Thực trạng và một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn

Tài liệu Thực trạng và một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn: ... Ebook Thực trạng và một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn

pdf122 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1802 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
§¹i häc th¸i nguyªn TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH ------------------------------- NguyÔn §×nh V¨n Thùc tr¹ng vµ mét sè gi¶i ph¸p ph¸t triÓn kinh tÕ trang tr¹i ë tØnh B¾c K¹n Chuyªn ngµnh: Kinh tÕ n«ng nghiÖp M· sè: 60 - 31 - 10 LuËn v¨n th¹c sÜ kinh tÕ Người hướng dẫn khoa học: T.S §ç Quang Quý Th¸i Nguyªn - 2008 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ii LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu trích dẫn trong quá trình nghiên cứu đều được chỉ rõ nguồn gốc. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Đình Văn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên iii LỜI CẢM ƠN! Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cơ quan, các cấp lãnh đạo và các cá nhân. Tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc và kính trọng tới tất cả các tập thể, các cá nhân đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong qúa trình học tập và nghiên cứu. Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Tiến sỹ Đỗ Quang Quý là thầy đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường đại học Kinh tế và QTKD, Ban chủ nhiệm Khoa Đào tạo sau đại học trường Đại học Kinh tế và QTKD Thái Nguyên đã tạo điều kiện cho tôi có cơ hội được tiếp cận và khẳng định bước đầu trong công việc nghiên cứu khoa học của mình. Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của các giáo sư, tiến sỹ và cán bộ Khoa Sau đại học Trường Đại học Kinh tế và QTKD những người đã trang bị cho tôi những kiến thức quý báu và tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu luận văn. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu đã để lại những tài liệu nghiên cứu có giá trị, liên quan đến lĩnh vực mà luận văn của tôi đề cập và sử dụng làm tiền đề nghiên cứu luận văn này. Tôi xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ của lãnh đạo, các chuyên gia của Sở Nông nghiệp và PTNT Bắc Kạn, Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bắc Kạn, Cục Thống kê tỉnh Bắc Kạn và các đồng nghiệp, lãnh đạo chính quyền các địa phuơng và các chủ trang trại đã giúp đỡ nhiệt tình trong quá trình làm luận văn. Tôi xin cảm ơn những người thân trong gia định đã giúp tôi lúc khó khăn, vất vả để hoàn thành luận văn. Tôi xin cảm ơn các bạn bè đồng nghiệp gần xa đã đóng góp nhiều ý kiến quý báu để giúp tôi hoàn thành luận văn này. Thái Nguyên, tháng 9 năm 2008 Nguyễn Đình Văn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên iv DANH MỤC TÀI LIỆU VIẾT TẮT STT Chữ viết tắt Nguyên nghĩa 1 TBCN Tư bản chủ nghĩa 2 PGS-TS Phó Giáo sư - Tiến sỹ 3 TT Trang trại 4 KTTT Kinh tế trang trại 5 CNH Công nghiệp hoá 6 HĐH Hiện đại hoá 7 CSDL Cơ sở dữ liệu 8 SPSS Statiscal Package for Social Sciences 9 GTSX Giá trị sản xuất 10 SXKD Sản xuất kinh doanh 11 UBND Uỷ ban nhân dân 12 KH &CN Khoa học và công nghệ 13 PTNT Phát triển nông thôn 14 HTX Hợp tác xã 15 DĐĐT Dồn điền đổi thửa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên v MỤC LỤC Trang Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài.............................................................................1 2. Mục tiêu nghiên cứu............................................................. ................. . ..2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................... ......3 4. Ý nghĩa khoa học của luận văn và đóng góp của luận văn.............. . ........4 5. Bố cục của luận văn......................................................................... . ........4 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................................ 5 1.1. Tổng quan tài liệu nghiên cứu............................................................. .. 5 1.1.1. Cơ sở lý luận về kinh tế trang trại........................... ..................... .5 1.1.2. Kinh nghiệm trên thế giới và Việt nam về phát triển KTTT. ....... 23 1.1.3. Lịch sử hình thành và tồn tại trang trại ở Việt Nam và Bắc Kạn . 26 1.1.4. Quá trình phát triển kinh tế trang trại ở nước ta từ khi đổi mới theo nền kinh tế thị trường ...................................................... 31 1.1.5. Một số kết luận rút ra từ nghiên cứu lý luận và thực tiễn ............ 37 1.2. Phương pháp nghiên cứu............................................................... .......38 1.2.1. Các câu hỏi đặt ra mà đề tài cần giải quyết .................................38 1.2.2. Phuơng pháp nghiên cứu .......................................................... 38 1.2.3. Các chỉ tiêu nghiên cứu .............................................................42 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI TỈNH BẮC KẠN.. .... ................................. 43 2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu .......................................................... 43 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên..... ................................................................43 2.1.2. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2001-2007 .............................................................................. 54 1.1.3. Phân tích SWOT về chiến lược phát triển của Bắc Kạn ............. 68 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên vi 2.2. Thực trạng phát triển kinh tế trang trại Bắc Kạn những năm gần đây ...... 70 2.2.1. Tình hình phát triển kinh tế trang trại thời gian qua ................... 70 2.3. Phân tích, đánh giá........................................................................... ... 73 2.3.1. Đặc điểm và phương hướng sản xuất của các trang trại tỉnh Bắc Kạn....73 2.3.2. Tổ chức quản lý sản xuất, kinh doanh của các trang trại. ............ 74 2.3.3. Vấn đề trong phát triển của các trang trại hiện có... .................... 85 2.3.4. Nguyên nhân kìm hãm sự phát triển kinh tế trang trại ở Bắc Kạn .... 86 Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI TỈNH BẮC KẠN THỜI GIAN TỚI. .............. 89 3.1. Quan điểm phát triển kinh tế trang trại.............................................. .. 89 3.1.1. Quan điểm phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ Công nghiệp hóa - Hiện đại hoá ở Việt nam.................................... ..................89 3.1.2. Quan điểm riêng đối với tỉnh Bắc Kạn..... ...................................94 3.2. Những định hướng phát triển kinh tế trang trại tỉnh Bắc Kạn........... ...96 3.2.1. Căn cứ để định hướng........ ........................................................96 3.2.2. Phương hướng phát triển kinh tế trang trại tỉnh Bắc Kạn.. .......... 96 3.3. Mục tiêu phát triển kinh tế trang trại............................................. .. .....99 3.3.1. Mục tiêu tổng quát.......... ...........................................................99 3.3.2. Mục tiêu cụ thể................. .........................................................99 3.4. Giải pháp thực hiện......................................................................... ...100 3.4.1. Giải pháp chung cho toàn bộ các trang trại.. .............................100 3.4.2. Giải pháp cho nhóm trang trại......... .........................................109 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................111 Kết luận ...........................................................................................111 Kiến nghị.............................................................................................. .112 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................113 PHỤ LỤC ..............................................................................................116 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU Trang trại là một loại hình sản xuất nông nghiệp được hình thành tương đối sớm trên thế giới, tuỳ từng thời kỳ mà có những hình thức, tên gọi khác nhau nhưng đều có đặc điểm chung là sản xuất hàng hoá tự chủ với quy mô lớn. Phát triển kinh tế trang trại là xu hướng tất yếu trong sản xuất nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Ngày nay, trang trại là loại hình tổ chức sản xuất phổ biến trong nền nông nghiệp của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Ở nước ta, trang trại đã hình thành và trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau của sự phát triển. Tuy nhiên, trang trại gia đình chỉ phát triển từ đầu thập niên 1990 sau khi có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và Luật đất đai ra đời năm 1993, giao quyền sử dụng đất sản xuất ổn định và lâu dài cho hộ gia đình nông dân. Từ khi có chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của Đảng, kinh tế hộ nông dân đã phát huy tác dụng to lớn, tạo sức mạnh mới trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp và nông thôn. Trên nền tảng kinh tế tự chủ của các hộ nông dân đã hình thành các trang trại được đầu tư vốn, lao động với trình độ chuyên môn cao đóng góp ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội. Mới hình thành và phát triển nhưng kinh tế trang trại đã khơi dậy tiềm năng đất đai, lao động, vốn trong dân cư để đầu tư phát triển sản xuất, cải thiện bộ mặt nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế trang trại đã nảy sinh nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đòi hỏi phải giải quyết kịp thời liên quan đến nhận thức, cơ chế chính sách của Nhà nước: về đất đai, lao động, vốn đầu tư, tư cách pháp nhân, quyền lợi và nghĩa vụ của chủ trang trại trước pháp luật.v.v... nhằm củng cố và phát triển loại hình này một cách tích cực, ổn định và bền vững. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 Đã có nhiều công trình nghiên cứu trên các cấp độ khác nhau về kinh tế trang trại ở khắp các vùng, miền trong cả nước. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã nêu ra và đều mong muốn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của kinh tế trang trại để tìm ra hướng đi, đề xuất những giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn vướng mắc để phát huy vai trò của kinh tế trang trại trong nền nông nghiệp của nước ta hiện nay. Tuy vậy, vì sản xuất nông nghiệp được diễn ra trên không gian rộng lớn, mỗi vùng, thậm chí mỗi tiểu vùng cũng có sự khác biệt về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội, nên các trang trại ở mỗi vùng cũng có những đặc điểm khác nhau. Bắc Kạn là một tỉnh miền núi thuộc vùng Đông Bắc Bắc bộ, có tiềm năng thế mạnh về đất đai đồi rừng, nhưng kinh tế trang trại Bắc Kạn còn rất nhỏ bé cả về số lượng và chất lượng, chưa có đóng góp nhiều cho kinh tế của tỉnh mà loại hình này có nhiều cơ hội phát triển. Để xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa, phát triển kinh tế trang trại là hướng đi đúng đắn, cần được quan tâm giúp đỡ bằng những chính sách hợp lý, góp phần khai thác một cách có hiệu quả và bền vững tiềm năng về đất đai ở Bắc Kạn. Việc nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn về kinh tế trang trại trong tỉnh, từ đó đề ra một số giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn tỉnh có một ý nghĩa rất quan trọng. Xuất phát từ thực tế địa phương, với kinh nghiệm công tác trong ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn của tác giả thời gian qua, đề tài: “Thực trạng và một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn” đã được chọn để nghiên cứu. 