Phần mở đầu
Bước sang thế kỷ 21, thế giới đang có những bước phát triển vượt bậc trong các lĩnh vực khoa học – công nghệ, kinh tế và nhiều lĩnh vực khác. Ngày càng có nhiều phát minh mới, sản phẩm mới xuất hiện phục vụ đời sống con người, con người vừa là trung tâm vừa là mục tiêu của phát triển và trên thực tế những nhu cầu của con người đang được đáp ứng ở mức độ ngày càng cao. Song, trên thế giới hiện nay vẫn còn hàng triệu triệu người đang phải sống trong cảnh nghèo đói và không được đáp ứn
88 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1251 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và một số giải pháp thu hút, sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA cho xoá đói giảm nghèo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g những nhu cầu cơ bản nhất như: lương thực, thực phẩm, nước sạch, vệ sinh…
Bên cạnh đó, ngày nay loài người cũng đang phải đối mặt với những vấn đề nhức nhối mang tính toàn cầu như dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, chiến tranh, khủng bố v.v. mà những vấn đề này không phải riêng của một quốc gia nào và một quốc gia riêng biệt cũng không thể giải quyết được. Vì vậy, các nước ngày càng xích lại gần nhau hơn để cùng hợp tác giải quyết vấn đề chung. Trong nỗ lực chung để xây dựng một thế giới hoà bình, phồn thịnh các nước có nền kinh tế phát triển đã cam kết hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho các nước đang và chậm phát triển nhằm giúp các nước này thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu và hội nhập với thế giới.
Việt Nam là một nước đang phát triển, nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu, đời sống nhân dân còn gặp rất nhiều khó khăn. Do đó, để đưa đất nước phát triển đi lên và phù hợp với xu thế phát triển của thế giới. Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam đã quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới nhằm phát huy nguồn nội lực và tranh thủ sự giúp đỡ, ủng hộ của cộng đồng quốc tế.
Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế và xoá đói giảm nghèo. Những thành tựu đó thể hiện kết quả của sự đổi mới, phát huy cao nguồn nội lực và sự hỗ trợ tích cực, có hiệu quả của cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đang là một nước nghèo, thu nhập bình quân đầu người vào loại thấp và vẫn còn hàng triệu người dân hiện đang sống trong cảnh nghèo đói và dễ bị tổn thương. Chính phủ Việt Nam đã từ lâu nhận thức được điều này và coi vấn đề xoá đói giảm nghèo là mục tiêu xuyên suốt trong qúa trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Để tiếp tục thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền vững, thực hiện có hiệu quả chính sách xoá đói giảm nghèo. Chính phủ Việt Nam đã xây dựng các chiến lược phát triển, chiến lược huy động các nguồn lực phục vụ cho tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo. Trong các nguồn lực có thể huy động cho công cuộc xoá đói giảm nghèo thì các nguồn lực trong nước giữ vai trò quyết định. Bên cạnh đó, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) có vai trò quan trọng là chất xúc tác thúc đẩy công tác xoá đói giảm nghèo.
Chính phủ và người dân đã nhận thức được thực trạng nghèo đói và những tác động của nó đến quá trình phát triển. Chúng ta đã hành động bằng việc xác định các mục tiêu, xây dựng các chiến lược và đã triển khai thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo, nhưng tại sao vẫn còn nhiều người dân đang sống trong cảnh nghèo khổ? Những khó khăn, thách thức nào đang đặt ra cho công tác xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam? Nguồn lực nào được huy động cho công cuộc xoá đói giảm nghèo? Câu trả lời cho những vấn đề nêu trên là gì?
Với mục đích củng cố, trau dồi kiến thức đã học trong nhà trường và mong muốn tìm được phần nào lời giải cho những câu hỏi trên. Tác giả quyết định chọn đề tài: “Nguồn vốn ODA – chất xúc tác thúc đẩy công tác xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam” để thực hiện báo cáo chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Báo cáo gồm 3 nội dung chính sau:
Chương I: Những vấn đề lý luận về đói nghèo và nguồn vốn ODA
Chương II: Tình hình thu hút và sử dụng ODA cho xoá đói giảm nghèo – thực trạng và nguyên nhân
Chương III: Một số giải pháp thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA cho xoá đói giảm nghèo
Xin chân thành cảm ơn Cô giáo: Nguyễn Thị ái Liên , cùng các cô chú ở Vụ Tổng hợp Kinh tế quốc dân – Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã giúp đỡ và hướng dẫn tôi hoàn thành Chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Rất mong tiếp tục nhận được những ý kiến hướng dẫn của các thầy cô để tôi có thể hoàn thiện hơn đề tài của mình.
Chương i
Những vấn đề lý luận chung
I. Nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA)
1. Khái niệm và nguồn gốc ODA
1.1. Nguồn gốc ra đời của ODA
Quá trình lịch sử của ODA có thể được tóm lược như sau:
Sau đại chiến thế giới lần thứ II các nước công nghiệp phát triển đã thoả thuận về sự trợ giúp dươí dạng viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với điều kiện ưu đãi cho các nước đang phát triển. Tổ chức tài chính quốc tế Ngân hàng thế giới (WB) đã được thành lập tại hội nghị về tài chính – tiền tệ tổ chức tháng 7 năm 1944 tại Bretton Woods (Hoa Kỳ) với mục tiêu là thúc đẩy phát kinh tế và tăng trưởng phúc lợi của các nước với tư cách như là một tổ chức trung gian về tài chính, một ngân hàng thực sự với hoạt động chủ yếu là đi vay theo các điều kiện thương mại bằng cách phát hành trái phiếu để rồi cho vay tài trợ đầu tư tại các nước.
Tiếp đó, tháng 12 năm 1960 tại Pari các nước đã ký thoả thuận thành lập tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển (OECD). Tổ chức này bao gồm 20 thành viên ban đầu đã đóng góp phần quan trọng nhất trong việc cung cấp ODA song phương cũng như đa phương. Trong khuôn khổ hợp tác phát triển, các nước OECD đã lập ra các Uỷ ban chuyên môn trong đó có Uỷ ban Hỗ trợ phát triển (DAC) nhằm giúp các nước đang phát triển phát triển kinh tế và nâng cao hiệu quả đầu tư.
Kể từ khi ra đời ODA đã trải qua các giai đoạn phát triển sau:
Trong những năm 1960 tổng khối lượng ODA tăng chậm đến những năm 1970 và 1980 viện trợ từ các nước OECD vẫn tăng liên tục. Đến giữa những năm 80 khối lượng viện trợ đạt mức gấp đôi đầu thập niên 70. Cuối những năm 1980 đến những năm 1990 vẫn tăng nhưng với tỷ lệ thấp. Năm 1991 viện trợ phát triển chính thức đã đạt đến con số đỉnh điểm là 69 tỷ USD theo giá năm 1995. Năm 1996 các nhà tài trợ OECD đã giành 55,114 tỷ USD cho viện trợ bằng 0,25% tổng GDP của các nước này, cũng trong năm này tỷ lệ ODA/GDP của các nước DAC là 0,25% giảm 3,768 tỷ USD so với năm 1995.
Trong những năm cuối của thế kỷ 20 và những năm đầu thế kỷ 21 ODA có xu hướng giảm nhẹ, riêng với Việt Nam kể từ khi nối lại quan hệ với các nước và tổ chức viện trợ (1993) thì các nước viện trợ vẫn ưu tiên cho Việt Nam ngay cả khi khối lượng viện trợ trên thế giới giảm xuống.
1.2. Khái niệm
Nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại, viện trợ có hoàn lại hoặc tín dụng ưu đãi của các Chính phủ, các tổ chức liên Chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc và các tổ chức tài chính quốc tế dành cho các nước đang và chậm phát triển.
Các đồng vốn bên ngoài chủ yếu chảy vào các nước đang phát triển và chậm phát triển gồm có: ODA, tín dụng thương mại từ các ngân hàng, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), viện trợ cho không của các tổ chức phi Chính phủ (NGO) và tín dụng tư nhân. Các dòng vốn quốc tế này có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Nếu một nước kém phát triển không nhận được vốn ODA đủ mức cần thiết để cải thiện các cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội thì cũng khó có thể thu hút được các nguồn vốn FDI cũng như vay vốn tín dụng để mở rộng kinh doanh nhưng nếu chỉ chú ý tìm kiếm nguồn vốn ODA mà không tìm cách thu hút vốn FDI và các nguồn vốn tín dụng khác thì không có điều kiện tăng trưởng nhanh sản xuất, dịch vụ và sẽ không có đủ thu nhập để trả nợ vốn vay ODA.
2. Đặc điểm của nguồn vốn ODA
2.1. Vốn ODA mang tính ưu đãi
Vốn ODA có thời gian cho vay (hoàn trả vốn) dài, có thời gian ân hạn dài. Chẳng hạn, vốn ODA của WB, ADB, JBIC có thời gian hoàn trả là 40 năm và thời gian ân hạn là 10 năm.
Thông thường, trong ODA có thành tố viện trợ không hoàn lại (cho không) và đây cũng là điểm phân biệt giữa viện trợ và cho vay thương mại. Thành tố cho không được xác định dựa vào thời gian cho vay, thời gian ân hạn và so sánh lãi suất viện trợ với mức lãi suất tín dụng thương mại. Sự ưu đãi ở đây là so sánh với tập quán thương mại quốc tế.
Sự ưu đãi còn thể hiện ở chỗ vốn ODA chỉ dành riêng cho các nước đang và chậm phát triển, vì mục tiêu phát triển. Có hai điều kiện cơ bản nhất để các nước đang và chậm phát triển có thể nhận được ODA là:
Thứ nhất, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người thấp, nước có GDP bình quân đầu người càng thấp thì thường được tỷ lệ viện trợ không hoàn lại của ODA càng lớn và khả năng vay với lãi suất thấp và thời hạn ưu đãi càng lớn.
Thứ hai, Mục tiêu sử dụng vốn ODA của các nước này phải phù hợp với chính sách và phương hướng ưu tiên xem xét trong mối quan hệ giữa bên cấp và bên nhận ODA. Thông thường các nước cung cấp ODA đều có những chính sách và ưu tiên riêng của mình tập trung vào những lĩnh vực mà họ quan tâm hay có khả năng kỹ thuật và tư vấn. Đồng thời, đối tượng ưu tiên của các nước cung cấp ODA cũng có thể thay đổi theo từng giai đoạn cụ thể. Vì vậy, nắm bắt được xu hướng ưu tiên và tiềm năng của các nước, các tổ chức cung cấp ODA là rất cần thiết.
Về thực chất, ODA là sự chuyển giao có hoàn lại hoặc không hoàn lại trong những điều kiện nhất định một phần tổng sản phẩm quốc dân từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Do vậy, ODA rất nhạy cảm về mặt xã hội và chịu sự điều chỉnh của dư luận xã hội từ phía nước cung cấp cũng như từ phía nước tiếp nhận ODA.
2.2. Vốn ODA mang tính ràng buộc
ODA có thể ràng buộc (hoặc ràng buộc một phần hoặc không ràng buộc) nước nhận về địa điểm chi tiêu. Ngoài ra mỗi nước cung cấp viện trợ cũng đều có những ràng buộc khác và nhiều khi các ràng buộc này rất chặt chẽ đối với nước nhận. Ví dụ, Nhật Bản quy định vốn ODA của Nhật đều được thực hiện bằng Yên Nhật.
Vốn ODA mang yếu tố chính trị: các nước viện trợ nhìn chung đều không quên dành được lợi ích cho mình vừa gây ảnh hưởng chính trị vừa thực hiện xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tư vấn vào nước tiếp nhận viện trợ. Chẳng hạn, Bỉ, Đức và Đan Mạch yêu cầu khoảng 50% viện trợ phải mua hàng hoá dịch vụ của nước mình. Canada yêu cầu tới 65% và nhìn chung khoảng 22% viện trợ của DAC phải được sử dụng để mua hàng hoá và dịch vụ của các quốc gia viện trợ.
Kể từ khi ra đời cho đến nay, viện trợ luôn chứa đựng hai mục tiêu cùng tồn tại song song:
Mục tiêu thứ nhất là thúc đẩy tăng trưởng bền vững và giảm nghèo ở các nước đang phát triển. Động cơ nào đã thúc đẩy các nhà tài trợ đề ra mục tiêu này, bản thân các nước phát triển nhìn thấy lợi ích của mình trong việc hỗ trợ, giúp đỡ các nước đang phát triển để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm và thị trường đầu tư. Viện trợ thường gắn với các điều kiện kinh tế xét về lâu dài, các nhà tài trợ sẽ có lợi về mặt an ninh, kinh tế, chính trị khi kinh tế các nước nghèo tăng trưởng. Mục tiêu mang tính cá nhân này được kết hợp với tinh thần nhân đạo, tính cộng đồng. Vì một số vấn đề mang tính toàn cầu như sự bùng nổ dân số thế giới, bảo vệ môi trường sống, bình đẳng giới, phòng chống dịch bệnh, giả quyết các xung đột sắc tộc, tôn giáo, chống khủng bố v.v đòi hỏi phải có sự hợp tác, nỗ lực của cả cộng đồng quốc tế không phân biệt nước giàu, nước nghèo.
Mục tiêu thứ hai là tăng cường vị thế chính trị của các nước tài trợ. Các nước phát triển sử dụng ODA như một công cụ chính trị nhằm xác định vị thế và ảnh hưởng của mình tại các nước tiếp nhận ODA. Ví dụ, Nhật Bản hiện là nhà tài trợ hàng đầu thế giới và cũng là nhà tài trợ đã sử dụng ODA như một công cụ đa năng về chính trị và kinh tế. ODA của Nhật không chỉ đưa lại lợi ích cho nước nhận mà còn mang lại lợi ích cho chính họ. Trong những năm cuối thập kỷ 90 khi phải đối phó với những suy thoái nặng nề trong khu vực, Nhật Bản đã quyết định trợ giúp tài chính rất lớn cho các nước Đông Nam á là nơi chiếm tỷ trọng tương đối lớn về mậu dịch và đầu tư của Nhật Bản, Nhật đã dành 15 tỷ USD cho mậu dịch và đầu tư có nhân nhượng trong vòng 3 năm, các khoản cho vay được tính bằng Yên và gắn với các dự án có sông ty của Nhật tham gia.
