Thực trạng và một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Hoàn Kiếm

Chương I: những vấn đề lý luận về hoạt động tín dụng trung dài hạn của ngân hàng thương mại 1.1/Ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng trung dài hạn của ngân hàng thương mại 1.1.1/ KHái quát chung về hệ thống Ngân hàng thương mại 1.1.1.1/Khái niệm ngân hàng thương mại. Trong xã hội, Ngân hàng có một vị trí quan trọng và tham gia vào hoạt động của nhiều thành phần kinh tế và dân cư.Lịch sử hình thành Ngân Hàng bắt đầu từ rất lâu.Ban đầu nó được hình thành từ những thương nhân làm dịch vụ

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1142 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giữ tiền hộ.Dựa trên tính vô danh của đồng tiền cho phép những thương nhân này chuyển từ việc giữ tiền hộ sang việc giữ hộ tiền và thu lệ phí và huy động vốn có trả lãi để khuyến khích người có tiền nhàn rỗi trong xã hội,rồi sử dụng số tiền đó để kinh doanh trực tiếp cho vay lấy lãi.Ngày nay Ngân Hàng Thương Mại được định nghĩa như sau: NHTM là một tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay đầu tư,thực hiện các nghiệp vụ thanh toán và các nghiệp vụ trung gian khác nhằm thu lợi nhuận tối đa trên cơ sở đảm bảo khả năng thanh khoản. NHTM giống các tổ chức kinh doanh khác là hoạt động nhằm mục đích thu lợi nhuận nhưng là tổ chức kinh doanh đặc biệt vì đối tượng kinh doanh là tiền tệ trong đó hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yêú được thực hiện bằng cách thu hút vốn trong xã hội để cho vay nhằm mục tiêu lợi nhuận cao nhất và rủi ro thấp nhất. 1.1.1.2/Hoạt động của Ngân Hàng Thương Mại trong nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà các mối quan hệ kinh tế ,phân phối sản phẩm,phân phối lợi ích do các quy luật của thị trường điều tiết chi phối. Kinh tế thị trường có những đặc điểm cơ bản sau: -Trong nền kinh tế thị trường,mỗi cá nhân,mỗi đơn vị kinh tế được tự do tổ chức các hoạt động sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật -Cạnh tranh là quy luật của thị trường. -Khách hàng giữ vị trí trung tâm của nền kinh tế. -Tất cả các mối quan hệ trong nền kinh tế đều được tiền tệ hoá. Xuất phát từ đặc trưng của nền kinh tế thị trường,từ đặc điểm kinh doanh tiền tệ cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật mà các ngân hàng hiện nay hoạt động theo hướng đa năng tập trung vào ba hoạt động chính sau đây: -Hoạt động huy động vốn. -Hoạt động cho vay đầu tư. -Hoạt động trung gian và các loại hình dịch vụ khác .Hoạt động huy động vốn. Hoạt động huy động vốn là một hoạt động quan trọng của các doanh nghiệp nói chung và đặc biệt là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ như ngân hàng.Hoạt động này bao gồm huy động các nguồn tiền gửi (tiền gủi tiết kiệm ,tiền gửi giao dịch và phi giao dịch),các khoản đi vay(vay từ dân cư,từ các tổ chức kinh tế,từ các NHTM và các tổ chức tín dụng khác),tiền nhận uỷ thác đầu tư,tiền góp vốn liên doanh. Ngoài ra các NHTM còn huy động vốn từ việc vay của ngân hàng nhà nước,vay trên thị trường liên ngân hàng hoặc vay từ các thị trường vốn lớn trên thế giới. Hoạt động huy động vốn có vai trò cung cấp đầy đủ và kịp thời các nguồn vốn phục vụ cho các hoạt động khác của ngân hàng. .Hoạt động cho vay và đầu tư. Đây là hoạt động cấp vốn cho nền kinh tế trên cơ sở an toàn số vốn đã cấp ra và số tiền thu được từ khoản vôn đã cấp phải lớn hơn tổng chi phí bao gồm các chi phí cho hoạt động huy động vốn cũng như các chi phí khác có liên quan. Trong hoạt động cho vay,thu nhập chủ yếu của ngân hàng là lãi cho vay,Các khoản cho vay có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau như thời hạn cho vay,đối tượng cho vay,tính chất bảo đảm của khoản vay…Thông thường người ta chia các khoản vay theo thời hạn của chúng là tín dụng ngắn hạn,tín dụng trung và dài hạn.Lãi suất cho vay trung và dài hạn thường cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn do các thời hạn vay dài hơn nên rủi ro cao hơn. Trong hoạt động đầu tư mà ở đây chủ yếu là đầu tư vào chứng khoán,mục đích của việc đầu tư vào chứng khoán là tìm kiếm lợi nhuận và đa dạng hoá hoạt động kinh doanh ngân hàng.Mặt khác nắm giữ chứng khoán cũng là một cách bảo đảm khả năng thanh khoản của ngân hàng thông qua việc đầu tư vào các chứng khoán có tính thanh khoản cao như:tín phiếu và trái phiếu kho bạc Nhà nước. Các NHTM Việt Nam hiện nay,lợi nhuận thu được từ hoạt động này chiếm từ 50% -70% tổng lợi nhuận.Tuy nhiên đây là hoạt động chứa đựng rủi ro cao nên các ngân hàng luôn quan tâm đến chất lượng hoạt động này. .Hoạt động trung gian và các loại hình dịch vụ khác. Các NHTM đóng vai trò trung gian thực hiện các hoạt động theo yêu cầu của khách hàng như thanh toán,thu hộ,chi hộ,chuyển tiền,uỷ thác…Bên cạnh đó các NHTM cũng cung cấp các loại hình dịch vụ có liên quan đến tài chính như dịch vụ tư vấn,dịch vụ bảo lãnh…Các hoạt động này có độ rủi ro thấp hơn hoạt động cho vay và đầu tư trong khi vẫn đem lại được nguồn thu lớn 1.1.1.3/Hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại, Ngân hàng đóng vai trò là người môi giới giữa một bên là những người có tiền cho vay và bên kia là những người có nhu cầu cần vay vốn.Thông qua cơ chế thị trường,bằng những biện pháp kinh tế năng động và áp dụng những phương pháp kỹ thuật hiện đại theo hướng tiên tiến,ngân hàng có khả năng thu hút hầu hết những nguồn vốn tiền tệ dự trữ trong xã hội để chuyển giao đúng nơi ,đúng lúc,phù hợp với nhu cầu vốn trong sản xuất kinh doanh.Như vậy,có thể hiểu tín dụng ngân hàng là quá trình cho vay của ngân hàng đối với các cá nhân ,tổ chức,các doanh nghiệp có mối quan hệ với ngân hàng cùng những ràng buộc nhất định về thời gian hoàn trả(gốc và lãi),lãi suất,cách thức vay mượn và thu hồi… Thông thường tín dụng được chia làm hai loại là tín dụng ngắn hạn là tín dụng trung và dài hạn.Các khoản tín dụng ngắn hạn hay còn gọi là tín dụng thương mại thường được dùng để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp.Còn các khoản tín dụng trung và dài hạn lại chủ yếu được dùng để đáp ứng nhu cầu đầu tư vào các tài sản cố định của doanh nghiệp.Tín dụng trung và dài hạn có đặc điểm là số lượng vốn vay lớn,thời gian vay dài(trên 1 năm),tiền vay lại được dùng để đầu tư mua sắm,xây lắp tài sản cố định,do vậy các chủ đầu tư thường phải lập một dự án gửi đến ngân hàng.Dự án đầu tư được hiểu là một tập hợp các hoạt động kinh tế đặc thù với các mục đích,phương pháp và phương tiện cụ thể để đạt được những kết quả và mục đích nhất định sau một khoảng thời gian xác định. Tín dụng trung dài hạn có thể được phân loại như sau: -Căn cứ vào đồng tiền cho vay có tín dụng trung và dài hạn bằng ngoại tệ,tín dụng trung và dài hạn bằng bản tệ. -Căn cứ vào tính chất có bảo đảm có thể chia thành tín dụng trung và dài hạn có bảo đảm và tín dụng trung và dài hạn không có bảo đảm. -Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động của đối tượng xin vay có thể chia thành tín dụng trung dài hạn đầu tư trong nước và tín dụng trung dài hạn xuất nhập khẩu. -Tín dụng tuần hoàn:là phương thức cho vay vào chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,nó được coi là tín dụng trung và dài hạn khi thời hạn của hợp đồng được kéo dài từ 1 đến vài năm và người vay rút tiền ra khi cần và được trả nợ khi có nguồn trong thời gian hợp đồng có hiệu lực. -Thuê mua:Đây là hình thức cho vay trung và dài hạn nhưng bằng thiết bị thay bằng tiền,người đi thuê có quyền mua lại tài sản đó theo giá thoả thuận trong hợp đồng. -Bảo lãnh trung và dài hạn mua thiết bị trả chậm. 1.1.1.4/Các đặc trưng cơ bản của tín dụng trung và dài hạn. Tín dụng trung dài hạn là một loại hình tín dụng và nó được phân biệt với các loại hình tín dụng khác qua một số đặc trưng cơ bản sau: *Thời hạn cho vay. Điểm khác biệt cơ bản đầu tiên giữa tín dụng trung dài hạn và tín dụng ngắn hạn là thời hạn cho vay. -Tín dụng ngắn hạn: Thời hạn cho vay được xác định phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng nhưng không quá 12 tháng. -Tín dụng trung,dài hạn:Thời hạn cho vay được xác định phù hợp với thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư,khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất của nguồn vốn cho vay,trong đó: +Tín dụng trung hạn có thời gian từ 12 tháng đến 36 tháng hoặc 60 tháng tuỳ theo quy định của từng ngân hàng. +Tín dụng dài hạn có thời gian trên 36 tháng hoặc 60 tháng. *Đối tượng cho vay: Đối tượng cho vay trung dài hạn là toàn bộ các chi phí cấu thành trong tổng mức vốn đầu tư của các dự án xây dựng mới,mở rộng cải tạo công nghệ… Trong quan hệ tín dụng ngân hàng,đối tượng cho vay trung dài hạn là các công trình,hạng mục công trình hoặc dự án đầu tư xây dựng,mua sắm tài sản cố định…của các đơn vị kinh tế có luận chứng kỹ thuật tốt,xác thực và tổng dự toán đã phê duyệt. *Nguyên tắc và điều kiện vay vốn. Khách hàng muốn vay vốn của Ngân hàng phải đảm bảo được ba nguyên tắc tín dụng cơ bản.Đó là: -Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.Khi vay trung dài hạn,người vay phải soạn thảo dự án,chương trình sản xuất kinh doanh.Các dự án này phải được thể hiện một cách đầy đủ,rõ ràng việc sử dụng vốn theo các mục đích cụ thể.Mục tiêu này phải nằm trong mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế chung của vùng và cúa đất nước.Để cho dự án được thực hiện,cần có sự thông qua,cho phép của cơ quan có thẩm quyền. -Phải hoàn trả tiền vay và lãi theo đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. -Phải đảm bảo tiền vay theo đúng quy định của Chính phủ,của Ngân Hàng Nhà Nước. Trên cơ sở các nguyên tắc trên,mỗi Ngân hàng sẽ đề ra các điều kiện ràng buộc,các quy định mang tính chất bắt buộc có thể thực hiện vốn vay của Ngân hàng.Các quy định này về cơ bản là giống nhau nhưng các điều khoản cụ thể thì khác nhau phụ thuộc vào mỗi ngân hàng và thời điểm lịch sử. Do các đặc trưng của tín dụng trung dài hạn nên thời gian thu hồi vốn là rất lâu,có khả năng gặp nhiều rủi ro trong quá trình sử dụng nên việc cho vay trung dài hạn phải tuân theo quyết định 367/QĐNH1 của thống đốc NHNN Việt Nam về thể lệ tín dụng trung dài hạn như sau: -Doanh nghiệp vay vốn phải là đơn vị sản xuất kinh doanh có lãi,có vốn tham gia tối thiểu bằng 20% tổng dự toán công trình đầu tư. -Doanh nghiệp vay vốn phải chấp hành đầy đủ các quy định của Nhà nước về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản và thể lệ tín dụng trung dài hạn của ngân hàng. -Doanh nghiệp vay vốn phải mua bảo hiểm cho tài sản hình thành bằng vốn vay tại một công ty bảo hiểm được phép hoạt động hợp pháp tại Việt Nam,nếu tài sản đó quy định phải mua bảo hiểm và cam kết sử dụng số tiền bồi thường khi gặp rủi ro để trả nợ.Trường hợp không mua bảo hiểm do tổng giám đốc ngân hàng quy định. -Đối với các công trình xây dựng mới phải có đầy đủ các điều kiện: +Phải có giấy phép xây dựng và giấy phép sử dụng đất do các cấp có thẩm quyền cấp để đảm bảo được tính pháp lý cho công trình. +Phải có lệnh hoặc hợp đồng phân phối vật tư máy móc thiết bị và nếu là nhập khẩu trực tiếp thì phải có giấy phép nhập khẩu hợp pháp. -Đối với công trình dự án của các đơn vị kinh tế của các đơn vị kinh tế đã và đang hoạt động kinh doanh ổn định,đang có lãi thực sự,có xu hướng phát triển tốt phù hợp với cơ chế kinh tế mới,phải có vốn tham gia tối thiểu 30% tổng dự toán công trình Hiện nay theo quy định mới của chính phủ,các đơn vị kinh doanh nếu chứng minh được mình làm ăn có hiệu quả thì sẽ có khả năng vay vốn mà không cần thế chấp 1.1.2/Vai trò của tín dụng trung và dài hạn đối với phát triển kinh tế ở Việt Nam. 1.1.2.1/ Tín dụng trung và dài hạn đảm bảo phát triển kinh tế theo chiều rộng. Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải biết nắm bắt và tìm mọi cách thoả mãn nhu câù ngày càng cao của người tiêu dùng.Điều đó đồng nghĩa với doanh nghiệp cần có vốn để không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm.Nguồn vốn ngắn hạn sẽ chỉ đáp ứng nhu cầu tối thiểu vốn tạm thời trong doanh nghiệp chứ không thể giúp doanh nghiệp trong việc đầu tư xây dựng cơ bản,mua sắm máy móc trang thiết bị hiện đại.Do đó,doanh nghiệp cần đến nguồn vốn tín dụng trung và dài hạn.Đối với Việt Nam thì vay vốn Ngân hàng được coi là lối thoát lớn nhất cho nhu cầu vốn của các doanh nghiệp.Bởi vậy nếu các Ngân hàng chỉ chịu cung cấp vốn với thời gian ngắn hạn thì các doanh nghiệp mới chỉ dừng lại ở mức tái sản xuất,không có cơ hội tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật đem lại năng lực sản xuất cao hơn.Trong điều kiện nước ta hiện nay,việc đầu tư trung dài hạn nhằm tạo nền tảng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự tăng cường thực sự vững bền,đó là đảm bảo phát triển treo chiều sâu. 1.1.2.2/Thúc đẩy mở rộng sản xuất phát triển. Cho vay trung dài hạn đối với các thành phần kinh tế thực sự là loại hình đầu tư chiều sâu nhằm mở rộng sản xuất,tăng quy mô ,nâng cao năng lực sản xuất,vì thế tín dụng trung và dài hạn thực sự là một cứu cánh khi doanh nghiệp có tiềm năng mở rộng phát triển mà không có vốn đầu tư.Khi đã có vốn nghĩa là một dự án đầu tư đã đi vào hoạt động,là một cơ hội mở rộng sản xuất,cơ sở trang thiết bị đầy đủ làm cho năng lực sản xuất kinh doanh tăng lên,theo đó mà sản phẩm hàng hoá được sản xuất ra không những nhiều về số lượng,đa dạng về mẫu mã chủng loại,phong phú về chất lượng,kích thích nhu cầu xã hội. 1.1.2.3/Tạo thị trường sử dụng vốn ngắn hạn. Tín dụng trung và dài hạn đầu tư vào máy móc thiết bi và xây dựng cơ bản do đó kích thích sản xuất phát triển.Khi đó,các doanh nghiệp cần nhiều vốn lưu động hơn để đáp ứng sự phát triển sản xuất,điều này tạo ra thị trường sử dụng vốn ngắn hạn.Tốc độ phát triển sản xuất càng cao thì nhu cầu vốn lưu động càng lớn và tín dụng trung dài hạn đã tạo điều kiện cho tín dụng ngắn hạn phát triển. 1.1.2.4/Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Thông qua nghiệp vụ tín dụng trung và dài hạn,Ngân hàng có thể cho vay đáp ứng nhu cầu của ngành này chứ không phải ngành khác.Công nghiệp hoá không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn liền với đổi mới cơ bản về công nghệ tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh,hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.Nội dung giai đoạn đầu của tiến trình Công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước là tập trung vốn đầu tư vào cơ sở vật chất kỹ thuật,đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ,chuyển dịch cơ cấu kinh tế,phát triển sản xuất trong nước theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu…Để thực hiện được điều đó,phải duy trì tốc độ tăng trưởng cao trên 10% và cần đến 40-50 tỷ USD cho đầu tư,trong đó nguồn vốn trong nước phải có từ 20-25 tỷ.Trong điều kiện thị trường vốn nước ta chưa phát triển hoàn thiện thì hiện tại và thời gian tới tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng vẫn đóng vai trò quyết định và như vậy qua chính sách tín dụng đối với các ngành kinh tế,Ngân hàng có thể thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hoá-hiện đại hoá. 1.1.2.5/Thúc đẩy mở rộng kim ngạch xuất nhập khẩu. Nhờ có nguồn vốn đầu tư tín dụng trung ,dài hạn mà các doanh nghiệp có thể nhập khẩu máy móc trang thiết bị công nghệ.Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam thì việc mở rộng kim ngạch xuất nhập khẩu là con đường ngắn nhất để chúng ta có thể đuổi kịp các nước về công nghệ.Ngoài ra,nhờ việc nhập máy móc thiết bị,năng lực sản xuất của doanh nghiệp tăng lên,sản phẩm sản xuất ra chất lượng cao,mẫu mã đẹp đáp ứng nhu cầu của thị trường trong ngoài nước,tăng khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế. 1.2/Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của NHTM 1.2.1/Khái niệm chất lượng tín dụng trung và dài hạn của NHTM. Đối với các NHTM,cái được biểu hiện ra bên ngoài vừa cụ thể,vừa trừu tượng của hoạt động tín dụng chính là chất lượng tín dụng.Chỉ khi chất lượng tín dụng tốt thì ngân hàng mới có nhiều khách hàng,uy tín ngân hàng được nâng cao tạo điều kiện thúc đẩy cho ngân hàng phát triển. Chất lượng tín dụng được hiểu là sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại,phát triển của ngân hàng. Như vậy khi xem xét chất lượng tín dụng,cần tính đến ba nhân tố là NHTM,khách hàng,nền kinh tế và NHTM. Thứ nhất:Chất lượng hoạt động tín dụng xét từ giác độ NHTM Chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi,mức độ,giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng, thực lực theo hướng tích cực của bản thân ngân hàng và phải đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường,đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi.Chất lượng hoạt động tín dụng phải thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận hợp lý và gia tăng,dư nợ ngày càng tăng trưởng,tỷ lệ nợ quá hạn đảm bảo đúng quy định và hợp lý,đảm bảo cơ cấu nguồn vốn giữa ngắn hạn,trung và dài hạn trong nền kinh tế. Thứ hai:Chất lượng hoạt động xét từ giác độ khách hàng. Thông qua quan hệ lâu dài với khách hàng,sự am hiểu khách hàng sẽ làm cho ngân hàng hiểu rõ nhu cầu tín dụng của ngân hàng,đảm bảo thoả mãn nhu cầu hợp lý về vốn cho họ.Trong điều kiện cạnh tranh hiện nay,chất lượng là yêu cầu hàng đầu,vì vậy chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu hợp lý của khách hàng,lãi suất hợp lý,thủ tục đơn giản không phiền hà,thu hút được khách hàng nhưng vẫn đảm bảo đúng nguyên tắc và quy định của tín dụng phù hợp với tốc độ phát triển của xã hội,đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng,góp phần làm lành mạnh tài chính doanh nghiệp. Thứ ba:Chất lượng tín dụng xét từ giác độ nền kinh tế. Hoạt động tín dung trong những năm gần đây phản ánh rõ nét sự năng động của nền kinh tế khi chuyển sang cơ chế mới.Nhiều khái niệm mới với những nội dung mới để đạt được sự thống nhất,về nhận thức và tạo điều kiện nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng. Tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh,tạo việc làm cho người lao động,tăng thêm sản phẩm cho xã hội góp phần tăng trưởng kinh tế và khai thác khả năng tiềm ẩn trong nền kinh tế,thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nước,tranh thủ vay vốn nước ngoài có lợi cho nền kinh tế phát triển. Từ những điều trên,ta có thể rút ra: -Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp,nó phản ánh mức độ thích nghi của NHTM và sự thay đổi của môi trường bên ngoài,nó thể hiện sức mạnh một ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại. -Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố:thu hút được khách hàng tốt,thủ tục đơn giản,thuận tiện,mức độ an toàn của vốn tín dụng,chi phí tổng thể về sản xuất,chi phí nghiệp vụ… -Chất lượng tín dụng không tự nhiên mà có,nó là kết quả của một quy trình kết hợp hoạt động giữa con người trong một tổ chức,giữa các tổ chức với nhau vì một mục đích chung,do đó để đạt được chất lượng tín dụng cần có sự quản lý. Quản lý chất lượng về cơ bản là những hoạt động và kỹ thuật được sử dụng nhằm đạt được chất lượng tốt. Để có được chất lượng tín dụng tốt thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở tin cậy và uy tín trong hoạt động.Nói cách khác,chất lượng tín dụng tỷ lệ thuận với hiệu quả và độ tin cậy trong hoạt động.Hiểu đúng bản chất về chất lượng tín dụng, phân tích đánh giấ đúng chất lượng tín dụng hiện tại cũng như xác định chính xác các nguyên nhân cuả những tồn tại về chất lượng,sẽ giúp ngân hàng tìm được biện pháp thích hợp để có thể đứng vững trong nền kinh tế hoạt động sôi nổi và có sự cạnh tranh gay gắt. 1.2.2/Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn Đối với các ngân hàng thương mại,cho vay có vai trò quan trọng trong phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng.Nhờ có hoạt động tín dụng mà một ngân hàng có thể mở rộng mạng lưới hoạt động kinh doanh,tăng quy mô nguồn vốn huy động và khả năng cho vay của mình.Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động tín dụng,mỗi ngân hàng cần phải tìm biện pháp nâng cao chất lượng đối với các khoản cho vay và cho thuê cuả mình.Thực tế chất lượng hoạt động tín dụng là một khái niệm tương đối và không có một chỉ tiêu tổng hợp nào để phản ánh nó một cách chính xác.Thông thường để đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng của một ngân hàng thương mại,người ta dùng một tập hợp các chỉ tiêu khác nhau,nhưng về cơ bản chất lượng tín dụng của một ngân hàng thương mại được đánh giá qua các chỉ tiêu sau: Thứ nhất:Chỉ tiêu tổng dư nợ. Thú hai: Chỉ tiêu về nợ quá hạn. Thứ ba: Chỉ tiêu lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng. Thứ tư: Đóng góp của hoạt động tín dụng đến sự phát triển kinh tế xã hội 1.2.2.1/Chỉ tiêu tổng dư nợ. Tổng dư nợ khi được đề cập để đánh giá chất lượng tín dụng bao gồm cho vay ngắn hạn,trung và dài hạn,cho vay uỷ thác.Chỉ tiêu này được đo bằng số tuuệt đối,nó phản ánh doanh số cho vay của ngân hàng trong một kỳ(một năm) là bao nhiêu.Tổng dư nợ thấp phản ánh chất lượng tín dụng thấp vì chỉ ra rằng ngân hàng không có khả năng mở rộng hoạt động cho vay,khả năng tiếp thị khách hàng kém,trình độ của đội ngũ nhân viên không cao…Tuy nhiên không phải bất kỳ thời điểm nào chỉ tiêu này cao cũng là tốt và ngược lại,do vậy khi xét chỉ tiêu này chúng ta cũng không nên xem xét chúng theo từng thời kỳ riêng rẽ mà phải xem xét chúng trong cả một quá trình trên cơ sở phân tích các yếu tố tác động bên ngoài để chỉ số này phản ánh một cách tốt nhất có thể thực tế hoạt động tín dụng cuả ngân hàng trong nền kinh tế. 1.2.2.2/Chỉ tiêu về nợ quá hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn = Nợ quá hạn Tổng dư nợ Chỉ tiêu này có thể nói là một chỉ tiêu quan trọng nhất khi xem xét chất lượng tín dụng của một ngân hàng thương mại.