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 2.1. Mục tiêu chung Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn, từ đó tìm giải pháp thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển, góp phần xây dựng một nền Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 sản xuất nông nghiệp sản xuất hàng hoá có khả năng cạnh tranh cao, hiệu quả và bền vững trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn thời gian tới. 2.2. Mục tiêu cụ thể - Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế trang trại. - Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế trang trại nhằm phát hiện ra các yếu tố trở ngại và những tiềm năng để phát triển kinh tế trang trại tỉnh Bắc Kạn. - Phân tích hoạt động kinh tế trong trang trại ở tỉnh Bắc Kạn, từ đó tìm ra được những nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp ảnh hưởng đến kết quả sản xuất và hiệu quả kinh tế của trang trại. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn thời gian tới. 3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu - Hoạt động kinh tế của các trang trại cũng như ảnh hưởng của nó đến sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn. - Đối tượng khảo sát: 100% số lượng trang trại hiện có tại thời điểm điều tra ở tỉnh Bắc Kạn. 3.2. Phạm vi nghiên cứu 3.3.1. Nội dung - Số lượng, cơ cấu, loại hình, phương hướng sản xuất của các trang trại ở tỉnh Bắc Kạn. - Tình hình sử dụng đất đai, lao động, vốn, thu nhập, bố trí sản xuất, bố trí cây trồng của các trang trại. - Phân tích một số chỉ tiêu đánh gía kết quả, hiệu quả kinh tế của các trang trại. 3.3.2. Phạm vi về không gian: Toàn bộ tỉnh Bắc Kạn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 3.3.3. Phạm vi thời gian - Số liệu lịch sử: 7 năm từ 2001-2007. - Số liệu hiện trạng năm 2006 (tiến hành điều tra năm 2007). 4. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN - Tổng hợp và phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức cho phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn. - Tìm ra và đánh giá tác động của những yếu tố nội hàm và ngoại hàm ảnh hưởng đến kết qủa sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế các trang trại ở vùng nghiên cứu. - Đề xuất hệ thống quan điểm, phương hướng và mục tiêu để phát triển kinh tế trang trại thời gian tới. - Khuyến nghị những giải pháp chủ yếu để tiếp tục thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển. 5. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN Chương 1: Tổng quan tài liệu nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế trang trại tỉnh Bắc Kạn Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế trang trại thời gian tới Nội dung cụ thể các chƣơng nhƣ sau: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 1.1.1. Cơ sở lý luận về kinh tế trang trại 1.1.1.1. Sự hình thành và phát triển trang trại a) Quan niệm về trang trại Lịch sử phát triển của nền nông nghiệp thế giới luôn tồn tại hai hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp tập trung và sản xuất phân tán [26]. Hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp tập trung trên quy mô diện tích đất đủ lớn mang tính độc lập đã có từ rất lâu đời. Ngay từ thời đế quốc La mã đã tồn tại hình thức sản xuất tập trung trên diện tích lớn, lực lượng của yếu là tù binh và nô lệ. Thời phong kiến ở một số nước châu Âu có hình thức lãnh địa phong kiến và các trang viên. Ở Trung quốc thời nhà Hán đã có các hoàng trang, điền trang, đồn điền. Ở Việt nam hình thức sản xuất tập trung đã có từ thời phong kiến phương Bắc đô hộ. Về mặt sở hữu thì trang trại hội tụ đủ mọi hình thức sở hữu. Để biểu đạt loại hình kinh tế này, các nước đều có ngôn từ dùng để chỉ các hình thức tổ chức sản xuất tập trung (Farm, Farm stedd, Farm house (Anh); Ferme (Pháp); Fepma (Nga)…) khi chuyển sang tiếng Việt dịch là trang trại hay nông trại [25]; [19]. - Theo quan điểm của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) và Ngân hàng thế giới (WB): “Nông trại (Farm) của các nước châu Á gió mùa dùng để chỉ một khu đất canh tác nông nghiệp”. - Theo PGS -TS Lê Trọng: “Trang trại là cơ sở, là doanh nghiệp kinh doanh nông nghiệp của một hoặc một số nhóm nhà kinh doanh” [17]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 Qua đó “Trang trại” là thuật ngữ dùng để mô tả, chỉ và gắn liền với hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung trên một diện tích đủ lớn, với quy mô hộ gia đình là chủ yếu, trong điều kiện sản xuất hàng hoá của nền kinh tế thị trường. b) Phân loại trang trại * Phân loại theo nguồn gốc hình thành: Có 3 con đường chính hình thành trang trại - Trang trại được hình thành từ khu đất từ thời phong kiến: Đây là các trang trại hình thành từ các khu đất thuộc sở hữu tư nhân của tầng lớp quý tộc, địa chủ. - Trang trại phát triển từ kinh tế hộ gia đình: Quá trình sản xuất đã diễn ra sự phân hoá giữa các hộ. Các hộ sản xuất thuận lợi sẽ phát triển cao hơn về quy mô và kết quả sản xuất mà hình thành các trang trại [22]. - Trang trại hình thành theo kiểu xí nghiệp TBCN: Các nhà tư bản đầu tư vốn vào sản xuất nông lâm nghiệp, họ bỏ tiền mua máy móc thiết bị, thuê đất đai và thuê lao động kinh doanh theo kiểu tư bản chủ nghĩa hình thành các trang trại. Hiện nay trang trại gia đình là loại hình trang trại phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới. Trang trại theo kiểu xí nghiệp tư bản còn tồn tại nhưng giới hạn trong một số ngành có giá trị cao như chăn nuôi gia súc, đại gia súc theo huớng xuất khẩu. * Phân loại trang trại theo hình thức quản lý: - Trang trại gia đình: Là loại trang trại độc lập tự sản xuất kinh doanh. Mỗi gia đình có tư cách pháp nhân do một người trong gia đình làm chủ điều hành. - Trang trại liên doanh: Do vài trang trại hợp nhất để tăng nguồn lực tạo sức cạnh tranh và sự ưu đãi của nhà nước (ở Mỹ số lượng trang trại này chiếm 10% số lượng và 16% diện tích). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 - Trang trại hợp doanh theo cổ phần: Trang trại loại này được tổ chức theo nguyên tắc công ty cổ phần (ở Mỹ trang trại loại này chiếm 2,7% và 13,7% diện tích đất đai [7]. - Trang trại uỷ thác: Trang trại mà người chủ uỷ quyền cho người nhà, bạn bè quản lý điều hành sản xuất (Đài loan thường có loại trang trại này) [15]. * Phân loại trang trại theo phương hướng sản xuất: - Trang trại kinh doanh tổng hợp: Trang trại này thường kết hợp sản xuất kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp kết hợp ngành nghề và dịch vụ. - Trang trại chuyên môn hoá: Phương hướng sản xuất chỉ phát triển một ngành hoặc một sản phẩm như sản xuất ngũ cốc, chăn nuôi gia súc. * Phân loại theo nguồn thu nhập: - Nguồn thu nhập chủ yếu từ nông nghiệp: Xu thế trang trại loại này đang giảm dần (năm 1985 Nhật Bản có 15% số trang trại thuộc loại này). - Trang trại có thu nhập thêm từ bên ngoài trang trại, loại này thường kinh doanh tổng hợp và xu thế ngày càng tăng. * Các phương thức điều hành sản xuất: - Chủ trang trại vừa điều hành vừa trực tiếp tham gia sản xuất: Loại trang trại này chủ hộ thường là nông dân, hiện nay hình thức này là phổ biến. - Chủ trang trại và gia đình không ở trang trại nhưng vẫn điều hành sản xuất: Hình thức này không nhiều nhưng đang có xu hướng phát triển ở các nước công nghiệp phát triển. - Chủ trang trại nhỏ có ít ruộng đất, không điều hành sản xuất mà uỷ quyền cho người thân quản lý trang trại của mình theo từng vụ hay nhiều năm. * Phân loại theo tiến trình hình thành và phát triển: Sự phát triển của các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp đi từ bậc thấp lên bậc cao, từ nền sản xuất tự túc, tự cấp chuyển sang sản xuất hàng hoá mà hình thành các trang trại. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 - Hộ nông dân nhỏ: Quy mô sản xuất nhỏ, ruộng đất ít, sản xuất bằng công cụ thô sơ, mục đích đảm bảo thức ăn cho cuộc sống gia đình. - Trang trại truyền thống: Đất đai được khai khẩn thêm về diện tích, bắt đầu có sự tích tụ đất đai, lao động chủ yếu là lao động của gia đình. Sản phẩm sản xuất ra phần lớn dùng để tiêu dùng. - Trang trại sản xuất trồng trọt hoặc chăn nuôi nhỏ: Quy mô diện tích được tích tụ lớn hơn, sản xuất được phân định ra với vài loại cây trồng, vật nuôi chủ yếu, sản xuất phần lớn là thủ công, một phần máy móc. - Trang trại sản xuất đa dạng hoá: Sản xuất thâm canh có tưới nước, lao động kết hợp thủ công và máy móc, sản phẩm đa dạng hoá nhằm đảm bảo thu nhập bền vững, chủ yếu là sản xuất sản phẩm hàng hóa. - Trang trại chuyên môn hoá: Sử dụng lao động gia đình và thuê ngoài, sản xuất thâm canh đạt hiệu quả cao chủ yếu là sản xuất sản phẩm hàng hoá. - Trang trại tự động hoá: Đang phát triển ở các nước phát triển trên thế giới trong ngành chăn nuôi, sản phẩm chủ yếu xuất khẩu. 1.1.1.2. Khái niệm về kinh tế trang trại Hệ thống lại lý luận và thực tiễn về kinh tế trang trại, nhiều nhà nghiên cứu kinh tế Việt nam và thế giới đã đưa ra khái niệm về kinh tế trang trại như sau: - Theo một số học giả phương Tây: “Hình thức kinh tế trang trại ở các nước này dùng để chỉ một lĩnh vực tổ chức sản xuất kinh doanh nông sản hàng hoá lớn ở nông nghiệp nông thôn để phân biệt với hình thức tiểu nông tự túc, tự cấp”. - Theo PGS - TS Lê Trọng: “Kinh tế trang trại (hay kinh tế nông lâm ngư trại…) là một hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền sản xuất xã hội, dựa trên cơ sở hợp tác và phân công lao động xã hội. Bao gồm một số người lao động nhất định được chủ trang trại tổ chức, trang bị những tư liệu sản xuất nhất định để tiến hành sản xuất kinh doanh, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường và được nhà nước bảo hộ” [17]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 - Theo ông Trần Tác, Phó Vụ trưởng - Vụ Kinh tế Trung ương Đảng: “Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá lớn trong nông, lâm, ngư nghiệp của các thành phần kinh tế khác nhau ở nông thôn. Có sức đầu tư lớn, có năng lực quản lý trực tiếp quá trình sản xuất kinh doanh, có phương pháp tạo ra tỷ suất sinh lời cao hơn bình thường trên đồng vốn bỏ ra, có trình độ đưa các thành tựu khoa học, công nghệ mới kết tinh trong hàng hoá, tạo ra sức cạnh tranh cao hơn trên thị trường, mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao”. - Theo Phó Giáo sư Đào Công Tiên - trường Đại học Kinh tế thuộc Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh: “Kinh tế trang trại là một loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp, phổ biến được hình thành và phát triển trên nền tảng kinh tế hộ và về cơ bản giữ bản chất kinh tế hộ. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế trang trại là quá trình nâng cao năng lực sản xuất dựa trên cơ sở tích tụ tập trung vốn và các yếu tố sản xuất khác, nhờ đó tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao”. Tóm lại: Theo Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000 về Kinh tế trang trại của Chính phủ, kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thủy sản. Mặt khác, theo quy định tại Thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23.6.2000 của Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn có hai nhóm đối tượng có thể tham gia đầu tư sản xuất theo mô hình trang trại, đó là hộ nông dân, hộ công nhân viên Nhà nước và lực lượng vũ trang đã nghỉ hưu, các loại hộ thành thị (gọi chung là hộ gia đình) và cá nhân. Từ đó, hình thành nên hai loại hình kinh doanh là trang trại gia đình và trang trại cá nhân. