Tài liệu Thực trạng và một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn: ... Ebook Thực trạng và một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn
122 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1802 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
§¹i häc th¸i nguyªn
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
-------------------------------
NguyÔn §×nh V¨n
Thùc tr¹ng vµ mét sè gi¶i ph¸p
ph¸t triÓn kinh tÕ trang tr¹i
ë tØnh B¾c K¹n
Chuyªn ngµnh: Kinh tÕ n«ng nghiÖp
M· sè: 60 - 31 - 10
LuËn v¨n th¹c sÜ kinh tÕ
Người hướng dẫn khoa học: T.S §ç Quang Quý
Th¸i Nguyªn - 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu trích dẫn trong quá trình nghiên
cứu đều được chỉ rõ nguồn gốc.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Đình Văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iii
LỜI CẢM ƠN!
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của
các cơ quan, các cấp lãnh đạo và các cá nhân. Tôi xin chân thành cảm ơn sâu
sắc và kính trọng tới tất cả các tập thể, các cá nhân đã tạo điều kiện giúp đỡ
tôi trong qúa trình học tập và nghiên cứu.
Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Tiến sỹ Đỗ Quang Quý
là thầy đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường đại học Kinh tế và
QTKD, Ban chủ nhiệm Khoa Đào tạo sau đại học trường Đại học Kinh tế và
QTKD Thái Nguyên đã tạo điều kiện cho tôi có cơ hội được tiếp cận và khẳng
định bước đầu trong công việc nghiên cứu khoa học của mình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của các giáo sư, tiến sỹ và cán bộ
Khoa Sau đại học Trường Đại học Kinh tế và QTKD những người đã trang bị
cho tôi những kiến thức quý báu và tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong
quá trình học tập và nghiên cứu luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu đã
để lại những tài liệu nghiên cứu có giá trị, liên quan đến lĩnh vực mà luận văn
của tôi đề cập và sử dụng làm tiền đề nghiên cứu luận văn này.
Tôi xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ của lãnh đạo, các chuyên gia của Sở
Nông nghiệp và PTNT Bắc Kạn, Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bắc Kạn, Cục
Thống kê tỉnh Bắc Kạn và các đồng nghiệp, lãnh đạo chính quyền các địa
phuơng và các chủ trang trại đã giúp đỡ nhiệt tình trong quá trình làm luận văn.
Tôi xin cảm ơn những người thân trong gia định đã giúp tôi lúc khó khăn,
vất vả để hoàn thành luận văn. Tôi xin cảm ơn các bạn bè đồng nghiệp gần xa
đã đóng góp nhiều ý kiến quý báu để giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2008
Nguyễn Đình Văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iv
DANH MỤC TÀI LIỆU VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt Nguyên nghĩa
1 TBCN Tư bản chủ nghĩa
2 PGS-TS Phó Giáo sư - Tiến sỹ
3 TT Trang trại
4 KTTT Kinh tế trang trại
5 CNH Công nghiệp hoá
6 HĐH Hiện đại hoá
7 CSDL Cơ sở dữ liệu
8 SPSS Statiscal Package for Social Sciences
9 GTSX Giá trị sản xuất
10 SXKD Sản xuất kinh doanh
11 UBND Uỷ ban nhân dân
12 KH &CN Khoa học và công nghệ
13 PTNT Phát triển nông thôn
14 HTX Hợp tác xã
15 DĐĐT Dồn điền đổi thửa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
v
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài.............................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu............................................................. ................. . ..2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................... ......3
4. Ý nghĩa khoa học của luận văn và đóng góp của luận văn.............. . ........4
5. Bố cục của luận văn......................................................................... . ........4
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................................ 5
1.1. Tổng quan tài liệu nghiên cứu............................................................. .. 5
1.1.1. Cơ sở lý luận về kinh tế trang trại........................... ..................... .5
1.1.2. Kinh nghiệm trên thế giới và Việt nam về phát triển KTTT. ....... 23
1.1.3. Lịch sử hình thành và tồn tại trang trại ở Việt Nam và Bắc Kạn . 26
1.1.4. Quá trình phát triển kinh tế trang trại ở nước ta từ khi đổi mới
theo nền kinh tế thị trường ...................................................... 31
1.1.5. Một số kết luận rút ra từ nghiên cứu lý luận và thực tiễn ............ 37
1.2. Phương pháp nghiên cứu............................................................... .......38
1.2.1. Các câu hỏi đặt ra mà đề tài cần giải quyết .................................38
1.2.2. Phuơng pháp nghiên cứu .......................................................... 38
1.2.3. Các chỉ tiêu nghiên cứu .............................................................42
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI
TỈNH BẮC KẠN.. .... ................................. 43
2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu .......................................................... 43
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên..... ................................................................43
2.1.2. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Kạn giai đoạn
2001-2007 .............................................................................. 54
1.1.3. Phân tích SWOT về chiến lược phát triển của Bắc Kạn ............. 68
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vi
2.2. Thực trạng phát triển kinh tế trang trại Bắc Kạn những năm gần đây ...... 70
2.2.1. Tình hình phát triển kinh tế trang trại thời gian qua ................... 70
2.3. Phân tích, đánh giá........................................................................... ... 73
2.3.1. Đặc điểm và phương hướng sản xuất của các trang trại tỉnh Bắc Kạn....73
2.3.2. Tổ chức quản lý sản xuất, kinh doanh của các trang trại. ............ 74
2.3.3. Vấn đề trong phát triển của các trang trại hiện có... .................... 85
2.3.4. Nguyên nhân kìm hãm sự phát triển kinh tế trang trại ở Bắc Kạn .... 86
Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TRANG TRẠI TỈNH BẮC KẠN THỜI GIAN TỚI. .............. 89
3.1. Quan điểm phát triển kinh tế trang trại.............................................. .. 89
3.1.1. Quan điểm phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ Công nghiệp
hóa - Hiện đại hoá ở Việt nam.................................... ..................89
3.1.2. Quan điểm riêng đối với tỉnh Bắc Kạn..... ...................................94
3.2. Những định hướng phát triển kinh tế trang trại tỉnh Bắc Kạn........... ...96
3.2.1. Căn cứ để định hướng........ ........................................................96
3.2.2. Phương hướng phát triển kinh tế trang trại tỉnh Bắc Kạn.. .......... 96
3.3. Mục tiêu phát triển kinh tế trang trại............................................. .. .....99
3.3.1. Mục tiêu tổng quát.......... ...........................................................99
3.3.2. Mục tiêu cụ thể................. .........................................................99
3.4. Giải pháp thực hiện......................................................................... ...100
3.4.1. Giải pháp chung cho toàn bộ các trang trại.. .............................100
3.4.2. Giải pháp cho nhóm trang trại......... .........................................109
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................111
Kết luận ...........................................................................................111
Kiến nghị.............................................................................................. .112
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................113
PHỤ LỤC ..............................................................................................116
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Trang trại là một loại hình sản xuất nông nghiệp được hình thành tương
đối sớm trên thế giới, tuỳ từng thời kỳ mà có những hình thức, tên gọi khác
nhau nhưng đều có đặc điểm chung là sản xuất hàng hoá tự chủ với quy mô
lớn. Phát triển kinh tế trang trại là xu hướng tất yếu trong sản xuất nông
nghiệp, nông thôn hiện nay. Ngày nay, trang trại là loại hình tổ chức sản xuất
phổ biến trong nền nông nghiệp của hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Ở nước ta, trang trại đã hình thành và trải qua các giai đoạn lịch sử khác
nhau của sự phát triển. Tuy nhiên, trang trại gia đình chỉ phát triển từ đầu thập
niên 1990 sau khi có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và Luật đất đai ra đời
năm 1993, giao quyền sử dụng đất sản xuất ổn định và lâu dài cho hộ gia đình
nông dân.
Từ khi có chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của Đảng, kinh tế
hộ nông dân đã phát huy tác dụng to lớn, tạo sức mạnh mới trong sự nghiệp
phát triển nông nghiệp và nông thôn. Trên nền tảng kinh tế tự chủ của các hộ
nông dân đã hình thành các trang trại được đầu tư vốn, lao động với trình độ
chuyên môn cao đóng góp ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội. Mới
hình thành và phát triển nhưng kinh tế trang trại đã khơi dậy tiềm năng đất
đai, lao động, vốn trong dân cư để đầu tư phát triển sản xuất, cải thiện bộ mặt
nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế trang trại đã nảy sinh nhiều vấn
đề lý luận và thực tiễn đòi hỏi phải giải quyết kịp thời liên quan đến nhận thức,
cơ chế chính sách của Nhà nước: về đất đai, lao động, vốn đầu tư, tư cách pháp
nhân, quyền lợi và nghĩa vụ của chủ trang trại trước pháp luật.v.v... nhằm củng
cố và phát triển loại hình này một cách tích cực, ổn định và bền vững.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Đã có nhiều công trình nghiên cứu trên các cấp độ khác nhau về kinh tế
trang trại ở khắp các vùng, miền trong cả nước. Nhìn chung, các công trình
nghiên cứu đã nêu ra và đều mong muốn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực
tiễn của kinh tế trang trại để tìm ra hướng đi, đề xuất những giải pháp nhằm
tháo gỡ những khó khăn vướng mắc để phát huy vai trò của kinh tế trang trại
trong nền nông nghiệp của nước ta hiện nay.
Tuy vậy, vì sản xuất nông nghiệp được diễn ra trên không gian rộng lớn,
mỗi vùng, thậm chí mỗi tiểu vùng cũng có sự khác biệt về điều kiện tự nhiên
và kinh tế - xã hội, nên các trang trại ở mỗi vùng cũng có những đặc điểm
khác nhau. Bắc Kạn là một tỉnh miền núi thuộc vùng Đông Bắc Bắc bộ, có
tiềm năng thế mạnh về đất đai đồi rừng, nhưng kinh tế trang trại Bắc Kạn còn
rất nhỏ bé cả về số lượng và chất lượng, chưa có đóng góp nhiều cho kinh tế
của tỉnh mà loại hình này có nhiều cơ hội phát triển.
Để xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa, phát triển kinh tế
trang trại là hướng đi đúng đắn, cần được quan tâm giúp đỡ bằng những chính
sách hợp lý, góp phần khai thác một cách có hiệu quả và bền vững tiềm năng
về đất đai ở Bắc Kạn. Việc nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn về kinh tế
trang trại trong tỉnh, từ đó đề ra một số giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế
trang trại trên địa bàn tỉnh có một ý nghĩa rất quan trọng.
Xuất phát từ thực tế địa phương, với kinh nghiệm công tác trong ngành
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn của tác giả thời gian qua, đề tài: “Thực
trạng và một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn” đã
được chọn để nghiên cứu.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu chung
Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn, từ đó tìm
giải pháp thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển, góp phần xây dựng một nền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
sản xuất nông nghiệp sản xuất hàng hoá có khả năng cạnh tranh cao, hiệu quả
và bền vững trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn thời gian tới.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế trang trại.
- Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế trang trại nhằm phát hiện ra các yếu
tố trở ngại và những tiềm năng để phát triển kinh tế trang trại tỉnh Bắc Kạn.
- Phân tích hoạt động kinh tế trong trang trại ở tỉnh Bắc Kạn, từ đó tìm ra
được những nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp ảnh hưởng đến kết quả sản
xuất và hiệu quả kinh tế của trang trại.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy phát triển kinh tế trang trại
trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn thời gian tới.
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
- Hoạt động kinh tế của các trang trại cũng như ảnh hưởng của nó đến sự
phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn.
- Đối tượng khảo sát: 100% số lượng trang trại hiện có tại thời điểm điều
tra ở tỉnh Bắc Kạn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.3.1. Nội dung
- Số lượng, cơ cấu, loại hình, phương hướng sản xuất của các trang trại ở
tỉnh Bắc Kạn.
- Tình hình sử dụng đất đai, lao động, vốn, thu nhập, bố trí sản xuất, bố
trí cây trồng của các trang trại.
- Phân tích một số chỉ tiêu đánh gía kết quả, hiệu quả kinh tế của các
trang trại.
3.3.2. Phạm vi về không gian: Toàn bộ tỉnh Bắc Kạn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
3.3.3. Phạm vi thời gian
- Số liệu lịch sử: 7 năm từ 2001-2007.
- Số liệu hiện trạng năm 2006 (tiến hành điều tra năm 2007).
4. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Tổng hợp và phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức cho
phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn.
- Tìm ra và đánh giá tác động của những yếu tố nội hàm và ngoại hàm
ảnh hưởng đến kết qủa sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế các trang trại
ở vùng nghiên cứu.
- Đề xuất hệ thống quan điểm, phương hướng và mục tiêu để phát triển
kinh tế trang trại thời gian tới.
- Khuyến nghị những giải pháp chủ yếu để tiếp tục thúc đẩy kinh tế trang
trại phát triển.
5. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Chương 1: Tổng quan tài liệu nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế trang trại tỉnh Bắc Kạn
Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế trang trại thời gian tới
Nội dung cụ thể các chƣơng nhƣ sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
1.1.1. Cơ sở lý luận về kinh tế trang trại
1.1.1.1. Sự hình thành và phát triển trang trại
a) Quan niệm về trang trại
Lịch sử phát triển của nền nông nghiệp thế giới luôn tồn tại hai hình thức
tổ chức sản xuất nông nghiệp tập trung và sản xuất phân tán [26].
Hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp tập trung trên quy mô diện tích
đất đủ lớn mang tính độc lập đã có từ rất lâu đời. Ngay từ thời đế quốc La mã
đã tồn tại hình thức sản xuất tập trung trên diện tích lớn, lực lượng của yếu là
tù binh và nô lệ. Thời phong kiến ở một số nước châu Âu có hình thức lãnh
địa phong kiến và các trang viên. Ở Trung quốc thời nhà Hán đã có các hoàng
trang, điền trang, đồn điền. Ở Việt nam hình thức sản xuất tập trung đã có từ
thời phong kiến phương Bắc đô hộ.
Về mặt sở hữu thì trang trại hội tụ đủ mọi hình thức sở hữu.
Để biểu đạt loại hình kinh tế này, các nước đều có ngôn từ dùng để chỉ
các hình thức tổ chức sản xuất tập trung (Farm, Farm stedd, Farm house
(Anh); Ferme (Pháp); Fepma (Nga)…) khi chuyển sang tiếng Việt dịch là
trang trại hay nông trại [25]; [19].
- Theo quan điểm của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp
quốc (FAO) và Ngân hàng thế giới (WB):
“Nông trại (Farm) của các nước châu Á gió mùa dùng để chỉ một khu đất
canh tác nông nghiệp”.
- Theo PGS -TS Lê Trọng: “Trang trại là cơ sở, là doanh nghiệp kinh
doanh nông nghiệp của một hoặc một số nhóm nhà kinh doanh” [17].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Qua đó “Trang trại” là thuật ngữ dùng để mô tả, chỉ và gắn liền với
hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung trên một diện tích đủ lớn, với quy
mô hộ gia đình là chủ yếu, trong điều kiện sản xuất hàng hoá của nền kinh
tế thị trường.
b) Phân loại trang trại
* Phân loại theo nguồn gốc hình thành: Có 3 con đường chính hình
thành trang trại
- Trang trại được hình thành từ khu đất từ thời phong kiến: Đây là các
trang trại hình thành từ các khu đất thuộc sở hữu tư nhân của tầng lớp quý tộc,
địa chủ.
- Trang trại phát triển từ kinh tế hộ gia đình: Quá trình sản xuất đã diễn
ra sự phân hoá giữa các hộ. Các hộ sản xuất thuận lợi sẽ phát triển cao hơn về
quy mô và kết quả sản xuất mà hình thành các trang trại [22].
- Trang trại hình thành theo kiểu xí nghiệp TBCN: Các nhà tư bản đầu tư
vốn vào sản xuất nông lâm nghiệp, họ bỏ tiền mua máy móc thiết bị, thuê đất
đai và thuê lao động kinh doanh theo kiểu tư bản chủ nghĩa hình thành các
trang trại.
Hiện nay trang trại gia đình là loại hình trang trại phổ biến ở hầu hết các
nước trên thế giới. Trang trại theo kiểu xí nghiệp tư bản còn tồn tại nhưng
giới hạn trong một số ngành có giá trị cao như chăn nuôi gia súc, đại gia súc
theo huớng xuất khẩu.
* Phân loại trang trại theo hình thức quản lý:
- Trang trại gia đình: Là loại trang trại độc lập tự sản xuất kinh doanh. Mỗi
gia đình có tư cách pháp nhân do một người trong gia đình làm chủ điều hành.
- Trang trại liên doanh: Do vài trang trại hợp nhất để tăng nguồn lực tạo
sức cạnh tranh và sự ưu đãi của nhà nước (ở Mỹ số lượng trang trại này chiếm
10% số lượng và 16% diện tích).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
- Trang trại hợp doanh theo cổ phần: Trang trại loại này được tổ chức
theo nguyên tắc công ty cổ phần (ở Mỹ trang trại loại này chiếm 2,7% và
13,7% diện tích đất đai [7].
- Trang trại uỷ thác: Trang trại mà người chủ uỷ quyền cho người nhà, bạn
bè quản lý điều hành sản xuất (Đài loan thường có loại trang trại này) [15].
* Phân loại trang trại theo phương hướng sản xuất:
- Trang trại kinh doanh tổng hợp: Trang trại này thường kết hợp sản xuất
kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp kết hợp ngành nghề và dịch vụ.
- Trang trại chuyên môn hoá: Phương hướng sản xuất chỉ phát triển một
ngành hoặc một sản phẩm như sản xuất ngũ cốc, chăn nuôi gia súc.
* Phân loại theo nguồn thu nhập:
- Nguồn thu nhập chủ yếu từ nông nghiệp: Xu thế trang trại loại này đang
giảm dần (năm 1985 Nhật Bản có 15% số trang trại thuộc loại này).
- Trang trại có thu nhập thêm từ bên ngoài trang trại, loại này thường
kinh doanh tổng hợp và xu thế ngày càng tăng.
* Các phương thức điều hành sản xuất:
- Chủ trang trại vừa điều hành vừa trực tiếp tham gia sản xuất: Loại trang
trại này chủ hộ thường là nông dân, hiện nay hình thức này là phổ biến.
- Chủ trang trại và gia đình không ở trang trại nhưng vẫn điều hành sản
xuất: Hình thức này không nhiều nhưng đang có xu hướng phát triển ở các
nước công nghiệp phát triển.
- Chủ trang trại nhỏ có ít ruộng đất, không điều hành sản xuất mà uỷ quyền
cho người thân quản lý trang trại của mình theo từng vụ hay nhiều năm.
* Phân loại theo tiến trình hình thành và phát triển:
Sự phát triển của các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp đi từ bậc
thấp lên bậc cao, từ nền sản xuất tự túc, tự cấp chuyển sang sản xuất hàng hoá
mà hình thành các trang trại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
- Hộ nông dân nhỏ: Quy mô sản xuất nhỏ, ruộng đất ít, sản xuất bằng
công cụ thô sơ, mục đích đảm bảo thức ăn cho cuộc sống gia đình.
- Trang trại truyền thống: Đất đai được khai khẩn thêm về diện tích, bắt
đầu có sự tích tụ đất đai, lao động chủ yếu là lao động của gia đình. Sản phẩm
sản xuất ra phần lớn dùng để tiêu dùng.
- Trang trại sản xuất trồng trọt hoặc chăn nuôi nhỏ: Quy mô diện tích
được tích tụ lớn hơn, sản xuất được phân định ra với vài loại cây trồng, vật
nuôi chủ yếu, sản xuất phần lớn là thủ công, một phần máy móc.
- Trang trại sản xuất đa dạng hoá: Sản xuất thâm canh có tưới nước, lao
động kết hợp thủ công và máy móc, sản phẩm đa dạng hoá nhằm đảm bảo thu
nhập bền vững, chủ yếu là sản xuất sản phẩm hàng hóa.
- Trang trại chuyên môn hoá: Sử dụng lao động gia đình và thuê ngoài,
sản xuất thâm canh đạt hiệu quả cao chủ yếu là sản xuất sản phẩm hàng hoá.
- Trang trại tự động hoá: Đang phát triển ở các nước phát triển trên thế
giới trong ngành chăn nuôi, sản phẩm chủ yếu xuất khẩu.
1.1.1.2. Khái niệm về kinh tế trang trại
Hệ thống lại lý luận và thực tiễn về kinh tế trang trại, nhiều nhà nghiên cứu
kinh tế Việt nam và thế giới đã đưa ra khái niệm về kinh tế trang trại như sau:
- Theo một số học giả phương Tây:
“Hình thức kinh tế trang trại ở các nước này dùng để chỉ một lĩnh vực tổ
chức sản xuất kinh doanh nông sản hàng hoá lớn ở nông nghiệp nông thôn để
phân biệt với hình thức tiểu nông tự túc, tự cấp”.
- Theo PGS - TS Lê Trọng: “Kinh tế trang trại (hay kinh tế nông lâm
ngư trại…) là một hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền sản xuất xã hội,
dựa trên cơ sở hợp tác và phân công lao động xã hội. Bao gồm một số người
lao động nhất định được chủ trang trại tổ chức, trang bị những tư liệu sản xuất
nhất định để tiến hành sản xuất kinh doanh, phù hợp với yêu cầu của nền kinh
tế thị trường và được nhà nước bảo hộ” [17].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
- Theo ông Trần Tác, Phó Vụ trưởng - Vụ Kinh tế Trung ương Đảng:
“Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá lớn trong
nông, lâm, ngư nghiệp của các thành phần kinh tế khác nhau ở nông thôn. Có
sức đầu tư lớn, có năng lực quản lý trực tiếp quá trình sản xuất kinh doanh, có
phương pháp tạo ra tỷ suất sinh lời cao hơn bình thường trên đồng vốn bỏ ra,
có trình độ đưa các thành tựu khoa học, công nghệ mới kết tinh trong hàng
hoá, tạo ra sức cạnh tranh cao hơn trên thị trường, mang lại hiệu quả kinh tế
xã hội cao”.
- Theo Phó Giáo sư Đào Công Tiên - trường Đại học Kinh tế thuộc Đại
học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh: “Kinh tế trang trại là một loại hình tổ
chức sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp, phổ biến được hình thành và phát
triển trên nền tảng kinh tế hộ và về cơ bản giữ bản chất kinh tế hộ. Quá trình
hình thành và phát triển kinh tế trang trại là quá trình nâng cao năng lực sản
xuất dựa trên cơ sở tích tụ tập trung vốn và các yếu tố sản xuất khác, nhờ đó tạo
ra nhiều sản phẩm hàng hoá với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao”.
Tóm lại: Theo Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000 về Kinh
tế trang trại của Chính phủ, kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất
hàng hoá trong nông nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình nhằm
mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt,
chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu
thụ nông, lâm, thủy sản. Mặt khác, theo quy định tại Thông tư liên tịch số
69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23.6.2000 của Bộ Nông nghiệp & Phát
triển nông thôn có hai nhóm đối tượng có thể tham gia đầu tư sản xuất theo
mô hình trang trại, đó là hộ nông dân, hộ công nhân viên Nhà nước và lực
lượng vũ trang đã nghỉ hưu, các loại hộ thành thị (gọi chung là hộ gia đình) và
cá nhân. Từ đó, hình thành nên hai loại hình kinh doanh là trang trại gia đình
và trang trại cá nhân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
Trong phạm vi luận văn này tác giả có giới hạn việc nghiên cứu, chỉ tập
trung vào loại hình trang trại gia đình trong hệ thống các loại hình trang trại
đang hoạt động trong cơ chế thị trường ở nước ta. Để làm được điều đó, một
trong những việc quan trọng đầu tiên phải làm là “nhận dạng” một cách đầy
đủ, rõ ràng về loại hình kinh doanh mới này để từ đó có những biện pháp
quản lý phát triển phù hợp.
1.1.1.3. Tính tất yếu khách quan của kinh tế trang trại
Quan điểm của các nhà kinh điển về tính tất yếu tồn tại kinh tế hộ gia
đình nông dân và kinh tế trang trại.
* Tính tất yếu khách quan của tồn tại và phát triển kinh tế hộ nông dân
Không phải bây giờ các nhà kinh tế mới bàn đến vai trò của kinh tế hộ
nông dân đối với sự phát triển nông nghiệp mà ngay từ cuối thế kỷ XIX Mác,
Ăng-ghen đã có nhiều công trình nghiên cứu về kinh tế hộ nông dân. Lúc đầu
nghiên cứu con đường công nghiệp hoá đặc thù của nước Anh, Mác đã tiên
đoán với quá trình tách người nông dân khỏi ruộng đất một cách ồ ạt thì giai
cấp nông dân bị thủ tiêu và nông nghiệp sẽ được tổ chức lại thành nền đại sản
xuất như trong công nghiệp. Nghĩa là trong nông nghiệp sẽ hình thành các
“Đại điền trang” Tư bản chủ nghĩa sử dụng lao động làm thuê. Quá trình đó
sẽ tách người nông dân ra khỏi tư liệu sản xuất, mà trước hết là ruộng đất.
Sau này kinh nghiệm lịch sử của những nước công nghiệp phát triển đã
làm chuyển biến nhận thức của Mác và ông phải công nhận là những tiên
đoán khái quát ban đầu của mình trước kia về thực tiễn đã không được, không
thiết lập ngay cả ở nước Anh siêu công nghiệp. Bất chấp xu hướng ban đầu
theo kiểu “dọn sạch mặt đất”. Ở nước Anh công nghiệp phát triển, song nông
trại gia đình trên thực tế không sử dụng lao động làm thuê vẫn ngày càng phát
triển và càng tỏ rõ sức sống cũng như hiệu quả của nó.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Chính vì thế khi viết quyển III của bộ Tư bản chủ nghĩa, Mác đã kết
luận: “Ngay ở nước Anh với nền công nghiệp phát triển hình thức sản xuất
nông nghiệp có lợi nhất không phải là các xí nghiệp nông nghiệp quy mô lớn
mà là các trang trại gia đình không có lao động làm thuê”.