Đến kỳ trả nợ,nếu người vay không trả và không được gia hạn nợ thì ngân hàng sẽ chuyển toàn bộ nợ đến hạn sang nợ quá hạn và đương nhiên người đi vay phải chịu lãi suất quá hạn thường là cao gấp rưỡi lãi suất trong hạn,vì thế doanh nghiệp đã khó sẽ càng trở nên khó khăn hơn trong việc trả nợ Tỷ lệ nợ quá hạn quá cao biểu hiện hiện tượng chất lượng tín dụng của ngân hàng là thấp,rủi ro cao vì với một số lớn các khoản nợ không được hoàn trả đúng hạn thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc phân phối luồng vốn vào ra,với việc không thu được nợ thì ngân hàng sẽ phải đối mặt với việc mất khả năng thanh toán hoặc tệ hơn là phá sản. Khi xem xét các chỉ tiêu nợ khó đòi, người ta thường xem xét cả về số tương đối lẫn số tuyệt đối. +Số tuyệt đối ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập hàng năm của ngân hàng +Về số tương đối được xác định bởi tỷ lệ nợ khó đòi: Tỷ lệ nợ khó đòi = Nợ khó đòi/ Tổng dư nợ Hoặc Tỷ lệ nợ khó đòi = Nợ khó đòi/ Nợ quá hạn Mục đích của các Ngân hàng thương mại là làm cho các tỷ lệ này càng nhỏ càng tốt, Thông thường tỷ lệ này dưới 4% là chấp nhận được. Cả hai chỉ tiêu này đều giúp ngân hàng quản lý rủi ro các khoản cho vay và đều càng nhỏ càng tốt .Tuy nhiên khác biệt cơ bản của hai tỷ lệ này là tỷ lệ quá hạn chỉ xem xét đến giá trị của khoản nợ quá hạn,trong khi đó thì tỷ lệ nợ khó đòi xem xét đến giá trị các khoản nợ khó đòi trong nợ quá hạn. Hai chỉ tiêu này đều chịu ảnh hưởng của chính sách xoá nợ của ngân hàng,một ngân hàng có chính sách tốt phải thiết lập được quĩ dự phòng rủi ro đủ mạnh và thông báo định kỳ về những món vay không có khả năng thu hồi để tránh tình trạng trong một lúc ngân hàng phải thông báo con số nợ không có khả năng thu hồi quá lớn và làm giảm tài sản của ngân hàng một cách nghiêm trọng.Tuy nhiên,nếu như ngân hàng thực hiện xóa nợ quá nhanh thì hai tỷ lệ này ở mức thấp nhất nhưng không có ý nghĩa thực tiễn. Ngoài ra,người ta còn tính đến một chỉ tiêu gián tiếp là tỷ lệ mất vốn: Tỷ lệ mất vốn = Tổng số tiền cho vay được xoá nợ)*100% Dư nợ bình quân Các tổ chức tín dụng đều có những khoản cho vay không có khả năng thu hồi,nhưng một tổ chức tín dụng quản lý tốt là một tổ chức có tỷ lệ này ở mức thấp nhất.Rất nhiều tổ chức tín dụng vẫn phản đối việc xoá nợ bởi họ tin rằng những khoản cho vay này vẫn có thể thu hồi được.Một khi món nợ đã được xoá,các nỗ lực thu hồi vốn vẫn tiếp tục nếu điều đó có ý nghĩa kinh tế 1..2.2.3/Chỉ tiêu lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng. Ngân hàng hoạt động với mục đích quan trọng nhất là lợi nhuận.Chỉ tiêu này sẽ chỉ ra trong tổng thu nhập của ngân hàng thì phần đóng góp là bao nhiêu.Lợi nhuận thu từ hoạt động tín dụng lớn sẽ khẳng định chất lượng của các khoản vay là tốt. Tất nhiên khi xem xét chất lượng của một hoặc một số hoạt động tín dụng đặc thù thì chúng ta sẽ dựa trên những chỉ tiêu chung này để vận dụng cho phù hợp,đồng thời những chỉ số cũng được xem xét trong cả một thời kỳ dài để thấy khuynh hướng biến động của nó phù hợp với thực tiễn không,nhằm giúp cho các đánh giá được chính xác hơn. 1.2.3/Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn của NHTM. 1.2.3.1/Các nhân tố về phía khách hàng. Các doanh nghiệp muốn mở rộng sản xuất,đầu tư cho máy móc thiết bị,dây chuyền công nghệ…phải cần một lượng vốn lớn và trong thời gian dài.Chính vì vậy nhu cầu về vốn trung dài hạn là tất yếu.Điều kiện tín dụng đưa ra nhằm tiêu chuẩn hoá khả năng của doanh nghiệp trong quá trình vay vốn,đảm bảo khả năng thu hồi vốn của ngân hàng.Khả năng đáp ứng các điều kiện tín dụng thể hiện ở những mặt sau: -Năng lực thị trường của doanh nghiệp. Biểu hiện ở khối lượng sản phẩm tiêu thụ,chất lượng sản phẩm có đáp ứng được nhu cầu thị trường không?Vị trí của doanh nghiệp trên thị trường ra sao?Hệ thống mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp,mối quan hệ với các bạn hàng đối tác.Năng lực thị trường của doanh nghiệp còn được lượng hoá qua tiêu thức cơ bản là sự gia tăng của doanh số tiêu thụ sản phẩm. Năng lực thị trườn càng cao,nhu cầu đầu tư càng lớn,rủi ro thị trường của doanh nghiệp càng nhỏ là một nhân tố nâng cao chất lượng tín dụng. -Năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Năng lực sản xuất của doanh nghiệp biểu hiện giá trị của công cụ lao động,chủ yếu là tài sản cố định:biểu hiện cụ thể là quá trình sản xuất sản phẩm,công nghệ sản xuất,các đầu tư trước đây có kết quả như thế này không?Cơ cấu và việc làm chủ giá thành sản phẩm.Tiêu thụ sản phẩm tốt nhưng giá thành lớn hơn giá bán là không tốt.Việc nghiên cứu giá thành và năng lực sản xuất cho thấy tính cấp thiết và quy mô phải đầu tư mới. -Năng lực tài chính của doanh nghiệp. Năng lực tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở khối lượng vốn tự có và tỷ trọng vốn tự có trong tổng nguồn vốn doanh nghiệp đang sử dụng.Điều kiện tín dụng quy định một tỷ lệ cụ thể,tối thiểu của vốn tự có trong tổng số nguồn vốn hoạt động hay tỷ lệ vốn tự có tương ứng với khối lượng vốn vay,tỷ lệ vốn tự có tham gia vào dự án vay vốn. Năng lực tài chính của doanh nghiệp còn thể hiện ở khả năng thanh toán của doanh nghiệp,tính lỏng của tài sản.Năng lực tài chính của doanh nghiệp trong tín dụng trung dài hạn còn đòi hỏi doanh nghiệp phải có số vốn lưu động tối thiểu cho việc duy trì hoạt động thường xuyên của tài sản cố định. Năng lực tài chính của doanh nghiệp càng cao,khả năng đáp ứng các điều kiện tín dụng càng lớn thì càng góp phần nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dung trung dài hạn nói riêng. -Năng lực quản lý của doanh nghiệp. Doanh nghiệp vay vốn phải có bộ máy có năng lực quản lý phù hợp.Năng lực quản lý thể hiện ở tổ chức hệ thống hạch toán kế toán và quản lý tài chính phù hợp với các quy định của pháp luật.Hệ thống tài chính kế toán thống kê giúp cho các doanh nghiệp và ngân hàng thông qua việc cung cấp các thông tin về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ( tất nhiên để đảm bảo tính trung thực khách quan phải có các cơ quan kiểm toán xác nhận) -Quyền sở hữu tài sản và khả năng đáp ứng các biện pháp bảo đảm. Quan hệ tín dụng thường đưa ra đòi hỏi có tài sản bảo đảm bằng các hình thức thế chấp,cầm cố hoặc được bảo lãnh của người thứ ba.Điều kiện tối thiểu là khối lượng tín dụng chỉ bằng 70% giá trị tài sản bảo đảm. -Sự đáp ứng của dự án đối với tiêu chuẩn tín dụng. Dự án thuyết minh được tính chất cần thiết,mục đích,kết quả của dự án. Sự phù hợp của quá trình đầu tư với quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Có vốn tự có tham gia của doanh nghiệp vào tổng giá trị vốn đầu tư có khả năng hoàn trả từ bản thân dự án và từ các hoạt động kinh doanh khác của doanh nghiệp. Mặt khác doanh nghiệp phải xác định được nguồn vốn lưu động tối thiểu cho việc phát huy công suất tài sản cố định Chất lượng tín dụng trung và dài hạn lệ thuộc rất lớn vào chất lượng của dự án mà chất lượng của dự án chính là: Chất lượng của dữ liệu và thông tin để xây dựng dự án đó là cơ sở dữ liệu về điều tra cơ bản,các thông tin về giá cả,thị trường công nghệ sản xuất,vị trí của doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế. Dự án xây dựng đúng quy trình,quy định của Nhà nước. Các tính toán,các luận giải phù hợp lôgic có căn cứ khoa học,đồng bộ giữa bốn yếu tố:máy móc thiết bị,thông tin,thiết kế và con người. Trình độ,uy tín của các chuyên gia xây dựng dự án. Các biện pháp tổ chức,quản lý,triển khai phương án xây dựng phù hợp với cơ cấu trình độ quản lý của doanh nghiệp. Các dự tính,các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong quá trình xây dựng và thu hồi vốn 1.2.3.2/Các nhân tố về phía ngân hàng. -Chiến lược kinh doanh của ngân hàng. Trong nền kinh tế hiện đại,các doanh nghiệp nói chung và các ngân hàng thương mại nói riêng muốn tồn tại và kinh doanh có lãi phải xây dựng được cho mình một chiến lược kinh doanh hiệu quả.Một chiến lược kinh doanh có hiểu quả sẽ giúp ngân hàng có một phương hướng phát triển nhất quán,giúp cho ngân hàng khai thác tốt nhất năng lực hiện có của đơn vị và đồng thời nó cũng giúp cho ngân hàng có thể thích ứng một cách nhanh nhất với những biến đổi trong môi trường kinh doanh của mình.Chính vì vậy công tác lập chiến lược kinh doanh hiện được các ngân hàng hết sức coi trọng và nó ảnh hưởng lớn tới chất lượng của hoạt động tín dụng. -Chất lượng của công tác thẩm định dự án. Khi đến ngân hàng để xin được cấp tín dụng,khách hàng thường phải mang đến một bộ hồ sơ về dự án mà họ sẽ tiến hành thực hiện.Thẩm định dự án giúp ngân hàng xem xét một cách toàn diện các mặt của dự án để xác định tính khả thi của dự án,trên cơ sở đó sẽ quyết định khách hàng này có đủ điều kiện để được cấp tín dụng hay không.Cũng thông qua công tác thẩm định,ngân hàng với những kinh nghiệm vốn có của mình có thể tư vấn,giúp đỡ cho chủ đầu tư sửa đổi những điểm không hợp lý trong dự án để dự án có tính khả thi hơn và cũng giúp cho ngân hàng có thể mở rộng hoạt động tín dụng của mình. Thẩm định là công việc đòi hỏi nhiều thời gian và kỹ thuật tính toán phức tạp.Do công việc này là cơ sở để quyết định có cấp tín dụng hay không nên chất lượng của công tác này sẽ ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng hoạt động tín dụng.Nếu chất lượng của công tác thẩm định không cao,tức là nhân viên tín dụng không xác định được thực chất dự án có hiệu quả hay không thì những khoản tín dụng mà ngân hàng đã cấp sẽ gặp những rắc rối trong việc thu hồi các món nợ của mình.Chính vì vậy,công tác thẩm định đòi hỏi những nhân viên thẩm định có trình độ cao và sự kết hợp một cách có hiệu quả giữa các phòng ban trong ngân hàng. -Chính sách tín dụng của ngân hàng. Mỗi ngân._. hàng trong từng thời kỳ sẽ có những chính sách tín dụng riêng của mình để nhằm đạt mục tiêu đã đề ra.Chính sách tín dụng này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô,tính chất của các khoản tín dụng cũng như phương thức hoạt động tín dụng của ngân hàng.Chính sách tín dụng không những phụ thuộc vào mục tiêu của bản thân ngân hàng mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như