LỜI MỞ ĐẦU
Bước vào thế kỷ XXI, trong bối cảnh khu vực hoá, toàn cầu hoá, các nền kinh tế diễn ra mạnh mẽ, cộng với sự suy thoái kinh tế mang tính toàn cầu, sau các sự kiện đầy kịch tính ở Mỹ, Nga, Trung Đông, nước ta cũng không thể thoát khỏi những thách thức đầy cam go như các nước khác trong khu vực. Tuy vậy, Việt Nam trong những năm qua khép lại bằng những thành tựu kinh tế - xã hội đã đạt được trong bối cảnh không ít khó khăn thách thức đó. Nền kinh tế tiếp tục tăng tưởng với tốc độ khá ca
58 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1470 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và một số giải pháp nhằm huy động vốn đầu tư vào phát triển nghành Dầu khí ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o, giá trị sản lượng công nghiệp tăng nhanh chóng. Việt Nam đã khẳng định mình là một quốc gia ổn định trên con đường phát triển và hội nhập. Trong thành tựu chung đó có sự đóng góp quan trọng của ngành Dầu khí Việt Nam.
Một thực tế là, nhiều năm nay, Dầu khí là một trong những ngành đầu tư hấp dẫn nhất. Kim ngạch xuất khẩu Dầu khí chiếm tỷ trọng đáng kể và đóng góp quan trọng đối với nền kinh tế nhiều nước. Riêng với ngành Dầu khí Việt Nam, cơ hội đầu tư có nhiều, nhưng vốn đầu tư còn hạn chế. Thêm vào đó ta nhận thấy ngành công nghiệp Dầu khí thế giới đang đi vào giai đoạn đỉnh để bước sang giai đoạn suy tàn, cuộc khủng bố ở Newyork ngày 11.9.2001 đã mang lại những thay đổi to lớn trong bức tranh địa lý_ chính trị Dầu khí toàn cầu. Và những gì chúng ta đã và đang thấy trong hoạt động chính trị- quân sự của Mỹ ở Trung Cận Đông phần nào nói lên tầm quan trọng của năng lượng Dầu khí.
Trước sự quan trọng như vậy của năng lượng Dầu khí, cùng với một tiềm năng Dầu khí không phải là ít ở Việt Nam, thì vấn đề đầu tư vào phát triển ngành Dầu khí ở Việt nam là vấn đề đang được quan tâm. Chính vì lẽ đó, mà trong bài viết này em xin trình bày về tình hình huy động vốn đầu tư vào phát triển ngành Dầu khí ở Việt Nam, nhằm đánh giá một cách cụ thể hơn các hoạt động đầu tư vào phát triển ngành Dầu khí Việt Nam, cũng như sự phát triển ngành Dầu khí nước ta giai đoạn hiện nay, để từ đó có những giải pháp cụ thể thu hút các nguồn vốn đầu tư vào phát triển ngành Dầu khí. Đưa ngành Dầu khí phát triển xứng đáng với tiềm năng sẵn có của đất nước và khẳng định vị thế là ngành kinh tế – kỹ thuật quan trọng trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Tuy bài viết đã có nhiều cố gắng, song không tránh khỏi những thiếu sót và còn nhiều hạn chế, em mong sự đóng góp của thầy cô giáo để bài viết được hoàn thành tốt hơn.
Bài viết được hoàn thành với sự hướng dẫn tận tình của cô giáo, Tiến sỹ Đinh Đào Ánh Thủy. Em xin chân thành cảm ơn cô.
Hà Nội, 11.2008.
Chương I: Khái quát chung về đầu tư và vấn đề huy động vốn đầu tư vào ngành Dầu khí Việt Nam.
Trước khi đi sâu vào nghiên cứu vấn đề “huy động vốn đầu tư cho sự phát triển ngành Dầu khí”, em xin trình bày những khái niệm cơ bản về đầu tư, đầu tư cho phát triển và các nguồn vốn cơ bản cần huy động cho công cuộc đầu tư.
1. Đầu tư và nguồn vốn đầu tư.
1.1. Đầu tư và đầu tư phát triển.
“Đầu tư là thuật ngữ có thể được hiểu đồng nghĩa với “sự bỏ ra”, sự hy sinh”. Từ đó có thể coi “đầu tư” là sự bỏ ra, sự hi sinh những cái gì đó ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm đem lại cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra.
Các nguồn lực bỏ ra có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, tài sản vật chất khác. Còn những kết quả đạt được có thể là tăng thêm tài sản tài chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất lao động và hiệu suất công tác cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Những kết quả đã đạt được ở trên đây, những kết quả là tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc, mọi nơi, đối với cả người bỏ vốn và nền kinh tế. Những kết quả này không chỉ riêng người đầu tư mà cả nền kinh tế được hưởng.
Trong hoạt động đầu tư có bao gồm Đầu tư cho tài chính, Đầu tư thương mại và Đầu tư cho phát triển. Đầu tư vào ngành dầu khí là hoạt động thuộc thuộc lĩnh vực Đầu tư phát triển.
Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và kiến trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ và, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhăm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế - xã hội,tạo ra việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
Đầu tư phát triển làm gian tăng tài sản cho nền kinh tế mà không phải là sự chu chuyển giữa đơn vị này sang đơn vị kia của nền kinh tế.
1.1.1. Đặc điểm của đầu tư phát triển.
Khác với các hoạt động đầu tư khác, Đầu tư phát triển có đặc điểm sau:
Hoạt động Đầu tư phát triển đòi hỏi một khối lượng vốn lớn, vốn tồn đọng, không vận động suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây chính là cái giá khá lớn của Đầu tư phát triển.
Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều thời gian với nhiều biến động xảy ra.
Thời gian cần huy động đòi hỏi để có thể thu hồi đủ vốn đã bỏ ra đối với các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường là lớn và do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt (tích cực và tiêu cực) của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế …
Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài nhiều năm, có khi hàng trăm, hàng ngàn năm và thậm chí tồn tại vĩnh viễn như các công trình nổi tiếng thế giới (Kim Tự Tháp cổ ở Ai Cập, nhà thờ La Mã ở Rome, Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc, Đền AngcoVat của Campuchia). Điều này nói lên giá trị của các thành quả Đầu tư phát triển.
Các thành quả hoạt động Đầu tư phát triển là công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng. Do đó các điều kiện về địa lý, địa hình nơi đầu tư sẽ ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác dụng sau này của các kết quả đầu tư.
Mọi thành quả và hậu quả của quá trình thực hiện đầu tư chịu ảnh hưởng nhiều của các yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện pháp lý của không gian.
Từ những đặc điểm trên, ta thấy Đầu tư phát triển không những tác động đến nền kinh tế mà còn tác động đến toàn bộ xã hội. Vì vậy mà Đầu tư phát triển có những vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói riêng và toàn xã hội nói chung.
1.1.2. Vai trò của Đầu tư phát triển.
Các nhà kinh tế đều cho rằng Đầu tư phát triển là chìa khoá của sự tăng trưởng. Vai trò này được thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất: Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước.
* Đầu tư là nhân tố quan trọng tác động đên tăng trưởng và phát triển kinh tế. Về mặt lý luận, hầu hết các tư tưởng, mô hình và lý thuyết về tăng trưởng kinh tế đều trực tiếp hoặc gián thiếp thừa nhận đầu tư và việc tích luỹ vốn cho đầu tư là một nhân tố quan trọng cho việc gia tăng năng lực sản xuất, cung ứng dịch vụ cho nền kinh tế. Từ các nhà kinh tế học cổ điển như Adam Smith trong cuốn “của cải của các dân tộc” đó cho rằng vốn đầu tư là yếu tố quyết định chủ yếu của số lao động hữư dụng và hiệu quả. Việc gia tăng quy mô vốn đầu tư sẽ góp phần quan trọng ttrong việc gia tăng sản lượng quốc gia và sản lượng bình quân mỗi lao động. Theo mô hình của Harrod-Domar, mức tăng trưởng của nền kinh tế phụ thuộc trực tiếp vào mức gia tăng vốn đầu tư thuần.
g =∆Y/Y =∆Y/y*∆K/∆K=∆Y/∆K*∆K/Y=1/ICOR*I/Y
=> ∆Y=1/ICOR*I
Trong đó: ∆Y: mức gia tăng sản lượng
∆K: Mức gai tăng vốn đầu tư
I: Mức đầu tư thuần
K: Tổng quy mụ vốn của nền kinh tế
Y: Tổng sản lượng của nền kinh tế
ICOR: Là hệ số gia tăng vốn-sản lượng.
Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng thể hiện cũng rất rõ trong tiến trình đổi mới của nền kinh tế nước ta thời gian qua. Với chính sách đổi mới, các nguồn vốn đầu tư cả trong nước và nước ngoài ngày càng được đa dạng hoá và gia tăng về quy mô, tốc độ tăng truởng của nền kinh tế đạt được cũng rất thoả đáng. Cuộc sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận dân cư ngày càng được cải thiện.
* Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu:
Về mặt cung: Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên (đường S dịch chuyển sang đường S’), kéo theo sản lượng tiềm năng từ Q1 đến Q2 và do đó giá cả sản phẩm từ P1 đến P2. Sản lượng tăng, giá cả giảm, cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
Về mặt cầu: Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24% - 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng (đường D dịch sang D’) kéo theo lượng cân bằng tăng theo từ Qo đến Q1 và giá cả của các đầu vào của đầu tư tăng từ Po đến P1. Điểm cân bằng dịch chuyển từ Eo đến E1.
Sự tác động của đầu tư đến cung, cầu được thể hiện qua mô hình sau:
S
S’
E1
P
E2
P1
E0
P2
D’
P0
Q
D
Q2
Q1
Q0
Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế.
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia.
* Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước. Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của đất nước ta hiện nay. Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của Việt nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực.
Đầu tư và đặc biệt là ĐTPT trực tiếp tạo mới và cải tạo chất lượng và năng lực sản xuất, phục vụ của nền kinh tế và các đơn vị cơ sở. Chính vì vậy, đâu tư cũng là điều kiện tiên quyết cho quá trình đổi mới và nâng cao năng lực công nghệ của quốc gia theo cơ cấu kĩ thuật của đầu tư, trong giai đoạn vừa qua, tỷ trọng giá trị máy móc thiết bị trong tổng vốn đầu tư của VN chiếm khoảng 28% (xây dựng chiếm khoảng 57%).
Cơ cấu này chưa phản ánh đúng yêu cầu CNH-HĐH, tuy nhiên nó cũng là con số không nhỏ tạo ra năng lực công nghê cho toàn bộ nền kinh tế. Đối với đầu tư nước ngoài, hoạt động của doanh nghiệp FDI thường gắn với các chương trình chuyển giao công nghệ trong đó nước nhận vốn cũng có thể là điểm đến của một số công nghệ và phương thức dản xuất mới. Đối với chi đầu tư của nhà nước cho nghiên cứu khoa học và phát triên công nghệ mới mặc dù vẫn cũn nhỏ về quy mô, thấp về tỷ trọng (giai đoạn 2001-2005 là 7,6 nghìn tỷ đồng chiếm 0.9% vốn đầu tư toàn xã hội) nhưng ở đây cũng là một trong những biểu hiện của đầu tư và ở mức độ nhận định nó cũng có tạo ra và tăng cường năng lực khoa học công nghệ nước ta (đạt được những thành tựu nhất định trong lĩnh vực nông nghiệp: giống mới, công nghệ ren…)
* Đầu tư và sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế.
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ.
Đối với các ngành nông - lâm nghiệp, thuỷ hải sản do những hạn chế về đất đai và khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5% - 6% là rất khó khăn. Như vậy chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mặt cân đối về phát triển giữa các vùng, lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng nghèo đói, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị của những vùng có khả năng phát triển nhanh, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: muốn giữ tốc độ phát triển ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt từ 15% - 20% so với GDP, tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước
Vồn đầu tư
Vồn đầu tư
ICOR
Mức tăng GDP
ICOR = => ICOR =
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư.
Thứ hai: Xét trên giác độ các đơn vị kinh tế của đất nước, Đầu tư phát triển có những vai trò sau:
* Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ: đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Chẳng hạn, để tạo dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa được tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư.
Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh phục vụ đang tồn tại, sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật - chất kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn, hư hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất - kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, mua sắm các thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư.
* Đối với các cơ sở vô vị lợi, để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sửa chữa lớn định kỳ, các cở sở vật chất - kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư.
Như vậy: Đầu tư có một vai trò vô cùng to lớn đối với toàn bộ sự phát triển của một quốc gia. Muốn hoạt động đầu tư ta cần có vốn đầu tư. Vậy vốn là gì? Vốn huy động từ đâu?
1.2. Vốn và nguồn vốn.
1.2.1 Khái niệm về vốn.
Xét một phương diện tổng quát nguồn vốn đầu tư là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và của xã hội. Nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn đầu tư trong nước và nguồn đầu tư nước ngoài.
Nếu chỉ xét theo nguồn hình thành và mục tiêu sử dụng thì vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh phục vụ, là tiền tiết kiệm của dân cư và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội, nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo ra tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội.
1.2.2 Các nguồn vốn cơ bản:
1.2.2.1. Nguồn vốn trong nước
Nguồn vốn đầu tư trong nước của mỗi quốc gia được hình thành chủ yếu từ: tiết kiệm của chính phủ, tiết kiệm dân cư, tiết kiệm của các doanh nghiệp và vốn huy động thông qua các tài sản quốc gia.
* Nguồn vốn Nhà nước
Nguồn vốn đầu tư Nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách Nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp Nhà nước.
Nguồn vốn ngân sách Nhà nước là nguồn chi của ngân sách Nhà nước cho đầu tư. Đó là nguồn vốn quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Ngân sách Nhà nước được hình thành từ việc thu thuế, phí, lệ phí, từ vay viện trợ ưu đãi của nước ngoài, vay trên thị trường vốn quốc tế và vay trong dân dựa trên việc phát hành trái phiếu chính phủ. Hiện nay có sự đa dạng vốn đầu tư Nhà nước, không có sự tách biệt giữa: Đầu tư Nhà nước cho sự phát triển chung của xã hội và đầu tư Nhà nước cho sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy mà phải xác định cụ thể nguồn vốn ngân sách không thể đầu tư tràn lan được, mà phải hạn chế trong một số lĩnh vực chủ yếu nhất định. Để làm tăng ngân sách Nhà nước, tức là tăng tiết kiệm chính phủ thì phải tăng thu và tăng tiết kiệm trong chi ngân sách. Trong thu ngân sách thì thu từ thuế chiếm tỷ trọng lớn.
Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Hình thức tín dụng tức là có vay có trả, và phải trả với một lãi suất nhất định, thường là lãi suất ưu đãi khi vay vốn hay sau khi đầu tư (đầu tư có hiệu quả mới được ưu đãi). Nguồn vốn này có vị trí quan trọng trong chính sách đầu tư của chính phủ. Hiện nay ở nước ta chính phủ sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước nhằm tập trung hỗ trợ đầu tư cho những ngành, lĩnh vực hoặc sản phẩm quan trọng, then chốt của nền kinh tế một cách có trọng tâm, trọng điểm; giảm sự bao cấp và tách bạch tín dụng ngân sách và tín dụng thương mại trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản.
Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước là Nguồn vốn này được xác định là thành phần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp Nhà nước vẫn nắm giữ một khối lượng vốn Nhà nước khá lớn. Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước được hình thành do ngân sách Nhà nước cấp, từ lợi nhuận của doanh nghiệp (đầu tư mới), từ quỹ khấu hao của doanh nghiệp đó (đầu tư thay thế), từ vốn vay (vay ngân hàng thương mại, quỹ tín dụng đầu tư của cán bộ công nhân viên, từ cổ phần )…
* Nguồn vốn từ khu vực tư nhân
Nguồn vốn của khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã và lượng kiều hối.
Tiết kiệm của dân cư được hình thành từ phần còn lại trong thu nhập của dân cư, sau khi đó đóng góp nghĩa vụ với Nhà nước (nếu có) và đảm bảo tiêu dùng cho nhu cầu thiết yếu của bản thân và gia đình họ. Phạm vi thu nhập của dân cư bao gồm: thu nhập từ kết quả lao động, từ sản xuất và kinh doanh dịch vụ của bản thân dân cư và gia đình họ, kể cả xí nghiệp gia đình cú quy mô nhỏ (không phải là công ty); thu nhập do người thân từ nước ngoài gửi về; thu nhập do thừa kế; thu nhập được hình thành từ những cơ hội may mắn bất ngờ. Tiết kiệm khu vực dân cư là một bộ phận quan trọng của tiết kiệm trong nước, đóng góp vai trũ chủ yếu trong việc hỡnh thành vốn đầu tư của các quốc gia, đây là một bộ phận lớn, chiếm tỷ trọng ngày càng tăng.
Tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh là nguồn vốn bao gồm vốn chủ sở hữu và tiết kiệm (các khoản thu nhập của doanh nghiệp sau khi trả thuế và trả cổ tức); từ vốn đi vay hoặc tăng vốn cổ đông bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Phần tích luỹ của các doanh nghiệp này đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn của toàn xã hội. Hoạt động của các doanh nghiệp dân doanh đạt hiệu quả, tạo doanh thu cao hơn so với doanh nghiệp Nhà nước, hoạt động kinh doanh đa ngành với nhiều lĩnh vực khác nhau, giải quyết công ăn vịêc làm cho hàng triệu người lao động, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
1.2.2.2. Nguồn vốn nước ngoài.
Nguồn vốn nước ngoài bao gồm toàn bộ phần tích luỹ cá nhân, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngoài có thể huy động được vào quá trình đầu tư phát triển của nước sở tại.
Nó bao gồm: nguồn vốn hỗ trợ chính thức, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn tín dụng thương mại, vốn đầu tư gián tiếp, nguồn vốn từ thị trường vốn quốc tế.
1.2.2.2.1. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
* Nguồn vốn ODF (Official Development Finance): là nguồn tài trợ phát triển chính thức do các tổ chức quốc tế hoặc chính phủ cung cấp. Nguồn này bao gồm: viện trợ phát triển chính thức ODA và các hình thức tài trợ phát triển khác trong đó ODA chiếm tỉ trọng chủ yếu.