Ở những nước còn giữ hình thức chia đất thành khoảnh nhỏ giá lúa mì rẻ
hơn ở những nước có phương thức sản xuất Tư bản” [2]. Mác đã khẳng định
do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp nên “hệ thống Tư bản chủ nghĩa mâu
thuẫn với nghề nông hợp lý hay là nghề nông hợp lý không phù hợp (trái
ngược) với hệ thống Tư bản chủ nghĩa (mặc dù hệ thống này có hỗ trợ cho sự
phát triển kỹ thuật của nông nghiệp) và đòi hỏi phải có hoặc là bàn tay của
người tiểu nông sống bằng lao động của mình, hoặc là sự kiểm soát của
những người sản xuất có liên kết với nhau” [24].
Sau Mác, Ăng-ghen, C. Cauxlay là người kế tục và có những cấu hiến
lớn trong việc truyền bá và phát triển Chủ nghĩa Mác. Trong đó cống hiến
xuất sắc của C. Cauxlay là những công trình nghiên cứu của ông về vấn đề
nông nghiệp. Theo C. Cauxlay nông nghiệp phát triển không cùng một kiểu
với công nghiệp mà theo những đặc thù của nó. C. Cauxlay cho rằng sự khác
nhau quan trọng nhất giữa công nghiệp và nông nghiệp là ở chỗ, trong nông
nghiệp sản xuất thường gắn liền với kinh tế gia đình, lao động trong nông
nghiệp khác với lao động trong công nghiệp. Sản xuất lớn trong nông nghiệp
không phải luôn luôn có ưu thế tuyệt đối so với sản xuất nhỏ trong mọi điều
kiện. Ông đã rất đúng khi cho rằng một doanh nghiệp lớn của nông dân nếu
đem so sánh với một doanh nghiệp nhỏ của nông dân khác trong cùng một khu
vực, cùng một loại cây trồng thì rõ ràng một doanh nghiệp lớn “ưu việt hơn,
nếu không phải về mặt kỹ thuật, thì ít ra cũng về mặt kinh tế”. Cauxlay đã đi
sâu vào nghiên cứu những nguyên nhân dẫn đến sức cạnh tranh đủ mạnh của
sản xuất nhỏ để chống lại ưu thế của sản xuất lớn trong nông nghiệp. Đó là “sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
chuyên cần hơn và sự chăm chỉ cần mẫn hơn của người lao động khi anh làm
cho chính bản thân anh ta (đây là điểm khác căn bản với lao động làm thuê)
thấp hơn cả nhu cầu của chính bản thân công nhân nông nghiệp nữa”.
A.V. Trai-a-nốp nhà nông học nổi tiếng của thế giới trong nhiều năm
nghiên cứu phong trào hợp tác xã ở nhiều nước: Italia, Bỉ, Anh, Đức và cả ở
Mỹ la-tinh) để tìm cách vận dụng vào nước Nga Xô-viết đã khẳng định “Hợp
tác xã nông nghiệp là sự bổ sung cho kinh tế nông dân, sau đó phục vụ cho
nó, và vì thế mà thiếu kinh tế hộ nông dân thì hợp tác xã sẽ không có ý nghĩa
gì cả? Ông còn cho rằng: HTX chỉ xã hội hoá một phần sản xuất và quá trình
này có thể thực hiện không phá vỡ kinh tế hộ nông dân, nghĩa là các hộ nông
dân chỉ hợp tác với nhau phần sản phẩm sản xuất mà làm ăn tập thể có ưu thế
hơn làm ăn của từng hộ riêng lẻ.
V.I. Lê-nin đã kế thừa và phát triển về kinh tế hộ nông dân của C. Mác,
Ăng-ghen và tiếp thu những hạt nhân hợp lý của C. Cauxlay và A.V. Trai-a-nốp.
Lê-nin cho rằng nhân vật chính trong sản xuất nông nghiệp phải là “một chủ
trại tự do trên mảnh đất tự do”, nghĩa là mảnh đất đã dọn sạch khỏi những tàn
tích trung cổ. Đó là kiểu Mỹ” [13].
* Quá trình chuyển từ kinh tế hộ nông dân thành kinh tế trang trại
Các trang trại gia đình được hình thành từ cơ sở của các hộ tiểu nông,
sau khi phá vỡ cái vỏ bọc tự túc, tự cấp vươn lên sản xuất hàng hoá. Về bản
chất kinh tế trang trại là kinh tế sản xuất hàng hoá khác với nền kinh tế tự cấp
tự túc, Mác đã phân biệt người chủ trang trại với người tiểu nông: “Người chủ
trang trại bán ra thị trường toàn bộ sản phẩm làm ra, còn người t iểu nông thì
dùng đại bộ phận sản phẩm làm ra và mua bán càng ít càng tốt”.
Trong quá trình phát triển kinh tế hộ sẽ vận động theo quy luật là mở
rộng sản xuất hàng hoá, tất yếu sẽ diễn ra quá trình phân hoá giữa các hộ gia
đình. Các hộ sản xuất thành công sẽ trở lên giàu có, những hộ sản xuất không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
thành công hoặc rủi ro trong kinh doanh sẽ trở lên nghèo. Quá trình này
thường xuyên lặp đi lặp lại sẽ tạo nên sự ngăn cách ngày càng sâu về thu nhập
giữa các tầng lớp dân cư [20].
Trong nền kinh tế thị trường các hộ nông dân chịu sự chi phối của các
quy luật của nền kinh tế thị trường. Những hộ nông dân làm ăn có lãi sẽ mở
rộng quy mô sản xuất, mua thêm đất đai, máy móc, tư liệu sản xuất nên quy
mô càng lớn hơn và thành các hộ giàu trong nông thôn [20].
Ngoài ra dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật nên
lao động thủ công dần dần được thay thế bằng lao động cơ giới, hộ nông dân
thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ chuyển thành hộ sản xuất hàng hoá.
Sự điều tiết của nền kinh tế thị trường, sự tác động của khoa học kỹ
thuật, sự phát triển của lực lượng sản xuất làm quá trình phân hoá diễn ra
ngày càng nhanh hơn, các hộ giàu sẽ phát triển thành kinh tế trang trại.
Quá trình biến đổi từ hộ nông dân thành kinh tế trang trại là quá trình tự
phát hợp quy luật phát triển của xã hội.
* Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về kinh tế hộ và kinh tế trang trại
Ở Việt Nam, từ năm 1986 đến nay nhờ đường lối đổi mới của Đảng và
chính sách khuyến khích của Nh._.à nước, hộ nông dân được thừa nhận là đơn
vị kinh tế tự chủ đã tạo ra động lực mới khơi dậy tiềm năng đất đai, lao động,
tiền vốn và kinh nghiệm sản xuất, quản lý của hàng chục triệu hộ nông dân.
Nhờ đó kinh tế nông nghiệp nông thôn nước ta đã có một bước chuyển biến
tương đối toàn diện, mô hình trang trại ra đời và phát triển khá phổ biến ở tất
cả các vùng của đất nước.
Từ kinh nghiệm của các nước và thực tế phát triển của mô hình trang trại
trong thời gian qua cho thấy, ở nước ta hiện nay và trong tương lai loại hình
phổ biến và chủ yếu nhất vẫn là trang trại gia đình của hộ nông dân. Về vấn
đề này, Nghị quyết 06 NQ/TƯ ngày 10.11.1998 của Bộ Chính trị Trung ương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “ở nông thôn hiện nay đang phát triển mô
hình trang trại nông nghiệp, phổ biến là các trang trại gia đình, thực chất là
kinh tế hộ sản xuất hàng hoá với quy mô lớn hơn, sử dụng lao động, tiền vốn
của gia đình là chủ yếu để sản xuất kinh doanh có hiệu quả...”. Đảng và Nhà
nước cũng đã có những chủ trương, chính sách và bước đầu cũng đã tạo dựng
được những cơ sở pháp lý cần thiết tạo điều kiện để các trang trại gia đình
hình thành và phát triển. Tuy nhiên, khung pháp luật về loại hình này còn ở
mức độ rất ban đầu, cần phải được tiếp tục xây dựng và hoàn thiện. Bên cạnh
đó, dưới góc độ pháp lý, còn có nhiều vấn đề lý luận đặt ra, cần được nghiên
cứu, lý giải để tạo cơ sở lý luận vững chắc cho các quyết tâm chính trị và
pháp lý.
1.1.1.4. Đặc trưng của kinh tế trang trại
Căn cứ vào các quy định tại Nghị quyết 03/2000/NQ-CP ngày 02.02.2000
của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi hành, cũng như thực trạng hình
thành và phát triển của trang trại gia đình thời gian vừa qua, có thể thấy trang
trại gia đình ở Việt Nam có một số đặc điểm cơ bản sau [16]:
Thứ nhất: Trang trại gia đình là một đơn vị kinh tế trong lĩnh vực nông,
lâm, ngư nghiệp.
- Trang trại gia đình là đơn vị trực tiếp sản xuất ra những sản phẩm vật
chất cần thiết cho xã hội, bao gồm nông, lâm, thủy sản, đồng thời quá trình
kinh tế trong trang trại gia đình là quá trình khép kín với các khâu của quá
trình tái sản xuất luôn kế tiếp nhau, bao gồm: sản xuất, phân phối, trao đổi,
tiêu dùng.
- Trang trại gia đình là một đơn vị kinh tế có một cơ cấu thống nhất, đó
là dựa trên cơ sở hộ gia đình bao gồm chủ hộ và các thành viên khác trong gia
đình. Chủ trang trại (thường là chủ hộ) là người đại diện cho trang trại gia
đình trong các quan hệ liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của trang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
trại. Chủ trang trại là người có kiến thức, có kinh nghiệm kinh doanh, am hiểu
thị trường và trực tiếp điều hành sản xuất kinh doanh tại trang trại. Đây là
những tố chất rất cần thiết cho một nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường và về cơ bản chúng không có ở người chủ hộ nông dân sản xuất tự
cung tự cấp.
- Tài sản và vốn sản xuất kinh doanh của trang trại gia đình thuộc quyền
sở hữu hoặc sử dụng (đối với đất đai) chung của các thành viên trong hộ gia
đình. Bằng công sức, tài sản và vốn chung các thành viên của hộ gia đình tiến
hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp dưới hình
thức trang trại gia đình. Đồng thời chịu trách nhiệm về các hoạt động sản xuất
kinh doanh bằng những tài sản chung đó.
- Xuất phát từ bản chất kinh tế của trang trại, nên hoạt động sản xuất
kinh doanh của trang trại gia đình luôn gắn liền với một vị trí diện tích đất đai
nhất định. Thực tế cho thấy, đây vừa là địa điểm sản xuất kinh doanh đồng
thời cũng là trụ sở giao dịch của trang trại gia đình trong các quan hệ nhằm
phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, để thuận lợi hơn trong
việc tiếp cận thị trường, không ít trang trại gia đình đã mở thêm các địa điểm
giao dịch gần các trung tâm thương mại lớn nhằm tiếp thị và tiêu thụ sản
phẩm hàng hoá của mình.
- Theo pháp luật hiện nay, trang trại gia đình bước đầu cũng đã được quy
định cho một số quyền và nghĩa vụ trong sản xuất kinh doanh ở một số lĩnh
vực như: đất đai, thuế, đầu tư, tín dụng, lao động, khoa học, công nghệ và môi
trường, bảo hộ, v.v... Trên cơ sở những quyền và nghĩa vụ này, trang trại gia
đình hoàn toàn tự chủ trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, từ lựa chọn
phương hướng sản xuất, quyết định kỹ thuật và công nghệ sản xuất, tổ chức
sản xuất, đến tiếp cận thị trường, tiêu thụ sản phẩm,...
- Hiện nay, theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 3.2.2000 về đăng ký
kinh doanh, trang trại gia đình đang phải đăng ký kinh doanh dưới danh nghĩa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
hộ kinh doanh cá thể. Vấn đề đăng ký kinh doanh cho trang trại gia đình hiện
vẫn chưa được đề cập đến trong các văn bản pháp luật. Tuy nhiên, đây là một
việc làm hết sức cần thiết để thể hiện sự chính thức thừa nhận và bảo hộ của
Nhà nước đối với trang trại gia đình, đây còn là cơ sở để một hộ là trang trại
gia đình được hưởng các chính sách ưu tiên và làm nghĩa vụ đối với Nhà
nước. Nghị quyết 03/2000/NQ-CP, ngày 02/02/2000 của Chính phủ về kinh tế
trang trại đã xác định đây là một trong những vấn đề bất cập, cần phải được
giải quyết kịp thời.
Thứ hai: Mục đích chủ yếu của trang trại gia đình là kinh doanh nông
sản phẩm hàng hoá theo nhu cầu thị trường.