chính sách của chính phủ và của các cơ quan quản lý.Như vậy việc đưa ra một chính sách tín dụng hợp lý sẽ giúp cho ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn,nó giúp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng. -Công tác tổ chức hoạt động tín dụng của ngân hàng. Công tác tổ chức hoạt động tín dụng của ngân hàng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như quy mô của ngân hàng,chính sách tín dụng của ngân hàng,quy mô và loại hình tín dụng,quy trình tín dụng tại ngân hàng đó.Trong quá trình hoạt động tín dụng,các cán bộ tín dụng sẽ tiếp xúc trực tiếp với người vay,nhận đơn xin vay,phỏng vấn khách hàng,thu thập thông tin về khách hàng và dự án trước khi có quyết định chính thức trình cán bộ cao cấp hơn.Những thông tin về khách hàng và dự án sau khi được các phòng ban chức năng của ngân hàng xem xét và nếu thấy đủ điều kiện thì sẽ quyết định cụ thể về phương thức giải ngân và thu nợ sau này.Trong quá trình này nếu các khâu được thực hiện tốt sẽ giúp cho ngân hàng lựa chọn được những dự án tốt để cấp tín dụng,cũng như tạo uy tín tốt cho ngân hàng trong lòng khách hàng,điều này giúp cho ngân hàng có thể nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của mình. Như vậy,công tác tổ chức thực hiện hoạt động tín dụng có thể hỗ trợ đắc lực cho nhân viên tín dụng thực hiện công việc của mình và nó có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại. -Chất lượng đội ngũ nhân sự. Yếu tố mang tính quyết định đến việc nâng cao hay suy giảm chất lượng tín dụng lại chính là nguồn nhân lực của ngân hàng vì suy cho cùng các quyết định cung cấp tín dụng của ngân hàng là những quyết định mang tính chất chủ quan.Một ngân hàng với một đội ngũ lãnh đạo tốt sẽ đưa ra được những chính sách hợp lý và phương hướng phát triển phù hợp với khuynh hướng phát triển của nền kinh tế.Một đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi sẽ giúp ngân hàng có được những khoản cho vay với chất lượng cao nhất.Các cán bộ của các phòng ban,các bộ phận chức năng khác sẽ giúp cho ngân hàng mở rộng các hoạt động kinh doanh của mình,tạo dấu ấn của ngân hàng trong lòng thị trường. 1.2.3.3/Những nhân tố khách quan. Hoạt động của mỗi ngân hàng thương mại chịu ảnh hưởng rất lớn của môi trường kinh tế-xã hội.Một ngân hàng dù có cố gắng đến mấy trong hoạt động kinh doanh của mình nhưng nếu môi trường kinh tế-xã hội không ổn định thì cũng khó mà thành công.Chính vì vậy,việc nghiên cứu môi trường kinh doanh là hoạt động thường xuyên của mỗi ngân hàng thương mại.Ta có thể xem xét ảnh hưởng của môi trường kinh tế-xã hội đến chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại từ các yếu tố sau: -Môi trường kinh tế. Môi trường kinh tế phát triển có thể tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng.Một môi trường kinh tế lành mạnh,các chủ thể tham gia nền kinh tế đang hoạt động có hiệu quả sẽ thúc đẩy mở rộng quy mô tín dụng,chất lượng hoạt động tín dụng cũng sẽ được nâng lên.Bên cạnh đó môi trường kinh tế cũng có thể có những thay đổi bất ngờ,ví dụ như những thay đổi về lãi suất,những biến động về tỷ giá,biến động về thị trường….Như vậy chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại sẽ chịu ảnh hưởng của môi trường kinh tế mà nó hoạt động,vấn đề đối với các ngân hàng là phải làm tốt công tác dự báo và khả năng thích ứng nhanh khi có sự biến động nhằm đảm bảo chất lượng của hoạt động tín dụng -Môi trường pháp lý. Ngân hàng thương mại khi hoạt động phải tuân thủ đầy đủ các quy định về luật pháp của Nhà nước,như vậy môi trường pháp lý có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng hoạt động tín dụng của các ngân hàng.Một hệ thống pháp lý đầy đủ,đồng bộ và ổn định sẽ giúp các ngân hàng thương mại dễ dàng hơn trong việc xây dựng kế hoặch kinh doanh của mình,góp phần vào việc nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại. -Môi trường chính trị - xã hội. Môi trường chính trị-xã hội ổn định sẽ là một nhân tố quan trọng thúc đẩy hoạt động đầu tư và ngân hàng cũng có thể mạnh dạn mở rộng hoạt động tín dụng của mình.Điều này giúp cho ngân hàng có thể thu được nhiều lợi nhuận hơn từ hoạt động tín dụng.Tác động của môi trường chính trị-xã hội tới chất lượng hoạt động tín dụng không thường xuyên,nhưng khi có những biến động về chính trị thì tác động của nó tới các ngân hàng là vô cùng lớn. Một sự thay đổi hệ thống chính trị có thể làm cho các ngân hàng mất phần lớn hoặc toàn bộ các khoản tín dụng của mình,điều này sẽ đẩy các ngân hàng đến bờ vực của sự phá sản. Chương II: Thực trạng tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm. 2.1/Giới thiệu chung về Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm. 2.1.1/Lịch sử hình thành phát triển và cơ cấu tổ chức. a. Lịch sử hình thành phát triển Trước năm 1990, hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn là hệ thống ngân hàng một cấp, ngân hàng vừa là ngân hàng Nhà nước lại vừa là ngân hàng thương mại. Nhận thấy sự không hiệu quả trong hoạt động của mô hình này, Nhà nước ta đã ban hành hai pháp lệnh ngân hàng năm 1990 chuyển từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp. Và ngay sau đó, ngân hàng Công thương Việt Nam đã được thành lập ngày 14/11/1990 ( chuyển thành từ Ngân hàng chuyên doanh Công thương Việt Nam). Ngày 8/2/1991, 69 chi nhánh ngân hàng Công thương được thành lập và ngày 27/3/1993, 77 chi nhánh ngân hàng Công thương trên cả nước được thành lập và thành lập lại trong đó có ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm. Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm là đơn vị thành viên của ngân hàng Công thương Việt Nam, có trụ sở tại 37 Hàng Bồ – Hà Nội. Sau một loạt những khó khăn trong hoạt động, năm 1997 ngân hàng đã được đổi mới về cơ cấu tổ chức, trong sạch hoá các hoạt động, đem lại cho ngân hàng một sinh khí mới và một tương lai phát triển. B. Cơ cấu tổ chức. Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm ngoài ban giám đốc còn có 9 phòng ban với tổng số 215 cán bộ. Phòng kinh doanh: thực hiện các nghiệp vụ cho vay. Phòng kinh doanh đối ngoại: thực hiện các nghiệp vụ thanh toán quốc tế, thu đổi ngoại tệ, mua bán ngoại tệ. Phòng giao dịch Đồng Xuân: thực hiện gần như đầy đủ các nghiệp vụ của ngân hàng nhưng chủ yếu với đối tượng khách hàng là các tư thương ở khu vực chợ Đồng Xuân. Phòng nguồn vốn: thực hiện chức năng huy động vốn. Phòng nguồn vốn bao gồm cả 10 quỹ tiết kiệm có chức năng huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Phòng kế toán: thực hiện các nghiệp vụ kế toán ngân hàng. Phòng kiểm soát: kiểm soát toàn bộ các hoạt động trong ngân hàng, đảm bảo hoạt động ngân hàng vừa nhanh chóng, kịp thời nhưng phải hoàn toàn chính xác. Phòng kho quỹ: thực hiện các nghiệp vụ dự trữ tiền mặt, thu chi tiền mặt, chuyển tiền... Phòng vi tính: quản lý toàn bộ mảng tin học của hệ thống ngân hàng. Phòng tổ chức hành chính: bao gồm hai mảng hoạt động: Hoạt động tổ chức: quản lý cán bộ trong ngân hàng, thực hiện các công tác tuyển dụng, đào tạo, điều chuyển cán bộ... Hoạt động hành chính: chịu trách nhiệm về các hoạt động mua sắm, xây dựng, phục vụ... 2.1.2/Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng trong những năm gần đây. A. Năm 1999 Về hoạt động kinh doanh tín dụng: Đến 31/12/1999, dư nợ vẫn giữ mức 502.26 triệu đồng, khách hàng vay là các tổng công ty 90,91; các đơn vị thành vị thành viên; các doanh nghiệp thuộc các bộ và thành phố Hà Nội, các doanh nghiệp vừa và nhỏ của địa phương. Các khách hàng là doanh nghiệp liên doanh, 100% vốn nước ngoài còn ít. Trong cơ cấu tín dụng, dư nợ ngắn hạn chiếm 70,15%, trung dài hạn 29,85%, nội tệ chiếm 76% và ngoại tệ 24%. Chi nhánh còn cho vay từ các nguồn vốn Đài Loan, quỹ SMEDF, tăng cường nghiệp vụ bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng... Về công tác nguồn vốn. Mặc dù lãi suất huy động gửi tiền của Ngân hàng Công thương thấp hơn các ngân hàng quốc doanh thương mại khác trên cùng địa bàn nhưng số tiền gửi dân cư vẫn được duy trì và tăng trưởng. Đến 31/12/1999, số dư là: 358.717 triệu đồng, tăng so với 31/12/1998 là 150 tỉ đồng, đạt 145%. Song song với việc huy động vốn trong dân cư, Chi nhánh đã chú trọng đến việc thu hút nguồn tiền gửi của các doanh nghiệp, đưa tổng nguồn vốn lên 1.524.967 triệu đồng. Về hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế. Trong năm 1999, Chi nhánh tiếp tục phát triển ổn định, giữ vị trí quan trọng trong chiến lược khách hàng và đóng góp đáng kể vào thu nhập của Chi nhánh. Với nhiều biện pháp khơi tăng nguồn ngoại tệ một cách hiệu quả, doanh số mua bán ngoại tệ trong năm đạt 117 triệu USD, đã thoả mãn nhu cầu của khách hàng và chuyển một phần đáng kể lên ngân hàng Công thương Việt Nam. Đồng thời nghiệp vụ thanh toán quốc tế thường xuyên được chú trọng và cố gắng vượt bậc, kết quả đã mở và thanh toán 450 L/C, thanh toán nhờ thu 8 món, thanh toán TTR 176 món. Các nghiệp vụ khác như chi trả kiều hối, thanh toán thẻ tín dụng quốc tế cũng được quan tâm và thu được kết quả khích lệ: thu kiều hối 315 món trị giá 423.657 USD, chi kiều hối là 314 món trị giá 422.446 USD, thanh toán thẻ tín dụng quốc tế là 70 món với số tiền là 10.000 USD. Đặc biệt năm 1999, Chi nhánh đã bắt đầu thực hiện dịch vụ L/C xuất như sau: thông báo 4 L/C trị giá 299.276 USD, thanh toán 5 L/C trị giá 392.164 USD. Mặc dù nghiệp vụ thanh toán L/C xuất chưa nhiều nhưng là sự khởi đầu, là cuộc tập dượt cho sự phát triển sau này. Về công tác thu nợ: Từ cuối năm 1998, ban thu nợ được tách riêng với nhiệm vụ chủ yếu là theo dõi, đôn đốc khách hàng có nợ quá hạn và nghiên cứu đề ra các biện pháp nhằm khai thác xử lí tài sản thế chấp để thu hồi nợ quá hạn. Với sự cố gắng này, năm 1999 tổng nợ quá hạn thu được gần 8,5 tỉ đồng nợ gốc và 650 triệu đồng tiền lãi. Về lợi nhuận. Với sự cố gắng vượt bậc, năm 1999, NHCT Hoàn Kiếm đã đạt được hơn 21 tỷ đồng lợi nhuận hạch toán, vượt 22% kế hoạch NHCT Việt Nam giao, vượt gần 2 lần so với năm 1998. b. Năm 2000. Về hoạt động kinh doanh tín dụng. Trong năm 2000, mục tiêu cơ bản được đặt ra là nâng cao chất lượng tín dụng, hoạt động tín dụng chủ yếu đi vào chiều sâu. Chính vì vậy Chi nhánh đã liên tục rà soát, đánh giá chất lượng tín dụng, sàng lọc và nâng cao chất lượng dư nợ đối với những khách hàng truyền thống, đồng thời không ngừng nghiên cứu, tìm kiếm và tiếp thị các khách hàng mới là các tổng công ty 90, 91 và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có uy tín và khả năng tài chính lành mạnh, tiếp cận các dự án có tính khả thi cao, đặt nền móng cho việc mở rộng công tác tín dụng một cách