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 Trong phạm vi luận văn này tác giả có giới hạn việc nghiên cứu, chỉ tập trung vào loại hình trang trại gia đình trong hệ thống các loại hình trang trại đang hoạt động trong cơ chế thị trường ở nước ta. Để làm được điều đó, một trong những việc quan trọng đầu tiên phải làm là “nhận dạng” một cách đầy đủ, rõ ràng về loại hình kinh doanh mới này để từ đó có những biện pháp quản lý phát triển phù hợp. 1.1.1.3. Tính tất yếu khách quan của kinh tế trang trại Quan điểm của các nhà kinh điển về tính tất yếu tồn tại kinh tế hộ gia đình nông dân và kinh tế trang trại. * Tính tất yếu khách quan của tồn tại và phát triển kinh tế hộ nông dân Không phải bây giờ các nhà kinh tế mới bàn đến vai trò của kinh tế hộ nông dân đối với sự phát triển nông nghiệp mà ngay từ cuối thế kỷ XIX Mác, Ăng-ghen đã có nhiều công trình nghiên cứu về kinh tế hộ nông dân. Lúc đầu nghiên cứu con đường công nghiệp hoá đặc thù của nước Anh, Mác đã tiên đoán với quá trình tách người nông dân khỏi ruộng đất một cách ồ ạt thì giai cấp nông dân bị thủ tiêu và nông nghiệp sẽ được tổ chức lại thành nền đại sản xuất như trong công nghiệp. Nghĩa là trong nông nghiệp sẽ hình thành các “Đại điền trang” Tư bản chủ nghĩa sử dụng lao động làm thuê. Quá trình đó sẽ tách người nông dân ra khỏi tư liệu sản xuất, mà trước hết là ruộng đất. Sau này kinh nghiệm lịch sử của những nước công nghiệp phát triển đã làm chuyển biến nhận thức của Mác và ông phải công nhận là những tiên đoán khái quát ban đầu của mình trước kia về thực tiễn đã không được, không thiết lập ngay cả ở nước Anh siêu công nghiệp. Bất chấp xu hướng ban đầu theo kiểu “dọn sạch mặt đất”. Ở nước Anh công nghiệp phát triển, song nông trại gia đình trên thực tế không sử dụng lao động làm thuê vẫn ngày càng phát triển và càng tỏ rõ sức sống cũng như hiệu quả của nó. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 Chính vì thế khi viết quyển III của bộ Tư bản chủ nghĩa, Mác đã kết luận: “Ngay ở nước Anh với nền công nghiệp phát triển hình thức sản xuất nông nghiệp có lợi nhất không phải là các xí nghiệp nông nghiệp quy mô lớn mà là các trang trại gia đình không có lao động làm thuê”. Ở những nước còn giữ hình thức chia đất thành khoảnh nhỏ giá lúa mì rẻ hơn ở những nước có phương thức sản xuất Tư bản” [2]. Mác đã khẳng định do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp nên “hệ thống Tư bản chủ nghĩa mâu thuẫn với nghề nông hợp lý hay là nghề nông hợp lý không phù hợp (trái ngược) với hệ thống Tư bản chủ nghĩa (mặc dù hệ thống này có hỗ trợ cho sự phát triển kỹ thuật của nông nghiệp) và đòi hỏi phải có hoặc là bàn tay của người tiểu nông sống bằng lao động của mình, hoặc là sự kiểm soát của những người sản xuất có liên kết với nhau” [24]. Sau Mác, Ăng-ghen, C. Cauxlay là người kế tục và có những cấu hiến lớn trong việc truyền bá và phát triển Chủ nghĩa Mác. Trong đó cống hiến xuất sắc của C. Cauxlay là những công trình nghiên cứu của ông về vấn đề nông nghiệp. Theo C. Cauxlay nông nghiệp phát triển không cùng một kiểu với công nghiệp mà theo những đặc thù của nó. C. Cauxlay cho rằng sự khác nhau quan trọng nhất giữa công nghiệp và nông nghiệp là ở chỗ, trong nông nghiệp sản xuất thường gắn liền với kinh tế gia đình, lao động trong nông nghiệp khác với lao động trong công nghiệp. Sản xuất lớn trong nông nghiệp không phải luôn luôn có ưu thế tuyệt đối so với sản xuất nhỏ trong mọi điều kiện. Ông đã rất đúng khi cho rằng một doanh nghiệp lớn của nông dân nếu đem so sánh với một doanh nghiệp nhỏ của nông dân khác trong cùng một khu vực, cùng một loại cây trồng thì rõ ràng một doanh nghiệp lớn “ưu việt hơn, nếu không phải về mặt kỹ thuật, thì ít ra cũng về mặt kinh tế”. Cauxlay đã đi sâu vào nghiên cứu những nguyên nhân dẫn đến sức cạnh tranh đủ mạnh của sản xuất nhỏ để chống lại ưu thế của sản xuất lớn trong nông nghiệp. Đó là “sự Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 chuyên cần hơn và sự chăm chỉ cần mẫn hơn của người lao động khi anh làm cho chính bản thân anh ta (đây là điểm khác căn bản với lao động làm thuê) thấp hơn cả nhu cầu của chính bản thân công nhân nông nghiệp nữa”. A.V. Trai-a-nốp nhà nông học nổi tiếng của thế giới trong nhiều năm nghiên cứu phong trào hợp tác xã ở nhiều nước: Italia, Bỉ, Anh, Đức và cả ở Mỹ la-tinh) để tìm cách vận dụng vào nước Nga Xô-viết đã khẳng định “Hợp tác xã nông nghiệp là sự bổ sung cho kinh tế nông dân, sau đó phục vụ cho nó, và vì thế mà thiếu kinh tế hộ nông dân thì hợp tác xã sẽ không có ý nghĩa gì cả? Ông còn cho rằng: HTX chỉ xã hội hoá một phần sản xuất và quá trình này có thể thực hiện không phá vỡ kinh tế hộ nông dân, nghĩa là các hộ nông dân chỉ hợp tác với nhau phần sản phẩm sản xuất mà làm ăn tập thể có ưu thế hơn làm ăn của từng hộ riêng lẻ. V.I. Lê-nin đã kế thừa và phát triển về kinh tế hộ nông dân của C. Mác, Ăng-ghen và tiếp thu những hạt nhân hợp lý của C. Cauxlay và A.V. Trai-a-nốp. Lê-nin cho rằng nhân vật chính trong sản xuất nông nghiệp phải là “một chủ trại tự do trên mảnh đất tự do”, nghĩa là mảnh đất đã dọn sạch khỏi những tàn tích trung cổ. Đó là kiểu Mỹ” [13]. * Quá trình chuyển từ kinh tế hộ nông dân thành kinh tế trang trại Các trang trại gia đình được hình thành từ cơ sở của các hộ tiểu nông, sau khi phá vỡ cái vỏ bọc tự túc, tự cấp vươn lên sản xuất hàng hoá. Về bản chất kinh tế trang trại là kinh tế sản xuất hàng hoá khác với nền kinh tế tự cấp tự túc, Mác đã phân biệt người chủ trang trại với người tiểu nông: “Người chủ trang trại bán ra thị trường toàn bộ sản phẩm làm ra, còn người t iểu nông thì dùng đại bộ phận sản phẩm làm ra và mua bán càng ít càng tốt”. Trong quá trình phát triển kinh tế hộ sẽ vận động theo quy luật là mở rộng sản xuất hàng hoá, tất yếu sẽ diễn ra quá trình phân hoá giữa các hộ gia đình. Các hộ sản xuất thành công sẽ trở lên giàu có, những hộ sản xuất không Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 thành công hoặc rủi ro trong kinh doanh sẽ trở lên nghèo. Quá trình này thường xuyên lặp đi lặp lại sẽ tạo nên sự ngăn cách ngày càng sâu về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư [20]. Trong nền kinh tế thị trường các hộ nông dân chịu sự chi phối của các quy luật của nền kinh tế thị trường. Những hộ nông dân làm ăn có lãi sẽ mở rộng quy mô sản xuất, mua thêm đất đai, máy móc, tư liệu sản xuất nên quy mô càng lớn hơn và thành các hộ giàu trong nông thôn [20]. Ngoài ra dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật nên lao động thủ công dần dần được thay thế bằng lao động cơ giới, hộ nông dân thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ chuyển thành hộ sản xuất hàng hoá. Sự điều tiết của nền kinh tế thị trường, sự tác động của khoa học kỹ thuật, sự phát triển của lực lượng sản xuất làm quá trình phân hoá diễn ra ngày càng nhanh hơn, các hộ giàu sẽ phát triển thành kinh tế trang trại. Quá trình biến đổi từ hộ nông dân thành kinh tế trang trại là quá trình tự phát hợp quy luật phát triển của xã hội. * Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về kinh tế hộ và kinh tế trang trại Ở Việt Nam, từ năm 1986 đến nay nhờ đường lối đổi mới của Đảng và chính sách khuyến khích của Nh._.à nước, hộ nông dân được thừa nhận là đơn vị kinh tế tự chủ đã tạo ra động lực mới khơi dậy tiềm năng đất đai, lao động, tiền vốn và kinh nghiệm sản xuất, quản lý của hàng chục triệu hộ nông dân. Nhờ đó kinh tế nông nghiệp nông thôn nước ta đã có một bước chuyển biến tương đối toàn diện, mô hình trang trại ra đời và phát triển khá phổ biến ở tất cả các vùng của đất nước. Từ kinh nghiệm của các nước và thực tế phát triển của mô hình trang trại trong thời gian qua cho thấy, ở nước ta hiện nay và trong tương lai loại hình phổ biến và chủ yếu nhất vẫn là trang trại gia đình của hộ nông dân. Về vấn đề này, Nghị quyết 06 NQ/TƯ ngày 10.11.1998 của Bộ Chính trị Trung ương Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “ở nông thôn hiện nay đang phát triển mô hình trang trại nông nghiệp, phổ biến là các trang trại gia đình, thực chất là kinh tế hộ sản xuất hàng hoá với quy mô lớn hơn, sử dụng lao động, tiền vốn của gia đình là chủ yếu để sản xuất kinh doanh có hiệu quả...”. Đảng và Nhà nước cũng đã có những chủ trương, chính sách và bước đầu cũng đã tạo dựng được những cơ sở pháp lý cần thiết tạo điều kiện để các trang trại gia đình hình thành và phát triển. Tuy nhiên, khung pháp luật về loại hình này còn ở mức độ rất ban đầu, cần phải được tiếp tục xây dựng và hoàn thiện. Bên cạnh đó, dưới góc độ pháp lý, còn có nhiều vấn đề lý luận đặt ra, cần được nghiên cứu, lý giải để tạo cơ sở lý luận vững chắc cho các quyết tâm chính trị và pháp lý. 1.1.1.4. Đặc trưng của kinh tế trang trại Căn cứ vào các quy định tại Nghị quyết 03/2000/NQ-CP ngày 02.02.2000 của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi hành, cũng như thực trạng hình thành và phát triển của trang trại gia đình thời gian vừa qua, có thể thấy trang trại gia đình ở Việt Nam có một số đặc điểm cơ bản sau [16]: Thứ nhất: Trang trại gia đình là một đơn vị kinh tế trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp. - Trang trại gia đình là đơn vị trực tiếp sản xuất ra những sản phẩm vật chất cần thiết cho xã hội, bao gồm nông, lâm, thủy sản, đồng thời quá trình kinh tế trong trang trại gia đình là quá trình khép kín với các khâu của quá trình tái sản xuất luôn kế tiếp nhau, bao gồm: sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng. - Trang trại gia đình là một đơn vị kinh tế có một cơ cấu thống nhất, đó là dựa trên cơ sở hộ gia đình bao gồm chủ hộ và các thành viên khác trong gia đình. Chủ trang trại (thường là chủ hộ) là người đại diện cho trang trại gia đình trong các quan hệ liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của trang Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 trại. Chủ trang trại là người có kiến thức, có kinh nghiệm kinh doanh, am hiểu thị trường và trực tiếp điều hành sản xuất kinh doanh tại trang trại. Đây là những tố chất rất cần thiết cho một nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường và về cơ bản chúng không có ở người chủ hộ nông dân sản xuất tự cung tự cấp. - Tài sản và vốn sản xuất kinh doanh của trang trại gia đình thuộc quyền sở hữu hoặc sử dụng (đối với đất đai) chung của các thành viên trong hộ gia đình. Bằng công sức, tài sản và vốn chung các thành viên của hộ gia đình tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp dưới hình thức trang trại gia đình. Đồng thời chịu trách nhiệm về các hoạt động sản xuất kinh doanh bằng những tài sản chung đó. - Xuất phát từ bản chất kinh tế của trang trại, nên hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại gia đình luôn gắn liền với một vị trí diện tích đất đai nhất định. Thực tế cho thấy, đây vừa là địa điểm sản xuất kinh doanh đồng thời cũng là trụ sở giao dịch của trang trại gia đình trong các quan hệ nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, để thuận lợi hơn trong việc tiếp cận thị trường, không ít trang trại gia đình đã mở thêm các địa điểm giao dịch gần các trung tâm thương mại lớn nhằm tiếp thị và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của mình. - Theo pháp luật hiện nay, trang trại gia đình bước đầu cũng đã được quy định cho một số quyền và nghĩa vụ trong sản xuất kinh doanh ở một số lĩnh vực như: đất đai, thuế, đầu tư, tín dụng, lao động, khoa học, công nghệ và môi trường, bảo hộ, v.v... Trên cơ sở những quyền và nghĩa vụ này, trang trại gia đình hoàn toàn tự chủ trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, từ lựa chọn phương hướng sản xuất, quyết định kỹ thuật và công nghệ sản xuất, tổ chức sản xuất, đến tiếp cận thị trường, tiêu thụ sản phẩm,... - Hiện nay, theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 3.2.2000 về đăng ký kinh doanh, trang trại gia đình đang phải đăng ký kinh doanh dưới danh nghĩa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 hộ kinh doanh cá thể. Vấn đề đăng ký kinh doanh cho trang trại gia đình hiện vẫn chưa được đề cập đến trong các văn bản pháp luật. Tuy nhiên, đây là một việc làm hết sức cần thiết để thể hiện sự chính thức thừa nhận và bảo hộ của Nhà nước đối với trang trại gia đình, đây còn là cơ sở để một hộ là trang trại gia đình được hưởng các chính sách ưu tiên và làm nghĩa vụ đối với Nhà nước. Nghị quyết 03/2000/NQ-CP, ngày 02/02/2000 của Chính phủ về kinh tế trang trại đã xác định đây là một trong những vấn đề bất cập, cần phải được giải quyết kịp thời. Thứ hai: Mục đích chủ yếu của trang trại gia đình là kinh doanh nông sản phẩm hàng hoá theo nhu cầu thị trường. Đây là đặc điểm quan trọng nhất của trang trại gia đình. Mục tiêu của trang trại gia đình là sản xuất nông, lâm, thủy sản để bán, khác hẳn với kinh tế hộ tự cấp tực túc là chính. Trang trại gia đình là một hình thức tổ chức sản xuất nông lâm ngư nghiệp được hình thành trên cơ sở kinh tế hộ tự chủ trong cơ chế thị trường mang tính chất sản xuất hàng hoá rõ rệt. Vì vậy, đặc trưng cơ bản của trang trại gia đình là sản xuất nông, lâm, thuỷ sản hàng hoá. Kinh nghiệm các nước trên thế giới cho thấy tiêu chí giá trị nông sản hàng hoá và tỷ suất hàng hoá bán ra trong năm luôn luôn được sử dụng làm thước đo chủ yếu của trang trại. Ở Việt Nam, thực tiễn sản xuất của các trang trại gia đình trong những năm vừa qua cho thấy, trang trại nào cũng lấy sản xuất hàng hoá là hướng chính và tỷ suất hàng hoá của các trang trại trại phổ biến từ 70 - 80% đối với những trang trại đã đi vào sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Theo một kết quả điều tra năm 2001 cho thấy: ở nước ta trong năm 2000, giá trị hàng hoá của các trang trại trong cả nước đạt 4.965,9 tỷ đồng, bình quân một trang trại đạt 81,7 triệu đồng, tỷ suất hàng hoá là 92,6%. Đặc trưng sản xuất hàng hoá cho phép phân biệt rõ ràng ranh giới giữa trang trại gia đình với kinh tế hộ nông dân, sản xuất tự cấp tự túc và với hộ phi nông nghiệp ở khu vực nông thôn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 Thứ ba: Trong trang trại gia đình, các yếu tố sản xuất trước hết là ruộng đất và tiền vốn được tập trung tới quy mô nhất định theo yêu cầu phát triển sản xuất hàng hoá. Trong nông nghiệp cũng như trong các ngành sản xuất vật chất khác, sản xuất hàng hoá chỉ có thể được tiến hành khi các yếu tố sản xuất được tập trung với quy mô nào đó. Do đó, ở các trang trại gia đình sản xuất hàng hoá chỉ có thể được thực hiện khi ruộng đất, tiền vốn, tư liệu sản xuất,... được tập trung tới quy mô đủ lớn. Đặc điểm này được quy định bởi chính đặc điểm về mục đích sản xuất của trang trại. Theo quy định tại Thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK, ngày 23/6/2000 của Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn và Tổng cục thống kê, sự tập trung các yếu tố sản xuất của trang trại gia đình được biểu thị về mặt lượng bằng những chỉ tiêu chủ yếu, đó là: Quy mô diện tích ruộng đất của trang trại (nếu là trang trại chăn nuôi thì là số lượng gia súc, gia cầm,...) và quy mô vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh của trang trại. Thực tế cho thấy, các trang trại gia đình có quy mô lớn hơn rất nhiều so với kinh tế hộ gia đình nông dân. Theo số liệu điều tra năm 1999 của Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội cho thấy: bình quân một trang trại gia đình có số vốn là 291,43 triệu đồng, trong đó 91,03% là vốn tự có, quy mô đất đai bình quân của một trang trại gia đình là 6,338 ha, trong khi đó bình quân đất đai sản xuất nông nghiệp của một hộ gia đình chỉ là 0,68 ha. Thứ tư: Lao động trong các trang trại gia đình chủ yếu là dựa trên các thành viên trong hộ, ngoài ra có thuê mướn lao động. Lực lượng lao động trong trang trại chủ yếu là chủ trang trại và các thành viên trong gia đình, đây là những người có quan hệ huyết thống, gần gũi như: Cha mẹ, vợ chồng, anh em. Lao động được tổ chức gọn nhẹ, đơn giản, quản lý điều hành linh hoạt, dễ dàng, hiệu quả lao động cao. Ngoài ra, để phục vụ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, trang trại gia đình còn phải thuê mướn lao động bên ngoài nhất là vào thời vụ gieo trồng, thu hoạch. Quy mô thuê muớn lao động trong trang trại tuỳ thuộc vào quy mô sản xuất kinh doanh của trang trại. Có hai hình thức thuê mướn lao động trong các trang trại gia đình, đó là : thuê lao động thường xuyên và thuê lao động theo thời vụ. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, bình quân 1 trang trại sử dụng 6 lao động (quy ra thường xuyên), lao động trong gia đình chiếm 45%; hầu hết trang trại đều có sử dụng lao động thuê ngoài, số lượng lao động thuê ngoài trong các trang trại chiếm khoảng 55% tổng số lao động trong các trang trại, trong đó chủ yếu là lao động thời vụ (khoảng 70%). Trang trại chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản do tính chất sản xuất khá ổn định nên sử dụng lao động thời vụ ít hơn (từ 10 - 20%). Thứ năm: Cách thức tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh trong trang trại gia đình ngày càng mang tính khoa học, chuyên nghiệp. Trong kinh tế hộ gia đình nông dân do tính chất sản xuất đơn giản và quy mô sản xuất nhỏ với mục đích tự cung tự cấp là chính do vậy việc điều hành sản xuất của chủ hộ vẫn còn mang nặng tính gia trưởng, người chủ hộ chỉ cần có kinh nghiệm sản xuất và cần cù lao động theo kinh nghiệm cha truyền con nối. Nhưng đối với trang trại gia đình, với mục đích chính là sản xuất hàng hoá và bị các yếu tố lợi nhuận, giá cả, cạnh tranh chi phối ngày càng nhiều thì cách quản lý theo kiểu gia trưởng không còn phù hợp nữa. Sản xuất đòi hỏi phải có phương án hợp lý lựa chọn cây trồng, vật nuôi, quy hoạch ruộng đất, xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật sản xuất, áp dụng các công nghệ và quy trình sản xuất thâm canh, kế hoạch tài chính, hạch toán giá thành, lợi nhuận, phân tích kinh doanh... Do vậy việc quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại đòi hỏi phải dựa trên cơ sở những kiến thức khoa học và ngày càng mang tính chuyên nghiệp, đi vào chiều sâu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 Như vậy, mặc dù cũng dựa trên cơ sở hộ gia đình, nhưng trang trại gia đình có sự khác biệt rất lớn so với hộ gia đình thể hiện ở mục đích, quy mô và trình độ sản xuất. Trang trại gia đình đã và đang ngày càng thể hiện rõ tính chất của một loại hình doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn ở nước ta. Từ những đặc điểm nêu trên, theo chúng tôi, dưới góc độ pháp lý khái niệm về trang trại gia đình với tư cách là một chủ thể kinh doanh độc lập trong nền kinh tế thị trường có thể hiểu như sau: “Trang trại gia đình là một đơn vị kinh tế hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, dựa trên cơ sở hộ gia đình, có mục đích chủ yếu là kinh doanh nông sản hàng hoá, trên quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất được tập trung đủ lớn với cách thức tổ chức quản lý tiến bộ, tự chủ trong các hoạt động sản xuất kinh doanh”. Khái niệm này vừa thể hiện được bản chất về mặt kinh tế của trang trại nhưng đồng thời cũng thể hiện được những đặc trưng của loại hình trang trại gia đình, là cở sở để phân biệt trang trại gia đình với các loại hình kinh doanh khác đang tồn tại trong nền kinh tế thị trường ở Việt nam hiện nay. 1.1.1.5. Tiêu chí nhận dạng Một hộ sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản được xác định là trang trại theo qui định tại Thông tư số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23/6/2000 liên Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Tổng cục Thống kê; Thông tư số 74/2003/TT - BNN ngày 4/7/2003 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (sửa đổi, bổ sung Mục III của Thông tư liên tịch số 69/2000/ TTLT/BNN- TCTK) phải đạt một trong hai tiêu chí về giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ bình quân 1 năm, hoặc về quy mô sản xuất của trang trại sau đây: 1. Giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ bình quân 1 năm: - Đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung từ 40 triệu đồng trở lên; Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 2. Qui mô sản xuất phải tương đối lớn và vượt trội so với kinh tế nông hộ tương ứng với từng ngành sản xuất và vùng kinh tế: a. Đối với trang trại trồng trọt: (1) Trang trại trồng cây hàng năm: - Từ 2 ha trở lên đối với phía Bắc và Duyên hải miền Trung; (2) Trang trại trồng cây lâu năm: - Từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung; (3) Trang trại lâm nghiệp: Từ 10 ha trở lên đối với các vùng trong cả nước. b. Đối với trang trại chăn nuôi: (1) Chăn nuôi đại gia súc: trâu, bò,v.v... - Chăn nuôi sinh sản, lấy sữa có thường xuyên từ 10 con trở lên; - Chăn nuôi lấy thịt có thường xuyên từ 50 con trở lên. (2) Chăn nuôi gia súc: lợn, dê, v.v... - Chăn nuôi sinh sản có thường xuyên đối với lợn từ 20 con trở lên, đối với dê, cừu từ 100 con trở lên; - Chăn nuôi lợn thịt có thường xuyên từ 100 con trở lên (không kể lợn sữa), dê thịt từ 200 con trở lên. (3) Chăn nuôi gia cầm: gà, vịt, ngan, ngỗng, v.v... có thường xuyên từ 2000 con trở lên (không tính số đầu con dưới 7 ngày tuổi). c. Trang trại nuôi trồng thuỷ sản: - Diện tích nuôi trồng thuỷ sản có từ 2 ha trở lên (riêng đối với nuôi tôm thịt theo kiểu công nghiệp từ 1 ha trở lên). d. Trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp: Là những trang trại có từ hai hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản khác nhau trở lên và mỗi hoạt động đều đạt về qui mô hoặc mức giá trị hàng hoá và dịch vụ như quy định cho trang trại. Việc công nhận và cấp giấy chứng nhận trang trại gia đình là việc làm cần thiết tạo điều kiện cho loại hình KTTT phát triển. Tuy nhiên để làm được Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 điều đó, một trong những việc quan trọng đầu tiên phải làm là xác định một cách đầy đủ về phạm vi và số lượng của loại hình KTTT để từ đó có những biện pháp quản lý phù hợp. 1.1.1.6. Vai trò của kinh tế trang trại trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn * Theo “ủy ban Quốc gia về Trang trại nhỏ” (NCFS) của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) cũng đã công bố một bản báo cáo có tính bước ngoặt vào năm 1998 với nhan đề “Thời gian hành động”. Trong đó USDA thừa nhận “Những