* Nguồn vốn ODA (Official Development Assistance) là nguồn tài chính do các cơ quan chính thức (chính quyền Nhà nước hay địa phương) của một nước hoặc một tổ chức quốc tế viện trợ cho các nước đang phát triển nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội của các nước này.
Nội dung viện trợ:
- Viện trợ không hoàn lại: yếu tố không hoàn lại của từng khoản vay được xác đinh dựa vào các yếu tố lãi suất, thời hạn cho vay, thời gian ân hạn, số lần trả nợ trong năm và tỷ suất chiết khấu. Đối với loại viện trợ này chiếm 25% tổng vốn ODA, thường là hỗ trợ kĩ thuật, chủ yếu là chuyển giao công nghệ, kiến thức, kinh nghiệm thông qua các hoạt động của chuyên gia quốc tế. Đôi khi viện trợ này lại là viện trợ nhân đạo như lương thực, thuốc men hoặc các loại hàng hoá khác... nên chúng rất khó huy động vào mục đích đầu tư phát triển. Nhưng bên cạnh đó các khoản viện trợ này thường kèm theo một số điều kiện về tiếp nhận, về đơn giá...
- Viện trợ có hoàn lại: thực chất là cho vay ưu đãi với điều kiện “mềm” có thể sử dụng cho mục tiêu đầu tư phát triển. Tính chất ưu đãi thể hiện ở khía cạnh đó là: lãi suất thấp, thời hạn cho vay dài. Nhật Bản cho Việt Nam vay trong thời gian là 30 năm, Ngân hàng thế giới là 40 năm; thời gian ân hạn từ khi vay đến khi trả vốn gốc đầu tiên khá dài, khoảng từ 5-10 năm trở lên, Nhật Bản ân hạn là 10 năm.
- Viện trợ hỗn hợp: bao gồm phần cấp không và phần còn lại thực hiện theo hình thức vay tín dụng ( có thể ưu đãi hoặc bình thường ).
* Đặc điểm của nguồn vốn ODA.
- ODA là nguồn vốn tài trợ ưu đãi của nước ngoài mà các nhà tài trợ không trực tiếp điều hành dự án nhưng có thể gián tiếp tham gia dưới hình thức nhà thầu hoặc chuyên gia. Danh mục các dự án ODA phải có sự thoả thuận với nhà tài trợ.
- ODA gồm: viện trợ không hoàn lại và viện trợ có ưu đãi nhưng nếu quản lý và sử dụng kém hiệu quả thì nó sẽ là gánh nặng nợ trong tương lai.
- Các nước nhận viện trợ ODA phải có đủ 1 số điều kiện nhất định thì mới được nhận viện trợ. Điều này tuỳ thuộc vào quy định của từng nhà tài trợ. Ví dụ: để nhận tài trợ ưu đãi của IMF nước chủ nhà phải có cổ phần đóng góp vào IMF và số tiền vay sẽ phụ thuộc vốn cổ phần.
- Chủ yếu dành hỗ trợ cho dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng như: giao thông vận tải, y tế giáo dục…
- Các nhà tài trợ là các tổ chức viện trợ là các tổ chức viện trợ đa phương và các tổ chức viện trợ song phương... Các nước cung cấp viện trợ nhiều nhất hiện này là Mỹ, Nhật, Pháp, Anh, Úc, Thuỵ Điển...
1.2.2.2.2. Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế.
Tín dụng thương mại là nguồn vốn mà các nước nhận vốn vay sau một thời gian sẽ phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi cho nước cho vay, các nước cho vay nhận lợi nhuận thông qua lãi suất tiền vay.
Khi sử dụng nguồn vốn tín dụng thương mại, các nước tiếp nhận vốn không phải chịu bất cứ sự ràng buộc nào về chính trị xã hội và có toàn quyền sử dụng vốn vay này. Tuy nhiên, điều kiện ưu đãi của nguồn vốn này không dễ dàng như đối với nguồn vốn ODA, thủ tục vay lại tương đối khắt khe và nghiêm ngặt, có những quy định riêng về thời gian trả nợ, cộng với lãi suất cao nên gây cản trở không nhỏ đối với các nước nghèo.
Đây là nguồn vốn vay với lãi suất thương mại, được đánh giá là lãi suất tương đối cao, thêm vào nữa là sự thận trọng trong kinh doanh ngân hàng nên nguồn vốn tín dụng thương mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có thể được dùng cho mục đích đầu tư phát triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng của các nước đi vay là có triển vọng. Tuy nhiên, nếu các nước tiếp nhận không sử dụng hiệu quả nguồn vốn này thì khả năng xảy ra tình trạng mất khả năng chi trả dẫn đến vỡ nợ là rất cao.
1.2.2.2.3.Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là hình thức quốc tế mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào quá trình sản xuất kinh doanh để trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý vào quá trình sử dụng và thu hồi vốn bỏ ra.
Đây là nguồn vốn quan trọng không chỉ đối với các quốc gia phát triển mà cả với những quốc gia đang phát triển. Theo báo cáo Đầu tư Thế giới năm 2005 của Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên hợp quốc (UNCTAD) thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) của các nước đang phát triển đã lên tới 233 tỷ USD, tăng 40% so với năm 2003. Lượng FDI đổ vào các nước phát triển lại giảm 14%, chỉ còn 380 tỷ USD. Tuy nhiên Mỹ vẫn là nước nhận được FDI nhiều nhất thế giới, sau đó là Anh. Thu hút FDI ở châu Á và châu Đại Dương đó đạt được 148 tỷ USD trong năm 2004, cao hơn 46 tỷ USD so với năm 2003 và trở thành nơi tiếp nhận nhiều FDI nhất trong các khu vực đang phát triển. Trung Quốc một lần nữa là nước tiếp nhận nhiều FDI nhất so với các quốc gia trong khu vực châu Á. Lượng FDI vào nước này trong năm ngoái đó đạt con số kỷ lục mới là 60,6 tỷ USD. Lượng FDI đổ vào khu vực Đông Nam Á cũng tiếp tục tăng, từ 17 tỷ USD năm 2003 lên 26 tỷ USD năm 2004.
* Đặc điểm của nguồn vốn FDI.
- Việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho các nước tiếp nhận.
- Khi đầu tư vào một nước nào đó, chủ đầu tư không chỉ chuyển giao vào nước đó vốn bằng tiền mà còn chuyển giao cả vốn hiện vật như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu... (công nghệ cứng) và vốn vô hình như chuyên gia kĩ thuật - công nghệ, tri thức khoa học, bí quyết quản lý, năng lực tiếp cận thị trường...(công nghệ mềm)
- Nâng cao trình độ nguồn nhân lực, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động... vào các nước tiếp nhận.
1.2.2.2.4. Thị trường vốn quốc tế.
Trái phiếu quốc tế: là trái phiếu phát hành bằng đồng tiền không phải là đồng tiền Nhà nước, có nhà phát hành để vay vốn các nhà đầu tư nước ngoài. Việc phát hành các trái phiếu chính phủ ra thị trường vốn quốc tế của các quốc gia nhằm huy động vốn cho đầu tư phát triển hoặc bù đắp thiếu hụt về cán cân thương mại quốc tế. Trái phiếu chính phủ cho phép các quốc gia huy động vốn với khối lượng lớn, kỳ hạn dài. Ưu điểm của trái phiếu quốc tế cũng như việc đi vay trong thị trường tài chính trong nước như nhà phát hành có khả năng độc lập về tài chính, có thể chủ động sử dụng vốn vay mà không bị phụ thuộc bởi những điều kiện đặt ra từ người cho vay. Tuy nhiên, việc phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường vốn quốc tế có những đặc điểm riêng cơ bản như:
- Thị trường trái phiếu chính phủ chịu ảnh hưởng của sự biến động của thị trường vốn quốc tế, chịu sự ảnh hưởng cuả nền kinh tế thế giới và nhất là sự phát triển kinh tế của các nước có ngoại tệ được sử dụng để định giá trái phiếu hoặc khu vực nơi phát hành trái phiếu..
- Trái phiếu chính phủ chịu sự biến động của tỷ giá ngoại tệ. Trái phiếu quốc tế có thể mua bằng ngoại tệ, vay nợ và trả nợ bằng ngoại tệ nên khả năng các quốc gia gặp rủi ro trong trả nợ bằng ngoại tệ là rất cao.
- Trái phiếu chính phủ không thể giãn nợ hoặc hoãn nợ, bắt buộc các quốc gia phải bố trí vốn hoàn trả khi đáo hạn.
- Việc phát hành trái phiếu chính phủ phải tuân thủ những luật pháp và thông lệ quốc tế, vậy nên yêu cầu phải có được sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ khi 2 bên ký kết hợp đồng.
Đối với trái phiếu của Việt Nam, những đặc điểm trên là những đặc điểm cần được lưu ý trong khi phát hành bởi trái phiếu của chúng ta vẫn còn non trẻ (chỉ chính thức phát hành từ năm 2005). Do vậy, cùng với việc học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước, chúng ta phải cố gắng để nâng cao định mức tín nhiệm quốc gia.