vững chắc, an toàn và hiệu quả. Các doanh nghiệp dân doanh cũng được chú ý nhiều hơn. Nhờ vậy, doanh số cho vay năm 2000 đạt 1.690.106 triệu đồng, tăng 18% so với năm 1999. Doanh số thu nợ đạt 1.695.019 triệu tăng 13% so với năm 1999. Dư nợ cho vay bình quân đạt 547.351 triệu đồng, trong đó dư nợ cho vay nội tệ chiếm 82%, dư nợ cho vay ngoại tệ chiếm 18%; dư nợ ngắn hạn chiếm 72,22%, dư nợ trung dài hạn chiếm 27,78% tổng dư nợ. Năm 2000 chi nhánh không để phát sinh nợ quá hạn khó đòi mới, đồng thời thu được gần 16 tỷ đồng nợ gốc và 100 triệu đồng lãi nợ quá hạn khó đòi phát sinh những năm trước. Các khoản vay đều thu kịp thời đầy đủ cả gốc và lãi. Sở dĩ dư nợ năm 2000 không tăng so với năm 1999 vì chi nhánh đã xác định quy mô dư nợ phải phù hợp với trình độ, khả năng và kinh nghiệm quản lý của cán bộ, lấy an toàn, hiệu quả làm mục tiêu hàng đầu. Về hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế. Năm 2000 đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc trong hoạt động kinh doanh đối ngoại của chi nhánh. Thật vậy, với tinh thần cố gắng làm việc phấn đấu vươn lên, với nghiệp vụ vững vàng và phong cách giao dịch được hoàn thiện một cách rõ nét của từng cán bộ kinh doanh đối ngoại, sự phối kết hợp nhuần nhuyễn giữa các phòng ban, nên dù gặp khó khăn do sự khan hiếm ngoại tệ nhưng chi nhánh đã trở thành một trong những chi nhánh hàng đầu về lĩnh vực thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng Công thương Việt Nam. Trước hết là việc thanh toán đòi tiền bộ chứng từ hàng xuất khẩu, đối với chi nhánh đây là một nghiệp vụ mới mẻ, chi nhánh chưa có kinh nghiệm, nhưng với sự cố gắng của những cán bộ kinh doanh đối ngoại, năm 2000 chi nhánh đã đạt được doanh số thanh toán hàng xuất là 60 triệu USD, chiếm 20% tổng doanh số thanh toán hàng xuất của hệ thống ngân hàng Công thương Việt Nam và đã đưa chi nhánh đứng vị trí 1 trong 3 đơn vị hàng đầu trong toàn hệ thống. Đồng thời chi nhánh đã mở được 440 L/C với doanh số 40 triệu USD, đáp ứng được yêu cầu nhập khẩu của khách hàng. Đối với nghiệp vụ nhờ thu, TTR chi nhánh cũng đã làm rất tốt, cụ thể doanh số nhờ thu đạt 12 triệu 741 ngàn USD; doanh số TTR đạt 52 triệu USD, đưa doanh số thanh toán hàng nhập khẩu lên 104 triệu USD. Năm 2000 là một năm đầy khó khăn đối với nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ. Thế nhưng chi nhánh đã có được doanh số mua bán ngoại tệ với 95 triệu USD, thu phí về hoạt động thanh toán quốc tế là 2,4 tỷ đồng. Về công tác huy động vốn. Số dư tiền mặt của dân cư năm 2000 đạt 510.686 triệu đồng, tăng 12% so với năm 1999, đưa tổng nguồn vốn của chi nhánh năm 2000 lên đến hơn 2.082.533 triệu đồng, tăng 14% so với năm 1999. Về lợi nhuận. Năm 2000, ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đã có được 21.730 triệu đồng lợi nhuận, vượt 10% so với kế hoạch được giao. Lợi nhuận năm 2000 của chi nhánh lẽ ra đạt trên 25 tỷ đồng, nhưng do cuối năm 2000 chi nhánh phải thực hiện trích quỹ dự phòng rủi ro và quỹ lương điều hoà bổ sung theo cơ chế tiền lương mới làm đột biến tăng chi phí là 3 tỷ. c. Năm 2001 Năm 2001, nền kinh tế nước ta vẫn tiếp tục ổn định và phát triển. Với tốc độ tăng trưởng GDP 6,8%, sự ổn định về chính trị và những thành công trong đối ngoại, nước ta đã trở thành môi trường tin cậy cho các nhà đầu tư nước ngoài. Các công cụ chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước đã có những thay đổi lớn theo thông lệ quốc tế, đặc biệt là lãi suất và tỉ giá đã tạo môi trường thuận lợi, khiến hoạt động ngân hàng ngày càng sôi động và hiệu quả hơn. Tuy nhiên hệ thống ngân hàng nói chung vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu. Hoạt động của nền kinh tế còn kém hiệu quả và một số yếu tố khách quan không thuận lợi cho hoạt động ngân hàng, đó là sản phẩm cạnh tranh thấp, giá cả các mặt hàng xuất khẩu chiến lược như nông sản, dầu thô, cà phê... liên tục giảm. Lãi suất ngoại tệ trên thị trường tiền tệ giảm mạnh từ 6,5% xuống còn 1,75%/năm, lãi suất cho vay liên tục giảm, trong khi chi phí cho các hoạt động huy động có kỳ hạn chưa kịp giảm theo. Cộng với sự cạnh tranh gay gắt của trên 70 ngân hàng lớn nhỏ làm cho hoạt động của chi nhánh càng gặp khó khăn. Tuy vậy ngân hàng vẫn đã đạt được một số kết quả sau: Về công tác huy động vốn. Năm 2001, chi nhánh đã đạt tổng nguồn vốn huy động là 3.502.015 triệu đồng, tăng 1.419.482 triệu đồng, vượt 68,16% so với năm 2000. Với tổng nguồn vốn lớn và ổn định, Chi nhánh có đủ khả năng để đáp ứng mọi nhu cầu về vốn đối với khách hàng, đồng thời chuyển vốn về ngân hàng Công thương Việt Nam, góp phần điều hoà toàn hệ thống và tham gia thị trường vốn. Về công tác cho vay vốn. Dư nợ đạt 620.111 triệu đồng, tăng 13,3% so với năm 2000. Trong năm 2001 không phát sinh nợ quá hạn. Vốn tín dụng được đầu tư an toàn, hiệu quả cho các ngành kinh tế trọng yếu như: than, điện, chế biến nông sản xuất khẩu... So sánh tỉ lệ tăng trưởng dư nợ của chi nhánh (13,3%) với tốc độ tăng trưởng GDP của nền kinh tế (6,8%), chúng ta thấy đây là một tỉ lệ hợp lý. Trong 620.111 triệu dư nợ thì dư nợ ngắn hạn chiếm 66,06%, dư nợ trung dài hạn chiếm 33,94%; dư nợ ngoài quốc doanh chiếm 31%, tập trung chủ yếu vào các công ty liên doanh và 100% vốn nước ngoài, có mặt hàng, sản phẩm được sản xuất với công nghệ cao, có khả năng xuất khẩu và có tình hình tài chính lành mạnh. Phần còn lại là cho vay cán bộ công nhân viên, doanh nghiệp dân doanh và hộ gia đình có nhu cầu kinh doanh, tiêu dùng thự sự đảm bảo khả năng trả nợ ngân hàng, công việc này trong năm có sự khởi sắc cả ở phòng Giao dịch Đồng Xuân và phòng Kinh doanh. Doanh số cho vay đạt 1.916.500 triệu đồng, tăng so với năm 2000 là 13,4%, trong đó doanh nghiệp cho vay xuất khẩu đạt 1.291 tỷ đồng. Doanh số thu nợ đạt 1.823.740 triệu đồng, tăng 7,6% so với đầu năm, tốc độ tăng của doanh số thu nợ nhỏ hơn so với tốc độ tăng của doanh số cho vay, nguyên nhân do năm 2001 chi nhánh có sự dịch chuyển cơ cấu cho vay, phát triển cho vay trung dài hạn nhiều hơn so với những năm trước. Cho nên, dư nợ trung dài hạn tăng lên đáng kể (từ 27,78% năm 2000 đến 33,94% năm 2001). Về hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh đối ngoại. Năm 2001, trong bối cảnh giá cả các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu liên tục giảm nên mặc dù khối lượng xuất khẩu vẫn tăng lên nhưng lượng ngoại tệ vào ngân hàng vẫn giảm đáng kể. Tuy nhiên doanh số kinh doanh ngoại tệ của Chi nhánh vẫn đạt 190 triệu USD ( trong đó doanh số mua 96 triệu USD, doanh số bán 94 triệu USD), tăng gấp 2 lần so với năm 2000. Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu đạt 170 triệu USD tăng 4% so với năm 2000, trong đó doanh số xuất khẩu đạt 55 triệu USD. Với một thời gian hoạt động kinh doanh đối ngoại chưa bằng 1/2 thời gian của các chi nhánh khác, nhưng Chi nhánh vẫn đạt ở vị trí hàng đầu và là 1 trong 6 đơn vị xuất sắc trong kinh doanh đối ngoại của hệ thống ngân hàng Công thương Việt Nam. Tổng thu phí dịch vụ từ kinh doanh đối ngoại và thanh toán quốc tế đạt 3,5 tỷ đồng, tăng 46% so với năm 2000, trong đó thu từ kinh doanh ngoại tệ là 1,1 tỷ đồng. Về lợi nhuận. Trong năm chi nhánh đã đạt tổng thu dịch vụ là 4,1 tỷ đồng, tăng 34% so với năm 2000, chiếm 23,5% lợi nhuận hạch toán. Do thực hiện phương pháp hạch toán dự thu dự trả nên trong năm, Chi nhánh phải hạch toán các khoản gối chi của năm 2000, dẫn đến chi trả lãi đột biến, cùng với việc hạch toán, phân bổ quỹ dự phòng rủi ro đã ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận. Tuy nhiên, lợi nhuận hạch toán năm 2001 vẫn đạt 17.521 triệu đồng, vượt 16% so với kế hoạch ngân hàng Công thương Việt Nam giao. 2.2/Thực trạng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm. 2.2.1/Các hoạt động cơ bản: Trong những năm vừa qua,tình hình kinh tế trong nước và khu vực gặp nhiều khó khăn,ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của ngành ngân hàng nói chung và chi nhánh Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm nói riêng.Nhận thức rõ vấn đề này,Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm đã tập trung vào cải thiện chất lượng hoạt động nghiệp vụ,nâng cao chất lượng phục vụ,đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.Nguồn vốn hoạt động ngày càng tăng,quy mô hoạt động tín dụng không ngừng được mở rộng tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng giao dịch đem lại lợi nhuận cao cho hoạt động Ngân hàng,góp phần xứng đáng hoàn thành nhiệm vụ chung của toàn hệ thống Ngân hàng,đồng thời khẳng định vị thế của Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm trên địa bàn. 2.2.1.1/Hoạt động kinh doanh tín dụng. Trong chiến lược phát triển chung ở giai đoạn hiện nay,kinh doanh tín dụng giữ vai trò chủ đạo,là cơ sở để tiến hành và thực hiện tất cả các hoạt động khác của ngân hàng.Tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm,xác định kinh doanh không chỉ là nhiệm vụ của cán bộ tín dụng mà tất cả các bộ phận phòng ban kết hợp nhuần nhuyễn với nhau tạo thành guồng máy hoạt động nhịp nhàng,ăn khớp thống nhất một mục tiêu chung là phục vụ khách hàng.Cùng với việc tăng trưởng dư nợ với khách hàng truyền thống,chi nhánh đã đẩy mạnh công tác tiếp thị,tìm đến với những khách hàng mới,dự án khả thi,đáp ứng yêu cầu và đặc thù của mọi đối tượng khách hàng.Với những phương thức cho vay mới,chi nhánh đã cố gắng giảm bớt những thủ tục rườm rà,giảm thiểu thời gian duyệt và số lần ký hợp đồng tín dụng,cải thiện mối quan hệ Ngân hàng-Khách hàng.Trên cơ sở tính toán lãi suất đầu vào,chi nhánh đã áp dụng mức lãi suất cho vay ưu đãi phù hợp nhất cho khách hàng,giúp cho khách hàng tháo gỡ khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh.Đồng thời cho vay tập trung vào ngành kinh tế mũi nhọn,mở rộng toàn diện hoạt động đúng hướng,góp phần củng cố,phát triển kinh tế hàng hoá ở địa phương,phù hợp với cơ chế thị trường,cải tiến kỹ thuật và đổi mới công nghệ.Mở rộng sản xuất,tạo những sản phẩm mới cho xã hội,tăng thu nhập,tích lũy cho doanh nghiệp. Đến 31/12/2001,số lượng doanh nghiệp có quan hệ vay vốn tại Chi nhánh tương đối lớn,đó là các Tổng công ty 90,91,các đơn vị thành viên,các doanh nghiệp thuộc các bộ,các địa phương,các doanh nghiệp liên doanh,doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có tình hình tài chính lành mạnh và hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả.Các chi nhánh này được Chi nhánh tiếp vốn đã và đang hoạt động tốt,ngày càng tin tưởng vào khả năng và tinh thần phục vụ của Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm.Mức đầu tư của Chi nhánh cho các doanh nghiệp qua các thời kỳ như sau: Khi xét đến hiệu quả hoạt động của một Ngân hàng cần phải nhìn nhận trên công tác tín dụng.Tuy nhiên,để đảm bảo nguồn vốn cung cấp cho hoạt động tín dụng,các Ngân hàng phải thu hút được một nguồn vốn lớn với lãi suất thấp.Việc khai thác các nguồn vốn tiềm năng trong xã hội là mục tiêu hàng đầu được đặt ra.Sự sống còn của ngân hàng hoàn toàn phụ thuộc vào khách hàng.