăng, cá bông lau...Theo hệ thông phân loại ngư học, tất cả các loài cá nói trên đều thuộc về Bộ cá nheo có tên gọi (Siluriformes) gồm khoảng 2500 đến 3000 loài cá khác nhau, phân bổ trong các thuỷ vực nước ngọt, mặn và lợ trên khắp thế giới. Các loài cá này được xếp vào các họ cá khác nhau, trong đó có họ cá nheo Mỹ (Ictaluridae) và họ cá da trơn Châu á (Pangasiidae). Loài cá nheo được nuôi ở Mỹ (Ictalurus punctatus) thuộc họ cá nheo Mỹ, còn cá tra (Pangasius hypophthalmus) và cá tra, cá basa (Pangasius bocourti) được nuôi phổ biến ở đồng bằng sông Cửu Long thuọoc họ cá da trơn Châu á. Tuy nhiên, khi sử dụng tên Catfish cho các sản phẩm này, Việt Nam đã bị Hiệp hội cá da nheo Mỹ (CFA) phản đối vì họ cho rằng sản phẩm này đã sử dụng nhãn hiệu của họ. Nhưng trên thực tế, đây là tên sản phẩm chứ không phải tên nhãn. Mặc dù vậy, dưới sức ép của CFA, sản phẩm cá tra, cá basa của Việt Nam trên thị trường Mỹ cũng đã gặp phải những bất lợi lớn. Đáng chú ý nhất là trong cuộc chiến Catfish hiện này là Hiệp hội các chủ trại nuôi cá Nheo Mỹ; Hiệp hội này đại diện cho giới chủ trại nuôi cá nheo giầu có ở bang Missisipi và một số bang miền Nam nước Mỹ. Đây là ngành sản xuất quan trọng tại các bang này, các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ thu lợi rất lớn từ việc khai thác những vùng đất hoang mênh mông nơi đây vào việc nuôi cá. Trước đây, cá nheo vốn là thức ăn của người da đen nghèo khổ, nay đã trở thành một loại thực phẩm được bán rộng rãi trên thị trường Mỹ, xếp thứ 5 trong số các loại thuỷ sản được tiêu thụ nhiều nhất trên thị trường này. Chính vì vậy, họ rất cay cú khi thấy những sản phẩm cá da trơn được nhập khẩu từ nước ngoài có phẩm chất tốt hơn, giá bán rẻ hơn, đang chiếm lĩnh trên thị trường Mỹ. Và thế là sau hơn 20 năm sau khi thất bại trong cuộc chiến chống lại dân tộc Việt Nam, Mỹ lại chủ trương dấy lên một cuộc chiến mới, mà như họ tuyên bộ lần này không phải để chống lại chủ nghĩa cộng sản mà để chống lại cá tra, cá basa của Việt Nam. 3. Cuộc chiến Catfish của Việt Nam trên thị trường Mỹ Trong hai năm 1999 và 2000, lượng cá tra, cá basa Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ tăng khá nhanh, ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của những nhà nuôi cá nheo Mỹ. Vì vậy, từ cuối năm 2000, qua dư luận và các phương tiện thông tin đại chúng, CFA đã cố tình đưa những thông tin sai lệch để bôi xấu hình ảnh cá tra, cá basa của Việt Nam. CFA đã thực hiện một chiến dịch ồn ào nhưng không ngăn được lượng cá da trơn Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Để tìm hiểu thực chất vấn đề, Hiệp hội nuôi cá nheo Mỹ đã sang Việt Nam tìm hiểu tình hình nuôi cá tra, cá basa. Đoàn đã khảo sát kỹ tình hình thực tế nuôi và chế biến cá tra, cá basa tại các bè cá, ao nuôi, nhà máy chế biến tại An Giang và Cần Thơ. Những kết quả mà đoàn đánh giá tốt về công nghệ nuôi, chế biến cũng như điều kiện đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm của cá da trơn Việt Nam. Với nhận xét này, cuộc chiến chống lại cá da trơn Việt Nam ở Mỹ lắng xuống chút ít. Nhưng kết quả này đã không được CFA công nhận. Đầu tháng 2/2001, vào thời vụ ở Mỹ khan hiếm cá nheo, cá nhập khẩu Việt Nam tăng, cuộc chiến lại rộ lên. CFA bắt đầu một chiến dịch quảng cáo kéo dài 9 tháng, tiêu tốn 5,2 triệu USD do Viện Cá nheo Mỹ (TCI) phát động. Những áp phích