Tóm lại, cơ cấu các nguồn vốn đầu tư được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Cơ cấu vốn đầu tư ở Việt Nam
Tổng số
2001
2002
2003
2004
2005
2006
NSNN
23.6%
22.7%
23.7%
22.8%
21.9%
22.5%
Tín dụng TM
16.8%
16%
12.5%
10.9%
9.2%
9.1%
DN nhà nước
17%
16.8%
13.9%
14.8%
15.3%
15.2%
Vốn ngoài quốc doanh
25%
27.2%
29.7%
31.8%
33%
32.4%
Vốn FDI
17.6%
17.3%
16.3%
16.1%
16.3%
15.4%
Vốn khác
-
-
3.9%
3.6%
4.3%
5.4%
Vốn đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước phân theo nguồn vốn
Tổng số
Chia ra
Vốn ngân sách Nhà nước
Vốn vay
Vốn của các doanh nghiệp Nhà nước và nguồn vốn khác
Giá thực tế
Tỷ đồng
1995
30447
13575
6064
10808
1996
42894
19544
8280
15070
1997
53570
23570
12700
17300
1998
65034
26300
18400
20334
1999
76958
31763
24693
20502
2000
89417
39006
27774
22637
2001
101973
45594
28723
27656
2002
114738
50210
34937
29591
2003
126558
56992
38988
30578
2004
139831
69207
35634
34990
2005
161635
87932
35975
37728
2006
185102
100201
37000
47901
Sơ bộ 2007
208100
106200
41000
60900
2. Đặc điểm của ngành dầu khí và vấn đề huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí.
2.1. Đặc điểm của ngành dầu khí.
“Dầu khí” là thuật ngữ gọi tắt cho “dầu mỏ” và “khí đốt”. Chúng là những hợp chất hữu cơ tự nhiên. Riêng khí đốt còn gọi là khí tự nhiên. Khí này tồn tại cùng với dầu thô gọi là “khí đồng hành”. Dầu khí không chỉ là nhiên liệu mà còn là nguyên liệu nên nó ảnh hưởng rất lớn đối với nền kinh tế thế giới. Khác với than đá, hay các khoáng sản khác, việc thăm dò - khai thác chế biến phân phối dầu thô đã rất nhanh chóng mang tính toàn cầu. Do đó về mặt công nghệ, trình độ công nghiệp dầu khí ở tất cả các nước đều gần như nhau, không phân biệt đó là nước phát triển cao hay lạc hậu.
Ngành dầu khí là ngành công nghiệp bao gồm rất nhiều công đoạn không những thăm dò, khai thác mà còn phải chế biến từ dầu thô trở thành dầu tinh. Theo thông lệ, ngành dầu khí được chia là ba nhóm loại hình hoạt động gọi là thượng nguồn, trung nguồn, và hạ nguồn. Nhóm thượng nguồn gồm các hoạt động nghiên cứu địa chất, tìm kiếm, thăm dò, khai thác mỏ. Nhóm trung nguồn gồm các hoạt động tàng trữ vận chuyển. Và nhóm hạ nguồn gồm các hoạt động xử lý, chế biến (lọc dầu, hoá dầu, hoá khí) và phân phối. Ba nhóm này có những đặc điểm riêng nhưng gắn kết với nhau tạo thành một vòng khép kín của một ngành công nghiệp hoàn chỉnh.
Trong ngành công nghiệp dầu khí để khai thác được một tấn sản phẩm thì phải mất nhiều năm từ việc thăm dò khai thác, khảo sát địa chất công trình, thẩm định trữ lượng, đánh giá tiềm năng, phát triển đưa mỏ vào khai thác cũng phải qua rất nhiều công đoạn. Thêm vào đó điều kiện địa lý thiên nhiên ngày càng xấu đi, việc khai thác vận chuyển đòi hỏi chi phí tăng nhanh. Nói cách khác, đối với ngành dầu mỏ càng khai thác được nhiều thì ngày càng khó khai thác. Một vấn đề nữa của ngành dầu khí là công nghệ rất hiện đại, vốn đầu tư cực kỳ lớn, rủi ro cao, lợi nhuận nhiều và tính quốc tế cao. Vì các đặc điểm đó mà cho đến giữa thế kỷ 20, ngành này hoàn toàn nằm trong tay các nước phát triển cao, cùng các tập đoàn siêu quốc gia mang tính độc quyền. Cho nên các quốc gia đang phát triển dù có một tiềm năng lớn về tài nguyên dầu khí thì vấn đề phát triển dầu khí vẫn còn khó khăn.
2.2. Sự cần thiết phải huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí ở Việt Nam.
Từ nhiều năm nay dầu khí là một trong những ngành đầu tư hấp dẫn nhất. Kim ngạch xuất khẩu dầu khí chiếm tỷ lệ đáng kể và đóng góp quan trọng đối với nền kinh tế nước. Trong lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí, đặc biệt là trong môi trường thềm lục địa và tiềm năng dầu khí của Việt Nam, cơ hội đầu tư có nhiều nhưng vốn đầu tư có hạn. Vì ._.vậy vấn đề huy động vốn đầu tư vào phát triển ngành dầu khí không những phục vụ cho lĩnh vực thăm dò khai thác dầu thô, mà điều quan trọng nữa là chúng ta cần vốn để trang bị công nghệ, kiến thức tơi tinh lọc dầu. Khi đó mới hy vọng đất nước đi theo con đường CNH - HDH mà ngành dầu khí là ngành dẫn đầu.
Nếu đặt nền kinh tế Việt Nam trong quỹ đạo kinh tế thế giới: ta thấy hiện nay năng lượng và nhiên liệu luôn được coi là đầu tàu cho sự phát triển kinh tế - xã hội, vậy mà vẫn chưa tìm ra một năng lượng, nhiên liệu nào thay thế than, dầu khí. Theo các chuyên gia của OPEC, nhu cầu tiêu thụ dầu của thế giới trong 20 năm nữa sẽ tăng lên khoảng hơn 113 triệu thùng/ngày, số lượng xăng dầu sử dụng tăng rất nhiều so với hiện nay. Các chuyên gia dự tính năm nay, thế giới sẽ tiêu thụ bình quân khoảng gần 87 triệu thùng/ngày. Theo nhận định của các chuyên gia, trong những năm tới, các nước đang phát triển sẽ tiêu thụ xăng dầu nhiều hơn so với các nước phát triển. Lượng tiêu thụ dầu mỏ của thế giới tăng từ 83 triệu thùng/ngày năm 2004, lên 84.9 triệu thùng /ngày năm 2006, 85.7 triệu thùng ngày năm 2007.
Sơ đồ sau đây là dự báo ngắn hạn
Cũng theo EIA, đến năm 2030, lượng tiêu thụ sẽ là khoảng 118 triệu thùng/ngày, trong đó 2/3 lượng tăng trưởng này được dành cho khu vực vận tải.
Chính vì nhu cầu cao về dầu trên thế giới Việt Nam cần có sự ưu tiên trong vấn đề khai thác dầu khí, nguồn năng lượng mà thiên nhiên ban tặng.
Một thực tế ở Việt Nam hiện nay trong vấn đề phát triển ngành dầu mỏ là: chúng ta chỉ mới tập trung thăm dò và khai thác dầu khí, còn khâu chế biến thành dầu tinh hầu như ta chưa có khả năng. Một trong những nguyên nhân của vấn đề này là ta chưa có nguồn vốn đủ lớn để tập trung công nghệ và trí tuệ chế biến dầu tinh. Mặt khác nếu chỉ riêng vấn đề khai thác thăm dò và khai thác chúng ta vẫn gặp nhiều trở ngại do thiếu vốn, thiếu máy móc thiết bị. Vì vậy việc huy động vốn vào ngành dầu khí là việc cần thiết.
Chương II: Thực trạng tình hình huy động vốn đầu tư vào ngành Dầu khí ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.