Đây là đặc điểm quan trọng nhất của trang trại gia đình. Mục tiêu của
trang trại gia đình là sản xuất nông, lâm, thủy sản để bán, khác hẳn với kinh tế
hộ tự cấp tực túc là chính. Trang trại gia đình là một hình thức tổ chức sản
xuất nông lâm ngư nghiệp được hình thành trên cơ sở kinh tế hộ tự chủ trong
cơ chế thị trường mang tính chất sản xuất hàng hoá rõ rệt. Vì vậy, đặc trưng
cơ bản của trang trại gia đình là sản xuất nông, lâm, thuỷ sản hàng hoá. Kinh
nghiệm các nước trên thế giới cho thấy tiêu chí giá trị nông sản hàng hoá và
tỷ suất hàng hoá bán ra trong năm luôn luôn được sử dụng làm thước đo chủ
yếu của trang trại. Ở Việt Nam, thực tiễn sản xuất của các trang trại gia đình
trong những năm vừa qua cho thấy, trang trại nào cũng lấy sản xuất hàng hoá
là hướng chính và tỷ suất hàng hoá của các trang trại trại phổ biến từ 70 -
80% đối với những trang trại đã đi vào sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực
nông lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Theo một kết quả điều tra năm 2001
cho thấy: ở nước ta trong năm 2000, giá trị hàng hoá của các trang trại trong
cả nước đạt 4.965,9 tỷ đồng, bình quân một trang trại đạt 81,7 triệu đồng, tỷ
suất hàng hoá là 92,6%. Đặc trưng sản xuất hàng hoá cho phép phân biệt rõ
ràng ranh giới giữa trang trại gia đình với kinh tế hộ nông dân, sản xuất tự cấp
tự túc và với hộ phi nông nghiệp ở khu vực nông thôn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Thứ ba: Trong trang trại gia đình, các yếu tố sản xuất trước hết là ruộng
đất và tiền vốn được tập trung tới quy mô nhất định theo yêu cầu phát triển
sản xuất hàng hoá.
Trong nông nghiệp cũng như trong các ngành sản xuất vật chất khác, sản
xuất hàng hoá chỉ có thể được tiến hành khi các yếu tố sản xuất được tập
trung với quy mô nào đó. Do đó, ở các trang trại gia đình sản xuất hàng hoá
chỉ có thể được thực hiện khi ruộng đất, tiền vốn, tư liệu sản xuất,... được tập
trung tới quy mô đủ lớn. Đặc điểm này được quy định bởi chính đặc điểm về
mục đích sản xuất của trang trại. Theo quy định tại Thông tư liên tịch số
69/2000/TTLT/BNN-TCTK, ngày 23/6/2000 của Bộ Nông nghiệp & Phát
triển Nông thôn và Tổng cục thống kê, sự tập trung các yếu tố sản xuất của
trang trại gia đình được biểu thị về mặt lượng bằng những chỉ tiêu chủ yếu, đó
là: Quy mô diện tích ruộng đất của trang trại (nếu là trang trại chăn nuôi thì là
số lượng gia súc, gia cầm,...) và quy mô vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh
của trang trại.
Thực tế cho thấy, các trang trại gia đình có quy mô lớn hơn rất nhiều so
với kinh tế hộ gia đình nông dân. Theo số liệu điều tra năm 1999 của Trường
Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội cho thấy: bình quân một trang trại gia đình
có số vốn là 291,43 triệu đồng, trong đó 91,03% là vốn tự có, quy mô đất đai
bình quân của một trang trại gia đình là 6,338 ha, trong khi đó bình quân đất
đai sản xuất nông nghiệp của một hộ gia đình chỉ là 0,68 ha.
Thứ tư: Lao động trong các trang trại gia đình chủ yếu là dựa trên các
thành viên trong hộ, ngoài ra có thuê mướn lao động.
Lực lượng lao động trong trang trại chủ yếu là chủ trang trại và các thành
viên trong gia đình, đây là những người có quan hệ huyết thống, gần gũi như:
Cha mẹ, vợ chồng, anh em. Lao động được tổ chức gọn nhẹ, đơn giản, quản
lý điều hành linh hoạt, dễ dàng, hiệu quả lao động cao. Ngoài ra, để phục vụ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, trang trại gia đình còn phải thuê mướn lao
động bên ngoài nhất là vào thời vụ gieo trồng, thu hoạch. Quy mô thuê muớn
lao động trong trang trại tuỳ thuộc vào quy mô sản xuất kinh doanh của trang
trại. Có hai hình thức thuê mướn lao động trong các trang trại gia đình, đó là :
thuê lao động thường xuyên và thuê lao động theo thời vụ. Theo thống kê của
Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, bình quân 1 trang trại sử dụng 6 lao
động (quy ra thường xuyên), lao động trong gia đình chiếm 45%; hầu hết
trang trại đều có sử dụng lao động thuê ngoài, số lượng lao động thuê ngoài
trong các trang trại chiếm khoảng 55% tổng số lao động trong các trang trại,
trong đó chủ yếu là lao động thời vụ (khoảng 70%). Trang trại chăn nuôi,
nuôi trồng thủy sản do tính chất sản xuất khá ổn định nên sử dụng lao động
thời vụ ít hơn (từ 10 - 20%).
Thứ năm: Cách thức tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh trong trang
trại gia đình ngày càng mang tính khoa học, chuyên nghiệp.
Trong kinh tế hộ gia đình nông dân do tính chất sản xuất đơn giản và
quy mô sản xuất nhỏ với mục đích tự cung tự cấp là chính do vậy việc điều
hành sản xuất của chủ hộ vẫn còn mang nặng tính gia trưởng, người chủ hộ
chỉ cần có kinh nghiệm sản xuất và cần cù lao động theo kinh nghiệm cha
truyền con nối. Nhưng đối với trang trại gia đình, với mục đích chính là sản
xuất hàng hoá và bị các yếu tố lợi nhuận, giá cả, cạnh tranh chi phối ngày
càng nhiều thì cách quản lý theo kiểu gia trưởng không còn phù hợp nữa. Sản
xuất đòi hỏi phải có phương án hợp lý lựa chọn cây trồng, vật nuôi, quy hoạch
ruộng đất, xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật sản xuất, áp dụng các công nghệ
và quy trình sản xuất thâm canh, kế hoạch tài chính, hạch toán giá thành, lợi
nhuận, phân tích kinh doanh... Do vậy việc quản lý, điều hành hoạt động sản
xuất kinh doanh của trang trại đòi hỏi phải dựa trên cơ sở những kiến thức
khoa học và ngày càng mang tính chuyên nghiệp, đi vào chiều sâu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
Như vậy, mặc dù cũng dựa trên cơ sở hộ gia đình, nhưng trang trại gia
đình có sự khác biệt rất lớn so với hộ gia đình thể hiện ở mục đích, quy mô và
trình độ sản xuất. Trang trại gia đình đã và đang ngày càng thể hiện rõ tính
chất của một loại hình doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp
nông thôn ở nước ta. Từ những đặc điểm nêu trên, theo chúng tôi, dưới góc
độ pháp lý khái niệm về trang trại gia đình với tư cách là một chủ thể kinh
doanh độc lập trong nền kinh tế thị trường có thể hiểu như sau: “Trang trại
gia đình là một đơn vị kinh tế hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư
nghiệp, dựa trên cơ sở hộ gia đình, có mục đích chủ yếu là kinh doanh nông
sản hàng hoá, trên quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất được tập trung
đủ lớn với cách thức tổ chức quản lý tiến bộ, tự chủ trong các hoạt động sản
xuất kinh doanh”.
Khái niệm này vừa thể hiện được bản chất về mặt kinh tế của trang trại
nhưng đồng thời cũng thể hiện được những đặc trưng của loại hình trang trại
gia đình, là cở sở để phân biệt trang trại gia đình với các loại hình kinh doanh
khác đang tồn tại trong nền kinh tế thị trường ở Việt nam hiện nay.
1.1.1.5. Tiêu chí nhận dạng
Một hộ sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản được xác định là trang trại
theo qui định tại Thông tư số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23/6/2000
liên Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Tổng cục Thống kê; Thông
tư số 74/2003/TT - BNN ngày 4/7/2003 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn (sửa đổi, bổ sung Mục III của Thông tư liên tịch số 69/2000/ TTLT/BNN-
TCTK) phải đạt một trong hai tiêu chí về giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ
bình quân 1 năm, hoặc về quy mô sản xuất của trang trại sau đây:
1. Giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ bình quân 1 năm:
- Đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung từ 40 triệu đồng
trở lên;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
2. Qui mô sản xuất phải tương đối lớn và vượt trội so với kinh tế nông hộ
tương ứng với từng ngành sản xuất và vùng kinh tế:
a. Đối với trang trại trồng trọt:
(1) Trang trại trồng cây hàng năm:
- Từ 2 ha trở lên đối với phía Bắc và Duyên hải miền Trung;
(2) Trang trại trồng cây lâu năm:
- Từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung;
(3) Trang trại lâm nghiệp: Từ 10 ha trở lên đối với các vùng trong cả nước.
b. Đối với trang trại chăn nuôi:
(1) Chăn nuôi đại gia súc: trâu, bò,v.v...
- Chăn nuôi sinh sản, lấy sữa có thường xuyên từ 10 con trở lên;
- Chăn nuôi lấy thịt có thường xuyên từ 50 con trở lên.
(2) Chăn nuôi gia súc: lợn, dê, v.v...
- Chăn nuôi sinh sản có thường xuyên đối với lợn từ 20 con trở lên, đối
với dê, cừu từ 100 con trở lên;
- Chăn nuôi lợn thịt có thường xuyên từ 100 con trở lên (không kể lợn
sữa), dê thịt từ 200 con trở lên.
(3) Chăn nuôi gia cầm: gà, vịt, ngan, ngỗng, v.v... có thường xuyên từ
2000 con trở lên (không tính số đầu con dưới 7 ngày tuổi).
c. Trang trại nuôi trồng thuỷ sản:
- Diện tích nuôi trồng thuỷ sản có từ 2 ha trở lên (riêng đối với nuôi tôm
thịt theo kiểu công nghiệp từ 1 ha trở lên).
d. Trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp:
Là những trang trại có từ hai hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp và
nuôi trồng thuỷ sản khác nhau trở lên và mỗi hoạt động đều đạt về qui mô
hoặc mức giá trị hàng hoá và dịch vụ như quy định cho trang trại.
Việc công nhận và cấp giấy chứng nhận trang trại gia đình là việc làm
cần thiết tạo điều kiện cho loại hình KTTT phát triển. Tuy nhiên để làm được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
điều đó, một trong những việc quan trọng đầu tiên phải làm là xác định một
cách đầy đủ về phạm vi và số lượng của loại hình KTTT để từ đó có những
biện pháp quản lý phù hợp.
1.1.1.6. Vai trò của kinh tế trang trại trong quá trình phát triển kinh tế
nông nghiệp và nông thôn
* Theo “ủy ban Quốc gia về Trang trại nhỏ” (NCFS) của Bộ Nông
nghiệp Hoa Kỳ (USDA) cũng đã công bố một bản báo cáo có tính bước ngoặt
vào năm 1998 với nhan đề “Thời gian hành động”. Trong đó USDA thừa
nhận “Những giá trị công cộng” của trang trại gia đình bao gồm [8]:
- Tính đa dạng: Các trang trại nhỏ chứa đựng tính đa dạng của quan hệ
sở hữu, của hệ thống canh tác, của cảnh quan môi trường, của sự đa dạng sinh
học, của văn hoá và các giá trị truyền thống. Sự phát triển của các trang trại
nhỏ góp phần làm tăng tính đa dạng sinh học, làm tăng sự hấp dẫn của phong
cảnh nông thôn và làm mở rộng không gian sống.
- Những lợi ích về môi trường: Trang trại gia đình có vai trò rất quan
trọng trong việc tạo ra những lợi ích môi trường cho xã hội. Việc đầu tư vào
các trang trại này sẽ cung cấp cho chính phủ một sự chia sẻ trong cương vị
quản lý hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên của quốc gia.
- Trao quyền hợp pháp và chịu trách nhiệm cộng đồng: Các trang trại
nhỏ đã mang lại cho người nông dân một ý nghĩa lớn hơn đối với trách nhiệm
cá nhân và cảm giác được kiểm soát cuộc sống của chính mình, đặc điểm này
không dễ có được đối với công nhân trong các nhà máy. Những chủ trang trại
hoạt động dựa vào những doanh nghiệp và các cơ sở cung cấp dịch vụ tại địa
phương để đáp ứng các nhu cầu của mình. Điều này có tác dụng rất lớn
trong việc tạo ra cơ hội để mang lại lợi ích lớn hơn đối với cộng đồng và
hạnh phúc của bản thân những người trong trang trại. Ngược lại, những chủ
trang trại nhỏ ở địa phương sẽ tự cảm thấy phải có trách nhiệm cao hơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
trong việc kiểm soát bất cứ hoạt động tiêu cực nào mà nó có thể gây ra tác
hại đối với cộng đồng.
- Bổn phận của gia đình: Trang trại gia đình có bổn phận nuôi dưỡng
những đứa trẻ lớn lên và thu nhận những giá trị truyền thống. Những kỹ năng
canh tác đã trải qua từ thế hệ này đến thế hệ khác dưới cấu trúc sở hữu gia
đình. Khi những đứa trẻ không tiếp tục làm nông, những kiến thức, kỹ năng
và kinh nghiệm canh tác có thể sẽ bị mất.