ý thức được điều đó,Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm rất coi trọng chiến lược khách hàng,xem đây là nhiệm vụ quan trọng trong hoạt động kinh doanh của mình.Chiến lược huy động vốn là hoạt động mở đầu trong kinh doanh tiền tệ,nó mang tính thường xuyên và liên tục.Khi vốn huy động được có cơ cấu hợp lý,chi phí đầu vào thấp sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng.Tình hình huy động vốn của NHCT Hoàn Kiếm được thể hiện qua bảng sau: Bảng I: Đơn vị : Triệu đồng Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 Tỷ trọng Tỷ trọng Tỷ trọng Nguồn vốn huy động: Trong đó:+Tiền gửi dân cư +Tiền gửi TCKT + Đivay 1.524.967 358.717 166.250 1.000.000 23,52% 10,91% 65,57% 2.082.533 510.686 291.847 1.280.000 24,52% 14,01% 61,47% 3.502.015 620.345 381.610 2.500.060 17,71% 10,89% 71,4% (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh 1999,2000,2001) Qua số liệu trên có thể khẳng định tình hình huy động vốn là mặt mạnh của Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm so với các Ngân hàng khác trong địa bàn.Nguồn vốn huy động liên tục tăng qua các năm và đặc biệt là sự tăng ở tiền gửi các tổ chức kinh tế.Đây là nét đột phá mới trong chiến lược kinh doanh của Ngân hàng nhằm duy trì được nguồn vốn tăng trưởng ổn định,đảm bảo cho việc mở rộng tín dụng,đáp ứng nhu cầu về vốn của doanh nghiệp,đồng thời đem lại lợi nhuận cao cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. 2.2.1.2/Kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế. Năm 2000 đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc trong hoạt động kinh doanh đối ngoại của chi nhánh. Thật vậy, với tinh thần cố gắng làm việc phấn đấu vươn lên, với nghiệp vụ vững vàng và phong cách giao dịch được hoàn thiện một cách rõ nét của từng cán bộ kinh doanh đối ngoại, sự phối kết hợp nhuần nhuyễn giữa các phòng ban, nên dù gặp khó khăn do sự khan hiếm ngoại tệ nhưng chi nhánh đã trở thành một trong những chi nhánh hàng đầu về lĩnh vực thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng Công thương Việt Nam. Trước hết là việc thanh toán đòi tiền bộ chứng từ hàng xuất khẩu, đối với chi nhánh đây là một nghiệp vụ mới mẻ, chi nhánh chưa có kinh nghiệm, nhưng với sự cố gắng của những cán bộ kinh doanh đối ngoại, năm 2000 chi nhánh đã đạt được doanh số thanh toán hàng xuất là 60 triệu USD, chiếm 20% tổng doanh số thanh toán hàng xuất của hệ thống ngân hàng Công thương Việt Nam và đã đưa chi nhánh đứng vị trí 1 trong 3 đơn vị hàng đầu trong toàn hệ thống. Đồng thời chi nhánh đã mở được 440 L/C với doanh số 40 triệu USD, đáp ứng được yêu cầu nhập khẩu của khách hàng. Đối với nghiệp vụ nhờ thu, TTR chi nhánh cũng đã làm rất tốt, cụ thể doanh số nhờ thu đạt 12 triệu 741 ngàn USD; doanh số TTR đạt 52 triệu USD, đưa doanh số thanh toán hàng nhập khẩu lên 104 triệu USD. Năm 2000 là một năm đầy khó khăn đối với nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ. Thế nhưng chi nhánh đã có được doanh số mua bán ngoại tệ với 95 triệu USD, thu phí về hoạt động thanh toán quốc tế là 2,4 tỷ đồng. Sang năm 2001, trong bối cảnh giá cả các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu liên tục giảm nên mặc dù khối lượng xuất khẩu vẫn tăng lên nhưng lượng ngoại tệ vào ngân hàng vẫn giảm đáng kể. Tuy nhiên doanh số kinh doanh ngoại tệ của Chi nhánh vẫn đạt 190 triệu USD ( trong đó doanh số mua 96 triệu USD, doanh số bán 94 triệu USD), tăng gấp 2 lần so với năm 2000. Doanh số thanh toán xuất nhập khẩu đạt 170 triệu USD tăng 4% so với năm 2000, trong đó doanh số xuất khẩu đạt 55 triệu USD. Với một thời gian hoạt động kinh doanh đối ngoại chưa bằng 1/2 thời gian của các chi nhánh khác, nhưng Chi nhánh vẫn đạt ở vị trí hàng đầu và là 1 trong 6 đơn vị xuất sắc trong kinh doanh đối ngoại của hệ thống ngân hàng Công thương Việt Nam. Tổng thu phí dịch vụ từ kinh doanh đối ngoại và thanh toán quốc tế đạt 3,5 tỷ đồng, tăng 46% so với năm 2000, trong đó thu từ kinh doanh ngoại tệ là 1,1 tỷ đồng. 2.2.1.3/Công tác kế toán và lợi nhuận. Trong năm chi nhánh đã đạt tổng thu dịch vụ là 4,1 tỷ đồng, tăng 34% so với năm 2000, chiếm 23,5% lợi nhuận hạch toán. Do thực hiện phương pháp hạch toán dự thu dự trả nên trong năm, Chi nhánh phải hạch toán các khoản gối chi của năm 2000, dẫn đến chi trả lãi đột biến, cùng với việc hạch toán, phân bổ quỹ dự phòng rủi ro đã ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận. Tuy nhiên, lợi nhuận hạch toán năm 2001 vẫn đạt 17,5 tỷ đồng, vượt 16% so với kế hoạch ngân hàng Công thương Việt Nam giao. Công tác kế toán chấp hành nghiêm chỉnh pháp lệnh kế toán thống kê của Nhà nước,đảm bảo tính chính xác,trung thực,việc ghi chép sổ sách hợp lệ,hợp pháp.Kế toán đã làm tốt công tác của mình tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh phát triển đồng thời đảm bảo thanh toán thu chi phù hợp.Bên cạnh việc chấp hành tốt chế độ kế toán-tài chính,cán bộ nhân viên phòng kế toán đã tránh được sự máy móc,cứng nhắc,không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ,đổi mới phong cách phục vụ,làm việc với tinh thần trách nhiệm cao,phối hợp với các phòng ban chức năng nâng cao chất lượng dịch vụ. Từ những năm 1995 trở về trước tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm,cơ cấu dư nợ chủ yếu là thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và cho vay trung dài hạn chiếm một tỷ lệ nhỏ,nhu cầu thì hầu như không phát sinh .Mặt khác,Ngân hàng lại không quan tâm,không tiến hành thẩm định để đề ra quyết định đúng đắn và có ý kiến tư vấn đối với khách hàng.Vì vậy,nghiệp vụ ở Ngân hàng đơn lẻ nghèo nàn,không thu hút được khách hàng,lợi nhuận mang lại thấp,đời sống cán bộ công nhân viên gặp nhiều khó khăn. Sang năm 1997,một năm chuyển mình của NHCT Hoàn Kiếm,đó là một năm quan trọng đánh dấu bước thay đổi cơ bản về cả lượng và chất,trong đó có tín dụng trung dài hạn.Bắt đầu của một định hướng mới,phong cách làm việc mới và vì thế công tác thẩm định cũng đổi mới nhằm theo kịp với chiến lược của Ngân hàng.Đây là điểm mấu chốt giúp cho Ngân hàng ổn định dư nợ,nguồn trả nợ thu từ khách hàng được đảm bảo.Nền kinh tế luôn có những bước thăng trầm,hoạt động đầu tư cho nền kinh tế phải thích hợp để tránh rủi ro .Đầu tư cho trung dài hạn là cơ hội hạn chế những thất thường và biến động của cơ chế và nền kinh tế,đồng thời giúp cho doanh nghiệp đổi mới công nghệ,cải tiến kỹ thuật,nâng cao chất lượng sản phẩm,hạ giá thành tạo thế mạnh trong cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường. Sau một thời gian dài khủng hoảng vì những hậu quả nặng nề mà kinh tế thị trường để lại,NHCT Hoàn Kiếm đã củng cố lại cơ cấu tổ chức,đổi mới chiến lược kinh doanh,hoạt động đầu tư bắt đầu khởi sắc.Dư nợ và nguồn vốn tăng lên không ngừng,cơ cấu khách hàng có nhiều thay đổi.Dư nợ trung dài hạn nhích dần lên.Chiến lược khách hàng thực sự được quan tâm áp dụng các chính sách ưu đãi,các dự án đầu tư chiều rộng,chiều sâu được thẩm định kỹ lưỡng,có thể tư vấn cho khách hàng thực hiện giải pháp đầu tư có lợi cho hai bên. 2.3/Thực trạng hoạt động tín dụng trung dài hạn tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm 2.3.1/ Hoạt động tín dụng trung dài hạn tại Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm. Trong những năm vừa qua,bằng uy tín của mình kết hợp với chính sách huy động vốn hợp lý:đa dạng hoá các hình thức hoạt động vốn,lãi suất,các kỳ hạn hoạt động,mở rộng mạng lưới các văn phòng giao dịch,tăng cường thu hút vốn trên thị trường liên ngân hàng…. Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm đã thu hút được một khối lượng vốn lớn bằng VND và ngoại tệ dưới hình thức tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi giao dịch. Có được sự phát triển mạnh mẽ trên thật không phải là một điều dễ dàng do Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh khắc nghiệt của các Ngân hàng trong và ngoài nước.Ngân hàng cũng đã từng mắc phải một số sai lầm như đầu tư quá lớn vào một số khách hàng,cán bộ tín dụng và lãnh đạo Ngân hàng móc ngoặc cho vay xuất phát từ lợi ích cá nhân làm thất thoát hàng tỷ đồng.Rút kinh nghiệm từ bài học đó,Ngân hàng đã lấy hiệu quả an toàn làm mục tiêu hàng đầu cho hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng trung dài hạn nói riêng với phương châm “thà cho vay ít mà hiệu quả còn hơn là chạy theo số lượng”.Hoạt động tín dụng trung dài hạn tại Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm trong những năm qua như sau: *Về quy mô tín dụng Bảng II: Doanh số cho vay và doanh số thu nợ trung dài hạn tại NHCTHK. Đơn vị: Triệu đồng Năm Chỉ tiêu 1999 2000 2001 Doanh số cho vay trung dài hạn 413.422 469.511 650.460 Doanh số cho vay ngắn hạn 971.578 1.220.595 1.266.040 Tổng doanh số cho vay 1.385.000 1.690.106 1.916.500 Doanh số thu nợ trung dài hạn 447.093 491.555 638.309 Doanh số thu nợ ngắn hạn 1.043.217 1.203.464 1.185.431 Tổng doanh số thu nợ 1.490.310 1.695.019 1.823.740 (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh 1999,2001,2002) Bảng III: Tình hình dư nợ trung dài hạn tại Ngân hàng công thương hoàn kiếm Đơn vị:Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 31/12/1999 31/12/2000 31/12/2001 Số dư Tỷ trọng Số dư Tỷ trọng Số dư Tỷ trọng Dư nợ ngắn hạn 352.321 70,15% 395.308 7._.ận ngay khi họ có nhu cầu là Ngân hàng có thể sẵn sàng đáp ứng với thời gian ngắn hơn,làm tăng tính cạnh tranh mà không sợ là quyết định vội vã.Để chủ động tìm kiếm dự án đầu tư thì vấn đề thông tin đóng vai trò cực kỳ quan trọng.Ngân hàng cần nắm được các chính sách phát triển kinh tế của đất nước,các kế hoạch đầu tư của ngành,của doanh nghiệp…thông qua các mối liên hệ,qua các cơ quan của nhà nước,Bộ kế hoạch và đầu tư,các tổ chức hiệp hội ngành nghề. Để công tác thu hút khách hàng có hiệu quả thì Ngân hàng cần phải tiến hành phân loại,đánh giá khách hàng trên cơ sở đó có các chính sách biện pháp ưu đãi thích hợp.Ngân hàng tiến hành đánh giá,phân loại khách hàng theo các tiêu chuẩn về năng lực tài chính,về vị thế và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường cũng như khả năng quản lý,khả năng thích nghi với môi trường kinh doanh của bộ máy quản lý. 3.2.1.5/Tăng cường huy động vốn trung dài hạn. Trong những năm gần đây,nền kinh tế nước ta đã đi dần vào ổn định,hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm được cải thiện đáng kể phù hợp với sự đổi mới theo hướng Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá.Đó là việc Ngân hàng thay đổi cơ cấu đầu tư theo hướng nâng dần tỷ trọng cho vay trung và dài hạn,do đó đòi hỏi nguồn vốn cho vay trung dài hạn cũng phải được tăng cường.Tuy nhiên thực tế nguồn vốn cho vay trung dài hạn vẫn còn nhỏ bé so với tổng nguồn vốn huy động.Điều này có thể gây khó khăn cho Ngân hàng về khả năng thanh toán hay về lãi suất.Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn đòi hỏi Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm phải có nguồn vốn tương đối ổn định.Để mở rộng nguồn vốn cho vay,Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm cần tiến hành: -Đối với vốn tự có,Ngân hàng phải chuyển đủ phần lợi nhuận vào vốn tự có sau khi đã trích lập các quỹ,tập trung giải quyết nợ quá hạn,tài sản thế chấp,cầm cố. -Về nguồn vốn hoạt động từ dân cư và các tổ chức kinh tế,Ngân hàng cần mở rộng mạng lưới chi nhánh,phát hành trái phiếu,huy động tiền gửi tiết kiệm dài hạn với mức lãi suất hợp lý.Đồng thời tiến hành mua bảo hiểm tiền gửi tạo sự an tâm cho người gửi tiền khi xa rời tiền vốn trong một thời gian dài. -Đối với các doanh nghiệp thường xuyên có số dư tiền gửi lớn,cần có chính sách ưu đãi về lãi suất tiền gửi,nâng cao chất lượng phục vụ của Ngân hàng,đảm bảo thanh toán nhanh chóng kịp thời… 3.2.2/Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm 3.2.2.1/Hoàn thiện chính sách tín dụng Chính sách tín dụng của một Ngân hàng thương mại là một hệ thống các biện pháp liên quan đến việc khuyếch trương tín dụng hoặc hạn chế tín dụng đểđạt mục tiêu đã được hoạch định của ngân hàng đó và hạn chế rủi ro,đảm bảo an toàn trong kinh doanh tín dụng của Ngân hàng.Đồng thời chính sách tín dụng còn là một bản hướng dẫn để các cán bộ tín dụng thực thi các hoạt động của mình. Tín dụng trung và dài hạn có thời hạn dài lại chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố,do đó cần thiết phải xác định chiến lược tín dụng đúng đắn.Xuất phát từ tình hình thực tế của Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm,theo em chính sách tín dụng trung và dài hạn cần tập trung vào các nội dung chính sau: Ngân hàng tiếp tục củng cố tăng cường và mở rộng hoạt động tín dụng trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu và các tổng công ty 90-91.Đấy là khách hàng truyền thống,có quan hệ thường xuyên với Ngân hàng và nhu cầu đổi mới công nghệ,mở rộng sản xuất thường xuyên. Đa dạng hoá các hình thức đầu tư dài hạn.Bên cạnh hoạt động cho vay trung và dài hạn,Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm tiếp tục phát huy các thành tựu đã đạt được trong hoạt động đồng tài trợ và thuê mua.Đây là các hình thức khác của tín dụng trung và dài hạn góp phần giải quyết các khó khăn về cho vay,về yêu cầu sử dụng vốn,cũng như khả năng thu hồi các khoản cho vay và mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng. Tăng cường hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.Mặc dù quy định về cho vay thành phần kinh tế này đòi hỏi rất cao và chặt chẽ nhưng không vì thế mà Ngân hàng không cho vay,thờ ơ với khách hàng mà cần phải linh hoạt,nhạy bén,biết nhìn nhận đâu là khách hàng đáng tin cậy,có khả năng trả nợ để có quyết định cho vay chính xác. Ngân hàng cần quan tâm hơn nữa đến cơ cấu tiền cho vay,cần phải có những ưu đãi hơn đối với những khách hàng vay bằng nội tệ,ví dụ như ngoài ưu đãi về lãi suất sẽ được nhận thêm một số dịch vụ khuyến mãi của Ngân hàng 3.2.2.2/Đơn giản hoá các thủ tục cho vay. Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm nên đơn giản hoá các thủ tục vay vốn,đẩymạnh quá trình điều tra xét duyệt cho vay đối với các dự án có hiệu quả.Nhìn chung,khách hàng đi vay bao giờ cũng ngại thủ tục xét duyệt cho vay quả rườm rà. Trong các khách hàng vay vốn trung dài hạn của Ngân hàng chủ yếu là khách hàng truyền thống lâu dài từ trước đã tham gia vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng.Vì vậy giữa bộ hồ sơ vay vốn trung dài hạn với bộ hồ sơ vay vốn ngắn hạn có một số điểm trùng nhau như: Báo cáo thực trạng tài chính của Doanh nghiệp;báo cáo quyết toán của doanh nghiệp…Do đó Ngân hàng có thể đơn giản hai thủ tục này khi mà doanh nghiệp chưa có đủ thì hoàn toàn có thể áp dụng dựa vào bộ hồ sơ vay vốn ngắn hạn vì trong nghiệp vụ vay vốn ngắn hạn,cán bộ tín dụng vẫn thường xuyên kiểm tra tình hình tài chính của doanh nghiệp.Tuy vậy việc dựa vào bộ hồ sơ vay vốn ngắn hạn chỉ thường dùng cho các doanh nghiệp có quan hệ thường xuyên với Ngân hàng,còn đối với đơn vị lần đầu thì phải đảm bảo đầy đủ thủ tục.Việc đơn giản hoá như vậy sẽ làm khách hàng không ngần ngại khi đặt quan hệ vay vốn với Ngân hàng.Việc các thủ tục xét duyệt đơn giản cũng sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng điều tra có trọng điểm,không mất thời gian tìm hiểu quá lâu.Đơn giản không có nghĩa là qua loa,hời hợt.Đó là nguyên tắc của Ngân hàng trước khi điều tra cho vay. 3.2.2.3/Nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư. Sau khi đã có một chiến lược đúng đắn về tín dụng và một công tác khách hàng tốt thì việc tiếp theo cần làm là biến những điều tốt đó thành hiện thực,thành lợi nhuận cho Ngân hàng.Để làm được điều đó,công tác thẩm định dự án đầu tư chính là đầu mối quyết định chất lượng của một khoản vay ra.Đối với việc thẩm định dự án đầu tư,thẩm định về phương diện tài chính là quan trọng nhất.Để nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư cần chú ý tới các vấn đề sau: Đổi mới quy trình tín dụng Để hạn chế tối đa các yếu tố chủ quan và các biểu hiện tiêu cực trong việc thẩm định xét duyệt cho vay,đảm bảo tính khách quan,vô tư,kịp thời phát hiện các khách hàng kém hiệu quả,các dự án kém khả thi….Ngân hàng cần cải tiến và đổi mới quy trình thẩm định và xét duyệt cho vay,kiểm tra giám sát tình hình cho vay luân chuyển vốn vay. Theo quy trình tín dụng,hồ sơ cho vay trước khi trình lãnh đạo ký duyệt cần phải được kiểm tra,xem xét toàn diện,chính xác và khách quan từ khâu nộp hồ sơ,phân tích năng lực quản lý điều hành của chủ doanh nghiệp,khả năng về tài chính,kết quả kinh doanh của doanh nghiệp,tính khả thi của dự án,tính hợp lý và giá trị các tài sản thế chấp,biện pháp thu hồi nợ…Do vậy,nếu để một cán bộ tín dụng đảm nhận tất cả các khâu như hiện nay thì sẽ không tránh khỏi sai sót do trình độ nghiệp vụ và kinh nghiệm của mỗi cán bộ tín dụng là khác nhau.Vì vậy,phòng kinh doanh có thể chia ra làm hai bộ phận: +Bộ phận quản lý doanh nghiệp có trách nhiệm hướng dẫn khách hàng làm thủ tục và điều kiện vay vốn,tiếp nhận các hồ sơ vay vốn của khách hàng,phân loại hồ sơ để xem xét,đánh giá.Bộ phận này chuyên quản lý doanh nghiệp,thưỡng xuyên theo dõi,kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay,tài sản thế chấp,kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,những thuận lợi khó khăn để từ đó đề xuất ý kiến,biện pháp giải quyết đối với từng phương án vay vốn.Bộ phận này định kỳ xuống doanh nghiệp làm việc để nắm rõ tình hình thực tế về báo cáo cho lãnh đạo và bộ phận thẩm định để theo dõi chỉ đạo. +Bộ phận thẩm định dự án độc lập với bộ phận quản lý doanh nghiệp,bộ phận này chủ yếu làm việc tại Ngân hàng,có nhiệm vụ phân tích xem xét dự án vay vốn về mọi mặt,phân tích khả năng trả nợ của khách hàng.Bộ phận này có thể xuống doanh nghiệp nắm tình hình thực tế và kiểm tra đánh giá tài sản thế chấp,cầm cố khi thẩm định dự án,căn cứ vào ý kiến đề xuất của bộ phận quản lý doanh nghiệp để đưa ra phương án xử lý các vụ việc liên quan đến vốn vay.Trong bộ phận thẩm định dự án ngân hàng nên tuyển thêm một số cán bộ am hiểu sâu về một lĩnh vực cụ thể như điện,máy móc thiết bị,giao thông xây dựng…để giúp cho công tác thẩm định đánh giá về các yếu tố kỹ thuật được đúng đắn và chính xác,nhanh chóng. Một trong các biện pháp quản lý chất lượng tín dụng là thực hiện tốt quy trình quản lý tín dụng.Nếu một công đoạn nào thực hiện không đúng quy định sẽ ảnh hưởng đến công đoạn sau và kết quả của toàn bộ công việc.Vì vậy cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận trên. Hệ thống chỉ tiêu đầy đủ rõ ràng. Hệ thống chỉ tiêu thẩm định tài chính dự án đầu tư phải vừa đủ và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau,để phản ánh hiệu quả dự án được toàn diện,chính xác.Hệ thống chỉ tiêu đó tựu chung chia làm hai nhóm:Một nhóm phản ánh khả năng sinh lợi của dự án,nhóm kia phản ánh độ rủi ro của dự án.Còn xuất phát từ đặc thù của góc độ nhà thẩm định là chủ Ngân hàng,người thẩm định bổ sung thêm nhóm chỉ tiêu nói lên khả năng hoàn vốn của dự án.Trong mỗi nhóm chỉ tiêu cần phản ánh theo phương diện của nhóm phù hợp hoàn cảnh phân tích cụ thể.Tuy nhiên cần phải đưa ra các chỉ tiêu phù hợp với thực tế hoạt động của Ngân hàng. Phân tích tìm hiểu khách hàng đầy đủ chính xác. Đây là việc cần thiết trong khả năng thu hồi vốn cho Ngân hàng,có nhiều trường hợp Ngân hàng bị mất vốn do không tìm hiểu kỹ về khách hàng.Khi xem xét khách hàng vay,Ngân hàng cần thẩm định chính xác hoặc có thể căn cứ vào các công ty kiểm toán đáng tin cậy,các báo cáo tài chính của doanh nghiệp cần vay như: Bảng tổng kết tài sản,báo cáo kết quả kinh doanh…đồng thời thu thập những thông tin liên quan đến khách hàng,tìm hiểu kỹ về dự án đầu tư của khách hàng và tổ chức giám sát quá trình triển khai thực hiện dự án đầu tư đảm bảo theo đúng nguyên tắc tín dụng…có như vậy mới giảm được rủi ro thất thoát vốn cho Ngân hàng.Ngoài ra khi phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp nếu như tổng số nợ phải trả lớn hơn số vốn lưu động thì hạn chế cho vay. 3.2.2.4/Cho vay kịp thời đầy đủ đối với các dự án có hiệu quả kinh tế. Ngân hàng cần tiến hành đầu tư dứt điểm cho từng dự án,từng công trình tránh tình trạng cho vay thiếu hài hoà,khi thì tràn lan,khi thì thưa thớt.Trong quá trình điều tra xét duyệt cho vay,Ngân hàng cần chú trọng đến những công trình phục vụ xây dựng cơ cấu của nền kinh tế quốc dân,thực sự có hiệu quả,đảm bảo đầu tư đúng mục đích,đúng kế hoạch,có khả năng trả nợ lãi vay Ngân hàng đúng thời hạn,có khả năng thu hồi vốn nhanh,để từ đó có kế hoạch đầu tư một cách đầy đủ,kịp thời.Công trình sau khi được phê duyệt,Ngân hàng cần phát tiền vay theo đúng kế hoạch để đảm bảo thực hiện đúng tiến độ thi công đã đề ra,sớm đưa dự án vào sử dụng phát huy hiệu quả. 3.2.2.5/Nâng cao trình độ cán bộ và sử dụng cán bộ một cách hợp lý. Yếu tố con người trong bất kỳ trường hợp nào cũng đóng một vai trò rất quan trọng.Do