giá trị công cộng” của trang trại gia đình bao gồm [8]: - Tính đa dạng: Các trang trại nhỏ chứa đựng tính đa dạng của quan hệ sở hữu, của hệ thống canh tác, của cảnh quan môi trường, của sự đa dạng sinh học, của văn hoá và các giá trị truyền thống. Sự phát triển của các trang trại nhỏ góp phần làm tăng tính đa dạng sinh học, làm tăng sự hấp dẫn của phong cảnh nông thôn và làm mở rộng không gian sống. - Những lợi ích về môi trường: Trang trại gia đình có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra những lợi ích môi trường cho xã hội. Việc đầu tư vào các trang trại này sẽ cung cấp cho chính phủ một sự chia sẻ trong cương vị quản lý hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên của quốc gia. - Trao quyền hợp pháp và chịu trách nhiệm cộng đồng: Các trang trại nhỏ đã mang lại cho người nông dân một ý nghĩa lớn hơn đối với trách nhiệm cá nhân và cảm giác được kiểm soát cuộc sống của chính mình, đặc điểm này không dễ có được đối với công nhân trong các nhà máy. Những chủ trang trại hoạt động dựa vào những doanh nghiệp và các cơ sở cung cấp dịch vụ tại địa phương để đáp ứng các nhu cầu của mình. Điều này có tác dụng rất lớn trong việc tạo ra cơ hội để mang lại lợi ích lớn hơn đối với cộng đồng và hạnh phúc của bản thân những người trong trang trại. Ngược lại, những chủ trang trại nhỏ ở địa phương sẽ tự cảm thấy phải có trách nhiệm cao hơn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 trong việc kiểm soát bất cứ hoạt động tiêu cực nào mà nó có thể gây ra tác hại đối với cộng đồng. - Bổn phận của gia đình: Trang trại gia đình có bổn phận nuôi dưỡng những đứa trẻ lớn lên và thu nhận những giá trị truyền thống. Những kỹ năng canh tác đã trải qua từ thế hệ này đến thế hệ khác dưới cấu trúc sở hữu gia đình. Khi những đứa trẻ không tiếp tục làm nông, những kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm canh tác có thể sẽ bị mất. Một hình mẫu tương tự ở các nước đang phát triển, trong những cộng đồng canh tác truyền thống, trang trại gia đình là trung tâm để duy trì cộng đồng và để tăng cường khả năng chịu đựng của nền sản xuất nông nghiệp. Trong các trang trại gia đình, hoạt động sản xuất, động viên lao động, hình thức tiêu thụ, kiến thức về sinh thái và những mối quan tâm chung trong việc duy trì sự tồn tại lâu dài của trang trại được xem như là một thứ tài nguyên, nó đóng góp cho sự ổn định và phát triển bền vững của toàn bộ nền kinh tế cũng như với mỗi đơn vị kinh tế cơ sở là gia đình. * Theo đánh giá của Chính phủ Việt nam tại Nghị quyết số 03/2000/NQ- CP ngày 02/02/2000 về Kinh tế trang trại: Những năm gần đây, kinh tế trang trại đã đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế, đồng thời góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho lao động của các hộ nông nghiệp và nông thôn. Sự phát triển của kinh tế trang trại là động lực mới cho phát triển kinh tế hộ nông dân, bên cạnh đó đã tạo ra các vùng sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hàng hoá tập trung, làm tăng khối lượng và giá trị hàng hoá, tạo tiền đề cho công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản và thực phẩm phát triển, mở rộng các ngành nghề dịch vụ ở nông thôn. Nói cách khác: sự phát triển kinh tế trang trại góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, thay đổi cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng CNH, HĐH. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23 1.1.2. Kinh nghiệm về phát triển kinh tế trang trại trên thế giới Theo các nhà nghiên cứu, kinh tế trang trại được hình thành từ rất sớm, từ khi phương thức sản xuất tư bản thay thế phương thức sản xuất phong kiến, từ khi bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất ở châu Âu, nghĩa là kinh tế trang trại ra đời gắn liền với quá trình công nghiệp hóa. Kinh tế trang trại được xem là xuất hiện sớm nhất ở Pháp. Sau cuộc đại cách mạng tư sản Pháp năm 1789, ở Pháp xuất hiện những chủ trại (ferrmier) trong nông nghiệp. Từ đó kinh tế trang trại phát triển và lan rộng khắp thế giới. Có thể nói, đến nay trang trại gia đình trở thành mô hình phổ biến nhất của nông nghiệp thế giới, nó chiếm tỷ trọng lớn tuyệt đối về đất đai canh tác và số lượng nông sản làm ra. Ví dụ hiện nay ở Mỹ với 2,2 triệu trang trại đã sản xuất ra hơn 50% sản lượng đậu tương và ngô của toàn thế giới. ở Malayxia năm 1992 các trang trại đã xuất ra 40 nước trên 6 triệu tấn [11]. Quá trình phát triển kinh tế trang trại gia dình có sự biến đổi về số lượng cũng như quy mô. Thực tiễn ở nhiều nước cho thấy trong thời kỳ đầu CNH do lao động nông nghiệp còn đông, khả năng phân công lao động xã hội còn hạn chế thì số lượng trang trại gia đình tăng lên. Đến thời kỳ công nghiệp hoá phát triển, khả năng thu hút lao động của công nghiệp, dịch vụ tăng lên nhanh chóng thì số lượng trang trại nông nghiệp bắt đầu giảm đi. Cuối thế kỷ XX số lượng ở các trang trại gia đình ở các nước đang phát triển ở châu Á tăng 2,5% mỗi năm, trong khi dó ở các nước công nghiệp phát triển châu Âu giảm 2,35% mỗi năm. - Quy mô trang trại gia đình lại biến động theo chiều hướng ngược lại với số lượng trang trại của mỗi quốc gia. Tuỳ điều kiện các nước mà quy mô trang trại có thể rất khác nhau. Trang trại của các nước châu Á có diện tích nhỏ, quy mô trang trại chỉ trên dưới một ha như Nhật bản (1,2 ha). Trang trại của các nước châu Âu lớn hơn, quy mô bình quân trang trại hàng chục ha như Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 Pháp (29,2 ha); Đan mạch 31,7 ha. Ở một số nước quy mô trang trại gia đình lên tới hàng trăm ha như ở Mỹ trang trại bình quân 180 ha [4]. Biểu 1.1: Diện tích bình quân 1 TT ở một số nƣớc trên thế giới 1990 Nƣớc Diện tích (ha) Nƣớc Diện tích (ha) Mỹ 180 Bỉ 14 Anh 64 Pakistan 3,86 Đan mạch 31,7 Thái Lan 4,5 Pháp 29,2 Italia 2 Ấn Độ 20 Inđônêxia 1,77 Hà Lan 16,4 Nhật Bản 1,2 Nhìn chung các trang trại gia đình trên thế giới có những đặc trưng chung là có trang bị kỹ thuật hiện đại, ứng dụng ngày càng nhiều khoa học kỹ thuật và công nghệ sinh học... các trang trại gia đình chủ yếu sử dụng lao động của hộ gia đình và một số ít lao động thuê ngoài (chủ yếu theo thời vụ). - Việc cơ giới hoá, hiện đại hoá nông nghiệp trong các trang trại không chỉ diễn ra ở các nước phát triển mà ngay cả đối với các trang trại tại các nước đang phát triển: “Năm 1985, cơ cấu động lực nông nghiệp của các trang trại ở các nước công nghiệp phát triển có 7% sức người, 10% sức súc vật và 82% sức máy, cơ điện còn các trang trại của các nước đang phát triển có 25 đến 30% sức người, 50% sức súc vật và 20% sức máy…”. Ngoài ra, các trang trại còn ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật trong các lĩnh vực sinh học, tin học: “Ở Mỹ, đến nay đã có 20% trang trại gia đình sử dụng máy tính phục vụ việc lập trình sản xuất kinh doanh trên đồng ruộng và trong trang trại. Ở Đức 50% các trang trại quy mô 50 ha trở lên đã sử dụng máy vi tính vào quá trình điều hành sản xuất…”[5]. - Lao động sử dụng trong trang trại ở Tây Âu và Mỹ đang có xu hướng giảm dần. Hiện nay ở Mỹ chỉ có từ 1 - 2 lao động/ trang trại; Nhật bản khoảng 3 lao động/ trang trại (1990); Đài loan mỗi trang trại chỉ có 1,3 lao động [7]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 Biểu 1.2: Lao động sử dụng trong 1 TT ở một số nƣớc trên thế giới 1990 Đơn vị tính: Người Tên nƣớc Thái Lan Hàn Quốc Pháp Đức Lao động/ Tr.Trại (người) 3,7 2,1 2,1 1,2 Số lao động của một trang trại của các nước trên thế giới là từ 2 đến 4 lao động/ trang trại. Số lượng lao động trong các trang trại không phụ thuộc vào quy mô sản xuất của trang trại mà phụ thuộc vào trình độ công nghệ sản xuất. Thực tiễn phát triển nông nghiệp của các nước trên Thế giới đã khẳng định điều kiện cần và đủ cho việc phát triển kinh tế trang trại gia đình là sự hình thành nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá đất nước. Ngoài ra trang trại gia đình muốn hoạt động có hiệu quả cần phải có sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của Nhà nước thông qua các chính sách và các công cụ quản lý vĩ mô như: Chính sách thuế, chính sách tài chính, tín dụng, chính sách bảo trợ nông nghiệp, bảo hộ lao động... Kinh tế trang trại là những đơn vị kinh tế tự chủ sản xuất kinh doanh, nhưng các trang trại gia đình có thể tham gia kinh tế hợp tác với nội dung và hình thức khác nhau. Các hợp tác xã để bảo đảm đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất với chi phí thấp, lợi nhuận cao để bảo vệ lợi ích lâu dài của trang trại. * Những bài học kinh nghiệm rút ra từ quá trình phát triển kinh tế trang trại của thế giới - Trang trại có vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá của các nước. Kinh tế trang trại gắn liền quá trình công nghiệp hoá của các nước từ thấp đến cao, chính công nghiệp hoá đặt ra yêu cầu khách quan để phát triển trang trại, cơ chế thị trường tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển. Trong qúa trình công nghiệp hoá kinh tế trang trại đều giữ vị trí xung kích cung cấp nông sản hàng hoá cho xuất khẩu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26 - Kinh tế trang trại có nhiều loại hình khác nhau, nhưng phổ biến nhất là trang trại gia đình, có nguồn gốc từ hộ gia đình vì thế nó phát huy thế mạnh vốn có của hộ gia đình trong sản xuất nông nghiệp. - Thực tế phát triển trang trại tại nhiều quốc gia trên thế giới lại cho phép đi đến kết luận: chính các trang trại gia đình quy mô nhỏ mới thực sự là chìa khóa để phát triển một nền nông nghiệp bền vững, lâu dài. - Trong các giai đoạn ban đầu kinh tế trang trại phát triển theo hướng kinh doanh tổng hợp bằng cách đa dạng hoá sản phẩm, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường sẽ từng bước đi vào chuyên môn hoá. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh của trang trại không hoàn toàn phụ thuộc vào quy mô đất đai. ở các nước châu Á như Nhật bản, Hàn quốc, Đài loan diện tích các trang trại nhỏ nhưng hiệu quả sản xuất lại rất lớn. 1.1.3. Lịch sử hình thành và tồn tại trang trại ở Việt nam và Bắc Kạn Nhìn lại lịch sử ta thấy trang trại ở nước ta đã hình thành từ thời nhà Trần, thời đó gọi là điền trang - nhưng điền trang lúc này chủ yếu là trang trại của quý tộc phong kiến [9], [10]. Trong sách “Lịch sử nông nghiệp Việt Nam” có ghi: “Năm 1266, triều đình nhà Trần cho phép các vương hầu, công chúa, phò mã, cung phi… triệu tập dân nghèo khổ không có đất làm nô tỳ đi khai hoang miền ven biển, đắp đê ngăn mặn, khai phá đất bồi sông Hồng lập thành điền trang rộng lớn” [20]. Khác với thái ấp thời nhà Lý và điền trang thời nhà Lý, điền trang thời nhà Trần thuộc sở hữu của quý tộc. Nô tỳ bị bóc lột như nông nô. Tức là như những người nông dân bị phụ thuộc vào ruộng đất - điền trang rộng lớn của bọn địa chủ quý tộc. Họ bị bóc lột bằng địa tô và lao dịch, có thể bị bán theo ruộng đất dưới chế độ phong kiến. Đến thời nhà hậu Lê, nhà nước phong kiến chủ trương mở rộng khai hoang lập đồn điền (đồn điền cũng đồng nghĩa với trang trại). Lượng lao động Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27 khai hoang lập đồn điền chủ yếu là phạm nhân, tù binh và một số binh lính đóng đồn ở các địa phương. Đến năm 1481, cả nước có 43 sở đồn điền để cấp cho họ hàng nhà vua và quan lại từ tứ phẩm trở lên (gọi là cấp lộc điền). Lực lượng sản xuất trong các đồn điền - trang trại - vừa áp dụng chế độ nô tỳ, vừa chủ yếu là bóc lột trực tiếp bởi phong kiến và phụ thuộc trực tiếp bởi nhà nước vì luật pháp cấm nông dân bỏ làng ra đi để bắt nông dân không ruộng phải cày ruộng, nộp thuế, lao dịch và binh dịch. Đến đời nhà Nguyễn từ năm 1802 - 1855 triều đình đã ban hành 25 quyết định về khai hoang với hình thức chủ yếu là chiêu mộ dân phiêu tán để khai hoang lập ấp trại hoặc xã. Đồng thời, nhà nước dùng binh lính và tù nhân bị lưu đày để khai hoang, hoặc giao cho tư nhân chiêu mộ dân khai phá đất hoang để lập đồn điền - trang trại - phát canh - thu tô. Đặc biệt thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, họ đã thực hiện chính sách khai thác thuộc địa làm giàu cho chính quốc. Họ thấy ngành nông nghiệp là ngành đấu tư ít vốn mà dễ dàng thu được lợi nhuận cao vì vừa có thể bóc lột được độ phì nhiêu của đất vừa bóc lột được sức lao động làm thuê đến cùng tận. Năm 1888, Toàn quyền Đông dương ra các Nghị định cho địa chủ thực dân được quyền lập các đồn điền, Nghị định còn cho phép địa chủ thực dân được quyền lập các đồn điền rộng lớn mà họ gọi là đất vô chủ. Chỉ sau 2 năm, năm 1890, số đồn điền trại ấp khắp ba miền Bắc - Trung - Nam được họ thành lập đã lên tới 108 cái, với diện tích 10.898 ha, quy mô bình quân 100 ha/ 1 đồn điền. Đến giữa những năm 20, tổng diện tích mà họ chiếm đoạt dưới nhiều thủ đoạn đã lên đến 270.000 ha (trong đó ở Nam kỳ 308.000; ở Trung kỳ 26.000 và ở Bắc kỳ 136.000 ha). Tổng số trang trại (đồn điền) đã lên tới 2.350 cái chuyên trồng cao su, chè, hồ tiêu, dừa, lúa, mía, bông… quy mô vừa, lớn, nhở khác nhau. Có cái ở Bắc kỳ lên đến 8.515ha. Nhưng bình quân chung ước chừng 200 ha/cái [11], [36]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28 Kết quả lợi nhuận siêu gạch họ vơ vét ngày càng nhiều, họ càng thi nhau phát triển trang trại cả về số lượng và quy mô diện tích đất đai kinh doanh. Tính đến năm 1930, thực dân Pháp đã chiếm đọat 1,2 triệu ha, bằng 1/7 trong tổng diện tích đất canh tác của nước ta lúc bấy giờ để lập trên dưới 4.000 đồn điền - trang trại với quy mô bình quân chừng 300 ha/cái. Phương thức kinh doanh của các chủ đồn điền - trang trại như sau: - Từ đầu đến giữa những năm 1920 là phát canh thu tô theo lối phong kiến. - Từ sau những năm 1920 đến trước cách mạng tháng Tám 1945 họ cưỡng mộ công nhân vào làm các đồn điền - trang trại và bóc lột người lao động hết sức tàn nhẫn, vô nhân đạo, thậm chí họ còn dùng xác chết của công nhân ở các đồn điền để bón cho cây cao su… - Từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm 1975. + Ở miền Nam: các loại đồn điền tư bản, thực dân ở những vùng địch tạm chiến vẫn tồn tại và phát triển. + Ở miền Bắc: Nhà nước tiến hành tịch thu các đồn điền của thực dân Pháp và địa chủ phản động đem chia cho nông dân không ruộng và chuyển một số thành cơ sở sản xuất nông nghiệp của nhà nước. Đến năm 1957, nhà nước đã chính thức thành lập các nông, lâm trường quốc doanh. Từ những năm 1958 đến năm 1960 các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp bậc thấp, quy mô thôn đã được thành lập, rồi lên bậc cao, quy mô liên thôn, đến quy mô xã có tính phổ biến trên toàn miền Bắc. Các hình thức đó đã có tác dụng lớn trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cũng như xây dựng hệ thống thủy lợi, cải tạo đồng ruộng… nên sau năm 1975 cũng được áp dụng ở miền Nam đã được quốc hữu hóa như ở miền Bắc trước đây. - Từ 1975 đến 1986: Như trên đã nói, sau khi giải phóng miền nam những đồn điền - trang trại kiểu Tư bản chủ nghĩa đã được Nhà nước tịch thu và chuyển thành những nông trường quốc doanh. Số hóa bởi Trung ._. rừng theo hướng thâm canh, mở rộng diện tích trồng cây có giá trị kinh tế cao, từng bước phát triển thành các trang trại tổng hợp. - Phấn đấu đưa diện tích đất sử dụng để phát triển kinh tế trang trại lên 500 ha năm 2010, tăng 300 ha so với năm 2006. - Doanh thu bình quân cho một trang trại tăng: 1,3-1,5 lần so với năm 2006, trong đó: trang trại cây ăn quả tăng 1,7-2,0 lần; chăn nuôi tăng 1,4-1,6 lần; lâm nghiệp và tổng hợp tăng 1,2-1,4 lần. - Đến năm 2010, 100% các trang traị có mức thu nhập hàng hoá và dịch vụ theo giá thực tế đạt trên 100 triệu đồng/ năm; - Nâng cao tỷ suất nông lâm sản hàng hoá trong tổng giá trị nông sản phẩm và dịch vụ của các trang trại bình quân đạt 80%. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 100 3.4. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN 3.4.1. Giải pháp chung cho toàn bộ các trang trại 3.4.1.1. Quy hoạch khoanh vùng, lựa chọn mô hình kinh tế trang trại phù hợp với từng vùng sinh thái, đặc điểm tự nhiên của tỉnh và từng huyện, thị Việc quy hoạch phân vùng phát triển kinh tế trang trại nhằm tạo điều kiện cho tất cả các vùng trên địa bàn tỉnh phát triển đồng đều trên cơ sở hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý và liên kết giữa các vùng, tạo nên sự phát triển kinh tế mạnh mẽ trên địa bàn. Cụ thể: - Đối với vùng núi: Với độ cao trung bình từ 500 - 750m, mật độ dân cư thưa thớt, chủ yếu là rừng tự nhiên có chức năng phòng hộ là chính. Về cơ bản mô hình trang trại ở vùng này là trang trại lâm nghiệp, trồng rừng kinh tế, cây bản địa lấy gỗ có giá trị kinh tế cao, mô hình trang trại nông - lâm kết hợp, bảo vệ nguồn gen thực vật quý hiếm theo các dự án. - Đối với vùng đồi núi thấp: với chức năng vừa phòng hộ, vừa khai thác kinh tế nên các thành phần trong mô hình kinh tế trang trại ở đây có thể kết hợp nông - lâm nghiệp, vừa khoanh nuôi bảo vệ rừng, vừa trồng cây công nghiệp (hồi, quế, thông, bạch đàn, keo...), cây ăn quả, vừa phát triển chăn nuôi đại gia súc (trâu, bò, dê, lợn). Phát triển các trang trại trồng rừng kinh tế (cây lấy gỗ), cây công nghiệp lâu năm kết hợp với chăn nuôi đại gia súc, trồng cây ngắn ngày theo phương thức lấy ngắn nuôi dài. - Đối với vùng đồng bằng: Với nhiệm vụ chiến lược là vùng kinh tế trọng điểm, đảm bảo vững chắc an toàn lương thực cho cả tỉnh, tạo sản phẩm hàng hoá đạt chất lượng cao cho thị trường. Vì vậy, phát triển mô hình trang trại nông nghiệp toàn diện như: trang trại trồng trọt (thâm canh cây lúa chất lượng cao, cây thực phẩm, trang trại lúa cá), chăn nuôi (lợn, gia cầm), nuôi trồng thuỷ sản, dịch vụ hoặc kết hợp các mô hình trên. - Về đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở dùng chung do nhà nước đầu tư theo quy định của luật khuyến khích đầu tư trong nước. Trước mắt bao gồm các công trình chủ yếu: Đường giao thông vùng, đường điện hạ thế. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 101 - Quy hoạch phát triển các trang trại chăn nuôi: cần cách xa khu vực dân cư tập trung, có biện pháp xử lý tránh ô nhiễm môi trường. 3.4.1.2. Giải pháp về đất đai - Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thuê đất, cấp quyền sử dụng đất cho các dự án chế biến, dịch vụ và mở rộng diện tích cho các trang trại. Thực hiện đầy đủ các chính sách khuyến khích của các ngành về lĩnh vực nông nghiệp. - Đẩy nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các chủ trang trại, hộ gia đình được giao đất phát triển theo quy hoạch. Triển khai cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại đối với số trang trại đạt tiêu chuẩn hiện có nhằm tạo điều kiện cho các chủ trang trại yên tâm đầu tư và vay vốn sản xuất. - Hộ gia đình, cá nhân phi nông nghiệp hoặc ở các địa phương khác, các doanh nghiệp có nguyện vọng và khả năng lập nghiệp đầu tư vốn phát triển trang trại được UBND xã sở tại cho thuê đất sản xuất. - Miễn tiền thuế sử dụng đất cho các trang trại đối với các xã vùng núi, vùng đặc biệt khó khăn và giảm 50% cho các xã vùng đồng bằng trong 5 năm đối với diện tích đất vượt hạn điền. - Miễn tiền thuê đất 7 năm đối với các xã vùng núi, và 3 năm đối với các xã vùng đồng bằng, vùng khai hoang phục hoá… - Khuyến khích các hộ dân chuyển nhượng, dồn điền, đổi thửa tạo điều kiện tích tụ ruộng đất, chuyển đổi từ đất khác sang trang trại chuyên canh hoặc kết hợp. Khi hết thời hạn giao đất theo NĐ64/CP (năm 2014), tiến hành giao lại ruộng đất có điều chỉnh theo hướng tập trung, quy mô diện tích lớn, tạo điều kiện để các hộ dân an tâm đầu tư phát triển kinh tế trang trại. - Xây dựng đề án giao đất, cho thuê diện tích đất, mặt nước cho hộ gia đình, tổ chức, cá nhân để phát triển kinh tế trang trại. - Đẩy nhanh tiến độ giao đất cho các hộ dân vùng đồi núi để phát triển kinh tế lâm nghiệp, trong giao đất phải căn cứ vào quỹ đất trống đồi núi trọc ở Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 102 địa phương, nhu cầu và khả năng đầu tư trồng rừng, tránh tình trạng đất giao không sản xuất hoặc sử dụng không hết diện tích, giữ đất trong khi các hộ có nhu cầu không có đất trồng rừng. Đồng thời, ưu tiên các hộ ở địa phương đó, hộ có ý chí vươn lên làm giàu; mặt khác cần khuyến khích những người có vốn ở nơi khác để đầu tư phát triển kinh tế trang trại theo hợp đồng sử dụng đất. Hộ gia đình sản xuất nông nghiệp có nhu cầu và khả năng sử dụng đất vượt hạn điền của địa phương được UBND xã xét thuê đất phát triển kinh tế trang trại. 3.4.1.3. Giải pháp về đầu tư và vốn - Các tổ chức tín dụng tạo điều kiện thuận lợi cho việc vay vốn đối với phát triển kinh tế trang trại như: thành lập quỹ cho vay kinh tế trang trại từ huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, quy định lãi suất và thời hạn cho vay hợp lý, cần phát triển hình thức cho vay tín chấp, mức vốn vay nhiều hơn so với quy định hiện nay của ngân hàng. Thực hiện Quyết định số 423/QĐ/NHNN ngày 22/9/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về quy định chính sách tín dụng ngân hàng đối với kinh tế trang trại. Triển khai thực hiện Quyết định số 178/2001/QĐ-TTg ngày 12/11/2001 của Thủ tướng Chính phủ về quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao đất, thuê, nhận, khoán rừng và đất lâm nghiệp. - Phối hợp với các chương trình, dự án khuyến nông, nguồn vốn giải quyết việc làm để cho vay phát triển kinh tế trang trại. Các tổ chức chính trị xã hội (Hội Nông dân, Hội Phụ nữ…) bố trí một phần kinh phí từ các nguồn vốn cho vay để phát triển theo mô hình trang trại. - Xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, điện, thuỷ lợi… ở các vùng quy hoạch kinh tế trang trại, chế biến sản phẩm nông nghiệp, để khuyến khích các hộ gia đình, cá nhân phát triển trang trại sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp. - Lập dự án giới thiệu tiềm năng và cơ hội hợp tác đầu tư, nhất là đầu tư công nghệ chế biến thức ăn gia súc, chế biến nông sản. Tăng cường đầu tư xây dụng các mô hình kinh tế trang trại và nhân diện rộng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 103 - Các trang trại được miễn, giảm tiền thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai khi thuê đất trống đồi núi trọc, đất hoang hoá để trồng rừng, trồng cây lâu năm và khi thuê diện tích các vùng nước tự nhiên chưa có đầu tư cải tạo vào mục đích nuôi trồng thuỷ sản. - Chính sách của tỉnh: hỗ trợ 01 triệu đồng/trang trại mới thành lập; các chính sách khác áp dụng theo quy định chính sách hàng năm của tỉnh. 3.4.1.4. Giải pháp về khoa học kỹ thuật và công nghệ - Việc đầu tiên là cần chú trọng công tác thông tin KH&CN cho các chủ trang trại. Hiện nay ngành nông nghiệp chỉ hoạt động khuyến nông chung cho nông dân cả nghèo lẫn giàu. Đã đến lúc cần tập trung công tác khuyến nông riêng đối với các hộ nông dân - trang trại sản xuất hàng hóa là lực lượng xung kích, đi đầu trong ứng dụng tiến bộ KH&CN, tổ chức các câu lạc bộ khuyến nông cho các chủ trang trại theo ngành sản xuất, như các trang trại sản xuất lúa hàng hóa, sản xuất chè, cây ăn quả, nuôi gà, vịt, nuôi lợn, nuôi trâu bò, nuôi trồng thủy sản, trồng rừng với qui mô vừa và lớn, khối lượng hàng hóa nhiều ở từng địa phương, đi vào từng chuyên đề thiết thực. - Cần chú trọng và tiếp tục đầu tư thoả đáng cho công tác khuyến nông, khuyến ngư, khuyến lâm, khuyến công để chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ cho trang trại, đưa các giống cây trồng, vật nuôi có phẩm chất tốt, sản phẩm chất lượng cao vào sản xuất; áp dụng công nghệ mới trong công nghiệp chế biến, bảo quản sản phẩm nông nghiệp; rút kinh nghiệm và nhân rộng các điển hình thành công ra nhiều trang trại khác. - Phổ biến cho các trang trại biết có thể bố trí cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện tự nhiên và sinh thái từng vùng và phù hợp với quy hoạch các vùng chuyên canh ở địa phương, đặc biệt đối với các loại cây trồng dài ngày để giúp các trang trại lựa chọn phương hướng sản xuất phù hợp. - Khuyến khích các hình thức liên kết và hợp tác trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ nông nghiệp, trong đó coi trọng sự liên kết giữa các Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 104 trung tâm, viện nghiên cứu ở trong và ngoài huyện với các trang trại hạt nhân trên từng vùng để nghiên cứu tạo ra những giống vật nuôi cây trồng phù hợp với điều kiện đất đai thổ nhưỡng và chịu được điều kiện khí hậu ở địa phương cũng như chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ cho các trang trại. - Trên cơ sở quy hoạch về phát triển giống cây trồng, vật nuôi đến năm 2010 của tỉnh, khuyến khích và hỗ trợ các trang trại sản xuất giống cây trồng, vật nuôi tại địa phương để cung cấp giống tại chổ. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, để sản xuất kinh doanh có lợi, các trang trại nước ta phải lựa chọn và ứng dụng KH&CN thích hợp, hỗn hợp và tổng hợp. KH&CN thích hợp là sử dụng các loại vật tư kỹ thuật, động lực, công cụ và công nghệ phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, kỹ thuật của sản xuất, của từng trang trại, và yêu cầu chất lượng sản phẩm của thị trường tiêu thụ. KH&CN hỗn hợp là sử dụng đan xen giữa các cấp độ công nghệ khác nhau (cổ truyền kết hợp với hiện đại, thủ công kết hợp với cơ khí v.v...) trong các công đoạn sản xuất chế biến các loại nông sản, nhằm sử dụng hợp lý nhất các yếu tố kỹ thuật, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. KH&CN tổng hợp là sử dụng đồng bộ các công nghệ sinh học, hóa học, cơ điện trong chu trình sản xuất, chế biến nông sản của các trang trại, huy động sức mạnh tổng hợp của KH&CN, tạo ra hợp lực đem lại hiệu quả kinh tế cao. 3.4.1.5. Giải pháp về lao động và nguồn nhân lực Nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh và trình độ khoa học kỹ thuật của chủ trang trại, hộ gia đình, cá nhân cụ thể: - Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng về quản lý, quy trình và cách thức làm giàu từ kinh tế trang trại không chỉ cho các chủ trại mà còn cho cả những người có nguyện vọng và có khả năng trở thành chủ trại. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 105 - Về nội dung đào tạo bồi dưỡng cần hướng vào những vấn đề của kinh tế trang trại, xu hướng phát triển trang trại; các chủ trương, đường lối, chính sách về phát triển kinh tế trang trại; đặc biệt là các kiến thức về tổ chức và quản trị kinh doanh trong các trang trại như xác định phương hướng kinh doanh, tổ chức sử dụng các yếu tố sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. - Tổ chức các lớp chuyển giao kỹ thuật và công nghệ mới cho các chủ trại, hỗ trợ họ trong việc triển khai ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật. - Đào tạo bằng nhiều hình thức như lớp tại địa phương, tham quan, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật… với sự tổ chức hỗ trợ của các cơ quan như Sở Nông nghiệp và PTNT, Sở Khoa học và Công nghệ, Hội Nông dân… - Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của các trang trại bằng cách hướng vào tổ chức tốt việc đào tạo nghề phù hợp cho một bộ phận lao động làm thuê, nhất là bộ phận lao động kỹ thuật. 3.4.1.6. Giải pháp về thị trường tiêu thụ - Tổ chức dự báo thị trường, mở rộng hình thức thông tin kinh tế. - Khuyến khích thành lập hợp tác xã, tổ hợp dịch vụ chăn nuôi và tiêu thụ sản phẩm. - Mở rộng và phát triển hệ thống tiêu thụ sản phẩm, trong đó chú trọng khâu bảo quản nhằm hạn chế tổn thất sau thu hoạch. - Có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thu hút các tổ chức, cá nhân trong và ngoài huyện đầu tư để phát triển dịch vụ đầu vào, đầu ra cho nông sản. - Nhà nước cùng các tổ chức kinh tế có các biện pháp thu mua, chế biến, dự trữ, điều hoà cung cầu để giữ giá ổn định một số mặt hàng thiết yếu nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng cuả nhà kinh doanh và người tiêu dùng. - Các cơ sở chế biến nông, lâm sản có ý nghĩa quyết định tới chất lượng hàng hoá nông sản. Phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp theo chiều dọc phải là quá trình từ sản xuất, gắn với chế biến và tiêu thụ hàng hoá. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 106 - Cần khuyến khích, hỗ trợ cho sự ra đời của các cơ sở chế biến nông sản như cơ sở chế biến thức ăn gia súc, gia cầm. Chế biến hoa quả mơ, chuối, nhãn, vải... 3.4.1.7. Môi trường kinh doanh và tư pháp Tiến hành cấp đăng ký kinh doanh cho các trang trại có đủ điều kiện. Đăng ký kinh doanh cho trang trại gia đình là một việc làm hợp lý và hết sức cần thiết. Hiện tại mới có 2 trong tổng số 21 trang trại của Bắc Kạn mới đã đăng ký kinh doanh (vào khoảng 9,5%). Thông qua đó, giúp cho Nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý của mình đối với loại hình trang trại gia đình. Mặt khác, để đảm bảo quyền tự do kinh doanh và tinh thần cải cách thủ tục hành chính hiện nay, không cần thiết phải đặt ra thủ tục cấp giấy chứng nhận cho trang trại gia đình. Việc thỏa mãn các tiêu chí của trang trại gia đình sẽ được các hộ gia đình chứng minh thông qua các giấy tờ cần thiết trong hồ sơ đăng ký kinh doanh (ví dụ như giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất, báo cáo tóm tắt tình hình sản xuất kinh doanh,...). Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là cơ sở pháp lý duy nhất chứng minh tư cách pháp lý của trang trại gia đình. Hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường; khuyến khích các thành phần kinh tế cùng phát triển. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng SX hàng hóa. Xây dựng HTX mô hình mới là một giải pháp quan trọng giúp cho kinh tế hộ nông dân phát triển sản xuất hàng hoá ổn định vững chắc. Xây dựng HTX kiểu mới vừa là giải pháp vừa là xu thế và mục tiêu của phát triển kinh tế hộ nông dân, kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại. Phân vùng kinh tế và phân bổ lại lao động dân cư. Trong điều kiện đặc điểm điều kiện tự nhiên không đồng nhất, cần có những tiêu chuẩn phân vùng nhỏ cho các huyện thị. Tuy không tạo thành vùng chuyên canh lớn thì cũng tạo ra một lượng sản phẩm đủ lớn cho kinh tế hàng hoá phát triển, thúc đẩy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 107 phân bố lại lao động dân cư hiện nay cư trú rất phân tán, nhất là vùng cao, vùng sâu,vùng xa. Tổ chức công tác truyền thông giúp cho các hộ vượt qua tâm lý an phận, tâm lý tự ti, phong tục tập quán sản xuất tự túc, tự cấp, sản xuất manh mún nhỏ lẻ để tăng cường nghị lực vượt qua khó khăn trước mắt, tích cực nỗ lực trong sản xuất kinh doanh. Tuyên truyền chủ trương chính sách của Trung ương cũng như địa phương về phát triển kinh tế trang trại trong giai đoạn tới. Phổ biến quy hoạch, kế hoạch phát triển các vùng kinh tế trang trại trong tỉnh cho tất cả các đối tượng có nhu cầu làm trang trại để thu hút đầu tư. Thông tin, phổ biến kinh nghiệm sản xuất kinh doanh của các trang trại điển hình tạo ra động lực trong đầu tư vào sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Bằng các phương thức cụ thể: Tổ chức hội thảo Phát sóng trên đài truyền hình, trên báo địa phương Phát tờ rơi, tờ bướm 3.4.1.8. Tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại - Thực hiện quản lý nhà nước đối với quá trình sản xuất kinh doanh của trang trại, nhằm định hướng phát triển và đảm bảo công bằng trong sản xuất kinh doanh, khuyết khích mặt tích cực và hạn chế những tiêu cực của loại hình kinh tế trang trại, khắc phục tình trạng phát triển mang tính tự phát tích tụ ruộng đất tràn lan. - Xác định các loại hình trang trại và hình thức kinh doanh để có sự quản lý thống nhất và phù hợp với từng loại hình trang trại, nhất là loại hình trang trại có thuê mướn nhiều lao động mà chủ trại không trực tiếp tham gia sản xuất trong trang trại. - Thực hiện quản lý nhà nước đối với đầu ra, chất lượng sản phẩm nhằm đảm bảo lợi ích chung của Nhà nước, quyền lợi của người tiêu dùng và môi trường sinh thái. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 108 - Tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra đối với kinh tế trang trại, đảm bảo các chủ trang trại thực hiện đầy đủ qui trình kỹ thuật canh tác bảo vệ và làm giàu đất, bảo vệ môi trường; thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước theo pháp luật. Đồng thời, bảo vệ quyền lợi chính đáng của chủ trang trại về tài sản và các lợi ích khác. - Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm dịch giống, thực hiện quy trình sản xuất, du nhập giống chất lượng cao và sạch bệnh. Đa dạng hoá các loại giống cây trồng, vật nuôi. Đưa các đối tượng nuôi, trồng đã thử nghiệm có hiệu quả vào sản xuất để đa dạng hoá các đối tượng nuôi, trồng. 