Một hình mẫu tương tự ở các nước đang phát triển, trong những cộng
đồng canh tác truyền thống, trang trại gia đình là trung tâm để duy trì cộng
đồng và để tăng cường khả năng chịu đựng của nền sản xuất nông nghiệp.
Trong các trang trại gia đình, hoạt động sản xuất, động viên lao động, hình
thức tiêu thụ, kiến thức về sinh thái và những mối quan tâm chung trong việc
duy trì sự tồn tại lâu dài của trang trại được xem như là một thứ tài nguyên,
nó đóng góp cho sự ổn định và phát triển bền vững của toàn bộ nền kinh tế
cũng như với mỗi đơn vị kinh tế cơ sở là gia đình.
* Theo đánh giá của Chính phủ Việt nam tại Nghị quyết số 03/2000/NQ-
CP ngày 02/02/2000 về Kinh tế trang trại:
Những năm gần đây, kinh tế trang trại đã đóng góp đáng kể vào sự tăng
trưởng kinh tế, đồng thời góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho lao
động của các hộ nông nghiệp và nông thôn. Sự phát triển của kinh tế trang trại
là động lực mới cho phát triển kinh tế hộ nông dân, bên cạnh đó đã tạo ra các
vùng sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hàng hoá tập trung, làm tăng khối lượng
và giá trị hàng hoá, tạo tiền đề cho công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản
và thực phẩm phát triển, mở rộng các ngành nghề dịch vụ ở nông thôn. Nói
cách khác: sự phát triển kinh tế trang trại góp phần thúc đẩy quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, thay đổi cơ cấu kinh tế nông thôn theo
hướng CNH, HĐH.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
1.1.2. Kinh nghiệm về phát triển kinh tế trang trại trên thế giới
Theo các nhà nghiên cứu, kinh tế trang trại được hình thành từ rất sớm,
từ khi phương thức sản xuất tư bản thay thế phương thức sản xuất phong kiến,
từ khi bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất ở châu Âu, nghĩa là
kinh tế trang trại ra đời gắn liền với quá trình công nghiệp hóa. Kinh tế trang
trại được xem là xuất hiện sớm nhất ở Pháp. Sau cuộc đại cách mạng tư sản
Pháp năm 1789, ở Pháp xuất hiện những chủ trại (ferrmier) trong nông
nghiệp. Từ đó kinh tế trang trại phát triển và lan rộng khắp thế giới.
Có thể nói, đến nay trang trại gia đình trở thành mô hình phổ biến nhất
của nông nghiệp thế giới, nó chiếm tỷ trọng lớn tuyệt đối về đất đai canh tác
và số lượng nông sản làm ra. Ví dụ hiện nay ở Mỹ với 2,2 triệu trang trại đã
sản xuất ra hơn 50% sản lượng đậu tương và ngô của toàn thế giới. ở
Malayxia năm 1992 các trang trại đã xuất ra 40 nước trên 6 triệu tấn [11].
Quá trình phát triển kinh tế trang trại gia dình có sự biến đổi về số lượng
cũng như quy mô. Thực tiễn ở nhiều nước cho thấy trong thời kỳ đầu CNH do
lao động nông nghiệp còn đông, khả năng phân công lao động xã hội còn hạn
chế thì số lượng trang trại gia đình tăng lên. Đến thời kỳ công nghiệp hoá phát
triển, khả năng thu hút lao động của công nghiệp, dịch vụ tăng lên nhanh
chóng thì số lượng trang trại nông nghiệp bắt đầu giảm đi. Cuối thế kỷ XX số
lượng ở các trang trại gia đình ở các nước đang phát triển ở châu Á tăng 2,5%
mỗi năm, trong khi dó ở các nước công nghiệp phát triển châu Âu giảm
2,35% mỗi năm.
- Quy mô trang trại gia đình lại biến động theo chiều hướng ngược lại
với số lượng trang trại của mỗi quốc gia. Tuỳ điều kiện các nước mà quy mô
trang trại có thể rất khác nhau. Trang trại của các nước châu Á có diện tích
nhỏ, quy mô trang trại chỉ trên dưới một ha như Nhật bản (1,2 ha). Trang trại
của các nước châu Âu lớn hơn, quy mô bình quân trang trại hàng chục ha như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
Pháp (29,2 ha); Đan mạch 31,7 ha. Ở một số nước quy mô trang trại gia đình
lên tới hàng trăm ha như ở Mỹ trang trại bình quân 180 ha [4].
Biểu 1.1: Diện tích bình quân 1 TT ở một số nƣớc trên thế giới 1990
Nƣớc Diện tích (ha) Nƣớc Diện tích (ha)
Mỹ 180 Bỉ 14
Anh 64 Pakistan 3,86
Đan mạch 31,7 Thái Lan 4,5
Pháp 29,2 Italia 2
Ấn Độ 20 Inđônêxia 1,77
Hà Lan 16,4 Nhật Bản 1,2
Nhìn chung các trang trại gia đình trên thế giới có những đặc trưng
chung là có trang bị kỹ thuật hiện đại, ứng dụng ngày càng nhiều khoa học kỹ
thuật và công nghệ sinh học... các trang trại gia đình chủ yếu sử dụng lao
động của hộ gia đình và một số ít lao động thuê ngoài (chủ yếu theo thời vụ).
- Việc cơ giới hoá, hiện đại hoá nông nghiệp trong các trang trại không
chỉ diễn ra ở các nước phát triển mà ngay cả đối với các trang trại tại các nước
đang phát triển: “Năm 1985, cơ cấu động lực nông nghiệp của các trang trại ở
các nước công nghiệp phát triển có 7% sức người, 10% sức súc vật và 82%
sức máy, cơ điện còn các trang trại của các nước đang phát triển có 25 đến
30% sức người, 50% sức súc vật và 20% sức máy…”. Ngoài ra, các trang trại
còn ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật trong các lĩnh vực sinh học, tin học: “Ở
Mỹ, đến nay đã có 20% trang trại gia đình sử dụng máy tính phục vụ việc lập
trình sản xuất kinh doanh trên đồng ruộng và trong trang trại. Ở Đức 50% các
trang trại quy mô 50 ha trở lên đã sử dụng máy vi tính vào quá trình điều hành
sản xuất…”[5].
- Lao động sử dụng trong trang trại ở Tây Âu và Mỹ đang có xu hướng
giảm dần. Hiện nay ở Mỹ chỉ có từ 1 - 2 lao động/ trang trại; Nhật bản khoảng
3 lao động/ trang trại (1990); Đài loan mỗi trang trại chỉ có 1,3 lao động [7].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
Biểu 1.2: Lao động sử dụng trong 1 TT ở một số nƣớc trên thế giới 1990
Đơn vị tính: Người
Tên nƣớc Thái Lan Hàn Quốc Pháp Đức
Lao động/ Tr.Trại (người) 3,7 2,1 2,1 1,2
Số lao động của một trang trại của các nước trên thế giới là từ 2 đến 4 lao
động/ trang trại. Số lượng lao động trong các trang trại không phụ thuộc vào
quy mô sản xuất của trang trại mà phụ thuộc vào trình độ công nghệ sản xuất.
Thực tiễn phát triển nông nghiệp của các nước trên Thế giới đã khẳng
định điều kiện cần và đủ cho việc phát triển kinh tế trang trại gia đình là sự
hình thành nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường và đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hoá đất nước. Ngoài ra trang trại gia đình muốn hoạt động có
hiệu quả cần phải có sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của Nhà nước thông
qua các chính sách và các công cụ quản lý vĩ mô như: Chính sách thuế, chính
sách tài chính, tín dụng, chính sách bảo trợ nông nghiệp, bảo hộ lao động...
Kinh tế trang trại là những đơn vị kinh tế tự chủ sản xuất kinh doanh, nhưng
các trang trại gia đình có thể tham gia kinh tế hợp tác với nội dung và hình
thức khác nhau. Các hợp tác xã để bảo đảm đầu vào và đầu ra của quá trình
sản xuất với chi phí thấp, lợi nhuận cao để bảo vệ lợi ích lâu dài của trang trại.
* Những bài học kinh nghiệm rút ra từ quá trình phát triển kinh tế trang
trại của thế giới
- Trang trại có vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá của
các nước. Kinh tế trang trại gắn liền quá trình công nghiệp hoá của các nước
từ thấp đến cao, chính công nghiệp hoá đặt ra yêu cầu khách quan để phát
triển trang trại, cơ chế thị trường tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế trang trại phát
triển. Trong qúa trình công nghiệp hoá kinh tế trang trại đều giữ vị trí xung
kích cung cấp nông sản hàng hoá cho xuất khẩu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
- Kinh tế trang trại có nhiều loại hình khác nhau, nhưng phổ biến nhất là
trang trại gia đình, có nguồn gốc từ hộ gia đình vì thế nó phát huy thế mạnh
vốn có của hộ gia đình trong sản xuất nông nghiệp.
- Thực tế phát triển trang trại tại nhiều quốc gia trên thế giới lại cho
phép đi đến kết luận: chính các trang trại gia đình quy mô nhỏ mới thực sự là
chìa khóa để phát triển một nền nông nghiệp bền vững, lâu dài.
- Trong các giai đoạn ban đầu kinh tế trang trại phát triển theo hướng
kinh doanh tổng hợp bằng cách đa dạng hoá sản phẩm, cùng với sự phát triển
của nền kinh tế thị trường sẽ từng bước đi vào chuyên môn hoá.
- Hiệu quả sản xuất kinh doanh của trang trại không hoàn toàn phụ thuộc
vào quy mô đất đai. ở các nước châu Á như Nhật bản, Hàn quốc, Đài loan
diện tích các trang trại nhỏ nhưng hiệu quả sản xuất lại rất lớn.
1.1.3. Lịch sử hình thành và tồn tại trang trại ở Việt nam và Bắc Kạn
Nhìn lại lịch sử ta thấy trang trại ở nước ta đã hình thành từ thời nhà
Trần, thời đó gọi là điền trang - nhưng điền trang lúc này chủ yếu là trang trại
của quý tộc phong kiến [9], [10].
Trong sách “Lịch sử nông nghiệp Việt Nam” có ghi: “Năm 1266, triều
đình nhà Trần cho phép các vương hầu, công chúa, phò mã, cung phi… triệu
tập dân nghèo khổ không có đất làm nô tỳ đi khai hoang miền ven biển, đắp
đê ngăn mặn, khai phá đất bồi sông Hồng lập thành điền trang rộng lớn” [20].
Khác với thái ấp thời nhà Lý và điền trang thời nhà Lý, điền trang thời
nhà Trần thuộc sở hữu của quý tộc. Nô tỳ bị bóc lột như nông nô. Tức là như
những người nông dân bị phụ thuộc vào ruộng đất - điền trang rộng lớn của
bọn địa chủ quý tộc. Họ bị bóc lột bằng địa tô và lao dịch, có thể bị bán theo
ruộng đất dưới chế độ phong kiến.
Đến thời nhà hậu Lê, nhà nước phong kiến chủ trương mở rộng khai
hoang lập đồn điền (đồn điền cũng đồng nghĩa với trang trại). Lượng lao động
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
khai hoang lập đồn điền chủ yếu là phạm nhân, tù binh và một số binh lính
đóng đồn ở các địa phương. Đến năm 1481, cả nước có 43 sở đồn điền để cấp
cho họ hàng nhà vua và quan lại từ tứ phẩm trở lên (gọi là cấp lộc điền). Lực
lượng sản xuất trong các đồn điền - trang trại - vừa áp dụng chế độ nô tỳ, vừa
chủ yếu là bóc lột trực tiếp bởi phong kiến và phụ thuộc trực tiếp bởi nhà
nước vì luật pháp cấm nông dân bỏ làng ra đi để bắt nông dân không ruộng
phải cày ruộng, nộp thuế, lao dịch và binh dịch.
Đến đời nhà Nguyễn từ năm 1802 - 1855 triều đình đã ban hành 25 quyết
định về khai hoang với hình thức chủ yếu là chiêu mộ dân phiêu tán để khai
hoang lập ấp trại hoặc xã. Đồng thời, nhà nước dùng binh lính và tù nhân bị
lưu đày để khai hoang, hoặc giao cho tư nhân chiêu mộ dân khai phá đất
hoang để lập đồn điền - trang trại - phát canh - thu tô.
Đặc biệt thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, họ đã thực hiện chính sách khai
thác thuộc địa làm giàu cho chính quốc. Họ thấy ngành nông nghiệp là ngành
đấu tư ít vốn mà dễ dàng thu được lợi nhuận cao vì vừa có thể bóc lột được độ
phì nhiêu của đất vừa bóc lột được sức lao động làm thuê đến cùng tận. Năm
1888, Toàn quyền Đông dương ra các Nghị định cho địa chủ thực dân được
quyền lập các đồn điền, Nghị định còn cho phép địa chủ thực dân được quyền
lập các đồn điền rộng lớn mà họ gọi là đất vô chủ. Chỉ sau 2 năm, năm 1890,
số đồn điền trại ấp khắp ba miền Bắc - Trung - Nam được họ thành lập đã lên
tới 108 cái, với diện tích 10.898 ha, quy mô bình quân 100 ha/ 1 đồn điền.