Viện trợ của các nước phát triển không chỉ đơn thuần là việc trợ giúp hữu nghị mà còn là một công cụ lợi hại để thiết lập và duy trì lợi ích kinh tế, chính trị cho các nước tài trợ. Những nước cấp tài trợ đòi hỏi nước tiếp nhận phải thay đổi chính sách phát triển cho phù hợp với lợi ích của bên tài trợ. Khi nhận viện trợ nước nhận viện trợ cần cân nhắc kỹ lưỡng các điều kiện của các nhà tài trợ vì lợi ích trước mắt mà đánh mất những quyền lợi lâu dài. Quan hệ tài trợ phải đẩm bảo tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
2.3. ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ
Khi tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA do tính chất ưu đãi nên gánh nặng nợ nần thường chưa xuất hiện. Một số nước do không sử dụng hiệu quả ODA có thể tạo nên sự tăng trưởng nhất thời nhưng sau một thời gian lại lâm vào tình trạng nợ nần do không có khả năng trả nợ. Vấn đề là ở chỗ ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ. Do đó, trong khi hoạch định chính sách sử dụng ODA phải phối hợp với các nguồn vốn khác để tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu.
3. Phân loại vốn ODA
Nguồn vốn ODA có thể được phân loại theo những tiêu chí sau:
3.1. Phân loại theo tính chất
Theo cách phân loại này, vốn ODA được chia thành:
- Viện trợ không hoàn lại gồm các khoản cho không, không phải trả lại
- Viện trợ có hoàn lại: Các khoản vay ưu đãi hay tín dụng với điều kiện “mềm”
- Viện trợ hỗn hợp: Gồm một phần cho không, phần còn lại thực hiện theo hình thức tín dụng (có thể ưu đãi hoặc thương mại)
3.2. Phân loại theo mục đích
Bao gồm:
- Hỗ trợ cơ bản: Là những nguồn lực được cung cấp để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội và môi trường. Đây thường là những khoản cho vay ưu đãi
- Hỗ trợ kỹ thuật: Là những nguồn lực dành cho chuyển giao tri thức, công nghệ, xây dựng năng lực, tiến hành nghiên cứu cơ bản hay nghiên cứu tiền đầu tư, phát triển thể chế và nguồn nhân lực… loại hỗ trợ này chủ yếu là viện trợ không hoàn lại
3.3. Phân loại theo điều kiện
Bao gồm:
- ODA không ràng buộc nước nhận: Việc sử dụng nguồn tài trợ không bị ràng buộc bởi nguồn sử dụng hay mục đích sử dụng
- ODA có ràng buộc nước nhận: ràng buộc nước nhận về nguồn sử dụng và mục đích sử dụng
- ODA ràng buộc một phần: một phần chi ở nước viện trợ, phần còn lại chi ở bẫt cứ nơi nào
3.4. Phân loại theo đối tượng sử dụng
- Hỗ trợ dự án: là hình thức chủ yếu của ODA để thực hiện các dự án cụ thể. Nó có thể là hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kỹ thuật, có thể là cho không hoặc vay ưu đãi
- Hỗ trợ phi dự án. Bao gồm:
Hỗ trợ cán cân thanh toán: thường là hỗ trợ tài chính trực tiếp (chuyển giao tiền tệ) hoặc hỗ trợ hàng hoá, hỗ trợ qua nhập khẩu. Ngoại tệ hoặc hàng hoá được chuyển qua hình thức này có thể được sử dụng để hỗ trợ ngân sách
Hỗ trợ trả nợ
Viện trợ chương trình: Là khoản ODA dành cho một mục đích tổng quát với thời gian nhất định mà không phải xác định một cách chính xác nó sẽ được sử dụng như thế nào
4. Vai trò của vốn ODA
Trong khi nghiên cứu các mô hình phát triển kinh tế, người ta thấy có bốn mô hình chiến lược cơ bản. Bốn mô hình này có thể khái quát thành 2 dạng: chiến lược hướng nội (chiến lược thay thế nhập khẩu) và chiến lược hướng ngoại hay còn gọi là chiến lược kinh tế mở. Tuỳ vào quan điểm và điều kiện cụ thể của mỗi nước mà có thể lựa chọn hình thức phù hợp. Ta có thể nghiên cứu sự phát triển của các nước dưới đây để có thể so sánh một cách tương đối giưã các hình thức khác nhau:
Từ sau năm 1960 Hàn Quốc đã áp dụng chiến lược hướng ngoại triệt để và kết quả là Hàn Quốc đã nhanh chóng thoát khỏi nền kinh tế trì trệ, thu nhập ngoại tệ từ xuất khẩu tăng lên nhanh chóng và sau 30 năm đã thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu để trở thành quốc gia phát triển nhanh cả 3 tiêu thức tốc độ tăng trưởng GDP, giải quyết việc làm và công nghiệp hoá.
ấn Độ là nước áp dụng chiến lược hỗn hợp và cũng đạt được cả ba tiêu thức trên nhưng chậm hơn Hàn Quốc.
Myanma áp dụng chiến lược hướng nội nên trở thành một trong những quốc gia có nền ngoại thương kém phát triển, sự nghiệp công nghiệp hoá không có gì đáng kể.
WB tiến hành nghiên cứu 41 nước trên thế giới và chia làm 4 nhóm quốc gia: Hướng nội mạnh, hướng nội vừa phải, hướng ngoại vừa phải và hướng ngoại mạnh. Trong 4 nhóm nước này, xét theo 3 tiêu thức tốc độ tăng trưởng GDP, giải quyết việc làm và công nghiệp hoá, WB kết luận rằng các nước hướng ngoại mạnh là các nước thành công nhất. Trong chiến lược này, các khâu chủ yếu đối với bên ngoài gồm việc mở rộng ngoại thương, thu hút vốn FDI và ODA. Như vậy, nhìn một cách tổng quát thì ODA có một vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển của các nước đang và chậm phát triển. Cụ thể là:
4.1. ODA là một nguồn vốn có vai trò quan trọng đối với các nước đang và chậm phát triển
Vốn đầu tư cùng với tài nguyên thiên nhiên, lao động và kỹ thuật tạo thành 4 yếu tố vật chất, xã hội. Tất cả các nước khi tiến hành công nghiệp hoá đều cần vốn đầu tư lớn. Đó chính là trở ngại lớn để tiến hành công nghiệp hoá đối với nước nghèo. Trong điều kiện hiện nay với những thành tựu mới của khoa học và công nghệ, các nước có thể tiến nhanh không chỉ bằng khả năng tích luỹ trong nước mà còn kết hợp với tận dụng khả năng của thời đại. Bên cạnh nguồn vốn trong nước còn có thể huy động nguồn vốn nước ngoài, nhiều khi với một khối lượng lớn. Tuy nhiên vốn trong nước giữ vai trò quyết định, vốn nước ngoài có khả năng thúc đẩy sự phát triển song không phải là yếu tố thúc đẩy sự phát triển.
Trong số các nguồn vốn có thể huy động từ bên ngoài ODA có một vai trò quan trọng:
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều nước ở Châu á thiếu vốn để khôi phục và phát triển kinh tế. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng đòi hỏi một lượng vốn lớn, lãi suất thấp, thời gian thu hồi vốn lâu, nhiều rủi ro. Vì vậy các nước gặp khó khăn trong việc thu hút vốn FDI vào lĩnh vực này. Nhiều nước đã tranh thủ được nguồn vốn ODA từ các nước giàu. Trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế, Đài Loan đã nhận được viện trợ từ Mỹ với số tiền lên đến 1,482 tỷ USD và số vốn này đã góp phần rất đáng kể trong quá trình đi lên của Đài Loan. Hiện nay Nhật Bản là nước viện trợ hàng đầu thế giới, nhưng trước đây Nhật cũng là nước nhận viện trợ. Năm 1945 sau khi chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, Nhật đã gặp rất nhiều khó khăn. Khi đó, Nhật Bản đã được nhận viện trợ từ Hoa Kỳ, các tổ chức của Liên Hợp Quốc, các tổ chức tài chính quốc tế. Trong những năm 50, Nhật Bản đã phục hồi với một tốc độ kinh ngạc, nhiều dự án lớn đã được thực hiện như dự án đường cao tốc, các dự án xây dựng đập nước… Nền kinh tế Nhật đã phát triển nhanh chóng với sự giúp đỡ của vốn ODA. Đầu những năm 60 Nhật Bản là nước nhận viện trợ từ WB nhiều thứ hai trên thế giới. Đến năm 1990 Nhật đã trả nợ xong Ngân hàng thế giới.
Do tính chất ưu đãi, vốn ODA thường dành cho đầu tư vào cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội như đường xá, cầu cảng, công trình điện và các lĩnh vực giáo dục, y tế, phát triển nguồn nhân lực…
Vào đầu những năm 1970, cơ sở hạ tầng của các nước Đông Nam á sau khi giành được độc lập hết sức nghèo nàn, lạc hậu và các quốc gia trong khu vực đã sớm nhận thấy vai trò quan trọng của việc phát triển các hoạt động giao thông vận tải, thông tin liên lạc… Theo báo cáo của WB, từ năm 1971 đến 1974 tại Philppines vốn chi phí cho phát triển giao thông vận tải chiếm tới 50% tổng số vốn dành cho xây dựng cơ bản và 60% tổng vốn vay ODA được chi cho phát triển cơ sở hạ tầng.
Nhiều công trình hạ tầng kinh tế xã hội như sân bay, bến cảng, đường cao tốc, trường học, bệnh viện, trung tâm nghiên cứu khoa học tầm cỡ quốc gia ở Thái Lan, Singapo, Inđônêxia đã được xây dựng bằng nguồn vốn ODA của Nhật Bản, Hoa Kỳ, WB, ADB…
4.2. ODA góp phần tăng khả năng thu hút vốn FDI và tạo điều kiện mở rộng đầu tư phát triển trong nước
Các nhà đầu tư nước ngoài khi quyết định bỏ vốn đầu tư vào một nước, trước hết họ quan tâm đến khả năng sinh lợi của vốn đầu tư tại nước đó. Họ cảnh giác với những nguy cơ làm tăng phí tổn đầu tư.
Một hệ thống cơ sở hạ tầng yếu kém như hệ thống giao thông chưa hoàn chỉnh, phương tiện thông tin liên lạc thiếu thốn và lạc hậu, hệ thống cung cấp năng lượng không đủ cho nhu cầu sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư vì những phí tổn mà họ phải trả cho việc sử dụng những tiện nghi hạ tầng sẽ lên cao, chưa kể đến thiệt hại như hoạt động của nhà máy phải dừng vì mất điện, công trình xây dựng bị bỏ dở vì không có nước.
Một hệ thống ngân hàng lạc hậu cũng là lý do làm cho các nhà đầu tư e ngại, vì những chậm trễ, ách tắc trong hệ thống thanh toán và sự thiếu thốn các dịch vụ ngân hàng hỗ trợ cho đầu tư sẽ làm cho phí tổn đầu tư gia tăng, dẫn tới hiệu quả đầu tư giảm sút.
Như vậy, đầu tư của Chính phủ vào nâng cấp, cải thiện và xây mới các cơ sở hạ tầng, hệ thống tài chính, ngân hàng đều hết sức cần thiết, nhằm làm cho môi trường đầu tư trở nên hấp dẫn hơn. Nhưng vốn đầu tư cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng rất lớn, trong nhiều trường hợp các nước đang phát triển phải dựa vào nguồn vốn ODA để bổ sung cho vốn đầu tư hạn hẹp từ ngân sách nhà nước. Một khi môi trường đầu tư được cải thiện sẽ làm tăng sức hút dòng vốn FDI. Nguồn vốn ODA của Mỹ, Nhật và một số nước khác chủ yếu được đầu tư để phát triển cơ sở hạ tầng của các nước Đông á. Nhờ cơ sở hạ tầng phát triển mà các nước này có điều kiện thuận lợi trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Mặt khác, việc sử dụng vốn ODA để đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong nước tập trung đầu tư vào các công trình sản xuất kinh doanh có khả năng mang lại lợi nhuận.
Rõ ràng là ODA ngoài việc bản thân nó là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho các nước đang và chậm phát triển, nó còn có tác dụng làm tăng khả năng thu hút vốn từ nguồn FDI và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển trong nước, góp phần thực hiện thành công chiến lược hướng ngoại.
4.3. ODA giúp tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực
Những lợi ích quan trọng mà ODA mang lại cho các nước nhận tài trợ là công nghệ, kỹ thuật hiện đại, kỹ xảo chuyên môn và trình độ quản lý tiên tiến. Các nhà tài trợ còn ưu tiên đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực vì họ tin tưởng rằng việc phát triển của một quốc gia quan hệ mật thiết với việc phát triển nguồn nhân lực. Đây mới là những lợi ích căn bản, lâu dài đối với nước nhận tài trợ. Nhưng những lợi ích này khó có thể lượng hoá được. Vì vậy, ở đây sẽ lấy hình thức hợp tác kỹ thuật của Nhật Bản để minh hoạ cho vai trò trên của ODA.
Hợp tác kỹ thuật là một bộ phận trong ODA của Nhật Bản và được Chính phủ Nhật đặc biệt coi trọng. Hợp tác kỹ thuật bao gồm hàng loạt các hoạt động rộng rãi từ việc xuất bản và cung cấp sách, tài liệu kỹ thuật bằng nhiều thứ tiếng. Các chương trình hợp tác kỹ thuật do Chính phủ Nhật Bản thực hiện được tiến hành dưới các hình thức: nhận người sang học tập ở Nhật Bản, gửi các chuyên gia Nhật và cung cấp trang thiết bị, vật liệu, cử các nhân viên tình nguyện từ tổ chức những người tình nguyện hợp tác hải ngoại Nhật Bản (JOCV). Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (Japan International Cooperation Agency – JICA) được thành lập tháng 8 năm 1974, là tổ chức duy nhất thực hiện các chương trình hợp tác kỹ thuật do Chính phủ Nhật Bản bảo trợ.