in trên các tạp chí thương mại và quảng cáo thực phẩm sặc mùi bài ngoại với những dòng tít như: Đừng bao giờ tin vào sản phẩm catfish ngoại quốc. Bên cạnh đó, họ phát động chiến dịch người Mỹ ăn cá nheo Mỹ và sáng tác ra nhãn hiệu Cá catfish nuôi của Mỹ, tạo ra không khí bài xích đối với các sản phẩm Việt Nam. Đồng thời, chủ tịch Hiệp hội còn đề nghị chính phủ Mỹ đàm phán với Việt Nam một hiệp định riêng về cá Catfish. Trong những tháng tiếp theo đó, hiệp hội CFA đã thuê công ty luật Nathan Associates tiến hành thu thập thông tin và mở chiến dịch tuyên truyền hạ thấp uy tín của cá Việt Nam, nhấn mạnh do cá Việt Nam nhập khẩu mà giá cá nheo ở Mỹ bị giảm tới 10%. Để có thể giành được phần thắng, CFA hoạch định trong chiến dịch tiến hành vận động gây áp lực, lôi kéo nghị sĩ của các bang có nghề nuôi cá nheo, huy động mọi lực lượng ở các cơ quan lập pháp và hành pháp, tìm kiếm mọi sự hỗ trợ để tấn công trả đũa các sản phẩm cá da trơn Việt Nam nhập khẩu. Điều này đã khiến cho sản phẩm cá da trơn Việt Nam trên thị trường Mỹ gặp phải những thách thức lớn, đòi hỏi những giải pháp giải quyết. Những bất cập trong cuộc chiến Catfish Ngày 11/7 năm 2001, Quốc hội Mỹ được kêu gọi thông qua dự luật H.R.2439, dưới tên gọi ghi nhãn về nguồn gốc xuất xứ đối với cá nuôi nhập khẩu trong khâu bán lẻ, với những lập luận công khai bôi nhọ sản phẩm của Việt Nam. Tuy nhiên, dự luật này không được đưa ra thông qua, do Thượng viện Mỹ đã bác bỏ một dự luật có nội dung tương tự đối với sản phẩm nông nghiệp nuôi trồng. Để tiếp tục tồn tại trên thị trường Mỹ trước sức ép của CFA, Việt Nam cũng đã thực hiện hầu như tất cả những yêu cầu mà phía Mỹ đưa ra nhằm tiếp tục xuất khẩu sản phẩm cá da trơn sang thị trường này. Tuy nhiên, dường như phía Mỹ chưa bằng lòng với những yêu sách mà chúng đưa ra. “Cuộc chiến” lại tiếp tục diễn ra theo chiều hướng ngày càng căng thẳng. Nguy hiểm hơn nữa, một số thượng nghị sĩ đại diện các bang miền Nam của Mỹ đã mưu toan dùng vấn đề Catfish để ngăn chặn việc thông qua Hiệp định thương mại Việt Nam và Hoa Kỳ tại Quốc hội Mỹ. Mưu đồ này không thành. Một trong số những nghị sĩ này còn dám nói rằng cá da trơn nuôi ở sông Mêkông có thể chứa cả dư lượng chất độc màu da cam mà quân đội Mỹ đã rải xuống đây trong thời kì chiến tranh... Ngày 5/10/2001, Hạ viện Mỹ bất ngờ thông qua dự luạt H.R.2964, chỉ cho phép sử dụng tên cá “Catfish” cho riêng các loài thuộc họ Ictaluridae, thực chất là cho riêng loài cá nheo Mỹ Ictaluruss punctatus. Việc tự giành quyền sử dụng một tên gọi đã rất thông dụng của hơn 2.500 loài cá khác nhau trên thế giới lấy làm tên riêng cho một loài cá của mình, quả là một hành động mà thế giới không thể chấp nhận được. Việc này không chỉ dừng lại ở đây, Hiệp hội chủ trại nuôi cá nheo Mỹ còn đệ đơn kiện Việt Nam bán phá giá cá phi dê đông lạnh tại thị trường của họ. Vụ kiện này đã gây cho phia Việt Nam cũng như CFA rất mệt mỏi, tới nay vẫn chưa có câu trả lời chính thức. II. Luật chống phá giá của Mỹ với sản phẩm cá da trơn Việt 1 Vài nét về luật chống phá giá của Mỹ Khái niệm phá giá “dumping” được định nghĩa là việc bán một sản phẩm tại trị trường nước ngoài với mức giá thấp hơn mức gía thông thường hoặc thấp hơn giá thành của sản phẩm đó sau khi đã tính tới các chi phí liên quan đến nhập khẩu và phân phối. Luật chống phá giá của Mỹ được thông qua lần đầu