Đến giữa những năm 20, tổng diện tích mà họ chiếm đoạt dưới nhiều thủ đoạn
đã lên đến 270.000 ha (trong đó ở Nam kỳ 308.000; ở Trung kỳ 26.000 và ở
Bắc kỳ 136.000 ha). Tổng số trang trại (đồn điền) đã lên tới 2.350 cái chuyên
trồng cao su, chè, hồ tiêu, dừa, lúa, mía, bông… quy mô vừa, lớn, nhở khác
nhau. Có cái ở Bắc kỳ lên đến 8.515ha. Nhưng bình quân chung ước chừng
200 ha/cái [11], [36].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
Kết quả lợi nhuận siêu gạch họ vơ vét ngày càng nhiều, họ càng thi nhau
phát triển trang trại cả về số lượng và quy mô diện tích đất đai kinh doanh.
Tính đến năm 1930, thực dân Pháp đã chiếm đọat 1,2 triệu ha, bằng 1/7 trong
tổng diện tích đất canh tác của nước ta lúc bấy giờ để lập trên dưới 4.000 đồn
điền - trang trại với quy mô bình quân chừng 300 ha/cái.
Phương thức kinh doanh của các chủ đồn điền - trang trại như sau:
- Từ đầu đến giữa những năm 1920 là phát canh thu tô theo lối phong kiến.
- Từ sau những năm 1920 đến trước cách mạng tháng Tám 1945 họ
cưỡng mộ công nhân vào làm các đồn điền - trang trại và bóc lột người lao
động hết sức tàn nhẫn, vô nhân đạo, thậm chí họ còn dùng xác chết của công
nhân ở các đồn điền để bón cho cây cao su…
- Từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm 1975.
+ Ở miền Nam: các loại đồn điền tư bản, thực dân ở những vùng địch
tạm chiến vẫn tồn tại và phát triển.
+ Ở miền Bắc: Nhà nước tiến hành tịch thu các đồn điền của thực dân
Pháp và địa chủ phản động đem chia cho nông dân không ruộng và chuyển
một số thành cơ sở sản xuất nông nghiệp của nhà nước. Đến năm 1957, nhà
nước đã chính thức thành lập các nông, lâm trường quốc doanh. Từ những
năm 1958 đến năm 1960 các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp bậc thấp, quy
mô thôn đã được thành lập, rồi lên bậc cao, quy mô liên thôn, đến quy mô xã
có tính phổ biến trên toàn miền Bắc. Các hình thức đó đã có tác dụng lớn
trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cũng như xây dựng hệ thống
thủy lợi, cải tạo đồng ruộng… nên sau năm 1975 cũng được áp dụng ở miền
Nam đã được quốc hữu hóa như ở miền Bắc trước đây.
- Từ 1975 đến 1986:
Như trên đã nói, sau khi giải phóng miền nam những đồn điền - trang trại
kiểu Tư bản chủ nghĩa đã được Nhà nước tịch thu và chuyển thành những
nông trường quốc doanh.
Số hóa bởi Trung ._. rừng theo hướng thâm canh, mở rộng diện tích trồng cây
có giá trị kinh tế cao, từng bước phát triển thành các trang trại tổng hợp.
- Phấn đấu đưa diện tích đất sử dụng để phát triển kinh tế trang trại lên
500 ha năm 2010, tăng 300 ha so với năm 2006.
- Doanh thu bình quân cho một trang trại tăng: 1,3-1,5 lần so với năm
2006, trong đó: trang trại cây ăn quả tăng 1,7-2,0 lần; chăn nuôi tăng 1,4-1,6
lần; lâm nghiệp và tổng hợp tăng 1,2-1,4 lần.
- Đến năm 2010, 100% các trang traị có mức thu nhập hàng hoá và dịch
vụ theo giá thực tế đạt trên 100 triệu đồng/ năm;
- Nâng cao tỷ suất nông lâm sản hàng hoá trong tổng giá trị nông sản
phẩm và dịch vụ của các trang trại bình quân đạt 80%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
100
3.4. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
3.4.1. Giải pháp chung cho toàn bộ các trang trại
3.4.1.1. Quy hoạch khoanh vùng, lựa chọn mô hình kinh tế trang trại phù
hợp với từng vùng sinh thái, đặc điểm tự nhiên của tỉnh và từng huyện, thị
Việc quy hoạch phân vùng phát triển kinh tế trang trại nhằm tạo điều
kiện cho tất cả các vùng trên địa bàn tỉnh phát triển đồng đều trên cơ sở hình
thành cơ cấu kinh tế hợp lý và liên kết giữa các vùng, tạo nên sự phát triển
kinh tế mạnh mẽ trên địa bàn. Cụ thể:
- Đối với vùng núi: Với độ cao trung bình từ 500 - 750m, mật độ dân cư
thưa thớt, chủ yếu là rừng tự nhiên có chức năng phòng hộ là chính. Về cơ
bản mô hình trang trại ở vùng này là trang trại lâm nghiệp, trồng rừng kinh tế,
cây bản địa lấy gỗ có giá trị kinh tế cao, mô hình trang trại nông - lâm kết
hợp, bảo vệ nguồn gen thực vật quý hiếm theo các dự án.
- Đối với vùng đồi núi thấp: với chức năng vừa phòng hộ, vừa khai thác
kinh tế nên các thành phần trong mô hình kinh tế trang trại ở đây có thể kết
hợp nông - lâm nghiệp, vừa khoanh nuôi bảo vệ rừng, vừa trồng cây công
nghiệp (hồi, quế, thông, bạch đàn, keo...), cây ăn quả, vừa phát triển chăn
nuôi đại gia súc (trâu, bò, dê, lợn). Phát triển các trang trại trồng rừng kinh tế
(cây lấy gỗ), cây công nghiệp lâu năm kết hợp với chăn nuôi đại gia súc,
trồng cây ngắn ngày theo phương thức lấy ngắn nuôi dài.
- Đối với vùng đồng bằng: Với nhiệm vụ chiến lược là vùng kinh tế trọng
điểm, đảm bảo vững chắc an toàn lương thực cho cả tỉnh, tạo sản phẩm hàng
hoá đạt chất lượng cao cho thị trường. Vì vậy, phát triển mô hình trang trại
nông nghiệp toàn diện như: trang trại trồng trọt (thâm canh cây lúa chất lượng
cao, cây thực phẩm, trang trại lúa cá), chăn nuôi (lợn, gia cầm), nuôi trồng
thuỷ sản, dịch vụ hoặc kết hợp các mô hình trên.
- Về đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở dùng chung do nhà nước đầu
tư theo quy định của luật khuyến khích đầu tư trong nước. Trước mắt bao
gồm các công trình chủ yếu: Đường giao thông vùng, đường điện hạ thế.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
101
- Quy hoạch phát triển các trang trại chăn nuôi: cần cách xa khu vực dân
cư tập trung, có biện pháp xử lý tránh ô nhiễm môi trường.
3.4.1.2. Giải pháp về đất đai
- Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thuê đất, cấp quyền sử dụng đất cho
các dự án chế biến, dịch vụ và mở rộng diện tích cho các trang trại. Thực hiện
đầy đủ các chính sách khuyến khích của các ngành về lĩnh vực nông nghiệp.
- Đẩy nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các chủ
trang trại, hộ gia đình được giao đất phát triển theo quy hoạch. Triển khai cấp
giấy chứng nhận kinh tế trang trại đối với số trang trại đạt tiêu chuẩn hiện có
nhằm tạo điều kiện cho các chủ trang trại yên tâm đầu tư và vay vốn sản xuất.
- Hộ gia đình, cá nhân phi nông nghiệp hoặc ở các địa phương khác, các
doanh nghiệp có nguyện vọng và khả năng lập nghiệp đầu tư vốn phát triển
trang trại được UBND xã sở tại cho thuê đất sản xuất.
- Miễn tiền thuế sử dụng đất cho các trang trại đối với các xã vùng núi,
vùng đặc biệt khó khăn và giảm 50% cho các xã vùng đồng bằng trong 5 năm
đối với diện tích đất vượt hạn điền.
- Miễn tiền thuê đất 7 năm đối với các xã vùng núi, và 3 năm đối với các
xã vùng đồng bằng, vùng khai hoang phục hoá…
- Khuyến khích các hộ dân chuyển nhượng, dồn điền, đổi thửa tạo điều
kiện tích tụ ruộng đất, chuyển đổi từ đất khác sang trang trại chuyên canh
hoặc kết hợp. Khi hết thời hạn giao đất theo NĐ64/CP (năm 2014), tiến hành
giao lại ruộng đất có điều chỉnh theo hướng tập trung, quy mô diện tích lớn,
tạo điều kiện để các hộ dân an tâm đầu tư phát triển kinh tế trang trại.
- Xây dựng đề án giao đất, cho thuê diện tích đất, mặt nước cho hộ gia
đình, tổ chức, cá nhân để phát triển kinh tế trang trại.
- Đẩy nhanh tiến độ giao đất cho các hộ dân vùng đồi núi để phát triển
kinh tế lâm nghiệp, trong giao đất phải căn cứ vào quỹ đất trống đồi núi trọc ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
102
địa phương, nhu cầu và khả năng đầu tư trồng rừng, tránh tình trạng đất giao
không sản xuất hoặc sử dụng không hết diện tích, giữ đất trong khi các hộ có
nhu cầu không có đất trồng rừng. Đồng thời, ưu tiên các hộ ở địa phương đó,
hộ có ý chí vươn lên làm giàu; mặt khác cần khuyến khích những người có vốn
ở nơi khác để đầu tư phát triển kinh tế trang trại theo hợp đồng sử dụng đất. Hộ
gia đình sản xuất nông nghiệp có nhu cầu và khả năng sử dụng đất vượt hạn
điền của địa phương được UBND xã xét thuê đất phát triển kinh tế trang trại.
3.4.1.3. Giải pháp về đầu tư và vốn
- Các tổ chức tín dụng tạo điều kiện thuận lợi cho việc vay vốn đối với
phát triển kinh tế trang trại như: thành lập quỹ cho vay kinh tế trang trại từ
huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, quy định lãi suất và thời hạn cho
vay hợp lý, cần phát triển hình thức cho vay tín chấp, mức vốn vay nhiều hơn
so với quy định hiện nay của ngân hàng. Thực hiện Quyết định số
423/QĐ/NHNN ngày 22/9/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về quy
định chính sách tín dụng ngân hàng đối với kinh tế trang trại. Triển khai thực
hiện Quyết định số 178/2001/QĐ-TTg ngày 12/11/2001 của Thủ tướng Chính
phủ về quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao đất,
thuê, nhận, khoán rừng và đất lâm nghiệp.
- Phối hợp với các chương trình, dự án khuyến nông, nguồn vốn giải
quyết việc làm để cho vay phát triển kinh tế trang trại. Các tổ chức chính trị
xã hội (Hội Nông dân, Hội Phụ nữ…) bố trí một phần kinh phí từ các nguồn
vốn cho vay để phát triển theo mô hình trang trại.
- Xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, điện, thuỷ lợi… ở các vùng quy
hoạch kinh tế trang trại, chế biến sản phẩm nông nghiệp, để khuyến khích các
hộ gia đình, cá nhân phát triển trang trại sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp.
- Lập dự án giới thiệu tiềm năng và cơ hội hợp tác đầu tư, nhất là đầu tư
công nghệ chế biến thức ăn gia súc, chế biến nông sản. Tăng cường đầu tư
xây dụng các mô hình kinh tế trang trại và nhân diện rộng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
103
- Các trang trại được miễn, giảm tiền thuê đất theo quy định của pháp
luật về đất đai khi thuê đất trống đồi núi trọc, đất hoang hoá để trồng rừng,
trồng cây lâu năm và khi thuê diện tích các vùng nước tự nhiên chưa có đầu
tư cải tạo vào mục đích nuôi trồng thuỷ sản.
- Chính sách của tỉnh: hỗ trợ 01 triệu đồng/trang trại mới thành lập; các
chính sách khác áp dụng theo quy định chính sách hàng năm của tỉnh.
3.4.1.4. Giải pháp về khoa học kỹ thuật và công nghệ
- Việc đầu tiên là cần chú trọng công tác thông tin KH&CN cho các chủ
trang trại. Hiện nay ngành nông nghiệp chỉ hoạt động khuyến nông chung cho
nông dân cả nghèo lẫn giàu. Đã đến lúc cần tập trung công tác khuyến nông
riêng đối với các hộ nông dân - trang trại sản xuất hàng hóa là lực lượng xung
kích, đi đầu trong ứng dụng tiến bộ KH&CN, tổ chức các câu lạc bộ khuyến
nông cho các chủ trang trại theo ngành sản xuất, như các trang trại sản xuất
lúa hàng hóa, sản xuất chè, cây ăn quả, nuôi gà, vịt, nuôi lợn, nuôi trâu bò,
nuôi trồng thủy sản, trồng rừng với qui mô vừa và lớn, khối lượng hàng hóa
nhiều ở từng địa phương, đi vào từng chuyên đề thiết thực.