1. Thực trạng huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí ở Việt Nam.
1.1. Tình hình phát triển ngành dầu khí ở Việt Nam những năm qua.
Ngành dầu khí Việt Nam đến nay đã được xây dựng hoàn chỉnh, bao gồm các hoạt động đầu tư thượng nguồn đến hạ nguồn. Các tổ chức được xếp vào Tập đoàn dầu khí Việt Nam là:
Tổng công ty Tài chính Dầu khí (PVFC)
Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm Dầu khí (PV Insurance)
Tổng công ty Cổ phần Dịch vụ - Kỹ thuật Dầu Khí (PTSC)
Tổng công ty thăm dò khai thác Dầu khí (PVEP)
Tổng công ty cổ phần Vận tải Dầu khí (PV Trans)
Tổng công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam (PVPC)
Tổng công ty cổ phần khoan và dịch vụ khoan dầu khí (PV Drilling)
Tổng công ty cổ phần dịch vụ tổng hợp dầu khí ( PETROSETCO)
Tổng công ty khí Việt Nam (PV GAS)
Tổng công ty TNHH một thành viên Thương mại Dầu khí(PETECHIM CORP)
Công ty cổ phần bất động sản Dầu khí (PETROWACO)
Công ty Cổ phần Chế tạo giàn khoan Dầu khí (PVSHIPYARD)
Công ty cổ phần Chứng khoán Dầu Khí (PV Securieties)
Công ty cổ phần Dầu khí Tản Viên (PVT)
Công ty cổ phần đầu tư Dầu khí Sao Mai - Bến Đình (PVSB)
Công ty Cổ phần Đầu tư hạ tầng và Đô thi Dầu Khí (Petroland)
Công ty cổ phần đầu tư khu CN DK - IDICO Long Sơn - (PIV - Long Son J.S.C)
Công ty Cổ phần đầu tư phát triển KCN và Đô thị IDICO - Dầu khí
Công ty Cổ phần Đầu tư PV INCONESS (PVI)
Công ty cổ phần đầu tư tài chính công đoàn Dầu khí (PVFI)
Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại Dầu khí Sông Hồng (PVSH)
Công ty cổ phần Dịch vụ - Vận tải Dầu khí Cửu Long (CGT J.S.C)
Công ty cổ phần dung dịch khoan và hoá phẩm dầu khí (DMC JSC)
Công ty Cổ phần kinh doanh khí hoá lỏng Miền Bắc (PVGAS NORTH)
Công ty Cổ phần kinh doanh khí hoá lỏng Miền Nam (PVGAS SOUTH)
Công ty Cổ phần Kinh doanh kho chứa khí hoá lỏng Vũng Tàu (PGS)
Công ty cổ phần Phân đạm và Hóa chất Dầu khí (PVFCCo)
Công ty cổ phần phân phối khí thấp áp (PVGAS DJSC)
Công ty cổ phần Truyền thông Dầu khí (PV Media)
Công ty cổ phần Tư vấn đầu tư và Thiết kế Dầu khí (Petrovietnam Engineering JSC)
Công ty cổ phần xây dựng Dầu Khí Nghệ An (PVNC)
Công ty cổ phần xây lắp dầu khí (PV Construction)
Công ty du lịch dầu khí Phương Đông (PTC)
Công ty nhựa và hoá chất Phú Mỹ (PMPC)
Công ty TNHH 1 thành viên Quản lý và Khai thác tài sản Dầu (PVA)
Công ty TNHH dầu khí Mê Kông (PETROMEKONG)
Công ty TNHH một thành viên Chế biến và Kinh doanh sản phẩm dầu mỏ(PDC Co Ltd)
Công ty TNHH một thành viên Cung ứng Nhân lực và Dịch vụ Dầu Khí (PETROMANNING)
Công ty TNHH một thành viên điện lực Dầu khí Cà Mau (PVCMPC)
Viện Dầu Khí Việt Nam (VPI)
Công ty Cổ phần Điện lực Dầu khí Nhơn Trạch 2 (PVNT2)
Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Chế biến Dầu khí (PVPro)
Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển An toàn và Môi trường Dầu Khí (RDCPSE)
Trung tâm thông tin tư liệu Dầu khí (PIC)
Trung tâm Công nghệ thông tin, Viễn thông & Tự động hoá (PITAC)
Trung tâm lưu trữ Dầu khí (PAC)
Trung tâm ứng phó sự cố tràn dầu khu vực Miền Nam - (Petrovietnam NAOS)
Trường đào tạo nhân lực Dầu khí (PVMTC)
Ban chuẩn bị đầu tư Công trình đường ống dẫn khí Lô B - Ô Môn
Ban chuẩn bị đầu tư công trình Liên hợp Lọc Hóa Dầu Nghi Sơn
Ban chuẩn bị đầu tư Nhà máy lọc dầu số 3
Ban quản lý các dự án thuỷ điện
Ban quản lý dự án Các công trình xây dựng phía Bắc
Ban quản lý dự án các công trình xây dựng phía nam
Ban quản lý dự án cụm Khí điện đạm Cà Mau (CPMB)
Ban quản lý dự án Khí Điện Nhơn Trạch
Ban quản lý dự án nhà máy lọc dầu Dung Quất (DQR)
Ban quản lý dự án nhà số 1 & 5 Lê Duẩn
Ban Quản lý Dự án Trung tâm Thương mại Dầu khí Hà Nội (PVTC)
Ban trù bị thành lập Ngân hàng thương mại cổ Dầu khí (PV-Bank)
Một thực tế là Việt Nam có một tiềm năng dầu khí không phải là nhỏ. Cùng với việc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, ngành dầu khí Việt Nam cũng từng bước phát triển. Từ chỗ phải nhập từng lít dầu hoả để thắp đèn, sau 34 năm thành lập, Tập đoàn dầu khí Việt Nam đã đưa ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam phát triển tương xứng với tiềm năng của nó.
Ta xem xét tình hình phát triển của ngành dầu khí Việt Nam trong những năm qua:
“Ở hoạt động tìm kiếm thăm dò” với phương châm chủ yếu là phát huy nội lực, kết hợp tăng cường hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư về khoa học và công nghệ của nước ngoài. Với mục tiêu xác định tiềm năng và gia tăng trữ lượng dầu khí, phát hiện thêm nhiều mỏ mới, đảm bảo nhu cầu về sản lượng dầu khí cho đất nước, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đã không ngừng mở rộng khu vực tìm kiếm, thăm dò thông qua các hợp đồng phân chia sản phẩm, hợp đồng liên doanh, hợp đồng điều hành chung hoạt động tự đầu tư, tự điều hành tìm kiếm thăm dò, có nhiều phát hiện quan trọng, đưa nhanh các mỏ đã được phát hiện vào khai thác và áp dụng các công nghệ tiên tiến để nâng cao sản lượng, tăng hệ số thu hồi dầu khí, bảo vệ môi trường tài nguyên. Kết quả công tác tìm kiếm thăm dò cho đến nay đã xác định được bể trầm tích Đệ Tam có triển vọng dầu khí: Sông Hồng, Phú Khánh, Cửu Long, Nam Côn Sơn, Malay - Thổ Chu, Tư Chính – Vũng Mây, nhóm bể Trường Sa và Hoàng Sa, trong đó các bể Cửu Long, Nam Côn Sơn, Malay - Thổ Chu và Sông Hồng gồm cả đất liền (miền võng Hà Nội) đã phát hiện và đang khai thác dầu khí. Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đã tiến hành khảo sát trên 300 nghìn km tuyến địa chấn 2D, gần 40 nghìn km2 địa chấn 3D, khoan 600 giếng tìm kiếm, thăm dò, thẩm lượng và khai thác với tổng số mét khoan trên 2.0 triệu km. Một số giếng khoan có phát hiện dầu khí quan trọng trong thời gian gần đây đã mở các quan điểm tìm kiếm thăm dò mới, gia tăng trữ lượng dầu khí, tạo ra sự quan tâm của các nhà đầu tư: phát hiên khí tại giếng Đông Quan D-1X, vùng trũng Hà Nội, phát hiện dầu tại giếng Rồng Tre 1X, lô 11-2, phát hiện dậu tại GK 16-1-TGT-1X lô 16-1 và 15-1-SN-1X lô 15-1, 15-R, 103-BAL-1X, 12E-CS-1X đảm bảo gia tăng trữ lượng 35-40 triệu tấn quy dầu/ năm. Bên cạnh việc mở rộng hoạt động thăm dò, khai thác ở trong nước, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đã và đang triển khai thành công hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác ở nước ngoài để đánh giá tiềm năng dầu khí tổng thể của Việt Nam, quy hoạch khí tổng thể, nghiên cứu địa lý, vật lý vùng thềm lục địa Việt Nam... Tổng công ty đã triển khai một số đề án độc lập đạt kết quả tốt, khẳng định trình độ, khả năng quản lý và điều hành của mình. Như ở Inđônêxia (lô Madura I và II), Malaysia (lô PM 304, SK-305), Angiêri (lô 433a và 416b), Irắc, Mông Cổ, bước đầu mang lại những thành công đáng khích lệ như việc khai thác dầu từ Cendoz (lô PM-304 Malaysia), phát hiện mới các mỏ dầu ở Lô SK-305 (Malaysia) hay lô 433a và 416b (Angiêri. Ngoài ra, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam còn đang tích cực nghiên cứu đánh giá tìm kiếm các cơ hội đầu tư tại một số khu vực có tiềm năng ở Châu Phi, Nam Mỹ, Trung Đông, Đông Nam Á và các nước thuộc Liên Xô cũ
“Ở hoạt động khai thác dầu khí” Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam hiện đang khai thác dầu khí tại 09 mỏ ở trong nước và ngoài nước : Bạch Hổ, Rồng, Đại Hùng, PM3-CAA/Cái Nước, Hồng Ngọc, Rạng Đông, Lan Tây – Lan Đỏ, Tiền Hải C, mỏ Sư Tử Đen, Rồng Đôi, Rồng Đôi Tây, Cendoz thuộc lô PM-304, Malaysia. Sản lượng khai thác trung bình của Tập đoàn Dầu khí đạt trên 350 nghìn thùng dầu thô/ngày và khoảng 18 triệu m3 khí/ngày. Tính đến hết 12/2006 đã khai thác trên 235 triệu tấn quy trong đó dầu thô đạt trên 205 triệu tấn; thu gom, vận chuyển vào bờ và cung cấp 30 tỷ m3 khí cho sản xuất điện, sản xuất đạm và các nhu cầu dân sinh khác.