3.4.1.9. Hình thành, phát triển quan hệ hợp tác giữa các trang trại - Hình thành và phát triển quan hệ hợp tác giữa các trang trại nhằm trao đổi kinh nghiệm, trình độ quản lý, trao đổi sản phẩm, dịch vụ để nâng cao hiệu quả kinh tế. - Khuyến khích thành lập các câu lạc bộ, tổ hợp tác theo từng loại hình trang trại để liên doanh, liên kết trong sản xuất kinh doanh, tạo sức cạnh tranh và sự ổn định trong tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, hạn chế tình trạng ép giá của các tư thương và rủi ro trong sản xuất kinh doanh. - Xây dựng mối quan hệ giữa các tổ hợp tác, chủ trang trại với các hộ dân để các chủ trang trại, tổ hợp tác là đầu mối thu mua, tiêu thụ sản phẩm nông sản. Tóm lại: Phát triển kinh tế trang trại tỉnh Bắc Kạn trong giai đoạn tới có ý nghĩa rất quan trọng trong việc khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn tỉnh, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết lần thứ IX Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020. Chính vì vậy, chương trình này cần được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban ngành đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở một cách đồng bộ, tạo sự đột phá quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 109 3.4.2. Giải pháp cho nhóm trang trại 3.4.2.1. Trang trại trồng trọt Nên tập trung vùng ven đô, vùng có lợi thế so sánh cao; đồng thời chuyển diện tích trồng lúa năng suất thấp, không chủ động được nước tưới sang nuôi trồng thủy sản hoặc trồng các loại cây công nghiệp ngắn ngày. Về cây công nghiệp ngắn ngày, phát triển mạnh thuốc lá, đậu tương, đỗ xanh, đỗ đen, lạc và mía v.v. trên cơ sở sử dụng giống mới và sản xuất theo dây truyền công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao năng suất, chất lượng. Trồng thâm canh, tạo vành đai thực phẩm cho thị xã đối với các loại rau, đậu theo hướng sạch; trồng hoa thương phẩm các loại phục vụ cho nhu cầu thị trường. Về cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày tập trung phát triển tính tới nhu cầu thị trường các loại cây như hồng không hạt, cam, quýt, chè, v.v trên cơ sở giống mới và gắn với thị trường tiêu thụ sản phẩm. Phát triển để hình thành các vùng nguyên liệu tập trung gắn với công nghiệp chế biến: hình thành 1000 ha cam, quýt nguyên liệu tại Thị xã Bắc Kạn; Bạch Thông; Chợ Đồn; Chè Shan tuyết và chè chất lượng cao; Vùng trồng đỗ tương, thuốc lá, khoai môn 700 ha tại Bạch Thông, Ba Bể, thị xã Bắc Kạn, Chợ Mới; 500 ha Hồng không hạt tại Ba Bể, Ngân Sơn, Chợ Đồn; 3.4.2.2. Trang trại chăn nuôi Một là về giống, vật nuôi, tiếp tục sử dụng con giống tốt trong nước, khuyến khích các chủ trang trại, doanh nghiệp nhập nguồn gien, giống có năng suất chất lượng cao: Chương trình cải tạo chất lượng đàn bò địa phương bằng giống bò lai Sind; chương trình móng cái hoá đàn lợn nái, nuôi lợn hướng lạc, lợn siêu lạc; phát triển đa dạng đàn gia cầm trong chăn nuôi có khả năng tăng trọng nhanh như các giống gà Tam Hoàng, Lương Phượng, Kabir, Sắc-sô, ngan Pháp; Hai là về thức ăn chăn nuôi, người chăn nuôi và nhà máy chế biến phải ký hợp đồng, bảo đảm cung cấp ổn định và chất lượng thức ăn tốt. Ba là công nghệ chuồng trại, người chăn nuôi phải nghiên cứu các mẫu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 110 chuồng trại, áp dụng các loại máng ăn, uống, phù hợp với từng vật nuôi. 3.4.2.3. Trang trại lâm nghiệp Đối với diện tích rừng nghèo kiệt, khuyến khích các tổ chức, cá nhân cải tạo và trồng lại rừng để nâng cao giá trị sử dụng rừng và đất rừng. Đối với diện tích đất trống, thu hút đầu tư vào lĩnh vực trồng rừng tạo vùng nguyên liệu tập trung, theo hướng đầu tư thâm canh gắn với công nghiệp chế biến, kết hợp sản xuất lâm - nông - ngư nghiệp để nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Loài cây chính cho trồng rừng sản xuất: Keo, thông, mỡ, trúc... để tạo vùng nguyên liệu cho sản xuất ván MDF, ván ghép thanh, sản xuất giấy. Diện tích trồng rừng nguyên liệu khoảng 40 nghìn ha tập trung ở các huyện Chợ Mới, Chợ Đồn, Ba Bể để sản xuất các mặt hàng đồ mộc gia dụng, vật liệu xây dựng và đồ gỗ mỹ nghệ. Đầu tư trồng 10 nghìn ha trúc sào ở thị xã Bắc Kạn, Ba Bể, Pác Nặm để có thể sản xuất 4-5 triệu trúc đoạn/ năm. Đầu tư trồng rừng theo cơ chế sạch (CDM) trên diện tích đất trống, đồi núi trọc ở các huyện Pắc Nậm, Ngân Sơn, Ba Bể, Na Rì, Chợ Đồn, Chợ Mới, Bạch Thông. 3.3.2.4. Trang trại thuỷ sản Phát triển nuôi trồng thủy sản nước ngọt ở các hồ chứa, hồ tự nhiên và nuôi cá lồng trên các sông, suối. Trong nuôi thủy sản sử dụng giống mới như rô phi đơn tính, cá tra, cá basa, tôm càng xanh, Nghiên cứu giúp các địa phương, các chủ trang trại, các hộ gia đình nuôi trồng thủy sản xây dựng phương án đổi đất dồn ao để tạo điều kiện cho việc hình thành các trang trại thủy sản sản xuất tập trung với quy mô lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư nuôi thâm canh công nghiệp. Có chính sách thu hút các nhà đầu tư vào lĩnh vực nuôi trồng thủy sản để hình thành nên các cơ sở sản xuất thủy sản tập trung. Đây chính là những mô hình nuôi trồng thủy sản theo hướng công nghiệp, để cho các chủ trang trại, các hộ gia đình tham quan học tập; đồng thời cũng là cơ sở dịch vụ đầu vào con giống, thức ăn,.v.v... và tiêu thụ sản phẩm. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 111 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ KẾT LUẬN 1. Kinh tế trang trại ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Nó cho phép khai thác, sử dụng triệt để tiềm năng về đất đai, đặc biệt ở những vùng đồi núi như Bắc Kạn hiện nay mang lại khối lượng sản phẩm hàng hoá lớn cho xã hội. 2. Tuy mới hình thành và phát triển ở nước ta nói chung và Bắc Kạn nói riêng, kinh tế trang trại đã khẳng định là một hình thức tổ chức sản xuất tiến bộ, phù hợp và có hiệu quả trong nông nghiệp. Nó đã và đang góp phần tạo ra quan hệ sản xuất mới ở nông thôn, xoá đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. 3. Điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội của một vùng ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế trang trại. Chính sự kết hợp giữa sự đa dạng với sự lựa chọn loại hình đem lại giá trị kinh tế cao trong kinh doanh trang trại ở Bắc Kạn hiện nay đã thể hiện sự năng động của các trang trại. Tuy nhiên số lượng, quy mô cũng như trình độ sản xuất kinh doanh của các trang trại của Bắc Kạn còn hạn chế và đang trong giai đoạn phát triển ban đầu bởi nền kinh tế địa phương còn mang nặng tính tự nhiên, thị trường nhỏ hẹp. 4. Thực trạng kinh tế trang trại ở Bắc Kạn cho thấy, các nguồn lực của các trang trại huy động còn thấp, kết quả sản xuất cũng như hiệu quả kinh tế mang lại cũng chưa cao. Tuy nhiên, qua thực tế cũng có thể kết luận rằng: nhân tố ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doạnh của các trang trại ở đây không phải do quy mô đất đai của trang trại mà do sự lựa chọn loại hình kinh doanh phát huy lợi thế so sánh của địa phương; trình độ quản lý của chủ trang trại đã mang lại nhiều trang trại có quy mô đất đai nhỏ nhưng có tỷ suất nông sản hàng hoá lớn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 112 5. Qua kết quả nghiên cứu cho thấy loại hình kinh doanh có hiệu quả nhất ở Bắc Kạn cũng chính là khai thác và sử dụng nguồn lực là lợi thế so sánh của địa phương. Cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc kết hợp với lâm nghiệp hiện tại vẫn hướng đi mang lại hiệu quả tốt nhất cho các chủ trang trại. Tuy nhiên điều kiện tự nhiên không đồng nhất, quản lý đất đai manh mún là một trở ngại để phát triển sản xuất với quy mô lớn. 6. Cũng như các loại hình kinh tế mới hình thành khác, kinh tế trang trại cần một môi trường chính sách, thể chế cần thiết cho sự tồn tại và phát triển ổn định, bền vững. Vai trò của công tác truyền thông, nâng cao năng lực của chủ trang trại, hỗ trợ thị trường v.v... trong phát triển kinh tế trang trại là những vấn đề mà các cấp chính quyền cần phải quan tâm. KIẾN NGHỊ VỀ NHỮNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO Ở nước ta, vị trí chính thức của trang trại gia đình đã có hơn 8 năm hình thành và phát triển. Đã đến lúc cần phải nhìn lại để thấy rõ mặt mạnh, mặt còn hạn chế của chính sách pháp luật về trang trại gia đình. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn phát triển trang trại gia đình, Nhà nước cần ban hành một luật hoặc pháp lệnh về trang trại gia đình tạo khung pháp lý cho hoạt động của loại hình này, trong đó xác định rõ khái niệm, đặc điểm pháp lý, các điều kiện để được xác định là trang trại gia đình, trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh, quyền và nghĩa vụ của trang trại. Với một tư cách pháp lý độc lập, một địa vị pháp lý bình đẳng với các chủ thể kinh doanh khác sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để trang trại gia đình tự tin, chủ động bước vào “sân chơi” lớn - nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần như ở nước ta hiện nay. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 113 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Lao động thương binh và xã hội (2000), Thông tư hướng dẫn áp dụng một số chế độ làm việc trong các trang trại, Hà Nội. 2. Các Mác - Tư bản, Quyển 3 tập 1, NXB Sự thật Hà nội 1960. 3. Cục Thống kê tỉnh Bắc Kạn (2007), Niên giám thống kê tỉnh Bắc Kạn năm 2006, NXB Thống kê, Hà Nội. 4. Nguyễn Điền, Nông nghiệp nước Mỹ - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá, NXB Thống kê, Hà Nội, 1998. 5. Nguyễn Điền, Trần Đức, Trần Huy Năng (1993), Kinh tế Trang trại gia đình trên thế giới và châu Á, NXB Thống kê. 6. Trần Đức, Kinh tế trang trại vùng đồi núi, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1998. 7. Nguyễn Đình Hà, Nguyễn Khánh Quắc (1999), Kinh tế nông nghiệp gia đình nông trại, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 8. Đào Hữu Hoà (2005), Vai trò của kinh tế trang trại trong quá trình phát triển một nền nông nghiệp bền vững, Trường đại học Kinh tế Đà Nẵng, Đà Nẵng. 9. Hoàng Văn Hoa, Hoàng Thị Quý, Phạm Huy Vinh (1999), Quá trình phát triển kinh nghiệm trang trại ở Việt nam và một số nước trên thế giới - Bài học kinh nghiệm; Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt nam, Trường đại học KTQD, Hà Nội. 10. Trần Văn Hưng, Hoàng Văn Chính (2000), Kinh tế trang trại gia đình nông lâm nghiệp, Hà Nội. 11. Kinh tế trang trại gia đình trên thế giới và châu Á, NXB thống kê 1993 12. Liên Bộ Nông nghiệp và PTNT - Tổng cục Thống kê (2003), Thông tư liên tịch hướng dẫn tiêu chí để xác định kinh tế trang trại, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 114 13. Mác - Ăng ghen toàn tập, bản tiếng Nga - tập 25 phần II, Matxcơva 1961. 14. Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Bắc Kạn (2004), Báo cáo tình hình phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn từ khi có Nghị quyết 03/NQ-CP, Bắc Kạn. 15. Lê Duy Phong (2001), Kinh tế trang trại sau 1 năm thực hiện Nghị quyết 02/NQ-CP của Thủ tướng Chính phủ; Kinh tế trang trại sau 1 năm thực hiện Nghị quyết 03/NQ-CP, Trường ĐHKT thành phố HCM, Vũng Tàu. 16. Lê Trường Sơn (2004), Trang trại gia đình - một loại hình doanh nghiệp mới trong nền kinh tế thị trường ở Việt nam, Tạp chí Khoa học pháp lý, (Số 3, 2004). 17. Lê Trọng (2000), Phát triển và quản lý trang trại trong kinh tế thị trường, NXB Nông nghiệp Hà Nội. 18. Trần Tác (2001), “Một số giải pháp nhằm tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế trang trại ở Việt nam”, Kinh tế trang trại sau một năm thực hiện Nghị quyết 03/NQ-CP, Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu. 19. Nguyễn Thị Thắc (1999), Thực trạng và những giải pháp phát triển kinh tế trang trại tỉnh Thái Nguyên, Luận văn Thạc sỹ kinh tế nông nghiệp, Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội. 20. Đoàn Quang Thiệu (2001), Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển hệ thống nông lâm kết hợp ở huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên , Luận án Tiến sỹ kinh tế, Hà Nội. 21. Tổng cục Thống kê (2007), Báo cáo sơ bộ kết quả cuộc Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp năm 2006, Hà Nội. 22. Nguyễn Văn Tuấn (2000), Quản lý trang trại trong nền kinh tế thị trường, NXB Nông nghiệp, Hà nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 115 23. Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn (2006), Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Kạn đến năm 2020, Bắc Kạn. 24. V.I. Lê-nin toàn tập - tập 17, NXB tiến bộ Matxcơva 1978. 25. Viện Kinh tế (1995), Kinh tế hộ trong nông thôn Việt nam, NXB khoa học xã hội, Hà Nội. 26. Ngô Bằng Việt (2001), Đánh gía hiệu quả kinh tế của một số mô hình trang trại điển hình ở huyện miền núi Đoan Hùng, Phú Thọ, Luận văn cử nhân kinh tế, Thái Nguyên. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 116 PHỤ LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA9505.pdf