- Cần chú trọng và tiếp tục đầu tư thoả đáng cho công tác khuyến nông,
khuyến ngư, khuyến lâm, khuyến công để chuyển giao tiến bộ khoa học công
nghệ cho trang trại, đưa các giống cây trồng, vật nuôi có phẩm chất tốt, sản
phẩm chất lượng cao vào sản xuất; áp dụng công nghệ mới trong công nghiệp
chế biến, bảo quản sản phẩm nông nghiệp; rút kinh nghiệm và nhân rộng các
điển hình thành công ra nhiều trang trại khác.
- Phổ biến cho các trang trại biết có thể bố trí cây trồng, vật nuôi phù
hợp với điều kiện tự nhiên và sinh thái từng vùng và phù hợp với quy hoạch
các vùng chuyên canh ở địa phương, đặc biệt đối với các loại cây trồng dài
ngày để giúp các trang trại lựa chọn phương hướng sản xuất phù hợp.
- Khuyến khích các hình thức liên kết và hợp tác trong nghiên cứu và ứng
dụng khoa học - công nghệ nông nghiệp, trong đó coi trọng sự liên kết giữa các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
104
trung tâm, viện nghiên cứu ở trong và ngoài huyện với các trang trại hạt nhân
trên từng vùng để nghiên cứu tạo ra những giống vật nuôi cây trồng phù hợp
với điều kiện đất đai thổ nhưỡng và chịu được điều kiện khí hậu ở địa phương
cũng như chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ cho các trang trại.
- Trên cơ sở quy hoạch về phát triển giống cây trồng, vật nuôi đến năm
2010 của tỉnh, khuyến khích và hỗ trợ các trang trại sản xuất giống cây trồng,
vật nuôi tại địa phương để cung cấp giống tại chổ.
Kinh nghiệm thực tế cho thấy, để sản xuất kinh doanh có lợi, các trang trại
nước ta phải lựa chọn và ứng dụng KH&CN thích hợp, hỗn hợp và tổng hợp.
KH&CN thích hợp là sử dụng các loại vật tư kỹ thuật, động lực, công
cụ và công nghệ phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, kỹ thuật của
sản xuất, của từng trang trại, và yêu cầu chất lượng sản phẩm của thị
trường tiêu thụ.
KH&CN hỗn hợp là sử dụng đan xen giữa các cấp độ công nghệ khác
nhau (cổ truyền kết hợp với hiện đại, thủ công kết hợp với cơ khí v.v...)
trong các công đoạn sản xuất chế biến các loại nông sản, nhằm sử dụng
hợp lý nhất các yếu tố kỹ thuật, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản
phẩm.
KH&CN tổng hợp là sử dụng đồng bộ các công nghệ sinh học, hóa học,
cơ điện trong chu trình sản xuất, chế biến nông sản của các trang trại,
huy động sức mạnh tổng hợp của KH&CN, tạo ra hợp lực đem lại hiệu
quả kinh tế cao.
3.4.1.5. Giải pháp về lao động và nguồn nhân lực
Nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh và trình độ khoa học kỹ
thuật của chủ trang trại, hộ gia đình, cá nhân cụ thể:
- Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng về quản lý, quy trình và cách
thức làm giàu từ kinh tế trang trại không chỉ cho các chủ trại mà còn cho cả
những người có nguyện vọng và có khả năng trở thành chủ trại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
105
- Về nội dung đào tạo bồi dưỡng cần hướng vào những vấn đề của kinh
tế trang trại, xu hướng phát triển trang trại; các chủ trương, đường lối, chính
sách về phát triển kinh tế trang trại; đặc biệt là các kiến thức về tổ chức và
quản trị kinh doanh trong các trang trại như xác định phương hướng kinh
doanh, tổ chức sử dụng các yếu tố sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
- Tổ chức các lớp chuyển giao kỹ thuật và công nghệ mới cho các chủ
trại, hỗ trợ họ trong việc triển khai ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật.
- Đào tạo bằng nhiều hình thức như lớp tại địa phương, tham quan,
chuyển giao tiến bộ kỹ thuật… với sự tổ chức hỗ trợ của các cơ quan như Sở
Nông nghiệp và PTNT, Sở Khoa học và Công nghệ, Hội Nông dân…
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của các trang trại bằng cách
hướng vào tổ chức tốt việc đào tạo nghề phù hợp cho một bộ phận lao động
làm thuê, nhất là bộ phận lao động kỹ thuật.
3.4.1.6. Giải pháp về thị trường tiêu thụ
- Tổ chức dự báo thị trường, mở rộng hình thức thông tin kinh tế.
- Khuyến khích thành lập hợp tác xã, tổ hợp dịch vụ chăn nuôi và tiêu
thụ sản phẩm.
- Mở rộng và phát triển hệ thống tiêu thụ sản phẩm, trong đó chú trọng
khâu bảo quản nhằm hạn chế tổn thất sau thu hoạch.
- Có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thu hút các tổ chức, cá nhân
trong và ngoài huyện đầu tư để phát triển dịch vụ đầu vào, đầu ra cho nông sản.
- Nhà nước cùng các tổ chức kinh tế có các biện pháp thu mua, chế biến,
dự trữ, điều hoà cung cầu để giữ giá ổn định một số mặt hàng thiết yếu nhằm
bảo vệ lợi ích chính đáng cuả nhà kinh doanh và người tiêu dùng.
- Các cơ sở chế biến nông, lâm sản có ý nghĩa quyết định tới chất lượng
hàng hoá nông sản. Phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp theo chiều dọc phải là
quá trình từ sản xuất, gắn với chế biến và tiêu thụ hàng hoá.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
106
- Cần khuyến khích, hỗ trợ cho sự ra đời của các cơ sở chế biến nông
sản như cơ sở chế biến thức ăn gia súc, gia cầm. Chế biến hoa quả mơ, chuối,
nhãn, vải...
3.4.1.7. Môi trường kinh doanh và tư pháp
Tiến hành cấp đăng ký kinh doanh cho các trang trại có đủ điều kiện.
Đăng ký kinh doanh cho trang trại gia đình là một việc làm hợp lý và hết sức
cần thiết. Hiện tại mới có 2 trong tổng số 21 trang trại của Bắc Kạn mới đã
đăng ký kinh doanh (vào khoảng 9,5%).
Thông qua đó, giúp cho Nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý của
mình đối với loại hình trang trại gia đình. Mặt khác, để đảm bảo quyền tự do
kinh doanh và tinh thần cải cách thủ tục hành chính hiện nay, không cần thiết
phải đặt ra thủ tục cấp giấy chứng nhận cho trang trại gia đình. Việc thỏa mãn
các tiêu chí của trang trại gia đình sẽ được các hộ gia đình chứng minh thông
qua các giấy tờ cần thiết trong hồ sơ đăng ký kinh doanh (ví dụ như giấy tờ
chứng minh quyền sử dụng đất, báo cáo tóm tắt tình hình sản xuất kinh
doanh,...). Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là cơ sở pháp lý duy nhất
chứng minh tư cách pháp lý của trang trại gia đình.
Hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường; khuyến khích các thành phần kinh
tế cùng phát triển. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng SX hàng
hóa. Xây dựng HTX mô hình mới là một giải pháp quan trọng giúp cho kinh
tế hộ nông dân phát triển sản xuất hàng hoá ổn định vững chắc. Xây dựng
HTX kiểu mới vừa là giải pháp vừa là xu thế và mục tiêu của phát triển kinh
tế hộ nông dân, kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại.
Phân vùng kinh tế và phân bổ lại lao động dân cư. Trong điều kiện đặc
điểm điều kiện tự nhiên không đồng nhất, cần có những tiêu chuẩn phân vùng
nhỏ cho các huyện thị. Tuy không tạo thành vùng chuyên canh lớn thì cũng
tạo ra một lượng sản phẩm đủ lớn cho kinh tế hàng hoá phát triển, thúc đẩy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
107
phân bố lại lao động dân cư hiện nay cư trú rất phân tán, nhất là vùng cao,
vùng sâu,vùng xa.
Tổ chức công tác truyền thông giúp cho các hộ vượt qua tâm lý an phận,
tâm lý tự ti, phong tục tập quán sản xuất tự túc, tự cấp, sản xuất manh mún
nhỏ lẻ để tăng cường nghị lực vượt qua khó khăn trước mắt, tích cực nỗ lực
trong sản xuất kinh doanh. Tuyên truyền chủ trương chính sách của Trung
ương cũng như địa phương về phát triển kinh tế trang trại trong giai đoạn tới.
Phổ biến quy hoạch, kế hoạch phát triển các vùng kinh tế trang trại trong tỉnh
cho tất cả các đối tượng có nhu cầu làm trang trại để thu hút đầu tư. Thông
tin, phổ biến kinh nghiệm sản xuất kinh doanh của các trang trại điển hình tạo
ra động lực trong đầu tư vào sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn.
Bằng các phương thức cụ thể:
Tổ chức hội thảo
Phát sóng trên đài truyền hình, trên báo địa phương
Phát tờ rơi, tờ bướm
3.4.1.8. Tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với kinh tế trang trại
- Thực hiện quản lý nhà nước đối với quá trình sản xuất kinh doanh của
trang trại, nhằm định hướng phát triển và đảm bảo công bằng trong sản xuất
kinh doanh, khuyết khích mặt tích cực và hạn chế những tiêu cực của loại
hình kinh tế trang trại, khắc phục tình trạng phát triển mang tính tự phát tích
tụ ruộng đất tràn lan.
- Xác định các loại hình trang trại và hình thức kinh doanh để có sự quản
lý thống nhất và phù hợp với từng loại hình trang trại, nhất là loại hình trang
trại có thuê mướn nhiều lao động mà chủ trại không trực tiếp tham gia sản
xuất trong trang trại.
- Thực hiện quản lý nhà nước đối với đầu ra, chất lượng sản phẩm nhằm
đảm bảo lợi ích chung của Nhà nước, quyền lợi của người tiêu dùng và môi
trường sinh thái.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
108
- Tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra đối với kinh tế trang trại, đảm
bảo các chủ trang trại thực hiện đầy đủ qui trình kỹ thuật canh tác bảo vệ và
làm giàu đất, bảo vệ môi trường; thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước
theo pháp luật. Đồng thời, bảo vệ quyền lợi chính đáng của chủ trang trại về
tài sản và các lợi ích khác.
- Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm dịch giống, thực hiện quy trình
sản xuất, du nhập giống chất lượng cao và sạch bệnh. Đa dạng hoá các loại
giống cây trồng, vật nuôi. Đưa các đối tượng nuôi, trồng đã thử nghiệm có
hiệu quả vào sản xuất để đa dạng hoá các đối tượng nuôi, trồng.
3.4.1.9. Hình thành, phát triển quan hệ hợp tác giữa các trang trại
- Hình thành và phát triển quan hệ hợp tác giữa các trang trại nhằm trao
đổi kinh nghiệm, trình độ quản lý, trao đổi sản phẩm, dịch vụ để nâng cao
hiệu quả kinh tế.
- Khuyến khích thành lập các câu lạc bộ, tổ hợp tác theo từng loại hình
trang trại để liên doanh, liên kết trong sản xuất kinh doanh, tạo sức cạnh tranh
và sự ổn định trong tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, hạn chế tình trạng ép
giá của các tư thương và rủi ro trong sản xuất kinh doanh.
- Xây dựng mối quan hệ giữa các tổ hợp tác, chủ trang trại với các hộ
dân để các chủ trang trại, tổ hợp tác là đầu mối thu mua, tiêu thụ sản phẩm
nông sản.
Tóm lại: Phát triển kinh tế trang trại tỉnh Bắc Kạn trong giai đoạn tới có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế để thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn tỉnh, góp phần thực
hiện thắng lợi Nghị quyết lần thứ IX Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn về chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội đến năm 2020. Chính vì vậy, chương trình này cần được
sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban
ngành đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở một cách đồng bộ, tạo sự đột phá quan trọng
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
109
3.4.2. Giải pháp cho nhóm trang trại
3.4.2.1. Trang trại trồng trọt
Nên tập trung vùng ven đô, vùng có lợi thế so sánh cao; đồng thời
chuyển diện tích trồng lúa năng suất thấp, không chủ động được nước tưới
sang nuôi trồng thủy sản hoặc trồng các loại cây công nghiệp ngắn ngày.
Về cây công nghiệp ngắn ngày, phát triển mạnh thuốc lá, đậu tương, đỗ
xanh, đỗ đen, lạc và mía v.v. trên cơ sở sử dụng giống mới và sản xuất theo
dây truyền công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao năng suất, chất lượng.
Trồng thâm canh, tạo vành đai thực phẩm cho thị xã đối với các loại
rau, đậu theo hướng sạch; trồng hoa thương phẩm các loại phục vụ cho nhu
cầu thị trường.