Việc huấn luyện, đào tạo là một bộ phận của hợp tác kỹ thuật do Chính phủ Nhật đảm nhận. Dạng hợp tác này nhằm đào tạo cán bộ chuyên môn để đóng góp vào sự phát triển kinh tế, xã hội của các nước có người được huấn luyện, đào tạo. Bởi vì việc huấn luyện được thực hiện ở Nhật Bản, các học viên có điều kiện để tìm hiểu văn hoá, xã hội và nền kinh tế Nhật Bản. Nhờ đó, họ trở lại đất nước mình cùng với những tri thức, kỹ năng thu được qua quá trình đào tạo.
Nhật Bản còn thực hiện một chương trình đào tạo gọi là chương trình đào tạo ở nước thứ ba. Chương trình đào tạo ở nước thứ ba cơ bản giống với hợp tác kỹ thuật theo kiểu dự án. Việc quản lý do nước thứ ba tiến hành dựa trên việc ký một văn bản về nghiên cứu và phát triển… còn Nhật cung cấp viện trợ hoặc cử chuyên gia, chịu phí tổn đào tạo và các phương tiện khác. Hệ thống này nhằm thúc đẩy hợp tác kỹ thuật giữa các nước đang phát triển và chuyển giao đầy đủ công nghệ. Từ tháng 3/1975. Nhật Bản đã liên tục thực hiện chương trình đào tạo ở nước thứ ba.
Việc cử chuyên gia là một hình thức hợp tác kỹ thuật đã cõ lịch sử lâu dài. Việc này được thực hiện theo các ký kết quốc tế giữa Nhật Bản với các nước đang phát triển hoặc theo yêu cầu của các tổ chức đa phương. Việc cử chuyên gia được tiến hành bằng nhiều cách khác nhau. Trong mỗi trường hợp, mục đích chính là chuyển giao hiểu biết, công nghệ cho các nước đang phát triển thông qua định hướng, điều tra và nghiên cứu. Việc cải tiến trình độ công nghệ ở các nước đang phát triển cuối cùng sẽ góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội ở các nước nhận viện trợ.
Kể từ khi Nhật Bản bắt đầu chương trình hợp tác kỹ thuật sau chiến tranh thế giới thứ II, việc cử chuyên gia chủ yếu là hướng vào các nước Châu á. Tuy nhiên gần đây các nước thuộc những khu vực khác cũng có nhu cầu ngày càng tăng và rong năm taì chính 1982, Châu á nhận được 59,5% tổng số chuyên gia Nhật, Trung cận Đông 6,3%, Châu Phi 5,9% và các khu vực Mỹ La Tinh 19,7%.
Cung cấp thiết bị và vật liệu độc lập cũng là một bộ phận của chương trình hợp tác kỹ thuật.
Nhật Bản bắt đầu sự hợp tác thông qua việc cung cấp thiết bị và vật liệu vào năm tài chính 1964. Trong trường hợp này, cung cấp thiết bị và vật liệu có nghĩa là cung cấp những thiết bị và vật liệu với tư cách là một bộ phận của chương trình hợp tác kỹ thuật. Nhưng để phân biệt sự cung cấp đó với sư cung cấp thiết bị và vật liệu trong khuôn khổ viện trợ chung không hoàn lại, tạm gọi là cung cấp thiết bị và vật liệu độc lập. Việc cung cấp này được kết hợp với việc Nhật Bản cử chuyên gia và đào tạo kỹ thuật tại Nhật đã nâng cao hiệu quả của hợp tác kỹ thuật. Trong thời gian từ 1964 đến 1987 đã có hơn 00 trường hợp Nhật cung cấp thiết bị và vật liệu độc lập với tổng trị giá khoảng 15,7 tỷ Yên.
Nhật Bản còn thực hiện hợp tác kỹ thuật theo thể loại từng dự án. Các chương trình hợp tác kỹ thuật do Chính phủ Nhật giao cho JICA thực hiện gồm 3 loại: đào tạo kỹ thuật tại Nhật, cử chuyên gia Nhật sang các nước, cung cấp thiết bị và vật liệu. Các hình thức hợp tác kỹ thuật này có thể được thực hiện một cách độc lập nhưng thường thì sự kết hợp giữa 3 thể loại này sẽ mang lại hiệu quả cao hơn và được gọi là hợp tác kỹ thuật theo thể loại từng dự án. Mục tiêu của hợp tác kỹ thuật theo thể loại từng dự án là chuyển giao công nghệ cho các kỹ sư, kỹ thuật viên, nhân viên y tế… của các nước nhận viện trợ bằng cách cho họ tham gia vào các dự án phát triển thuộc các lĩnh vực cụ thể như nông nghiệp, lâm nghiệp, y tế… và các hoạt động nghiên cứu liên quan đến các lĩnh vực đó.
Qua phân tích hình thức hợp tác kỹ thuật của Nhật Bản cho ta thấy một ví dụ sinh động nêu bật vai trò của viện trợ phát triển chính thức trong việc giúp các nước đang phát triển tiếp thu những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá ở các nước này.
4.4. ODA giúp các nước đang phát triển điều chỉnh cơ cấu kinh tế
Trong quá trình phát triển các nước đang và chậm phát triển gặp rất nhiều vấn đề xã hội khó khăn như dân số, việc làm và những vấn đề về kinh tế và quản lý khác. Để giải quyết vấn đề này, các quốc gia đang cố gắng hoàn thiện cơ cấu kinh tế bằng cách phối hợp với Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế và các tổ chức quốc tế khác thực hiện chính sách điều chỉnh cơ cấu kinh tế.
Thế giới đã thừa nhận sự cần thiết của loại hình viện trợ này đối với các nước đang phát triển và Nhật bản cũng rất chú trọng tới loại hình này. Từ năm 1988 đến năm 1990, Nhật đã dành khỏng 52 tỷ Yên để cấp viện trợ không hoàn lại dưới dạng đồng tài trợ với các tổ chức quốc tế. Đồng thời Nhật Bản cũng đã cấp viên trợ không hoàn lại hằm hỗ trợ cho việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế ở Châu Phi và các nước khác. Trong 3 năm từ 1987 đến 1989 Nhật đã cấp 61,7 tỷ Yên để hỗ trợ hoàn thiện cơ cấu kinh tế cho 26 nước Châu Phi. Từ năm 1990 đến 1992 đã cấp 600 triệu đô la Mỹ cho Mông Cổ, Pêru và các nước khác ở Châu á, trung và Nam Mỹ. Trong giai đoạn 3 năm từ 1993 đến 1995, Nhật Bản đã dành một khoản viện trợ tổng cộng khoảng gần 700 triệu USD để hỗ trợ điều chỉnh kinh tế cho các nước đang phát triển.
Rõ ràng là ODA có một vai trò rất quan trọng trong chiến lược phát triển của các nước đang phát triển. Việc sử dụng vốn ODA một cách có hiệu quả, đúng mục đích sẽ giúp các nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu và nhanh chóng hội nhập với nền kinh tế thế giới. Ngày nay, việc thu hút ODA của các nước nghèo đang có một sự canh tranh giữa các nước. Vì vậy, sử dụng hiệu quả vốn ODA và nắm bắt được xu hướng vận động của dòng vốn này là hết sức cần thiết đối với các nước nhận viện trợ.
5. Những xu hướng mới của ODA trên thế giới
Một trong những yếu tố để thu hút được nhiều vốn ODA trong điều kiện có sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các nước, đó là nắm bắt được xu thế vận động của dòng vốn này. Trong thời đại ngày nay, vốn ODA có những xu thế vận động cơ bản sau:
a) Ngày càng có thêm nhiều cam kết quan trọng trong quan hệ hỗ trợ phát triển chính thức.
Trong những năm 90 của thế kỷ trước, tại các hội nghị cấp cao quốc tế, các nhà tài trợ, các nước nhận viện trợ đã có những cam kết có ý nghĩa hết sức to lớn:
Năm 1995, tại hội nghị cấp cao thế giới về phát triển xã hội, Chính phủ các nước đã tự nguyện cam kết thực hiện thoả thuận 2020. Các nước viện trợ cam kết dành 20% chi tiêu công cộng cho các dịch vụ cơ bản.
Tháng 6 năm 1997 tại phiên họp đặc biệt của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, các nước thành viên DAC khẳmg định cam kết dành 0,7% GNP cho viện trợ. Mặc dù từ đó tới nay rất ít nước đạt được mục tiêu này và đã có một số nước giảm khối lượng viện trợ trong những năm qua song các nước vẫn tiếp tục khẳng định cam kết này trừ Hoa Kỳ.
Năm 1996, DAC đã công bố một công trình có tiêu đề “Kiến tạo thế kỷ XXI cống hiến của hợp tác phát triển”. Trong công trình này các nước thành viên DAC cam kết phấn đấu đạt một số mục tiêu cụ thể đã được nhất trí tại hội nghị của Liên Hợp Quốc. Đó là:
Giảm một nửa tỷ lệ những người đang sống trong cảnh nghèo khổ cùng cực vào năm 2015.
Phổ cập giáo dục tiểu học ở tất cả các nước vào năm 2015.
Xoá bỏ sự phân biệt giới tính trong giáo dục tiểu học và trung học vào năm 2005, coi đây là một tiến bộ cho sự bình đẳng giới và tăng quyền lực của phụ nữ.
Giảm 2/3 tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh và trẻ em dưới 5 tuổi
Hoàn thiện hệ thống y tế chăm sóc sức khoẻ ban đầu, đảm bảo sức khoẻ sinh sản không muộn hơn năm 2015.
b) Bảo vệ ._.môi trường sinh thái đang là trọng tâm ưu tiên của các nhà tài trợ
Ngày càng có sự nhất trí cao giữa nhà tài trợ và nước nhận viện trợ về vấn đề bảo vệ môi trường. Nhật Bản đang gia tăng nỗ lực của mình bằng cách cung cấp viện trợ song phương qua những tổ chức quốc tế có liên quan đến môi trường như Quỹ Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEF), Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP).
Bảo vệ môi trường sinh thái đã được bàn tới như là một trọng tâm của cộng đồng các nhà tài trợ taị Hội nghị về môi trường và phát triển của Liên Hợp Quốc tổ chức vào tháng 6 năm 1992.
Căn cứ vào những diễn biến gần đây trong lĩnh vực môi trường, ADB đã điều chỉnh chính sách ưu tiên cho việc bảo vệ môi trường của mình, tập trung giải quyết những thách thức về môi trường trong thời đại ngày nay, cải thiện môi trường sống vì sự phát triển lâu bền.
c) Mục tiêu và yêu cầu của các nhà tài trợ ngày càng cụ thể nhưng ngày càng có sự nhất trí cao giưã nước nhận viện trợ và nước viện trợ về một số mục tiêu.
Với mỗi khoản ODA cung cấp cho các nước nghèo, các nhà tài trợ đưa ra các mục tiêu và yêu cầu ngày càng cụ thể hơn. Mục tiêu và yêu cầu càng cụ thể thì ràng buộc càng chặt chẽ và điều đó cũng đồng nghĩa với việc nhà tài trợ đạt được mục đích của mình ở mức cao nhất. Các mục tiêu đạt được sự nhất trí cao giữa các nhà tài trợ và các nước nhận viện trợ là:
Tạo tiền đề tăng trưởng kinh tế
Xoá đói giảm nghèo
Bảo vệ môi trường
d) Nguồn vốn ODA tăng chậm
Năm 1969, DAC đã yêu cầu các nước công nghiệp phát triển dành 0,7% GNP của mình cho viện trợ. Nghị quyết của Hội nghị cấp cao các nước thuộc DAC được tổ chức vào tháng 12 năm 1988 tiếp tục khẳng định: hàng năm các nước công nghiệp phát triển cần phải trích 0,7% GNP để cung cấp ODA. Liên Hợp Quốc còn kêu gọi các nước phát triển phấn đấu đạt tỷ lệ ODA/ GNP là 1% trong tương lai. Tuy nhiên, các nước còn cách xa mục tiêu rất nhiều, Nhật Bản và Hoa Kỳ là hai nhà tài trợ lớn nhất trên thế giới từ trước tới nay chưa bao giờ dành tới 0.35% GNP cho ODA. Hơn nữa, gần đây nhiều số liệu còn cho thấy Mỹ còn có xu hướng giảm cung cấp ODA cả về số tuyệt đối lẫn tương đối. Đan Mạch, Na uy, Thuỵ Điển, Hà Lan chỉ phấn đấu giữ vững tỷ lệ ODA/ GNP. Đức và Anh chỉ cố gắng duy trì tỷ lệ ODA khiêm tốn từ nhiều năm qua. Năm 1997 Nhật bản cung cấp một lượng ODA là 9,358 tỷ USD bằng 0,22% GNP, chiếm 19,4% tổng ODA của các nước DAC. Tiếp theo Pháp cung cấp gần 6,3 tỷ USD, Đức cung cấp khoảng 5,8 tỷ USD. Còn Hoa Kỳ giảm cung cấp ODA chỉ còn ở mức gần bằng 1% GNP. Đây là một dấu hiệu không mấy khả quan về sự gia tăng viện trợ.
Nguồn vốn ODA từ các nước không thuộc DAC dù có tăng lên cũng khó làm thay đổi được tình hình chung. Viện trợ của Liên bang Nga cũng phải nhiều năm nữa mới đạt được mức cao như trước đây. Viện trợ của Đài Loan, Hàn Quốc tuy có tăng đôi chút nhưng khối lượng ODA tuyệt đối đạt được không thể làm thay đổi triển vọng về tốc độ gia tăng viện trợ.