“Về công nghiệp khí”: được triển khai tích cực theo quy hoạch tổng thể. Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đã và đang triển khai hàng loạt các dự án khí và điện với quy mô càng lớn, đa dạng và phức tạp, trên diện rộng nhằm không những đáp ứng nhu cầu khí cho điện mà còn đáp ứng các nhu cầu khí cho côngnghiệp hoá chất, phân bón, giao thông vận tải, vật liệu xây dựng v.v. Hai hệ thông vận chuyển khí Rạng Đông Bạch Hổ và Nam Côn Sơn vận hành ổn định, an toàn và phát huy hiệu quả, cung cấp trên 18 triệu m3 khí/ngày cho sản xuất điện, phân đạm và sản xuất công nghiệp, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng và lương thực quốc gia. Các dự án: Hệ thống đường dẫn khí Phú Mỹ Nhơn Trạch (dự kiến bắt đầu cung cấp khí vào đầu năm 2008); hệ thống đường dẫn khí PM3 – Cà Mau (dự kiến cung cấp khí vào đầu năm 2007); hệ thống đường ống dẫn khí lô B – Ô môn (dự kiến sẽ được vận hành vào năm 2009), sẽ đưa ngành công nghiệp khí Việt Nam lên một mức phát triển mới đóng góp sâu rộng hơn vào sự nghiệp hiện đại hoá công nghiệp hoá đất nước. Có thể tóm lược tình hình triển khai các dự án khí - điện trong các năm qua theo các khu vực, lĩnh vực sau:
Tháng 5/1995 hệ thống vận chuyển khí Rạng Đông Bạch Hổ bắt đầu từ khí đồng hành Bạch Hổ cấp khoảng 350.000 tấn, đáp ứng khoảng 40% nhu cầu tiêu dùng trong nước.
Năm 2002, công suất của hệ thống khí Bạch Hổ một lần nữa được nâng lên khi khí đồng hành từ mỏ Rạng Đông được kết nối với hệ thống khí Bạch Hổ để đưa vào bờ sử dụng qua Đường ống Rạng Đông, Bạch Hổ với chiều dài 46.5 km và đường kính 16 inch. Công suất của hệ thống khí Bạch Hổ đạt 2 tỷ m3/năm, lượng khí đưa vào bờ sử dụng đạt từ 4 đến 5 triệu m3. Công trình trạm nén áp lực khí cung cấp cho các Nhà máy điện Phú Mỹ tại Dinh Cố, nhằm đảm bảo hệ thống hoạt động một cách hiệu quả trong điều kiện vận hành mới đã được lắp đặt và đưa vào hoạt động. Hai công trình mới này cũng còn là mốc khởi đầu của việc thu gom, vận chuyển khí từ các mỏ khác trong khu vực bể Cửu Long. Dự án đường ống Phú Mỹ, Nhơn Trạch với công suất vận chuyển 2 tỷ m3/năm đang trong giai đoạn triển khai xây dựng góp phần mở rộng thị trường tiêu thụ khí của khu vực miền Đông Nam Bộ. Cũng với việc đầu tư xây dựng các dự án trong lĩnh vực trung và hạ nguồn nêu trên, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đang cùng đối tác nước ngoài lập kế hoạch Phát triển mỏ Emerald, Ruby, Cá Ngừ Vàng, Phương Đông thuộc bể Cửu Long, đồng thời nghiên cứu phương án thu gom khí đồng hành của mỏ dầu Sư Tử Đen, Vàng, Nâu, Trắng .v.v. nhằm duy trì sản lượng đưa khí vào bờ khi khả năng cung cấp khí của mỏ Bạch Hổ giảm xuống.
Hệ thống khí Nam Côn Sơn chính thức được triển khai ngày 15/12/2000 khi dự án được cấp giấy phép đầu tư. Dự án khí Nam Côn Sơn bao gồm các hạng mục công trình như sau: Phát triển lô 06.1 tại mỏ Lan Tây, Lan Đỏ có công suất khai thác 10.048.000 m3 khí/ngày đêm đã được cải hoán nâng công suất khai thác lên tới 15 triệu m3 / ngày đêm; Đường ống dẫn khí ngoài khơi dài 362km, đường khính 26 inch, công suất vận chuyển tối đa đạt 7 tỷ m3/năm; Trạm tiếp nhận xử lý khí tại Dinh Cố có công suất xử lý khí trong giai đoạn 1 là 10.048.000 m3 khí / ngày đêm đã được cải hoán công suất lên 15 triệu m3/ngày đêm và đang mở rộng dây chuyền 2 để nâng công suất tổng cồng lên 20 triệu m3/ngày đêm; Tuyến đường ống dẫn khí trên bờ với tổng chiều dài 38km, với 2 đoạn: khí cao áp từ Long Hải tới Dinh Cố có đường kính 26 inch, dài 9km và đoạn vận chuyển khí thành phẩm từ Dinh Cố tới Phú Mỹ với đường kính 30 inch, dài 29km; Trung tâm phân phối khí Phú Mỹ. Như vậy, cùng với hệ thống khí Bạch Hổ, sự hình thành hệ thống khí Nam Côn Sơn đang trở thành cột sống của nền công nghiệp khí Việt Nam, đóng góp đáng kể cho ngân sách Nhà nước, hứa hẹn đảm bảo khả năng cung cấp khí lên tới 6-10 tỷ m3/năm trong các năm 2006-2010 tại khu vực miền Đông Nam Bộ.
Các kết quả thăm dò khả quan ở thềm lục địa phía Nam và Tây Nam Bộ của Việt Nam cũng như tại các khu vực chống lấn giữa Việt Nam và Malaysia, đã cho phép Tập đoàn Dầu khí đầu tư và xây dựng các kế hoạch phát triển khu công nghiệp Khí - Điện - Đạm Cà Mau. Dự án đường ống dẫn khí PM3-Cà Mau dài 328km đường kính 18” có công suất vận chuyển 2 tỷ m3/năm và nhà máy điện Cà Mau I công suất 750 KW sẽ được đưa vào khai thác sử dụng vào năm 2007 và nhà máy điện Cà Mau II có công suất tương tự như Cà Mau I vào năm 2008. Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam cùng nhà thầu Chevron đang triển khai phát triển lô B, 52/97, 48/95. Dự kiến sẽ xây dựng tuyến đường ống dẫn khí nồi từ khu mỏ này đến Ô Môn và Cà Mau, đây sẽ là tuyến ống huyết mạch có thể dùng để kết nối mạng Đông Tây và Đường ống xuyên các nước Đông Nam Á.
Về lĩnh vực chế biến lọc hoá dầu: Một loạt dự án chế biến dầu khí quan trọng đã và đang được Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam triển khai tích cực. Nhà máy sản xuất phân đạm Phú Mỹ - một trong những dự án hoá khí đầu tiên của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam trong lĩnh vực hạ nguồn – đã đi vào hoạt động chính thức từ đầu tháng 9/2004 cung cấp phân bón phục vụ nông nghiệp của đất nước. Dự án nhà máy lọc dầu Dung Quất – Quảng Ngãi có công suất 6.5 triệu tấn/năm đang trong giai đoạn xây dựng. Dự án Liên hợp lọc hoá dầu Nghi Sơn – Thanh Hoá đang trong giai đoạn lựa chọn đối tác tham gia. Dự án nhà máy lọc dầu phía Nam đang xúc tiến triển khai kêu gọi đầu tư. Dự án nhà máy sản xuất phân đạm Cà Mau (trong cụm Khí Điện - Đạm Cà Mau) đang trong giai đoạn lựa chọn nhà thầu EPC. Những công trình này sau khi xây dựng xong sẽ đáp ứng cơ bản nhu cầu của thị trường nội địa về sản phẩm lọc, hoá dầu và phục vụ cho xuất khẩu. Cùng với sự phát triển của công nghiệp lọc hoá dầu, các ngành công nghiệp khác, đặc biệt là hoá dầu cũng phát triển. Trước mắt là ngành công nghiệp sử dụng khí thiên nhiên và khí đồng hành. Ngoài việc sử dụng cho sản xuất điện và các nhu cầu nhiên, nguyên liệu trong sinh hoạt và công nghiệp, khí thiên nhiên sẽ là nguồn nguyên liệu rất quý giá để sản xuất methanol, ethylen làm nguyên liệu sản xuất các sản phẩm hoá dầu và amoniac để sản xuất phân đạm. Công nghiệp hoá dầu là một ngành công nghiệp rất mới đang được hình thành ở Việt Nam. Để đáp ứng nhu cầu thị trường và từng bước xây dựng ngành công nghiệp dầu khí hoàn chỉnh, hiện đại, phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam chủ chương phát triển ngành công nghiệp hoá dầu theo hướng đi từ việc nhập monomer từ nước ngoài về để sản xuất các sản phẩm hoá dầu trong giai đoạn đầu, sau đó tiến tới sử dụng nguyên liệu sản xuất trong nước qua việc hình thành và phát triển các tổ hợp hoá dầu trên cơ sở nguyên liệu từ dầu và khí, tạo thành một chu trình khép kín từ khâu lọc dầu đến khâu hoá dầu.
Tập đoàn Dầu khí đã và đang triển khai các dự án hoá dầu sau:
Các dự án đã đi vào hoạt động:
Dự án sản xuất nhựa PVC công suất 100.000 tấn/năm. Liên doanh giữa Petrovietnam (43%), Petronas (50%) và Tramatsuco (7%) đã chính thức đi vào hoạt động từ tháng 1/2003. Hiện nay, Petrovietnam đang đàm phán bán phần góp vốn của Petrovietnam cho công ty Thai Plastic & Chemicals (Thái Lan).