Về cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày tập trung phát triển tính tới nhu
cầu thị trường các loại cây như hồng không hạt, cam, quýt, chè, v.v trên cơ sở
giống mới và gắn với thị trường tiêu thụ sản phẩm. Phát triển để hình thành
các vùng nguyên liệu tập trung gắn với công nghiệp chế biến: hình thành
1000 ha cam, quýt nguyên liệu tại Thị xã Bắc Kạn; Bạch Thông; Chợ Đồn;
Chè Shan tuyết và chè chất lượng cao; Vùng trồng đỗ tương, thuốc lá, khoai
môn 700 ha tại Bạch Thông, Ba Bể, thị xã Bắc Kạn, Chợ Mới; 500 ha Hồng
không hạt tại Ba Bể, Ngân Sơn, Chợ Đồn;
3.4.2.2. Trang trại chăn nuôi
Một là về giống, vật nuôi, tiếp tục sử dụng con giống tốt trong nước, khuyến
khích các chủ trang trại, doanh nghiệp nhập nguồn gien, giống có năng suất chất
lượng cao: Chương trình cải tạo chất lượng đàn bò địa phương bằng giống bò lai
Sind; chương trình móng cái hoá đàn lợn nái, nuôi lợn hướng lạc, lợn siêu lạc;
phát triển đa dạng đàn gia cầm trong chăn nuôi có khả năng tăng trọng nhanh như
các giống gà Tam Hoàng, Lương Phượng, Kabir, Sắc-sô, ngan Pháp;
Hai là về thức ăn chăn nuôi, người chăn nuôi và nhà máy chế biến phải
ký hợp đồng, bảo đảm cung cấp ổn định và chất lượng thức ăn tốt.
Ba là công nghệ chuồng trại, người chăn nuôi phải nghiên cứu các mẫu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
110
chuồng trại, áp dụng các loại máng ăn, uống, phù hợp với từng vật nuôi.
3.4.2.3. Trang trại lâm nghiệp
Đối với diện tích rừng nghèo kiệt, khuyến khích các tổ chức, cá nhân cải
tạo và trồng lại rừng để nâng cao giá trị sử dụng rừng và đất rừng. Đối với
diện tích đất trống, thu hút đầu tư vào lĩnh vực trồng rừng tạo vùng nguyên
liệu tập trung, theo hướng đầu tư thâm canh gắn với công nghiệp chế biến, kết
hợp sản xuất lâm - nông - ngư nghiệp để nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
Loài cây chính cho trồng rừng sản xuất: Keo, thông, mỡ, trúc... để tạo
vùng nguyên liệu cho sản xuất ván MDF, ván ghép thanh, sản xuất giấy. Diện
tích trồng rừng nguyên liệu khoảng 40 nghìn ha tập trung ở các huyện Chợ
Mới, Chợ Đồn, Ba Bể để sản xuất các mặt hàng đồ mộc gia dụng, vật liệu xây
dựng và đồ gỗ mỹ nghệ.
Đầu tư trồng 10 nghìn ha trúc sào ở thị xã Bắc Kạn, Ba Bể, Pác Nặm để
có thể sản xuất 4-5 triệu trúc đoạn/ năm.
Đầu tư trồng rừng theo cơ chế sạch (CDM) trên diện tích đất trống, đồi
núi trọc ở các huyện Pắc Nậm, Ngân Sơn, Ba Bể, Na Rì, Chợ Đồn, Chợ Mới,
Bạch Thông.
3.3.2.4. Trang trại thuỷ sản
Phát triển nuôi trồng thủy sản nước ngọt ở các hồ chứa, hồ tự nhiên và
nuôi cá lồng trên các sông, suối. Trong nuôi thủy sản sử dụng giống mới như
rô phi đơn tính, cá tra, cá basa, tôm càng xanh,
Nghiên cứu giúp các địa phương, các chủ trang trại, các hộ gia đình nuôi
trồng thủy sản xây dựng phương án đổi đất dồn ao để tạo điều kiện cho việc
hình thành các trang trại thủy sản sản xuất tập trung với quy mô lớn, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc đầu tư nuôi thâm canh công nghiệp. Có chính sách thu
hút các nhà đầu tư vào lĩnh vực nuôi trồng thủy sản để hình thành nên các cơ
sở sản xuất thủy sản tập trung. Đây chính là những mô hình nuôi trồng thủy
sản theo hướng công nghiệp, để cho các chủ trang trại, các hộ gia đình tham
quan học tập; đồng thời cũng là cơ sở dịch vụ đầu vào con giống, thức
ăn,.v.v... và tiêu thụ sản phẩm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
111
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
1. Kinh tế trang trại ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong sự phát
triển của nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Nó cho phép khai thác, sử dụng
triệt để tiềm năng về đất đai, đặc biệt ở những vùng đồi núi như Bắc Kạn hiện
nay mang lại khối lượng sản phẩm hàng hoá lớn cho xã hội.
2. Tuy mới hình thành và phát triển ở nước ta nói chung và Bắc Kạn nói
riêng, kinh tế trang trại đã khẳng định là một hình thức tổ chức sản xuất tiến bộ,
phù hợp và có hiệu quả trong nông nghiệp. Nó đã và đang góp phần tạo ra quan
hệ sản xuất mới ở nông thôn, xoá đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới.
3. Điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội của một vùng ảnh hưởng
rất lớn đến phát triển kinh tế trang trại. Chính sự kết hợp giữa sự đa dạng với
sự lựa chọn loại hình đem lại giá trị kinh tế cao trong kinh doanh trang trại ở
Bắc Kạn hiện nay đã thể hiện sự năng động của các trang trại. Tuy nhiên số
lượng, quy mô cũng như trình độ sản xuất kinh doanh của các trang trại của
Bắc Kạn còn hạn chế và đang trong giai đoạn phát triển ban đầu bởi nền kinh
tế địa phương còn mang nặng tính tự nhiên, thị trường nhỏ hẹp.
4. Thực trạng kinh tế trang trại ở Bắc Kạn cho thấy, các nguồn lực của
các trang trại huy động còn thấp, kết quả sản xuất cũng như hiệu quả kinh tế
mang lại cũng chưa cao. Tuy nhiên, qua thực tế cũng có thể kết luận rằng:
nhân tố ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doạnh của các trang trại ở đây
không phải do quy mô đất đai của trang trại mà do sự lựa chọn loại hình kinh
doanh phát huy lợi thế so sánh của địa phương; trình độ quản lý của chủ trang
trại đã mang lại nhiều trang trại có quy mô đất đai nhỏ nhưng có tỷ suất nông
sản hàng hoá lớn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
112
5. Qua kết quả nghiên cứu cho thấy loại hình kinh doanh có hiệu quả
nhất ở Bắc Kạn cũng chính là khai thác và sử dụng nguồn lực là lợi thế so
sánh của địa phương. Cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc kết hợp với lâm
nghiệp hiện tại vẫn hướng đi mang lại hiệu quả tốt nhất cho các chủ trang trại.
Tuy nhiên điều kiện tự nhiên không đồng nhất, quản lý đất đai manh mún là
một trở ngại để phát triển sản xuất với quy mô lớn.
6. Cũng như các loại hình kinh tế mới hình thành khác, kinh tế trang trại
cần một môi trường chính sách, thể chế cần thiết cho sự tồn tại và phát triển
ổn định, bền vững. Vai trò của công tác truyền thông, nâng cao năng lực của
chủ trang trại, hỗ trợ thị trường v.v... trong phát triển kinh tế trang trại là
những vấn đề mà các cấp chính quyền cần phải quan tâm.
KIẾN NGHỊ VỀ NHỮNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO
Ở nước ta, vị trí chính thức của trang trại gia đình đã có hơn 8 năm hình
thành và phát triển. Đã đến lúc cần phải nhìn lại để thấy rõ mặt mạnh, mặt còn
hạn chế của chính sách pháp luật về trang trại gia đình. Trên cơ sở tổng kết
thực tiễn phát triển trang trại gia đình, Nhà nước cần ban hành một luật hoặc
pháp lệnh về trang trại gia đình tạo khung pháp lý cho hoạt động của loại hình
này, trong đó xác định rõ khái niệm, đặc điểm pháp lý, các điều kiện để được
xác định là trang trại gia đình, trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh, quyền và
nghĩa vụ của trang trại.
Với một tư cách pháp lý độc lập, một địa vị pháp lý bình đẳng với các
chủ thể kinh doanh khác sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để trang trại gia đình
tự tin, chủ động bước vào “sân chơi” lớn - nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần như ở nước ta hiện nay.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Lao động thương binh và xã hội (2000), Thông tư hướng dẫn áp
dụng một số chế độ làm việc trong các trang trại, Hà Nội.
2. Các Mác - Tư bản, Quyển 3 tập 1, NXB Sự thật Hà nội 1960.
3. Cục Thống kê tỉnh Bắc Kạn (2007), Niên giám thống kê tỉnh Bắc Kạn
năm 2006, NXB Thống kê, Hà Nội.
4. Nguyễn Điền, Nông nghiệp nước Mỹ - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
NXB Thống kê, Hà Nội, 1998.
5. Nguyễn Điền, Trần Đức, Trần Huy Năng (1993), Kinh tế Trang trại
gia đình trên thế giới và châu Á, NXB Thống kê.
6. Trần Đức, Kinh tế trang trại vùng đồi núi, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1998.
7. Nguyễn Đình Hà, Nguyễn Khánh Quắc (1999), Kinh tế nông nghiệp
gia đình nông trại, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
8. Đào Hữu Hoà (2005), Vai trò của kinh tế trang trại trong quá trình
phát triển một nền nông nghiệp bền vững, Trường đại học Kinh tế Đà
Nẵng, Đà Nẵng.
9. Hoàng Văn Hoa, Hoàng Thị Quý, Phạm Huy Vinh (1999), Quá trình
phát triển kinh nghiệm trang trại ở Việt nam và một số nước trên thế
giới - Bài học kinh nghiệm; Thực trạng và giải pháp phát triển kinh
tế trang trại trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt nam,
Trường đại học KTQD, Hà Nội.
10. Trần Văn Hưng, Hoàng Văn Chính (2000), Kinh tế trang trại gia đình
nông lâm nghiệp, Hà Nội.
11. Kinh tế trang trại gia đình trên thế giới và châu Á, NXB thống kê 1993
12. Liên Bộ Nông nghiệp và PTNT - Tổng cục Thống kê (2003), Thông tư
liên tịch hướng dẫn tiêu chí để xác định kinh tế trang trại, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
114
13. Mác - Ăng ghen toàn tập, bản tiếng Nga - tập 25 phần II, Matxcơva 1961.
14. Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Bắc Kạn (2004), Báo cáo tình hình phát
triển kinh tế trang trại trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn từ khi có Nghị quyết
03/NQ-CP, Bắc Kạn.
15. Lê Duy Phong (2001), Kinh tế trang trại sau 1 năm thực hiện Nghị
quyết 02/NQ-CP của Thủ tướng Chính phủ; Kinh tế trang trại sau 1
năm thực hiện Nghị quyết 03/NQ-CP, Trường ĐHKT thành phố
HCM, Vũng Tàu.
16. Lê Trường Sơn (2004), Trang trại gia đình - một loại hình doanh
nghiệp mới trong nền kinh tế thị trường ở Việt nam, Tạp chí Khoa học
pháp lý, (Số 3, 2004).
17. Lê Trọng (2000), Phát triển và quản lý trang trại trong kinh tế thị
trường, NXB Nông nghiệp Hà Nội.
18. Trần Tác (2001), “Một số giải pháp nhằm tiếp tục đẩy mạnh phát triển
kinh tế trang trại ở Việt nam”, Kinh tế trang trại sau một năm thực
hiện Nghị quyết 03/NQ-CP, Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí
Minh, Vũng Tàu.
19. Nguyễn Thị Thắc (1999), Thực trạng và những giải pháp phát triển
kinh tế trang trại tỉnh Thái Nguyên, Luận văn Thạc sỹ kinh tế nông
nghiệp, Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội.
20. Đoàn Quang Thiệu (2001), Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm phát
triển hệ thống nông lâm kết hợp ở huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên ,
Luận án Tiến sỹ kinh tế, Hà Nội.
21. Tổng cục Thống kê (2007), Báo cáo sơ bộ kết quả cuộc Tổng điều tra
nông thôn, nông nghiệp năm 2006, Hà Nội.
22. Nguyễn Văn Tuấn (2000), Quản lý trang trại trong nền kinh tế thị
trường, NXB Nông nghiệp, Hà nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
115
23. Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn (2006), Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã
hội tỉnh Bắc Kạn đến năm 2020, Bắc Kạn.
24. V.I. Lê-nin toàn tập - tập 17, NXB tiến bộ Matxcơva 1978.
25. Viện Kinh tế (1995), Kinh tế hộ trong nông thôn Việt nam, NXB
khoa học xã hội, Hà Nội.
26. Ngô Bằng Việt (2001), Đánh gía hiệu quả kinh tế của một số mô hình
trang trại điển hình ở huyện miền núi Đoan Hùng, Phú Thọ, Luận văn
cử nhân kinh tế, Thái Nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
116
PHỤ LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9505.pdf