Cung vốn ODA tăng chậm trước hết là do các nguồn cung cấp ODA chủ yếu gặp nhiều khó khăn. Trong những năm gần đây, các nước OECD đang phải đấu tranh để kiểm soát việc thâm hụt ngân sách và kiềm chế việc gia tăng trong việc chi tiêu của Chính phủ. Mặc dù viện trợ cho nước ngoài chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong ngân sách, nhưng nó là một trong những mục đầu tiên bị cắt giảm. Ngoài ra, trên thế giới dã xuất hiện những quan điểm mới, tiến bộ về hiệu quả ODA. Hiệu quả sử dụng ODA được quan tâm hơn bao giờ hết. Bởi vậy, thêm một lý do nữa để các nước giàu mở “hầu bao” của mình một cách thận trọng hơn. Hơn nữa, hiện nay ở nhiều nước người dân muốn Chính phủ giảm bớt ngoại viện để tập trung giải quyết những vấn đề kinh tế, xã hội trong nước.
e) Cạnh tranh giữa các nước đang phát triển trong việc thu hút vốn ODA đang tăng lên
Trong điều kiện mất cân đối về cung cầu ODA, cạnh tranh gay gắt giữa các nước, các khu vực về thu hút nguồn vốn này, Việt Nam vẫn đang giành được sự quan tâm, ưu tiên của cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế. Vì vậy, Việt Nam cần nắm bắt được xu hướng vận động của dòng vốn ODA và cần tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế giành cho mình để khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA cho sự nghiệp phát triển đất nước.
II. Định nghĩa và phương pháp tiếp cận chuẩn đói nghèo
1. Định nghĩa về đói nghèo
Trên thế giới hiện có nhiều khái niệm khác nhau về nghèo đói nhưng có một định nghĩa chung về đói nghèo và được Việt Nam thừa nhận do Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu á - Thái Bình Dương đưa ra tháng 9/1993 là: nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế – xã hội và phong tục tập quán của địa phương.
Tuỳ theo quan niệm, phong tục tập quán và các điều kiện khác mà có các cách tiếp cận và xác định chuẩn đói nghèo khác nhau. Sau đây là hai phương pháp xác dịnh chuẩn đói nghèo phổ biến mà Việt Nam áp dụng.
2. Các phương pháp tiếp cận chuẩn đói nghèo
2.1. Theo chuẩn đói nghèo quốc tế
Phương pháp xác định chuẩn đói nghèo theo chuẩn quốc tế do Tổng cục Thống kê, Ngân hàng thế giới xác định và được thực hiện trong các cuộc khảo sát mức sống dân cư ở Việt Nam (năm 1992 – 1993 và năm 1997 – 1998).
Đường đói nghèo ở mức thấp nhất gọi là đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm. Đường đói nghèo thứ hai ở mức cao hơn gọi là đường đói nghèo chung (bao gồm cả mặt hàng lương thực, thực phẩm và phi lương thực, thực phẩm).
Đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm được theo chuẩn mà hầu hết các nước đang phát triển cũng như Tổ chức Y tế Thế giới và các cơ quan khác đã xây dựng mức Kcal tối thiểu cần thiết cho mỗi thể trạng con người, là chuẩn về nhu cầu 2100 Kcal/người/ngày. Những người có mức chi tiêu dưới mức cần thiết để đạt được lượng Kcal này gọi là nghèo về lương thực, thực phẩm.
Đường đói nghèo chung tính thêm các chi phí cho các mặt hàng phi lương thực, thực phẩm. Tính cả chi phí này với đường đói nghèo về lương thực, thực phẩm ta có đường đói nghèo chung.
Năm 1993 đường đói nghèo chung có mức chi tiêu là 1,16 triệu đồng/năm/người (cao hơn đường đói nghèo lương thực, thực phẩm 55%), Năm 1998 1,79 triệu đồng/năm/người (cao hơn đường đói nghèo lương thực, thực phẩm 39%). Dựa trên các ngưỡng nghèo này, tỷ lệ đói nghèo chung năm 1993 là 58% và 1998 là 37,4% còn tỷ lệ đói nghèo lương thực, thực phẩm tương ứng là 25% và 15%.
2.2. Theo chuẩn đói nghèo của chương trình xoá đói giảm nghèo quốc gia
Căn cứ vào quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế, nguồn lực tài chính 2001 – 2005 và mức sống thực tế của người dân từng vùng, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Việt Nam đưa ra chuẩn nghèo đói để đưa ra danh sách những hộ, những xã và vùng cần hỗ trợ từ chương trình xoá đói giảm nghèo quốc gia.
Năm 1997, Việt Nam đưa ra chuẩn đói nghèo thuộc phạm vi chương trình quốc gia để áp dụng cho thời kỳ 1996 – 2000 như sau: Hộ nghèo là hộ có thu nhập tuỳ theo từng vùng ở các mức tương ứng như sau: vùng nông thôn miền núi, hải dảo: dưới 15 kg gạo/người/tháng; vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20 kg gạo/người/tháng; vùng thành thị: dưới 25 kg gạo/người/tháng.
Trước những thành tích của công cuộc xoá đói giảm nghèo cũng như tốc độ tăng trưởng kinh tế và mức sống, từ năm 2001 đã công bố mức chuẩn nghèo mới để áp dụng cho thời kỳ 2001 – 2005, theo đó chuẩn nghèo của chương trình quốc gia mới được xác định ở mức độ khác nhau tuỳ theo từng vùng. Cụ thể, bình quân thu nhập là: 80 nghìn đồng/người/tháng ở các vùng hải đảo và vùng núi nông thôn; 100 nghìn đồng/người/tháng ở các vùngđồng bằng nông thôn; 150 nghìn đồng/người/tháng ở khu vực thành thị.
III. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo
1. Xoá đói giảm nghèo là yếu tố cơ bản đảm bảo công bằng xã hội và tăng trưởng bền vững
Xoá đói giảm nghèo không chỉ là công việc trước mắt mà còn là nhiệm vụ lâu dài. Trước mắt là xoá hộ đói, giảm hộ nghèo; lâu dài là xoá sự nghèo,giảm khoảng cách giàu nghèo, phấn đấu xây dựng một xã hội giàu mạnh, công bằng.
Xoá đói giảm nghèo không chỉ là phân phối lại thu nhập một cách thụ động mà còn phải tạo ra động lực tăng trưởng tại chỗ, chủ động tự vươn lên thoát nghèo. Xoá đói giảm nghèo không đơn thuần là sự trợ giúp một chiều của tăng trưởng kinh tế với các đối tượng có nhiều khó khăn mà còn là nhân tố quan trọng tạo ra một mặt bằng tương đối đồng đều cho phát triển, tạo thêm một lực lượng sản xuất dồi dào.
Do đó, xoá đói giảm nghèo là một trong những mục tiêu của tăng trưởng (cả trên góc độ kinh tế và xã hội), đồng thời cũng là một điều kiện cho tăng trởng nhanh và bền vững. Trên phương diện nào đó, xét về ngắn hạn, khi phân phối một phần đáng kể trong thu nhập xã hội cho chương trình xoá đói giảm nghèo thì nguồn lực dành cho tăng trưởng kinh tế có thể bị ảnh hưởng, song xét môt cách toàn diện về dài hạn thì kết quả xoá đói giảm nghèo lại tạo tiền đề cho tăng trưởng nhanh và bền vững.
2. Tăng trưởng kinh tế là cơ sở quan trọng để xoá đói giảm nghèo
Tăng trưởng chất lượng cao là để giảm nhanh mức nghèo đói. Thực tiễn những năm vừa qua đã chứng minh rằng, nhờ kinh tế tăng trưởng cao Nhà nước có sức mạnh vật chất để triển khai các chương trình hỗ trợ vật chất, tài chính và cho các xã khó khăn phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội cơ bản. Người nghèo và cộng đồng nhờ đó có cơ hội vươn lên thoát nghèo. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện quan trọng để xoá đói giảm nghèo trên quy mô rộng, không có tăng trưởng mà chỉ thực hiện các chương trình tái phân phối hoặc các biện pháp giảm nghèo truyền thống thì tác dụng không lớn.
Tăng trưởng trên diện rộng với tốc độ cao và bền vững, trước hết chuyển dịch cơ cấu và đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, phát triển ngành nghề, tạo cơ hội nhiều hơn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển nhằm tạo ra nhiều việc làm phi nông nghiệp, tăng thu nhập cho người nghèo.
Như vậy, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững là một điều kiện hết sức quan trọng để thực hiện xoá đói giảm nghèo trên diện rộng và ngược lại thực hiện và thực hiện thành công xoá đói giảm nghèo cũng là một tiền đề quan trọng, một động lực để thực hiện thành công các mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Thực hiện tốt cả hai mục tiêu chính là góp phần quan trọng để thực hiện thành công chiến lược và mục tiêu phát triển của đất nước.
Chương ii
Tình hình thu hút và sử dụng ODA cho xoá đói giảm nghèo – thực trạng và nguyên nhân
I. Thực trạng đói nghèo ở Việt Nam
1. Bối cảnh kinh tế xã hội
1.1. Tình hình phát triển các ngành
Nền kinh tế Việt Nam trong 10 năm (1991 – 2000) dù phải đối mặt với những thách thức hết sức to lớn nhưng đã đạt được những thành tựu đáng tự hào. Đạt được những thành tựu to lớn trong những điều kiện khó khăn là do chúng ta biết phát huy nội lực đồng thời, khai thác có hiệu quả sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trong 10 năm qua là 7,5%/năm, tỷ lệ tiết kiệm và thu nhập bình quân đầu người tiếp tục tăng. So với năm 1990, tỷ lệ tiết kiệm trong nước so với GDP năm 2000 gấp 2,5 lần và GDP bình quân đầu người tăng 1,8 lần.
a) Về nông nghiệp
Tốc độ tăng trưởng được duy trì và phát triển khá cao, có tác động quyết định cho công cuộc xoá đói giảm nghèo thông qua anh ninh lương thực, tạo việc làm và tăng thu nhập cho dân sống ở nông thôn. Sản xuất nông nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng khá và toàn diện, bình quân 1991 – 2000 đạt 5,6%/năm, Việt Nam đã tự túc được lương thực, có dự trữ và xuất khẩu mỗi năm trên 3 triệu tấn gạo. Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản tăng khá, từ hơn 1 tỷ USD năm 1990 lên hơn 4,3 tỷ USD năm 2000.
Cơ cấu sản xuất nông nghiệp trên nhiều vùng đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng hiệu quả trên một đơn vị diện tích, đặc biệt nghề nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản phát triển khá nhanh. Kinh tế nông thôn phát triển đa dạng hơn, nhiều vùng sản xuất nông sản quy mô lớn gắn với công nghiệp chế biến được hình thành, các làng nghề truyền thống được khôi phục và phát triển.
b) Về công nghiệp
Ngành công nghiệp phát triển với nhịp độ khá cao, góp phần quan trọng vào ổn định kinh tế, xã hội và xoá đói giảm nghèo. Năng lực sản xuất nhiều sản phẩm công nghiệp tăng khá, không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước mà khả năng xuất khẩu ngày càng tăng.
Cơ cấu các ngành công nghiệp đã có bước chuyển dịch đáng kể, hình thành một số sản phẩm mũi nhọn, một số khu công nghiệp, khu chế xuất với nhiều cơ sở sản xuất có công nghệ hiện đại. Cùng với việc phát triển các khu công nghiệp có quy mô lớn, Chính phủ cũng chú trọng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, phát triển các cơ sở, làng nghề để thu hút thêm lao động và tăng thu nhập cho người sản xuất.
c) Về dịch vụ
Các ngành dịch vụ tuy hoạt động trong điều kiện hết sức khó khăn, nhưng chất lượng đã được nâng lên, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế và phục vụ đời sống dân cư. Thị trường trong nước đã thông thoáng hơn với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế.
Tổng giá trị dịch vụ tài chính, tín dụng năm 2000 gấp 3,2 lần so với năm 1990, giáo dục đào tạo gấp 2,2 lần, y tế và các hoạt động cứu trợ xã hội gấp 1,7 lần.
Ngành giao thông vận tải trong điều kiện còn nhiều khó khăn, song đã đáp ứng khá tốt về cơ sở hạ tầng cho yêu cầu phát triển kinh tế. Giá trị dịch vụ vận tải, kho tàng, thông tin liên lạc tăng 1,8 lần. Nhiều tuyến giao thông huyết mạch đã được đầu tư nâng cấp bảo đảm giao thông và nhu cầu vận tải trong những năm qua. Dịch vụ Bưu chính viễn thông phát triển nhanh, mạng lưới viễn thông trong nước đã được hiện đại hoá về cơ bản. Nhiều phương tiện thông tin hiện đại đạt tiêu chuẩn quốc tế đã được phát triển, bước đầu đáp ứng nhu cầu thông tin, thương mại của công chúng. Đã hình thành thị trường dịch vụ bảo hiểm với sự tham gia của các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Dịch vụ tài chính, ngân hàng có những đổi mới quan trọng. Các dịch vụ tư vấn pháp luật, khoa học và công nghệ đã bước đầu phát triển.
1.2. Về thực trạng đời sống nhân dân
Đời sống của nhân dân đã có nhiều cải thiện, các mục tiêu phát triển xã hội và cải thiện đời sống dân cư ở thành thị và nông thôn nhất là mục tiêu xoá đói giảm nghèo đạt được những kết qủa rõ rệt. Trong 10 năm, qua tuổi thọ bình quân tăng từ 64 tuổi vào năm 1990 lên 68 tuổi vào năm 2000; tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 51,5% xuống còn 33,1%.
Tỷ lệ hộ dân nông thôn được dùng nước sạch tăng lên gấp đôi; tỷ lệ nhập học theo đúng độ tuổi ở bậc tiểu học đạt 95%. Tỷ lệ các xã không có hoặc thiếu cơ sở hạ tầng thiết yếu đã giảm đi rất nhiều (năm 2000, có 88% số xã đã có điện, 95% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã); đời sống dân cư của nhiều vùng được cải thiện rõ rệt , nhất là đối với nông thôn và các vùng đặc biệt khó khăn. Chỉ số phát triển con người và tiếp cận các dịch vụ xã hội cũng được cải thiện rõ rệt, mặc dù GDP tính theo đầu người của Việt Nam năm 1999 thứ 167, song chỉ số phát triển con người (HDI) được xếp thứ 101 thuộc loại trung bình trên thế giới với chỉ số 0,682. Năm 2001, báo cáo phát triển con người của UNDP xếp Việt Nam thứ 89 trong tổng số 162 nước về chỉ số phát triển giới (GDI).