Dự án sản xuất DOP, công suất 30.000 tấn/năm, liên doanh giữa Petrovietnam (15%), LG và tổng công ty Hoá chất Việt Nam đã đi vào sản xuất từ tháng 1/1997.
Dự án nhà máy sản xuất phân đạm Phú Mỹ công suất 740.000 tấn urê/năm đã chính thức đi vào hoạt động từ tháng9/2004, đáp ứng khoảng 30% nhu cầu phân đạm trong nước, góp phần bình ổn thị trường, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
Các dự án đang triển khai:
Dự án Nhà máy sản xuất phân đạm Cà Mau công suất 800.000 tấn/năm, hiện đang trong giai đoạn đấu thầu EPC. Dự kiến đưa vào hoạt động cuối năm 2010.
Dự án Polypropylene, công suất 150.000 tấn/năm (tại Dung Quất). Dự án đầu tư hiệu chỉnh đã được phê duyệt, hiện đang đầu thầu EPC, với mục tiêu năm 2009 Nhà máy sẽ đi vào vận hành.
Dự án Tổ hợp hoá dầu miền Nam: Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đang cùng với Tập đoàn Sian Cement, Công ty Thai Platisc và Tổng công ty Hoá chất đang triển khai lập dự án đầu tư và chuẩn bị thành lập Công ty liên doanh.
Một số dự án khác đang trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư: LAB (nguyên liệu sản xuất chất tây rửa tổng hợp), PET (sơ sợi tổng hợp), Nhựa đường, sản xuất dung môi.
1.2. Quy mô và cơ cấu huy động vốn vào ngành Dầu khí ở Việt Nam.
1.2.1. Huy động vốn đầu tư trong nước.
Nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn với số lượng lớn, đồng thời khắc phục những hạn chế của các kênh huy động vốn truyền thống, trong những năm gần đây, các doanh nghiệp bắt đầu triển khai và thúc đẩy các kênh huy động vốn mới với tính chủ động cao.
Một trong những hình thức huy động vốn tốt nhất được Chính phủ cũng như các doanh nghiệp sử dụng là hình thức phát hành trái phiếu. Thông qua hình thức này, doanh nghiệp không những tạo tính chủ động, linh hoạt trong việc sử dụng các nguồn vốn mà còn tạo ra một danh mục đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
Trong giai đoạn 2005-2010 với chiến lược phát triển Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PetroVietnam) thành một tập đoàn kinh tế mạnh, hoạt động đa ngành đa lĩnh vực và thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế thành công, ước tính nhu cầu vốn cho phát triển ngành Dầu khí lên tới hàng chục tỷ USD. Một phần lớn nguồn vốn này được giao cho Tổng Công ty Tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam (PVFC) thu xếp qua các kênh huy động vốn, trong đó bao gồm phát hành trái phiếu của PetroVietnam và PVFC. Với vai trò là một định chế tài chính của PetroVietnam, các hoạt động kinh doanh của PVFC như tín dụng, đầu tư, đặc biệt đối với các dự án dầu khí, năng lượng luôn đòi hỏi nguồn vốn dài hạn, ổn định. Khi quy mô hoạt động của PVFC ngày càng phát triển thì việc cải thiện cơ cấu nguồn vốn theo hướng tăng tỷ trọng nguồn vốn trung, dài hạn một cách ổn định là một yêu cầu cấp thiết. Với chiến lược dài hạn từ nay đến 2015 và kế hoạch hoạt động kinh doanh năm 2008 đã được PVFC đề ra ngay từ đầu năm, với mục tiêu cấu trúc nguồn vốn của PVFC theo hướng bền vững, tăng dần tỷ trọng vốn trung dài hạn trong tổng nguồn vốn thì việc tăng cường huy động vốn trung dài hạn thông qua các hình thức huy động vốn trực tiếp và phát hành trái phiếu của PVFC là rất cần thiết. PVFC bắt đầu triển khai phát hành trái phiếu Tài chính Dầu khí từ năm 2006, từ đó thực hiện định kỳ hàng năm. Đến nay, PVFC phát hành được 3.290,6 tỷ đồng (quy đổi). Năm 2008, PVFC phát hành Trái phiếu Tài chính Dầu khí 2008 với tổng mệnh giá là 1.600 tỷ đồng (quy đổi); thời hạn trái phiếu là 3 năm; phát hành theo hình thức ghi sổ; lãi suất năm đầu đối với VND là 17,5%/năm, USD là 6,2%/năm; lãi suất từ năm thứ 2 được xác định bằng bình quân lãi suất huy động tiết kiệm 12 tháng lãi trả cuối kỳ (VND hoặc USD tương ứng) của 4 ngân hàng (VCB, BIDV, Vietinbank, Agribank) + 0,3%/năm.
Trái phiếu Tài chính Dầu khí 2008 có tính thanh khoản cao, được cầm cố, chiết khấu để vay vốn tại PVFC hoặc các tổ chức tín dụng khác và được tự do chuyển nhượng dưới các hình thức mua, bán, cho, tặng, thừa kế. Cùng với kinh nghiệm phát hành và khả năng quản lý, sử dụng vốn hiệu quả từ việc phát hành trái phiếu nhiều năm qua của PVFC, Trái phiếu Tài chính Dầu khí 2008 đã được các nhà đầu tư tin tưởng, gửi gắm vốn đầu tư của mình.
Chắc chắn rằng, cùng với bước tiến phát triển vững chắc và nhanh chóng của PVFC, Trái phiếu Tài chính Dầu khí sẽ khẳng định vị trí của mình trên thị trường tài chính tiền tệ. Đây cũng là một hình thức huy động vốn điển hình để các doanh nghiệp Việt Nam cùng học tập và phát huy trong bối cảnh thị trường nguồn vốn trong nước gặp nhiều khó khăn như hiện nay.
1.2.2. Huy động vốn đầu tư nước ngoài.
Theo thống kê thì năm 2006 Đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép năm 2006 phân theo ngành kinh tế vào ngành dầu khí tăng khá nhanh 8 dự án với tổng vốn đăng kí lên tới 144.3 triệu $.
Số dự án
Tổng vốn đăng kí
Vốn cấp mới
Vốn tăng thêm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép năm 2006 phân theo ngành kinh tế
8
144.3
118.6
25.7
(Niên giám thống kê 2006)
Tính từ năm 1989-2006 cả nước có 15 dự án từ nguồn vốn FDI trong đó bên Việt Nam góp số vốn cũng tương đương với bên ngước ngoài.
Số dự án
Tổng số vốn đăng kí
Tổng vốn điều lệ
Nước ngoài góp
Việt Nam góp
Đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép năm 1989-2006 phân theo ngành kinh tế
15
379
376.3
210.8
168.5
( Đơn vị: Triệu $) (Niên giám thống kê 2006)
Nhiều tập đoàn dầu khí lớn đang có kế hoạch đầu tư và mở rộng hoạt động tại Việt Nam. Ngoài số hợp đồng thăm dò khai thác được Tổng công ty Dầu khí Việt Nam (PetroVietnam) ký với các nhà thầu nước ngoài từ đầu năm đến nay, hai tập đoàn dầu khí lớn nhất đang hoạt động tại Việt Nam là BP và ConocoPhillips cũng đang xúc tiến các kế hoạch mở rộng hoạt động.
Tổng giám đốc BP Việt Nam, nói với báo giới rằng BP muốn tiếp tục hợp tác chặt chẽ với Chính phủ Việt Nam để có thể triển khai hiệu quả một số dự án mới và mở rộng các dự án hiện hữu trong 10 năm tới. BP tính toán họ và các đối tác sẽ cần khoảng 2 tỉ Đôla Mỹ, trong đó phần đầu tư của BP ước tính sẽ chiếm khoảng 1 tỉ Đôla. Nguồn vốn này sẽ được đầu tư vào việc nâng công suất khai thác mỏ khí Lan Tây & Lan Đỏ (lô 6.1), phát triển thêm mỏ khí Hải Thạch & Mộc Tinh (lô 5.2 và 5.3) và xây dựng một nhà máy điện tiêu thụ khí tại Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Hiện tại BP đang là nhà thầu điều hành dự án khí Nam Côn Sơn, có tổng vốn đầu tư 1,3 tỉ Đôla, và nắm 35% cổ phần khai thác tại lô 6.1 của dự án này. Lô 6.1 hiện có công suất khai thác là 3 tỉ mét khối khí/năm. Tổng giám đốc BP cho biết BP đang có kế hoạch đầu tư mở rộng giàn khoan khai thác để nâng công suất khai thác của lô 6.1 thêm 50% so với công suất thiết kế ban đầu vào giữa năm sau, nhằm tăng sản lượng cung cấp khí thiên nhiên cho các nhà máy điện vào năm 2010. Các đối tác đầu tư của BP tại lô 6.1 là ONGC (Ấn Độ) với 45% cổ phần và PetroVietnam với 20% cổ phần.