tiên vào năm 1916 như một phần của các luật chống độc quyền. Luật này được sửa đổi nhiều lần, lần gần đây nhất là vào năm 1994 có hiệu lực năm 1995 nhằm phản ánh những thay đổi của các hiệp định liên quan tới phá giá tại vòng đàm phán Uruguay. Việc kiện bán phá giá được tiến hành thông qua hai cơ quan chính phủ của Mỹ là Bộ Thương Mại (DOC) và Uỷ ban thương mại quốc tế (ITC). DOC chịu trách nhiệm điều tra xem sản phẩm đó có đúng là được bán phá giá tại thị trường Mỹ hay không. Còn ITC sẽ phải điều tra xem việc nhập khẩu sản phẩm đó vào thị thường Mỹ có gây thiệt hại nghiêm trọng hay đe doạ gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành công nghiệp của Mỹ sản xuất cùng loại sản phẩm đó hay không. Hai quá trình điều tra này được tiến hành song song, biện pháp và mức độ chống phá giấ sẽ được áp dụng nếu cả hai cơ quan dều thống nhất là hai vấn đề trên là có thật. Quá trình này thường kéo dài 280-420 ngày. Để thắng kiện, công ty nước ngoài bị kiện phá giá phải chứng minh được (1) là mình không bán phá giá, (2) không gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho các ngành công nghiệp. Thông thường đối với các công ty của các nước được công nhận có nền kinh tế thị trường, biên độ phá giá được xác định bằng cách so sánh giá bán của sản phẩm đó tại thị trường Mỹ với giá bán tại thị trường của nước sản xuất. Trong trường hợp đó được bán rất ít hoặc không được bán tại thị trường nước sản xuất thì DOC sẽ tiến hành so sánh với mức giá của thị trường một nước thứ ba có điều kiện tương tự với thị trường của Mỹ, ví dụ như EU. Các vụ kiện chống phá giá nhằm vào các công ty thuộc một nước có nền kinh tế phi thị trường như Việt Nam thì biên độ phá giá được xác định bằng cách so sánh mức giá của sản phẩm đó vơí một nước thứ ba có nền kinh tế thị trường và có mức sống tương đương với mức sống của nước sản xuất ra sản phẩm đó. Cũng có thể, việc thẩm định phải dựa trên cơ sở chi phí sản xuất sản phẩm đó nếu sản phẩm đó không được bán tại thị trường của nước thứ ba. Chi phí sản xuất thường được tính trên cơ sở những số liệu được công bố công khai và do vậy có thê không phản ánh đầy đủ chi phí sản xuất. Khi nhận được đơn kiện một doanh nghiệp nào đó bán phá giá, toà án sẽ phải tiến hành điều tra. Quá trình điều tra này bao gồm các giai đoạn sau: - Giai đoạn 1: Khởi sự điều tra để áp đặt thuế chống phá giá (khoảng 20 ngày sau khi có đơn khiếu nại). - Giai đoạn 2: Điều tra sơ bộ của Uỷ ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ về thiệt hại (khoảng 45 ngày sau khi có đơn khiếu nại). - Giai đoạn 3: Xác định sơ bộ của Bộ Thương mại (140 ngày sau khi bắt đầu điều tra, tối đa là 190 ngày đối với những trường hợp phức tạp). - Giai đoạn 4: Quyết định cuối cùng của Bộ Thương mại (215 ngày sau khi bắt đầu điều tra, tối đa là 275 ngày). Giai đoạn 5: Quyết định cuối cùng của UBMTTQ về thiệt hại (260 ngày sau khi bắt đầu điều tra). Giai đoạn 6: Lệnh áp đặt thuế chống phá giá (khoảng 1 tuần sau khi có quyết định cuối cùng của Uỷ ban thương mại quốc tế Hoa Kỳ). 2. Luật chống phá gía của Mỹ được áp dụng đối với cá da trơn của Việt Nam như thế nào? Khi sản lượng cá basa Việt Nam nhập khẩu vào Mỹ ngày càng tăng, ảnh hưởng tới quyền lợi của những nhà nuôi cá nheo Mỹ, làm lợi nhuận của họ bị giảm xuống. Không chịu._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28267.doc