1.3. Về cơ chế chính sách
Nhiều cơ chế, chính sách đổi mới kinh tế xã hội đã được thực hiện; nhiều đạo luật về kinh tế đã được ban hành và được sửa đổi phù hợp với yêu cầu thị trường như: Luật Dân sự, Luật đất đai, Luật lao động. Luật Thương mại, Luật Đầu tư nước ngoài, Luật hải quan, Luật bảo hiểm và các luật về thuế… đã từng bước tạo nên môi trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ, an toàn và thuận lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh bình đẳng. Thể chế kinh tế thị trường hàng hoá, dịch vụ, thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường khoa học - công nghệ đang được hình thành và từng bước được hoàn thiện, đã có tác dụng khuyến khích dân cư, doanh nghiệp trong nước và nước ngoài bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất.
1.4. Về chất lượng phát triển
Nền kinh tế Việt Nam phát triển chưa vững chắc. Từ năm 1997 do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính khu vực, nhịp độ tăng trưởng kinh tế chậm lại. Những năm gần đây tuy đã đạt được mức tăng trưởng cao hơn (năm 2003 đạt tốc độ 7,34%) song nền kinh tế Việt Nam còn phải trải qua những khó khăn to lớn.
Chất lượng phát triển còn thấp, hiệu quả của nền kinh tế chưa cao, sức cạnh tranh thấp, nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhiều ngành sản phẩm chưa đủ sức cạnh tranh. Trong nông nghiệp chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn còn chậm, các phương thức canh tác tiên tiến được đưa vào nông thôn chưa nhiều; lao động thiếu việc làm và không có tay nghề còn cao, năng suất lao động còn thấp; khả năng cạnh tranh hàng hoá còn chưa cao, một số sản phẩm tiêu thụ còn khó khăn, môi trường xuống cấp, tài nguyên bị khai thác quá mức và cạn kiệt.
Sản xuất công nghiệp chưa ổn định, hiệu quả chưa cao. Một số ngành công nghiệp còn nhiều khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Nhiều doanh nghiệp trong nước chưa năng động, sức cạnh tranh kém, chưa bám sát các nhu cầu thị trường. Trình độ công nghệ, tình trạng máy móc, thiết bị lạc hậu chậm đổi mới làm cho chi phí sản xuất cao; việc sắp xếp lại sản xuất, đổi mới doanh nghiệp tiến hành chậm. Các ngành dịch vụ phát triển yếu, mạng lưới thương nghiệp và thị trường vùng nông thôn , miền núi, vùng sâu kém phát triển.
1.5. Tồn tại nhiều vấn đề xã hội bức xúc
Lao động và việc làm đang trở thành vấn đề gay gắt, nổi cộm nhất hiện nay; thu nhập và năng suất lao động nhất là trong nông nghiệp quá thấp. Khoảng cách thu nhập giữa nông thôn và thành thị ngày càng gia tăng; trình độ tay nghề kém, lao động chưa qua đào tạo còn chiếm tỷ trọng cao. Khoa học công nghệ chưa thực sự trở thành cơ sở và động lực phát triển sản xuất kinh doanh. Quá trình công nghiệp hoá, đô thị hóa chậm, không theo quy hoạch nên chưa đủ sức hút lao động dôi dư trong xã hội.
Vấn đề xã hội còn nhiều bức xúc, tệ nạn xã hội hội có xu hướng tiếp tục gia tăng; gian lận thương mại chưa giảm; tai nạn giao thông xảy ra nghiêm trọng và có xu hướng gia tăng; tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em còn cao, trên 60% trẻ em tàn tật chưa được điều trị; lao động trẻ em đang là vấn đề bức xúc; trẻ em bị buôn bán, bị xâm hại, trẻ em lang thang có chiều hướng gia tăng; sự lây lan HIV/AIDS chưa có chiều hướng giảm; khiếu kiện vẫn còn dai dẳng… Đời sống của nhân dân ở một số vùng sâu, vùng xa, vùng thường bị thiên tai còn rất khó khăn.
Nhìn chung, sau hơn mười năm thực hiện chính sách đổi mới nền kinh tế Việt Nam tuy phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, song nhờ thực hiện tốt các chính sách và có các biện pháp phù hợp, biết phát huy nội lực, tranh thủ và khai thác có hiệu quả sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế nên đã đạt được những thành tựu quan trọng: tốc độ tăng trưởng GDP trong 10 năm từ 1991 – 2000 đạt 7,5%/năm, tỷ lệ tiết kiệm và thu nhập bình quân đầu người tiếp tục tăng, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện.
Mặc dù đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng tình trạng nghèo đói vẫn còn hiện hữu ở nhiều nơi, đặc biệt là khu vực nông thôn, miền núi. Thu nhập của phần lớn dân cư vẫn giáp ranh ở mức nghèo và rất dễ bị tổn thương bởi thiên tai, bệnh dịch, mất việc làm. Do vậy, cần có sự nỗ lực cố gắng của Chính phủ và mọi tầng lớp nhân dân để đưa đất nước thoát nghèo và bắt kịp sự phát triển của thế giới.
2. Đặc điểm của nghèo đói ở Việt Nam
Việt Nam vẫn là nước nghèo trên thế giới và mỗi khu vực khác nhau trên đất nước tình trạng và tỷ lệ đói nghèo có những đặc điểm mang tính khác biệt. Có thể tóm lược một số đặc điểm cơ bản sau:
2.1. Việt Nam được xếp vào nhóm các nước nghèo của thế giới
Tỷ lệ nghèo đói ở Việt Nam còn khá cao. Theo kết quả điều tra mức sống dân cư của Tổng cục Thống kế thì tỷ lệ đói nghèo chung theo chuẩn quốc tế của Việt Nam năm 1993 lên đến 57%, năm 1998 giảm còn 37,4% và năm 2003 là 27,2%. Số liệu tương ứng theo chuẩn nghèo quốc gia là: 20,1% năm 1998; năm 2003 là 11%.
Bảng 2.1: Tỷ lệ đói nghèo của Việt Nam từ năm 1998 – 2002, %
Năm
Theo chuẩn quốc tế
Theo chuẩn quốc gia
1998
37,4
20,1
1999
34,8
18,7
2000
32
17,2
2001
30,4
15,9
2002
28,9
14
Nguồn: Điều tra mức sống dân cư Việt Nam 1998, 2002
Qua bảng số liệu trên ta thấy rằng tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam qua các năm có xu hướng giảm xuống tính theo cả tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế. Điều này thể hiện kết quả của sự nỗ lực của Việt Nam trong công tác xoá đói giảm nghèo, với hàng loạt các chiến lược, chương trình quốc gia liên quan đến xoá đói giảm nghèo và sự hợp tác, ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với công cuộc xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam .
2.2. Nghèo đói phổ biến trong những hộ có thu nhập bấp bênh
Mặc dù Việt Nam đã đạt được những thành công rất lớn trong việc giảm nghèo, nhưng cũng cần thấy rằng những kết quả đạt được là hết sức mong manh.
Thu nhập của một bộ phận rất lớn dân cư vẫn còn giáp ranh mức nghèo nên rất dễ bị tái nghèo khi có những thay đổi về điều kiện bên ngoài như thiên tai, bệnh dịch, khủng hoảng, lạm phát v.v và khi có một sự điều chỉnh nhỏ trong việc xác định chuẩn nghèo cũng khiến họ rơi xuống ngưỡng nghèo.
Phần lớn thu nhập của người nghèo là từ nông nghiệp, với điều kiện nguồn lực hạn chế về đất đai, vốn, thu nhập của những người nghèo rất bấp bênh và dễ bị tổn thương trước những đột biến của mỗi gia đình và cộng đồng. Một số gia đình tuy thu nhập ở trên ngưỡng nghèo, nhưng vẫn giáp ranh với ngưỡng nghèo đói, do vậy khi có những dao động về thu nhập cũng có thể khiến họ trượt xuống ngưỡng nghèo. Tính mùa vụ trong nông nghiệp cũng tạo nên khó khăn cho người nghèo.
Mức độ cải thiện thu nhập của người nghèo chậm hơn nhiều so với mức sống chung và đặc biệt so với nhóm có mức sống cao. Sự gia tăng chênh lệch giữa nhóm 20% giàu nhất và 20% nghèo nhất ( từ 7,3 lần năm 1993 lên 8,9 lần năm 1998) cho thấy, tình trạng tụt hậu của người nghèo trong mối tương quan với người giàu. Mặc dù chỉ số nghèo đói có cải thiện, nhưng mức cải thiện ở nhóm người nghèo chậm hơn so với mức chung. Hệ số chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn rất cao.
2.3. Nghèo đói tập trung ở những vùng có điều kiện sống khó khăn
Đa số người nghèo sinh sống trong vùng tài nguyên thiên nhiên rất nghèo nàn, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt như vùng núi, vùng sâu, vùng xa hoặc ở Miền Trung hay Đồng bằng Sông Cửu Long do sự biến động của thời tiết khiến cho các điều kiện sinh sống và sản xuất của người dân càng thêm khó khăn. Đặc biệt sự kém phát triển về hạ tầng cơ sở của các vùng nghèo đã làm cho các vùng này càng bị tách biệt với các vùng khác. Năm 2000 khoảng 20 – 30% trong tổng số 1870 xã đặc biệt khó khăn chưa có đường dân sinh đến trung tâm xã; 40% số xã chưa đủ phòng học; 5% số xã chưa có trạm y tế; 55% số xã chưa có nước sạch; 40% số xã chưa có đường điện đến trung tâm xã; 50% chưa đủ công trình thuỷ lợi nhỏ.
Bên cạnh đó, do điều kiện thiên nhiên không thuận lợi, số người trong diện cứu trợ đột xuất hàng năm khá cao, khoảng 1 – 2,5 triệu người.
2.4. Nghèo đói tập trung trong khu vực nông thôn
Nghèo đói là một hiện tượng phổ biến ở nông thôn với hơn 90% số người nghèo sinh sống ở nông thôn. Năm 1999, tỷ lệ đói nghèo đói về lương thực, thực phẩm của thành thị là 4,6% trong khi đó tỷ lệ này ở nông thôn là 15,9%. Trên 80% số người nghèo là nông dân, trình độ tay nghề thấp, ít khả năng tiếp cận các nguồn lực trong sản xuất, thị trường tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn do điều kiện địa lý và chất lượng sản phẩm còn thấp, chủng loại nghèo nàn. Cũng như khu vực miền núi, những người nông dân ít có điều kiện tiếp cận với hệ thống thông tin, và các dịch vụ về hạ tầng cơ sở khác. Bảng số liệu sau sẽ minh hoạ phần nào sự thiếu thốn trong việc được đáp ứng các dịch vụ về hạ tầng cơ sở ở vùng nông thôn
Bảng 2.4: Tiếp cận các dịch vụ cơ bản ở nông thôn
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu
1993
1998
2002
Tỷ lệ dân cư ở nông thôn có trung tâm y tế xã
93
97
Tỷ lệ dân cư nông thôn được tiếp cận với nguồn nước sạch
17
29
39,6
Tỷ lệ dân cư nông thôn được tiếp cận với nguồn nước sạch
60
75
76,3
Tỷ lệ dân cư nông thôn sử dụng điện làm nguồn thắp sáng chính
48
77
Tỷ lệ xã có đường ô tô đến xã
97,2
Tỷ lệ hộ gia đình được xem truyền hình Việt Nam
84,7
Tỷ lệ hộ gia đình được nghe đài Tiếng nói Việt Nam
92,8
Nguồn: Chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo
Xét về số tương đối thì tỷ lệ số xã ở nông thôn được tiếp cận với các dịch vụ cơ bản không phải là thấp nhưng thực tế ở nhiều nơi những dịch vụ này không phải tất cả mọi người trong xã đều có điều kiện được hưởng và chất lượng của các dịch vụ còn rất hạn chế.
2.5. Nghèo đói ở khu vực thành thị
Trong khu vực thành thị, tuy tỷ lệ nghèo đói thấp hơn và mức sống trung bình cao hơn so với mức sống chung của cả nước, nhưng mức độ cải thiện điều kiện sống không đồng đều. Đa số người nghèo đô thị làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức, công việc không ổn định, thu nhập thấp và bấp bênh.
Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế và chủ sở hữu trong khu vực nhà nước dẫn đến sự dôi dư lao động, mất việc làm của một bộ phận người lao động ở các khu vực này, làm cho điều kiện sống của họ càng thêm khó khăn hơn.
Người nghèo đô thị phần lớn sống ở những nơi có cơ sở hạ tầng thấp kém, khó có điều kiện tiếp xúc với các điều kiện cơ bản (nước sạch, vệ sinh môi trường, thoát nước…).
Người nghèo đô thị dễ bị tổn thương do sống phụ thuộc chủ yếu vào nguồn thu nhập bằng tiền. Họ thường không có hoặc ít có khả năng tiết kiệm và gặp nhiều khó khăn trong việc vay vốn tạo việc làm.
Quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá làm tăng số lượng người di cư tự do từ các vùng nông thôn đến các đô thị, chủ yếu là trẻ em và người trong độ tuổi lao động. Hiện tại, chưa có số liệu thống kê về số lượng người di cư tự do này trong các báo cáo về nghèo đói ở đô thị. Những người này gặp rất nhiều khó khăn trong việc đăng ký hộ khẩu hoặc tạm trú lâu dài, do đó họ khó có thể tìm kiếm được công ăn việc làm và thu nhập ổn định.