Ngoài ra, công ty cũng đang trong quá trình thảo luận để sớm triển khai dự án phát triển lô 5.2 và 5.3, nằm kế bên lô 6.1 với mục tiêu đưa khí vào bờ vào cuối thập kỷ này (2010). Mặc dù chưa xác định được số tiền đầu tư vào mỏ khí này nhưng BP cho biết đã đạt được sự nhất trí với các bên liên quan về lộ trình thực hiện cũng như những thỏa thuận cần được ký kết để có thể triển khai dự án.
Đầu năm 2007, BP, PetroVietnam, Tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN) và Bộ Công nghiệp (MOI) đã ký một biên bản hợp tác để phát triển một trung tâm điện lực tại Nhơn Trạch sử dụng khí khai thác từ lô 5.2 và 5.3. Trung tâm điện lực Nhơn Trạch dự kiến sẽ tiêu thụ 2,5 tỉ mét khối khí/năm và có công suất là 2.640 MW.
Tại đây, BP cũng có kế hoạch xây dựng một nhà máy điện với công suất gần tương đương với nhà máy điện Phú Mỹ 3 tại Bà Rịa - Vũng Tàu, để tạo thị trường tiêu thụ khí cho lô 5.2 và 5.3
Bên cạnh việc khai thác các mỏ khí và xây dựng nhà máy điện, BP cho biết họ cũng đang làm việc với các đối tác Việt Nam về khả năng đầu tư vào việc sản xuất khí hóa lỏng (LPG), một phân khúc thị trường rất có tiềm năng đối với chiến lược kinh doanh của công ty tại Việt Nam.
Tập đoàn Dầu khí ConocoPhillips (Mỹ), hiện nay đang là một trong những nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam với tổng số vốn giải ngân trong 10 năm qua đã lên tới 1 tỉ Đôla Mỹ, gần đây cũng tuyên bố trong 10 năm tới sẽ đầu tư tiếp khoảng hơn 1 tỉ Đôla cho các dự án khai thác dầu tại Việt Nam.
ConocoPhillips cho biết trong năm nay, công ty sẽ đầu tư khoảng 115 triệu Đôla để phát triển lô 15.1 bao gồm các mỏ dầu Sư Tử Đen, Sư Tử Trắng, Sư Tử Vàng và Sư Tử Nâu. Hiện tại mỏ Sư Tử Đen có công suất khai thác 70.000 thùng dầu/ngày và là mỏ dầu có công suất khai thác lớn thứ ba tại Việt Nam.
Tại Việt Nam, ConocoPhillips nắm giữ 23,25% cổ phần khai thác tại lô 15.1; 36% tại lô 15.2; 70% tại lô 133 và 134; 50% tại lô 5.3 và 16,33% tại dự án đường ống dẫn khí Nam Côn Sơn. Đại diện của ConocoPhillips tại Việt Nam cho biết khoản đầu tư trong 10 năm tới của tập đoàn này tại Việt Nam sẽ tập trung vào các dự án phát triển mỏ mà công ty có cổ phần khai thác.
Như vậy riêng vốn của hai tập đoàn dầu khí lớn là BP và ConocoPhillips đầu tư vào Việt Nam trong lĩnh vực dầu khí dự tính sẽ đạt hơn 2 tỉ Đôla trong vòng 10 năm tới. Các chuyên gia kinh tế nước ngoài dự báo đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam trong lĩnh vực dầu khí, một lĩnh vực sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài hơn cả, sẽ tiếp tục tăng mạnh trong những năm tới. Doanh thu từ ngành này hiện đang chiếm trên 25% tổng thu ngân sách của Việt Nam.
Hiện tại có khoảng 29 hợp đồng dầu khí đang có hiệu lực tại Việt Nam, bao gồm ba hợp đồng mới được ký kết cho bốn lô thuộc bể Phú Khánh trong nửa đầu năm nay, với sự góp mặt của hầu hết các tập đoàn dầu khí đứng đầu trên thế giới. PetroVietnam cho biết trong thời gian tới sẽ tiếp tục ký kết các hợp đồng đang mời thầu còn lại với các công ty nước ngoài.
Như vậy: Nguồn vốn huy động được vào ngành dầu khí ở Việt Nam trong thời gian qua là những con số không nhỏ, từ đó đã mang lại những kết quả khả quan trong ngành công nghiệp nói chung và ngành công nghiệp dầu khí nói riêng. Song ngành dầu khí như ta đã thấy đặc điểm của công nghiệp dầu khí là cần vốn lớn, chịu nhiều rủi ro, hơn nữa Dầu khí còn là ngành công nghiệp mũi nhọn của Việt Nam và tiềm năng vốn có của thiên nhiên ban tặng. Việt Nam trong thế kỷ 21 này cần có nhiều biện pháp để huy động vốn vào ngành dầu khí.
2. Đánh giá thực trạng huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí ở Việt Nam thời gian qua.
2.1. Những kết quả đạt được.
Như vậy. bằng những nỗ lực không nhỏ để huy động vốn đầu tư vào ngành Dầu khí và nhờ tiếp xúc thường xuyên với các đối tác nước ngoài, công tác đào tạo cán bộ rất cần được coi trọng, nên PetroVietnam có thể nói là đơn vị kinh tế hội nhập khá thuận lợi vào ngành dầu khí thế giới. Trong nhiều năm liên tục công tác tài chính kế toán luôn đạt được những kết quả cao nhờ hoạt động sản xuất kinh doanh luôn phát triển vượt mức kế hoạch đề ra. Theo báo cáo giữa nhiệm kỳ của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (PV), từ năm 2006 đến 2008, PV đã duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế, trong đó các mặt thăm dò tìm kiếm dầu khí đã phát hiện thêm 11 phát hiện dầu khí mới, ký 33 hợp đồng dầu khí trong nước và nước ngoài.
Về khai thác đưa thêm 7 mỏ vào khai thác mới, tổng sản lượng đạt 69,82 triệu tấn quy dầu. Về công nghiệp khí điện hoàn thành đưa vào vận hành đường ống dẫn khí PM3 Cà Mau, Phú Mỹ- Nhơn Trạch, điện Cà Mau 1-2, Nhơn Trạch… Công nghiệp chế biến dầu khí đạm Phú Mỹ vận hành ổn định, cung cấp 35% nhu cầu đạm cho sản xuất trong nước, đạt 45% kế hoạch 5 năm 2006-2010. Lĩnh vực dịch vụ dầu khí như dịch vụ kỹ thuật, khoan, xây lắp, tài chính, bảo hiểm tốc độ tăng trưởng trên 20% năm đạt mục tiêu đề ra. Doanh thu của tập đoàn năm 2006-2008 đạt 689 ngàn tỷ đồng, bằng 134% kế hoạch 5 năm 2006-2010. Xuất khẩu PV đạt 29 tỷ USD. Thời báo Tài Chính Việt Nam, 6/11/2008, Thế Hùng Petrovietnam không hoàn thành kế hoạch khai thác dầu khí. Thời tiết xấu, thị trường vật tư tăng cao, trạng thái khai thác ở một số mỏ phức tạp… là nguyên nhân khiến Petrovietnam không hoàn thành mục tiêu… Tại cuộc họp giữa kỳ mới đây đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giai đoạn 2006-2010, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) đã thừa nhận không hoàn thành mục tiêu kế hoạch khai thác dầu khí đề ra cho giai đoạn 2006-2008. Theo Petrovietnam, do trạng thái khai thác ở một số mỏ diễn biến hết sức phức tạp, thời tiết diễn biến xấu, sản lượng khai thác từ các giếng ở các mỏ mới đưa vào khai thác không đạt được mức như dự kiến; cùng với diễn biến nóng của thị trường vật tư, dịch vụ dầu khí trên thế giới đã làm ảnh hưởng đến việc thực hiện kế hoạch sản lượng.
Bên cạnh đó, một nguyên nhân khác cũng làm ảnh hưởng tới mục tiêu kế hoạch giai đoạn 2006-2008 chính là do công tác mua các mỏ dầu khí ở nước ngoài tuy đã có cố gắng nhưng cơ hội đầu tư không nhiều và khả năng cạnh tranh quốc tế chưa cao nên từ năm 2006 đến tháng 9/2008. Petrovietnam không mua được một mỏ dầu nào của nước ngoài. Tuy nhiên, do giá dầu thô trong những năm qua luôn giữ ở mức cao nên với tổng sản lượng khai thác đạt 69,82 triệu tấn dầu qui đổi trong giai đoạn 2006-2008 (thấp hơn 5,91 triệu tấn so với kế hoạch), kim ngạch xuất khẩu và nộp ngân sách nhà nước vẫn hoàn thành trước thời hạn 2 năm. Dự kiến, đến hết năm 2008, Petrovietnam đạt kim ngạch xuất khẩu 28,7 tỷ USD, bằng 137% kế hoạch 5 năm 2006-2010 và nộp ngân sách nhà nước trên 16,5 tỷ USD bằng 134% kế hoạch 5 năm đề ra.
2.2. Những hạn chế còn tồn tại trong vấn đề huy động vốn và phát triển ngành dầu khí ở nước ta.
Một vấn đề bao giờ cũng có hai mặt của nó, bên cạnh những kết quả to lớn mà ngành dầu khí đã làm được, vẫn tồn tại._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22449.doc