Bảng 2.5: Ước tính quy mô và tỷ lệ nghèo đói theo chuẩn nghèo mới giữa thành thị và nông thôn năm 2000
Số hộ nghèo
(Nghìn hộ)
So với số hộ trong vùng (%)
So với tổng số hộ nghèo cả nước (%)
Tổng số
2800
17,2
100
Nông thôn:
2535
19,7
90,5
- Nông thôn miền núi
785
31,3
28,0
- Nông thôn đồng bằng
1750
16,9
62,5
Thành thị
265
7,8
9,5
Nguồn: Chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo
Nhìn vào bảng số liệu trên ta có thể thấy quy mô cũng như tỷ lệ hộ nghèo ở thành thị thấp hơn rất nhiều so với khu vực nông thôn. Điều này phản ánh điều kiện sống khác nhau giữa nông thôn và thành thị và chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị. Đó là hệ quả của sự phát triển không đồng đều do các điều kiện khách quan cũng như chủ quan của bản thân người dân ở các khu vực nông thôn và thành thị. Vấn đề là, cần phải làm thế nào để giảm được nghèo đói ở cả nông thôn và thành thị đồng thời thu hẹp khoảng cách về thu nhập giữa 2 khu vực này nhằm đảm bảo sự công bằng và phát triển bền vững cho đất nước.
2.6. Tỷ lệ nghèo đói khá cao trong các vùng sâu, vùng xa, vùng cao
Đói nghèo mang tính chất vùng rõ rệt. Các vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa có tỷ lệ đói nghèo khá cao. Có tới 64% số người nghèo tập trung tại các vùng miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ, Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên.
Bảng 2.6: Tỷ lệ nghèo đói theo vùng theo chuẩn quốc tế
Đơn vị tính: %
1998
2002
Nghèo chung
Nghèo lương thực, thực phẩm (2100calo)
Nghèo chung
Nghèo lương thực, thực phẩm (2100 calo)
Tỷ lệ nghèo cả nước
37,4
15,0
28,9
10,9
- Thành thị
9,2
2,5
6,6
1,9
- Nông thôn
45,5
18,6
35,6
13,6
Miền núi phía Bắc
64,2
32,4
43,9
21,1
Đồng bằng Sông Hồng
29,3
8,5
22,4
5,3
Bắc Trung bộ
48,1
19,0
44,4
17,5
Duyên hải miền Trung
34,5
15,9
25,2
9,0
Tây Nguyên
52,4
31,5
51,8
29,5
Đông Nam bộ
12,2
5,0
10,6
3,0
ĐB Sông Cửu Long
36,9
11,3
23,4
6,5
Nguồn: Điều tra mức sống dân cư Việt Nam 1998, 2002
Ta thấy rằng, nghèo đói vẫn tập trung ở những vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao. Đây là những vùng có điều kiện sống khó khăn, địa lý cách biệt, khả năng tiếp cận với các điều kiện sản xuất và dịch vụ còn nhiều hạn chế, hạ tầng cơ sở rất kém phát triển, điều kiện thiên nhiên hết sức khắc nghiệt và thiên tai xảy ra thường xuyên. Bên cạnh đó, những vùng địa lý như vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao lại tập trung chủ yếu người dân là người dân tộc thiểu số. Mặc dù dân số ít, chỉ chiếm khoảng 14% tổng số dân cư, song lại chiếm tới khoảng 29% trong tổng số người nghèo. Do vậy, tuy được Chính phủ hết sức hỗ trợ nhưng cuộc sống của người dân tộc ít người vẫn gặp nhiều khó khăn và bất cập.
Nhìn chung, mức độ giảm nghèo giữa các vùng tuy khác nhau nhưng tỷ lệ nghèo lương thực, thực phẩm đều giảm: Vùng đồng bằng Sông Hồng từ 8,5% năm 1998 giảm xuống còn 5,3% năm 2002. Tương tự, Vùng Bắc trung bộ từ 19% xuống còn 17,5%; vùng Duyên hải miền trung từ 15,9% xuống còn 9%; Tây nguyên từ 31,5% xuống còn 17,59%; Đông Nam bộ từ 5% xuống còn 3% và vùng Đồng bằng Sông Cửu Long giảm từ 11,3% xuống 6,5%.
Tốc độ giảm nghèo trong giai đoạn gần đây vẫn tương đối nhanh mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm hơn so với giai đoạn 1993 – 1997 và chi phí cho xoá đói giảm nghèo đòi hỏi ngày càng cao hơn. Trong 5 năm 1993 – 1998, tỷ lệ nghèo giảm được 19,6%, bình quân 2,8%/năm; trong 4 năm 1999 – 2002, giảm được 8,5%, trung bình 2,1%/năm. Thành tích này trong xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam là rất ấn tượng và được cộng đồng quốc tế đánh giá rất cao. Điều này là một thuận lợi để nhận được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với công tác xoá đói giảm nghèo trong thời gian tới.
3. Nguyên nhân của nghèo đói
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến nghèo đói bao gồm cả những nguyên nhân khách quan và cả những nguyên nhân chủ quan. Sau đây là một số nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng đến đói nghèo:
3.1. Nguồn lực hạn chế và nghèo nàn
Có một cái vòng luẩn quẩn mà người nghèo bị cuốn vào, đó là người nghèo không đủ nguồn lực để đầu tư cho sản xuất. Do vậy, họ lại tiếp tục nghèo và do tiếp tục sống trong cảnh nghèo đói nên họ không thể có nguồn lực đầu tư phục vụ sản xuất để thoát nghèo và họ cứ bị rơi vào cái vòng luẩn quẩn ấy mà không biết khi nào có thể thoát ra được.
Các hộ nghèo có rất ít đất đai và tình trạng không có đất đai đang có xu hướng tăng lên, đặc biệt ở vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Thiếu đất đ._.áu, phần lớn các dự án dành cho các dân tộc thiểu số thường không tính đến các khía cạnh xã hội và văn hoá của họ. Chưa tạo điều kiện để người nghèo trực tiếp tham gia, chưa có sự hướng dẫn đầy đủ cho các đối tượng hưởng lợi từ các chương trình, dự án. Vì vậy, họ tham gia các dự án một cách thụ động và coi các khoản viện trợ như một thứ quà biếu không có giá trị phát triển.
Bên cạnh đó, sự thiếu minh bạch về pháp luật, thiếu công khai về thông tin và việc kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn chưa sát xao dẫn đến sự sai mục đích và không hiệu quả trong sử dụng vốn.
Qua việc phân tích thực trạng triển khai thực hiện các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA có thể rút ra một số điều cần lưu ý sau:
3. Một số bài học rút ra
Một điều kiện tiên quyết để triển khai thành công dự án và giải ngân nhanh là phải tranh thủ được sự ủng hộ của người hưởng lợi và nắm bắt được đăc điểm về văn hoá và xã hội của họ đặc biệt là người nghèo và dân tộc thiểu số. Phương pháp tốt nhất để tranh thủ được sự ủng hộ của họ là tạo điều kiện tốt nhất để họ có thể tham gia vào các dự án và thấy được lợi ích trước mắt và lâu dài của việc thực hiện dự án.
Trong quá trình triển khai dự án ODA, chủ dự án không những phải tuân thủ đầy đủ các quy định trong nước mà còn phải tuân thủ các quy định của phía nhà tài trợ. Vì vậy việc triển khai các dự án này là rất phức tạp, dự án cần phải được xây dựng, thiết kế cẩn thận để khi đã ký kết hiệp định vay vốn thì có thể triển khai được ngay.
Một vấn đề khác là vấn đề vốn đối ứng, vốn đối ứng cho các dự án chiếm một phần nhỏ trong tổng số vốn đầu tư nhưng lại là một phần không thể thiếu nếu muốn triển khai dự án. Do đó, về phía Chính phủ cần tiếp tục ưu tiên bố trí vốn đối ứng cho các dự án ODA. Về phía chủ đầu tư cần quan tâm lập kế hoạch vốn đối ứng chính xác và kịp thời trình các cơ quan tổng hợp xem xét và bố trí đầy đủ.
Vấn đề nữa là, các dự án ODA sử dụng vốn nước ngoài nhưng ngân sách nhà nước phải trả lại sau này nên thực chất vẫn là chi tiêu từ ngân sách nhà nước. Vì vậy, các dự án ODA phải được xây dựng phù hợp với kế hoạch phát triển tổng thể của đất nước, của các ngành chủ quản và các đơn vị hưởng lợi.
Do vậy, để tiếp tục có vốn đầu tư phát triển đất nước và thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo chúng ta cần có các biện pháp mạnh để cạnh tranh thu hút nguồn vốn ODA và sử dụng hiệu quả nguồn vốn này.
Chương iii
Một số giải pháp thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA cho xoá đói giảm nghèo
I. Những thách thức và mục tiêu xoá đói giảm nghèo đến năm 2005 ở Việt Nam
1. Những thách thức đặt ra cho công cuộc xoá đói giảm nghèo
Những thành tựu về xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam những năm qua được đánh giá là rất tốt, song chúng ta vẫn còn phải đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức mới:
Một là, Tỷ lệ hộ nghèo vẫn còn cao. Theo chuẩn nghèo mới của chương trình quốc gia, mặc dù chuẩn này vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực nhưng đến năm 2002 vẫn còn 14% số hộ nghèo trong tổng số hộ trong cả nước, trong đó phần lớn là những hộ gặp rất nhiều khó khăn để giảm nghèo.
Nghèo đói phân bố không đều giữa các vùng, tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng thường xuyên bị thiên tai, vùng đồng bào dân tộc ít người còn khá cao. Đa số người nghèo không có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản.
Hai là, Sự chênh lệch thu nhập, mức sống giữa nông thôn và đô thị, giữa miền núi và vùng đồng bằng, giữa các tầng lớp dân cư, giữa vùng giàu và vùng nghèo có xu hướng tiếp tục gia tăng. Chênh lệch cũng có xu hướng gia tăng trong nội bộ vùng, đặc biệt là trong đô thị.
Ba là, Những thành tựu xoá đói giảm nghèo đã đạt được còn thiếu tính bền vững, nguy cơ tái nghèo còn lớn. Nguy cơ dễ bị tổn thương của người nghèo trước những rủi ro của cuộc sống (ốm đau, thiên tai, mất mùa, biến động thị trường…) còn lớn. Hệ thống an sinh xã hội chưa phát huy tác dụng ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Đặc biệt nước ta nằm trong vùng thường xuyên xảy ra thiên tai, bão lụt và 80% người nghèo làm việc trong khu vực nông nghiệp có thể dẫn đến nguy cơ tái nghèo đói cao. Mặt khác, có không ít hộ tuy không thuộc diện nghèo đói nhưng mức thu nhập không ổn định nằm giáp ranh chuẩn nghèo đói cũng có nguy cơ tái nghèo.
Bên cạnh đó, nghèo đói có mối liên hệ mật thiết với tình trạng suy thoái môi trường. Nghèo đói có thể khiến cho nông dân khai thác quá mức nguồn tài nguyên vốn đã hạn hẹp và càng làm cho nghèo đói trở nên trầm trọng hơn.
Bốn là, Nguồn lực trong nước còn hạn hẹp, vừa phải đầu tư lớn cho sự phát triển chung của đất nước vừa phải đầu tư cho xoá đói giảm nghèo, trong khi đó việc khai thác các nguồn lực chưa được nhiều và chưa có hiệu quả. Các nguồn lực cho xoá đói giảm nghèo tuy có tăng lên qua các năm, nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu của các địa phương. Địa bàn trọng điểm cần xoá đói giảm nghèo hiện nay là những vùng vao, vùng sâu có nhiều khó khăn, suất đầu tư cao, chi phí lớn nên khó thu hút được đầu tư. Đây thực sự là một thách thức lớn cho công tác xoá đói giảm nghèo trong thời gian tới.
Năm là, Lao động dôi dư nhiều, tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp. Khả năng tạo việc làm và nâng cao năng suất lao dộng của xã hội còn hạn chế, trong khi đó dân số và nguồn lao động vẫn tiếp tục gia tăng làm cho sức ép về việc làm tăng lên, số lao dộng chưa có việc làm còn lớn. Trong khu vực nông thôn tỷ lệ thiếu việc làm còn cao khoảng 26% (tỷ lệ sử dụng thời gian lao động mới đạt trên 74%). Trong khu vực thành thị, do tác động của nhập cư, mất đất sản xuất, đô thị hoá… làm tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng gia tăng trở lại, nhất là trong các đô thị và thành phố lớn.
Việc tiếp tục thúc đẩy cải cách nền kinh tế, cải cách doanh nghiệp nhà nước, tự do hoá thương mại đang diễn ra trên quy mô ngày càng rộng sẽ tạo ra những nhân tố mới để tăng trưởng và huy động nguồn lực cho xoá đói giảm nghèo. Tuy nhiên, nếu người nghèo không được tạo cơ hội hoặc không có khả năng tham gia vào quá trình này sẽ làm cho tình trạng thất nghiệp tăng lên và nghèo đói sẽ tăng thêm.
Sáu là, Các cơ chế, chính sách xoá đói giảm nghèo và hỗ trợ cho người nghèo tuy đã được triển khai thực hiện, song chưa đầy đủ và thiếu đồng bộ, chưa rõ ràng, minh bạch ở một số vùng và địa phương, chưa thích ứng với điều kiện cụ thể của từng vùng, từng nhóm người nghèo. Vì vậy, hiệu quả thực hiện chưa cao, chưa tác động mạnh đến người nghèo.
Ngoài ra, phụ nữ và trẻ em gái nghèo ở vùng sâu, vùng xa, phụ nữ vùng dân tộc ít ngươi còn ít được hưởng lợi từ chính sách, bị ảnh hưởng tư tưởng hoặc phong tục tập quán lạc hậu và ở nhiều nơi còn là nạn nhân của tội buôn bán phụ nữ và bạo lực gia đình.
2. Một số mục tiêu về xoá đói giảm nghèo đến năm 2005
Mặc dù, có không ít khó khăn, thách thức đang đặt ra cho công cuộc xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam, nhưng Chính phủ Việt Nam vẫn rất quyết tâm và nỗ lực nhằm giảm nhanh tình trạng nghèo đói. Những quyết tâm đó đã được cụ thể hoá bằng các mục tiêu cụ thể. Đó là:
Thứ nhất, giảm tỷ lệ hộ nghèo: Đến năm 2005 giảm 2/5 tỷ lệ hộ nghèo so với năm 2000 theo chuẩn của Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo.
Thứ hai, Đảm bảo công trình hạ tầng thiết yếu cho người nghèo, cộng đồng nghèo và xã nghèo.
Tiếp tục cải tạo, nâng cấp, mở rộng và xây dựng mới các công trình hạ tầng thiết yếu (thuỷ lợi nhỏ, trường học, trạm xá, đường giao thông, điện chiếu sáng…) bảo đảm đến năm 2005 cung cấp cho 80% xã nghèo có các cơ sở hạ tầng thiết yếu.
Đến năm 2005 mở rộng điện lưới quốc gia đến trung tâm 900 xã nghèo, bảo đảm 90% số xã có điện, bảo đảm có đường ô tô về các trung tâm xã.
Đến năm 2005 phấn đấu 80% dân số thành thị, đặc biệt là ở những khu vực xa đường giao thông chính và 60% dân số ở nông thôn được sử dụng nước sạch.
Thứ ba, giải quyết việc làm cho khoảng 1,4 – 1,5 triệu lao động/năm. Nâng tỷ lệ lao động nữ trong tổng số việc làm mới lên 40% vào năm 2005.
Nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 30% vào năm 2005, nâng thời gian sử dụng lao động ở nông thôn lên 80% vào năm 2005.
Giảm tỷ lệ lao động chưa có việc làm ở thành thị xuống khoảng 5,4% trong tổng số lao động trong độ tuổi vào năm 2005.
Thứ tư, Củng cố, duy trì và phát huy thành quả phổ cập giáo dục tiểu học và xoá mù chữ, đặc biệt ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa. Thực hiện phổ cập trung học cơ sở trong cả nước. Cải thiện chất lượng giáo dục ở mọi cấp học và cho mọi đối tượng, đặc biệt chú ý đến học sinh nghèo.
Thứ năm, Nâng cao đời sống dân trí, bảo tồn và phát huy những gía trị văn hoá truyền thống của đồng bào dân tộc ít người. Hỗ trợ người dân tộc ít người tham gia nhiều hơn các công việc tại các cơ quan nhà nước.
Đảm bảo quyền sử dụng đất cho tập thể và cá nhân ở vùng dân tộc ít người và miền núi. Tiếp tục củng cố và mở rộng các hoạt động y tế , văn hoá, thông tin về cơ sở phục vụ đồng bào dân tộc.
Thứ sáu, giảm khả năng dễ bị tổn thương và phát triển mạng lưới an sinh xã hội trợ giúp cho các đối tượng yếu thế và người nghèo; thực hiện bình đẳng giới, tăng quyền cho phụ nữ và bảo đảm quyền cho trẻ em; cung cấp kiến thức về pháp lý cho người nghèo.
Để vượt qua được những thách thức và đạt được các mục tiêu về xoá đói giảm nghèo thì một yếu tố quan trọng là phải huy động được nguồn lực phục vụ cho công tác xoá đói giảm nghèo. Theo tính toán bước đầu của các Bộ, ngành liên quan kết hợp với tổ chức tính toán chi phí của một số chuyên gia quốc tế, nhu cầu chi cho một số ngành, lĩnh vực liên quan đến xoá đói giảm nghèo (nông nghiệp và phát triển nông thôn, y tế, giáo dục, đô thị, điện khí hoá, giao thông vận tải, điện khí hoá, lao động và bảo hiểm xã hội và một số chương trình quốc gia) trong 3 năm 2003 – 2005 là khoảng 84 nghìn tỷ đồng. Cụ thể là
Bảng I.1:Nhu cầu chi cho một số mục tiêu liên quan đến xoá đói giảm nghèo, Tỷ đồng
2003
2004
2005
Tổng số
Tổng
28330
27870
28275
84475
- Thường xuyên
17280
18001
18719
54002
- Đầu tư
11050
9869
9556
30473
Trong đó:
Nông nghiệp
5002
4906
4772
14681
- Thường xuyên
3001
2944
2863
8808
- Đầu tư
2001
1963
1909
5872
Y tế
3752
3835
3971
11558
- Thường xuyên
3276
3348
3384
10008
- Đầu tư
476
487
587
1550
Giáo dục
4520
4555
4589
13664
- Thường xuyên
1778
1813
1847
5438
- Đầu tư
2742
2742
2742
8226
Phát triển đô thị
1500
1500
1500
4500
- Thường xuyên
75
75
75
225
- Đầu tư
1425
1425
1425
4275
Điện lực
1248
261
75
1584
Giao thông VT
3083
2982
2890
8955
- Thường xuyên
925
1041
1175
3141
- Đầu tư
2158
1941
1715
5814
Lao động&BHXH
7255
7731
8272
23229
Các chương trình quốc gia
2000
2100
2205
6305
- Thường xuyên
1000
1050
1103
3153
- Đầu tư
1000
1050
1103
3153
Nguồn: Các Bộ, ngành của Việt Nam và tổ tính toán chi phí quốc tế
Trong khi nhu cầu chi cho các mục tiêu xoá đói giảm nghèo là khá lớn mà khả năng thực hiện chi từ ngân sách lại có hạn. Do đó, trong những năm tới nguồn vốn huy động từ bên ngoài (chủ yếu là vốn ODA) vẫn có một ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam. Vậy làm thế nào để có thể huy động và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA cho xoá đói giảm nghèo? Sau đây là một số giải pháp cơ bản nhằm huy động và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn này:
II. Giải pháp thu hút ODA cho xoá đói giảm nghèo
Để thu hút được ngày càng nhiều vốn ODA cho công tác xoá đói giảm nghèo trong thời gian tới cần thực hiện đồng thời một số giải pháp sau:
1. Xây dựng chiến lược, chương trình mục tiêu về xoá đói giảm nghèo
Trong điều kiện ngày càng có sự cạnh tranh trong việc thu hút vốn ODA và các nhà tài trợ quốc tế đang có xu hướng cắt giảm các nguồn viện trợ thì việc nắm bắt được hướng ưu tiên của các nhà tài trợ có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc huy động vốn ODA từ các nhà tài trợ.
Hiện nay, đa số các nhà tài trợ trên thế giới chỉ cam kết cho các nước nhận viện trợ ODA khi các nước nhận viện trợ đưa ra được các chương trình, mục tiêu cụ thể có tính khả thi và phù hợp với mục tiêu ưu tiên của các nhà tài trợ. Một trong các mục tiêu ưu tiên hàng đầu của các nhà tài trợ quốc tế hiện nay là xoá đói giảm nghèo cho các nước đang và chậm phát triển như Việt Nam.
Trong những năm qua Việt Nam đã xây dựng được một số chương trình mục tiêu mang tầm quốc gia về xoá đói giảm nghèo như: Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo; Chương trình xoá đói giảm nghèo và tạo việc làm; chương trình phát triển kinh tế – xã hội các xã đặc biệt khó khăn… và những chương trình này đã nhận được sự ủng hộ và đánh giá cao của cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, trên thực tế việc triển khai thực hiện các dự án này còn có nhiều bất cập. Vì vậy, để tiếp tục thực hiện và thực hiện thành công các mục tiêu trên trong thời gian tới cần tiếp tục hoàn thiện hơn nữa các chương trình, dự án và xác định hướng ưu tiên cụ thể để làm cơ sở cho việc huy động vốn từ các nhà tài trợ quốc tế.
2. Hài hoà thủ tục dự án
Một trong những nguyên nhân cơ bản làm chậm tiến độ giải ngân các dự án sử dụng vốn ODA dẫn đến sự kém hiệu quả trong các dự án là vấn đề hài hoà thủ tục giữa Việt Nam và các nhà tài trợ.
Dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA phải trải qua hai khâu thẩm định. Các quá trình thẩm định và phê duyệt dự án diễn ra từ phía các cơ quan Chính phủ và các nhà tài trợ. Để đảm bảo cho việc phê duyệt dự án được suôn sẻ, cần có sự cải tiến thủ tục và phối hợp của cả hai phía.
Thực tế hiện nay cho thấy tiến trình thẩm định và phê duyệt dự án đang còn trục trặc, các văn bản báo cáo nghiên cứu khả thi chuẩn bị thường không đáp ứng yêu cầu do năng lực chuẩn bị báo cáo nghiên cứu khả thi của chủ đầu tư còn hạn chế, dẫn tới sự chậm trễ trong việc trình và phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi. Bên cạnh đó, còn thiếu nhất quán giữa nội dung của báo cáo khả thi được phê duyệt và các kết quả thẩm định của nhà tài trợ
Do vậy, để các dự án ODA thật sự phát huy được tác dụng của nó, cả hai bên cần nghiên cứu, điều chỉnh để thủ tục thẩm định của hai bên tiến tới đồng bộ, thống nhất và phối hợp nhịp nhàng với nhau cả về nội dung và thời điểm thẩm định của một quy trình thẩm định chung nhưng vẫn là hai lần thẩm định độc lập, khách quan. Trong quy trình thẩm định chung này, nên để thẩm định của nhà tài trợ sau khi có phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi của Chính phủ. Đồng thời, để tránh lãng phí thời gian, nên giảm bớt những thủ tục không thật sự cần thiết trong quá trình phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi. Ngoài ra, chủ đầu tư cần được bố trí vốn chuẩn bị đầu tư để lập trước nghiên cứu tiền khả thi và xúc tiến nghiên cưú khả thi cho các dự án nằm trong danh mục các dự án ưu tiên được sử dụng vốn ODA đã được Chính phủ phê duyệt và nhà tài trợ có cam kết xem xét tài trợ.
3. Tăng cường các mối quan hệ phi nhà nước
Viện trợ phát triển chính thức bao gồm 3 phương thức: viện trợ không hoàn lại; cho vay với điều kiện ưu đãi; các hiệp định đa phương. Nếu như phần cho vay với điều kiện ưu đãi thường dành cho các dự án nhà nước về xây dựng cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường… thì phần viện trợ không hoàn lại thường dành cho mục tiêu phát triển con người như: xoá đói giảm nghèo, y tế, giáo dục, bảo tồn văn hoá dân tộc v.v. Trong những lĩnh vực này không chỉ có vai trò của các tổ chức nhà nước mà còn có vai trò của các tổ chức xã hội, đoàn thể, các tổ chức từ thiện và các tổ chức phi Chính phủ. Vì thế, việc mở rộng quan hệ phi nhà nước là một điều kiện quan trọng để tìm kiếm được nhiều hơn các nguồn ODA cũng như các nguồn viện trợ khác.
4. Thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án ODA
Khi tiến hành đầu tư hay viện trợ cho một chương trình, dự án nào đấy, điều mà các nhà tài trợ quan tâm nhiều nhất chính là hiệu quả của các chương trình, dự án được thực hiện. Thực hiện hiệu quả các chương trình, dự án của nhà tài trợ cũng là điều kiện tiên quyết để các nhà tài trợ xem xét để tài trợ cho những dự án khác. Do vậy, để có thể huy động được nhiều hơn nữa nguồn vốn ODA chúng ta cần phải đưa ra nhiều biện pháp để thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án đã dược cam kết. Cụ thể là:
Thứ nhất, Tạo điều kiện tốt nhất để người hưởng lợi từ các chương trình, dự án tham gia vào các dự án. Trên thực tế, nhiều dự án ODA hỗ trợ cho các mục tiêu xoá đói giảm nghèo, y tế, giáo dục… người hưởng lợi không được hướng dẫn đầy đủ thậm chí không được tham gia vào các dự án nên họ không nhận thức được tầm quan trọng và lợi ích lâu dài của các chương trình, dự án và dẫn đến sự thất bại hoặc không đạt được kết quả mong muốn của một số chương trình dự án.
Thứ hai, Xác định rõ hơn nữa trách nhiệm của từng cơ quan quản lý và của người sử dụng vốn ODA.
Thứ ba, Khi xây dựng các hạng mục, các chương trình, dự án ưu tiên sử dụng ODA cần chỉ rõ thứ tự ưu tiên cho từng chương trình, dự án để làm căn cứ vận động vốn ODA. Đồng thời, các nguồn vốn viện trợ cho từng lĩnh vực cần phải phân bổ theo trật tự ưu tiên với cơ cấu cụ thể, phải xác định rõ về vốn đối ứng ngay từ khi bắt đầu dự án.
Thứ tư, Tăng cường việc kiểm tra, giám sát và đánh giá việc sử dụng nguồn vốn ODA nhằm tránh sự lãng phí và sử dụng vốn sai mục đích.
5. Hoàn thiện cơ chế chính sách về ODA
Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản mang tính pháp quy về huy động và sử dụng vốn ODA như: Nghị định số 17/2001/NĐ-CP của Chính phủ về quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức… Để thu hút được nhiều hơn nữa nguồn ngoại lực quý báu này cho công cuộc phát triển đất nước nói chung và công cuộc xoá đói giảm nghèo nói riêng cần tiếp tục hoàn thiện hơn nữa hệ thống cơ chế chính sách liên quan đến thu hút và sử dụng nguồn vốn này. Cụ thể, trong thời gian tới cần làm những việc sau:
Thứ nhất, phải tiến hành xây dựng chính sách tổng thể về quản lý, giám sát vay và trả nợ nước ngoài trong mối tương quan chặt chẽ với các chính sách và mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội ở tầm vĩ mô và vi mô.
Thứ hai, phải nhanh chóng hoàn chỉnh các chính sách, chế độ về vay và quản lý vay nợ nước ngoài nói chung và nguồn vốn ODA nói riêng.
Thứ ba, rà soát lại các định mức, xoá bỏ các định mức lạc hậu, xây dựng các định mức đảm bảo tiên tiến, khoa học phù hợp với thực tiễn và xem xét lại quy trình đấu thầu, xét thầu, giao thầu để giảm sự khác biệt giữa trong và ngoài nước và phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
Thứ tư, quản lý vay nợ cần xác định rõ trách nhiệm của người vay và người sử dụng vốn vay, chống ỷ lại vào nhà nước. Đồng thời phải quản lý chất lượng các khoản vay ODA đặc biệt là khâu xây dựng dự án.
III. Giải pháp sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA cho xoá đói giảm nghèo
Sử dụng nguồn vốn ODA đúng mục đích, đạt được mục tiêu đề ra là mong muốn của cả phía Việt Nam và các nhà tài trợ. Ngay cả khi các nhà tài trợ đã cam kết và ký hiệp định cung cấp ODA cho chúng ta, nếu chúng ta triển khai chậm trễ hoặc sử dụng sai mục đích, kém hiệu quả thì không những chúng ta không đạt được mục đích mà còn để lại gánh nặng nợ nần và sẽ làm mất lòng tin của các nhà tài trợ. Vì vậy, làm thế nào để sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA luôn là câu hỏi cần nhanh chóng tìm ra lời giải đáp. Sau đây xin đưa ra một số giải pháp nhằm sử dụng một cách có hiệu quả nguồn ngoại lực quí báu này cho công cuộc xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam.
1. Tăng cường, mở rộng sự tham gia của người nghèo vào các chương trình, dự án.
Người nghèo phần lớn là những đối tượng có trình độ học vấn và hiểu biết thấp do không có điều kiện để học hành và cập nhật thông tin. Bên cạnh đó, các đối tượng này thường tập trung ở những vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa hoặc là đồng bào các dân tộc ít người có những phong tục, tập quán và những nét văn hoá rất đa dạng. Trong các dự án ODA về xoá đói giảm nghèo thì họ chính là các đối tượng được hưởng lợi trực tiếp từ các chương trình, dự án đó. Do vậy, khả năng nhận thức và tham gia của người nghèo vào các dự án là điều kiện quan trọng nhất để đem lại thành công cho dự án.
Trên thực tế, có rất nhiều các chương trình, dự án dành cho người nghèo có mục đích và động cơ rất tốt nhưng do không nắm được những đặc điểm văn hoá và lối sống của họ nên việc triển khai nhiều dự án còn nhiều bất cập. Bên cạnh đó, trong nhiều chương trình, dự án người được hưởng lợi trực tiếp lại không được trực tiếp tham gia vào dự án, khả năng tiếp cận của họ đối với các dự án còn rất hạn chế trong khi các cơ quan có trách nhiệm thực hiện dự án lại chưa có sự hướng dẫn đầy đủ và khuyến khích họ tham gia vào dự án. Trong nhiều dự án người dân không nhận thức hết được tầm quan trọng và lợi ích lâu dài và thiết thực đối với họ nên nhiều khi các dự án đã trở thành các dự án cứu trợ nhân đạo thuần tuý, không có tính bền vững, lâu dài.
Do đó, để các dự án cho người nghèo thật sự có ý nghĩa và có tính bền vững nhất thiết phải tạo điều kiện cho người nghèo chủ động tham gia vào các chương trình, dự án. Muốn vậy, cần phải làm một số việc sau:
Thứ nhất, ngay từ khâu xây dựng dự án cần phải tính toán đến các yếu tố về địa lý, phong tục tập quán của các đối tượng được hưởng lợi.
Thứ hai, Tuyên truyền , phổ biến cụ thể cho họ biết được những lợi ích trước mắt cũng như lâu dài mà dự án sẽ mang lại cho họ để khuyến khích họ tham gia tích cực vào các dự án.
Thứ ba, Mở các lớp tập huấn, hội thảo để người nghèo tham gia và hướng dẫn họ cách làm ăn, cách sử dụng đồng vốn có hiệu quả.
2. Sử dụng vốn ODA cho phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo
Kết cấu hạ tầng cơ bản (quy mô nhỏ, vừa) đóng góp trực tiếp vào giảm nghèo thông qua các chương trình, dự án thuộc các lĩnh vực nông nghiệp, các dịch vụ xã hội cơ bản liên quan đến quá trình tăng trưởng và giảm nghèo.
Kết cấu hạ tầng quy mô lớn có vai trò quan trọng vừa có tác động trực tiếp, vừa tác động lan toả thông qua các ảnh hưởng liên kết như di chuyển lao động giữa các vùng, các ngành, liên kết đầu tư, trao đổi thông tin…
Tăng cường đầu tư cho kết cấu hạ tầng quy mô lớn sẽ đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, kinh tế ngành theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Năng lực của một số ngành thuộc lĩnh vực kết cấu hạ tầng sẽ tăng lên đáng kể như giao thông vận tải, điện lực, thuỷ lợi…giúp khai thác triệt để tiềm năng phát triển của các vùng, bảo đảm gắn phát triển kinh tế với các mục tiêu xã hội và xoá đói giảm nghèo.
Tác động của cơ sở hạ tầng trong xoá đói giảm nghèo thông qua tăng trưởng kinh tế thể hiện trực tiếp ở hiệu quả đầu tư; nhờ tăng trưởng kinh tế, tiềm lực kinh tế được nâng cao, tăng nguồn thu ngân sách từ đó tạo ra nguồn vốn đầu tư nhiều hơn cho vùng nghèo, người nghèo thông qua hệ thống phân phối lại thu nhập.
Phát triển kết cấu hạ tầng sẽ làm giảm bớt các cách biệt về địa lý và sự chênh lệch giữa các vùng, tăng cường sự giao lưu, trao đổi kinh tế giữa các vùng đặc biệt là các vùng nghèo với các vùng kinh tế phát triển. Đồng thời, phát triển kết cấu hạ tầng cho phép giảm thiểu những tổn thất về thu nhập do biến động sản xuất hoặc thiên tai.
Để xây dựng được các công trình hạ tầng quy mô lớn thường đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn mà nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhiều khi không đáp ứng được. Do vậy, vốn ODA là một giải pháp tốt cho vấn đề này.
3. Tập trung vốn ODA hỗ trợ phát triển các ngành, lĩnh vực phục vụ tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo
Hiện nay, đa số người nghèo vẫn sống chủ yếu ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, cuộc sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Tuy nhiên, việc sản xuất nông nghiệp vẫn chủ yếu mang tính chất tự cung, tự cấp với năng suất và chất lượng thấp do cách suy nghĩ của họ vẫn còn bó hẹp theo lối truyền thống, đồng thời họ cũng không có điều kiện để đầu tư cho việc sản xuất như: con giống, hệ thống thuỷ lợi, phân bón, các phương tiện sản xuất mang tính hiện đại… Bên cạnh đó, sản phẩm của người nông dân sản xuất ra nhiều khi không tìm được thị trường tiêu thụ do không có được thông tin về thị trường, chất lượng sản phẩm sản xuất ra chưa đạt chất lượng cao và chủ yếu vẫn là các sản phẩm thô chưa qua chế biến nên có giá trị rất thấp.
Do tập quán canh tác và nhiều yếu tố khác tác động nên lượng thời gian được huy động trong sản xuất nông nghiệp đạt tỷ lệ rất thấp, người nông dân vẫn còn lãng phí rất nhiều thời gian trong khi họ lại không được đào tạo nghề nên cũng rất khó có thể được nhận vào làm việc trong các khu vực khác của nền kinh tế.
Vì vậy, huy động vốn đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn, phát triển giáo dục đào tạo, đầu tư vào các ngành công nghiệp như: Xây dựng hệ thống thuỷ lợi, đầu tư con giống; xây dựng các ngành công nghiệp chế biến, sản xuất công cụ lao động; đào tạo nghề cho lao động sẽ giúp người nghèo có thêm nhiều cơ hội để tham gia vào thị trường lao động, nâng cao năng suất lao động, tạo ra được nhiều sản phẩm có chất lượng cao và có giá trị từ đó tăng thu nhập và vươn lên thoát nghèo.
4. Đầu tư phát triển mạng lưới an sinh xã hội cho người nghèo và các đối tượng yếu thế.
Các dự án sử dụng vốn ODA cần tập trung nhiều hơn để hỗ trợ cho người nghèo , dân tộc ít người, nhóm yếu thế trong xã hội như nhằm cải thiện chất lượng và khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản và nguồn lực cơ bản của người nghèo, đặc biệt là chăm sóc sức khoẻ ban đầu, giáo dục tiểu học, sức khoẻ sinh sản, nước sạch, vệ sinh dinh dưỡng, nhà ở…Cụ thể trong thời gian tới nguồn vốn ODA cần tập trung vào một số công việc chủ yếu sau:
Thứ nhất, Trợ giúp nhân đạo thường xuyên đối với người nghèo, người không có sức lao động và không nơi nương tựa. Trong đó, chú trọng các hình thức trợ giúp bằng hiện vật đối với các đối tượng rơi vào hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở cả nông thôn và một số thành phố.
Thứ hai, Giúp đỡ người nghèo phòng chống có hiệu quả khi gặp thiên tai thông qua việc tổ chức các lớp tập huấn, chuyển giao những kiến thức, kinh nghiệm cụ thể về phòng chống thiên tai; hỗ trợ một phần kinh phí để cải thiện tình trạng nhà ở, tránh bão, tránh lụt.
Thứ ba, Quy hoạch lại các vùng dân cư, cơ sở hạ tầng sản xuất và xã hội thuận lợi cho việc phòng chống và cứu trợ khi thiên tai xảy ra. Tổ chức chuẩn bị sẵn sàng các phương tiện cứu trợ để kịp thời, nhanh chóng ứng phó và hạn chế các tác động xấu của thiên tai.
Thứ tư, hỗ trợ người tàn tật, người cao tuổi không nơi nương tựa, giúp đỡ trẻ em mồ côi, lang thang…Đồng thời cải thiện khả năng tiếp cận thị trường lao động của người lao động nghèo, nhóm yếu thế trong thị trường lao động, đặc biệt là đối với vấn đề đào tạo; cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động tạo điều kiện nâng cao thu nhập của người nghèo…
5. Xây dựng cơ chế giám sát việc thực hiện các chương trình, dự án xoá đói giảm nghèo
Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự kém hiệu quả trong các dự án ODA về xoá đói giảm nghèo đó là chưa có sự kiểm tra, giám sát đầy đủ và sát xao quá trình thực hiện các dự án. Do vậy, trong thời gian tới để nâng cao hiệu quả của các dự án, cần tiến hành tổ chức kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện một cách đầy đủ và chặt chẽ hơn, tránh tình trạng lãng phí, sử dụng sai mục đích và thiếu hiệu quả vốn viện trợ cho công tác xoá đói giảm nghèo. Cụ thể, cần làm một số việc sau:
Thứ nhất, Phân công rõ ràng trách nhiệm của các Bộ, ngành, địa phương và các cán bộ thực hiện dự án trong việc triển khai thực hiện và giám sát thực hiện các chương trình, dự án ODA.
Thứ hai, Tăng cường năng lực bộ máy thực hiện các chương trình, dự án bằng việc phân công trách nhiệm cho các Bộ, ngành, các cấp chính quyền có liên quan theo dõi việc thực hiện dự án. Đồng thời, củng cố mạng lưới và đội ngũ cán bộ làm dự án tại các cấp, đặc biệt là các xã đặc biệt khó khăn; nâng cao trình độ, bố trí cán bộ làm dự án.
Thứ ba, Hoàn thiện cơ chế khuyến khích sự tham gia của mọi người dân, tổ chức xã hội trong việc tham gia thực hiện và giám sát dự án.
Thứ tư, Hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu giám sát, đánh giá hiệu quả cũng như tác động của các chương trình, dự án.
Trên đây là một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao khả năng huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA cho công tác xoá đói giảm nghèo, nhưng đó mới chỉ là những ý tưởng còn mang tính lý thuyết. Do đó, để nguồn vốn ODA thực sự trở thành chất xúc tác quan trọng thúc đẩy công cuộc xoá đói giảm nghèo rất cần những hành động cụ thể và tích cực hơn nữa của Chính phủ, các nhà tài trợ và của tất cả mọi người dân.
Kết luận
Sau 15 năm đổi mới và chuyển đổi, nền kinh tế Việt Nam đã có những thay đổi cơ bản về các quan hệ kinh tế – xã hội, đưa đến một giai đoạn phát triển mới và trong công cuộc xoá đói giảm nghèo đã giảm tỷ lệ nghèo đói xuống còn 14% năm 2002. Trong lĩnh vực này, Việt Nam đã được biết đến như một tấm gương xuất sắc về sự chuyển đổi thành công từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. Cơ chế kinh tế mới đã tạo ra những nhân tố mới cho tăng trưởng kinh tế.
Cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế, Việt Nam đã đạt được những kết quả xuất sắc trong xoá đói giảm nghèo. Tính theo chuẩn quốc tế, tỷ lệ nghèo đói chung đã giảm từ trên 70% năm 1990 xuống khoảng 32% vào năm 2000. Về điểm này, Việt Nam đã đạt được mục tiêu phát triển của thiên niên kỷ do quốc tế đặt ra là giảm một nửa tỷ lệ nghèo đói trong giai đoạn 1990 – 2015.
Để đạt được những kết quả ấn tượng trong công cuộc xoá đói giảm nghèo, bên cạnh sự nỗ lực và quan tâm đặc biệt của Chính phủ. Công cuộc xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam trong những năm qua đã nhận được sự giúp đỡ của nhiều quốc gia, các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ về nhiều mặt dưới hình thức không hoàn lại và tín dụng ưu đãi. Sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế cho công cuộc xoá đói giảm nghèo của Việt Nam dưới hình thức viện trợ phát triển chính thức đã thật sự trở thành chất xúc tác quan trọng thúc đẩy nhanh công cuộc xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
1. Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo – Ban chỉ đạo chiến lược của Chính phủ
2. Việt Nam tăng trưởng và giảm nghèo – Ban chỉ đạo chiến lược của Chính phủ
3. Giáo trình Kinh tế đầu tư - TS. Từ Quang Phương và TS. Nguyễn Bạch Nguyệt
4. Giáo trình ĐTNN và CGCN – TS. Nguyễn Hồng Minh
5. Nghiên cứu kinh tế số 291 – 8/2002
6. Nghiên cứu kinh tế số 276 – 5/2001
7. Tạp chí Kinh tế và Phát triển số 42/2000
8. Tạp chí Thương mại số12/2000
9. Tài liệu từ Vụ Tổng hợp Kinh tế quốc dân – Bộ Kế hoạch và Đầu tư
10. Website của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28679.doc