vậy,nâng cao trình độ cán bộ là cần thiết và càng cần thiết hơn khi Ngân hàng phải luôn hoạt động trong môi trường biến động từng giờ từng phút,con người phải học hỏi không ngừng để đáp ứng được những đòi hỏi. Trước hết phải bố trí,sắp xếp chọn lọc những cán bộ có đủ tiêu chuẩn đạo đức,sức khoẻ,nhiệt tình với công việc,có ý thức và khả năng tiếp thu tốt những kiến thức nghiệp vụ chuyên môn ngày càng cao.Công việc của cán bộ tín dụng là thẩm định và giải quyết cho vay đối với khách hàng,do vậy một quyết định sai lầm do thiếu năng lực,thiếu hiểu biết của cán bộ tín dụng,cùng với sự thiếu đi sâu sát của cán bộ tín dụng và cán bộ lãnh đạo có thể gây ra hậu quả đáng kể.Trên cơ sở tiêu chuẩn hoá cán bộ tín dụng,Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm có hướng đào tạo lại,tuyển chọn và sử dụng cho phù hợp. -Đối với cán bộ hoạch định chính sách: Phải là người có trình độ nghiệp vụ về lĩnh vực ngân hàng một cách vững vàng,có kiến thức kinh tế-xã hội và pháp luật,có phương pháp nghiên cứu khoa học,am hiểu thị trường.Như vậy mới đủ khả năng xem xét nhu cầu tín dụng một cách tổng quát,chính xác từ đó hoạch định chính sách tín dụng phù hợp và đưa ra các phương hướng giải quyết đúng đắn. Ngoài ra,đó phải là người có kiến thức ngoại ngữ và ứng dụng tin học vì đây là cơ sở,phương tiện để tiếp xúc với thông tin,với những cái mới hiện đại nhằm hiểu biết thêm và lường được các biến động có thể xảy ra. Đặc biệt,cán bộ hoạch định phải có kiến thức Marketing ngân hàng,đây là lĩnh vực mới áp dụng ở nước ta,song nó lại rất phát triển,từ đó có thể khai thác triệt để nhu cầu khách hàng cũng như khả năng hiện có của khách hàng và đề ra một chiến lược khách hàng tiềm năng.Đây là việc làm cần thiết và mang tính lâu dài cho hoạt động tín dụng trung và dài hạn. -Đối với cán bộ quản lý điều hành hoạt động tín dụng. Ngoài các kiến thức cơ bản về nghiệp vụ phải giỏi,cần phải nắm chắc pháp luật về kinh tế và về ngân hàng,thấu hiểu các quy định về thể chế của ngành,có khả năng phân tích chỗ sai chỗ đúng trong văn bản chế độ,từ đó rút ra những gì cần làm và cần tránh,có khả năng bổ sung và chỉ ra được những thiếu sót về nghiệp vụ của cấp dưới. -Đối với đội ngũ cán bộ tín dụng phải hiểu biết từng biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ thẩm định khách hàng và đánh giá một dự án,một món vay,biết thu thập xử lý các thông tin cần thiết phục vụ cho việc đánh giá,thẩm định phải nắm vững chủ trương chính sách phát triển kinh tế –xã hội của đất nước,của ngành,của địa phương có liên quan đến dự án đầu tư.Có hiểu biết về pháp luật,nắm bắt được tình hình kinh tế-xã hội của thế giới và trong nước có liên quan đến dự án và sản phẩm của dự án đầu tư.Bên cạnh đó cán bộ tín dụng cần có đức tính trung thực,có bản lĩnh và phong cách làm việc khẩn trương khoa học. Để làm được điều này,Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm nên thường xuyên tổ chức tập huấn,đào tạo nghiệp vụ nhằm góp phần nâng cao trình độ chuyên môn,đặc biệt chú trọng về khả năng thẩm định,phân tích kết quả kinh doanh và tình hình sử dụng vốn vay.Ngân hàng thường xuyên cử cán bộ sang tham quan ,học hỏi kinh nghiệm của các ngân hàng khác trên các lĩnh vực có liên quan đến tín dụng. Cần phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm cũng như chế độ khen thưởng cụ thể đối với cán bộ tín dụng.Điều này một mặt khuyến khích cán bộ công nhân viên hăng hái làm việc,không có tình trạng chảy máu chất xám,mặt khác hạn chế tình trạng làm bừa hoặc phục vụ mục đích riêng tư. Định kỳ tổ chức các cuộc hội thảo tổng kết đánh giá tình hình hoạt động tín dụng,phân tích sai sót cũng như các kết quả đạt được của Ngân hàng,từ đó học hỏi,đúc rút kinh nghiệm cho cán bộ tín dụng,tránh vấp phải những sai lầm tương tự trong tương lai. 3.2.2.6/Nâng cao chất lượng thông tin. Vai trò của thông tin trong việc quản lý các Ngân hàng thương mại là vô cùng quan trọng.Việc thu thập,xử lý và quản lý thông tin càng đầy đủ,càng chính xác thì các quyết định quản lý càng hiệu quả.Thông tin tín dụng đối với Ngân hàng thương mại có thể lấy từ nhiều nguồn: -Thông tin trực tiếp từ việc tiếp xúc,phỏng vấn người vay,qua việc quan sát,tìm hiểu trực tiếp tại địa điểm sản xuất kinh doanh của đối tượng thẩm định.Nguồn thông tin này rất quan trọng,nó phản ánh ý thức thái độ của người vay cũng như điều kiện,năng lực sản xuất cụ thể của doanh nghiệp vay vốn. -Thông tin từ trung tâm tín dụng của Ngân hàng Nhà Nước.Đây là trung tâm đầu mối thu thập các thông tín dụng liên quan đến khách hàng của các Ngân hàng thương mại.Đây là một bộ phận trực thuộc Vụ tín dụng Ngân hàng Nhà Nước,do đó có rất nhiều lợi thế trong việc thu thập thông tin.Tuy nhiên,hạn chế trong thông tin của trung tâm là chỉ mới cung cấp các thông tin liên quan đến tình hình dư nợ quá hạn của doanh nghiệp tại các Ngân hàng thương mại,các thông tin về thị trường,về kinh tế xã hội…đều không có.Bên cạnh đó,việc cung cấp thông tin cho trung tâm mới chỉ được các Ngân hàng thương mại quốc doanh và các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam thực hiện nghiêm túc,còn các ngân hàng nước ngoài,ngân hàng liên doanh chưa thực sự tuân thủ chặt chẽ yêu cầu này. -Thông tin lấy từ các bạn hàng của chủ đầu tư,các doanh nghiệp hoạt động cùng ngành nghề,địa phương,qua đó xác định được uy tín và vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. -Nguồn thông tin từ các cơ quan quản lý kinh tế và các đầu mối cung cấp thông tin quan trọng như Tổng cục thống kê,Tổng cục Thuế,Bộ Kế hoạch đầu tư,Uỷ ban vật giá Chính phủ,các tổ chức hiệp hội ngành nghề để tạo nguồn thông tin không chỉ về tín dụng mà còn cả thông tin về thị trường. Thực tế hoạt động tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm cho thấy Ngân hàng mới chỉ tập trung vào các thông tin về dư nợ tín dụng và nợ qúa hạn của khách hàng tại các ngân hàng thương mại cũng như tình hình thanh toán trả nợ của khách hàng đến thời điểm vay vốn mà chưa chú ý đến các nguồn thông tin khác.Chính vì vậy mà hiệu quả của thông tin tín dụng không được khai thác hết,gây lãng phí và ảnh hưởng trực tiếp đến khâu thẩm định dự án đầu tư và quyết định tín dụng.Để nâng cao chất lượng thông tin tín dụng phục vụ việc cho vay,Ngân hàng cần phải: +Chủ động,tích cực trong việc khai thác thông tin một cách đa dạng,chính xác đầy đủ,kịp thời đáp ứng cho việc thẩm định và quyết đinh đầu tư. +Bên cạnh việc thu thập,cần tiến hành phân tích,xử lý thông tin có được theo các mảng về thị trường,giá cả,về chính sách…Trong việc khai thác thông tin cũng cần có sự định hướng phù hợp cho từng đối tượng khách hàng để quá trình xử lý thông tin khi phân tích rủi ro đạt được hiệu quả. +Thiết lập và duy trì mối quan hệ chặt chẽ,thường xuyên với chính quyền,các cơ quan chức năng,các hiệp hội ngành nghề,thị trường có liên quan đến hoạt động của Ngân hàng. 3.2.2.7/Luôn dự báo các rủi ro tiềm ẩn trong tín dụng trung dài hạn và có phương pháp phòng ngừa hữu hiệu. Rủi ro thanh toán,rủi ro lãi suất luôn đe dọa các Ngân hàng bởi cấp độ của khoản vay trung dài hạn lớn hơn,đáng kể hơn rất nhiều so với khoản vay ngắn hạn.Sự quan tâm đến vấn đề phòng ngừa rủi ro đối với khoản tín dụng trung dài hạn không chỉ đòi hỏi đối với Ngân hàng mà còn đặc biệt đối với cơ quan quản lý tiền tệ.Bởi vì mức độ của khoản vay trung dài hạn là rất lớn,gây đột biến và kéo dài cho cả bên vay,ngân hàng và cả các bên có liên quan.Chính vì vậy,biện pháp dự báo rủi ro tiềm ẩn trong thế chấp và bảo lãnh vay vốn là hết sức quan trọng,cần thiết đối với Ngân hàng.Việc dự báo rủi ro tiềm ẩn càng đầy đủ,các biện pháp phòng ngừa càng cẩn trọng thì hiệu quả tín dụng càng cao.Đương nhiên việc phát hiện và dự báo các rủi ro tiềm ẩn để đề ra các biện pháp phòng ngừa phải là việc làm liên tục,thường xuyên không chỉ trước khi phán quyết mà cả trong suốt quả trình đưa vốn vay ra cho đến khi thu hết nợ gốc và lãi vay. Vì vậy,khi tính toán nguồn gốc trả nợ,thời hạn trả nợ,người ta tính toán cả phương án là lạc quan nhất và phương án trung bình nhất.Để an toàn và phòng ngừa các rủi ro tiềm ẩn,có một cách thường dùng là lấy phương án sản xuất xấu nhất để xem xét.Nếu phương án này vẫn trả được nợ và lãi vay Ngân hàng trong giới hạn cho phép thì chắc chắn ngay từ khi phán quyết đã có thể yên tâm về khoản vay được duyệt. Thế chấp và bảo lãnh cho việc vay vốn là chìa khoá an toàn cuối cùng cho việc vay vốn.Trong điều kiện hiện nay,việc sử dụng công cụ này đối với các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì Ngân hàng phải biết sự nhạy cảm,đảm bảo nguyên tắc và chấp hành nghiêm chỉnh chính sách của Nhà nước,áp dụng một cách linh hoạt,sáng tạo nhưng không tuỳ tiện.Tuyệt đối không coi thế chấp,cầm cố,bảo lãnh là "Bùa hộ mệnh" trong cho vay,không thể coi là chiếc chìa khoá an toàn đặc biệt mà chỉ coi là chìa khoá an toàn cuối cùng trong việc đảm bảo an toàn tín dụng.Thực hiện việc thế chấp,bảo lãnh đúng quy định và cho vay lãi phải dựa trên những cơ sở thực sự từ phía Doanh nghiệp chứ không phải dựa vào duy nhất tài sản thế chấp 3.2.2.8/Ngăn ngừa và giải quyết dứt điểm nợ quá hạn Đối với các khoản nợ quá hạn,Ngân hàng có thể giải quyết theo hai hướng: Thứ nhất: Ngân hàng có thể tiếp tục cho vay hoặc hỗ trợ cho các doanh nghiệp có điều kiện tổ chức lại,phát triển kinh doanh để có khả năng tài chính,thanh toán nợ cho Ngân hàng,nhận lại tài sản đã gán nợ trước đây.Giải pháp này chỉ áp dụng với các khách hàng nếu xét thấy bên vay vẫn có khả năng duy trì kinh doanh và có ý thức trả nợ cho Ngân hàng,việc không trả được nợ là do các yếu tố khách quan như thiên tai,biến động chính trị,khách hàng của doanh nghiệp không trả nợ đúng hạn.Đây là biện pháp hay,hợp đạo lý,không những không đẩy bên vay đến chỗ phá sản mà còn tạo khả năng thu hồi triệt để các khoản nợ khó đòi cho Ngân hàng.Cụ thể: -Ngân hàng hướng dẫn,tư vấn người vay trên nhiều khía cạnh:hướng dẫn sản xuất,kinh doanh,thị trường,sản phẩm nhằm tác động đến khả năng tạo ra và thu hồi lợi tức ở người vay hay yêu cầu khách hàng tạm dừng kế hoạch mở rộng (nếu có) cho đến khi tình hình tài chính của doanh nghiệp được cải thiện hoặc gia hạn cấp thêm tín dụng để tăng sức mạnh tài chính cho doanh nghiệp. -Ngân hàng đề nghị với các doanh nghiệp cải tổ lại bộ máy quản lý,hệ thống sản xuất kinh doanh,tổ chức lại sản xuất,thay đổi lại hệ thống máy móc thiết bị công nghệ. -Nếu doanh nghiệp vẫn còn có khả năng trả nợ nhưng tình trạng thu hết lãi rồi mới thu đến gốc với lãi phạt bằng 1,5 lần lãi cho vay càng làm cho doanh nghiệp khó khăn hơn thì Ngân hàng nên xem xét thu nợ trước hoặc thu một phần nợ,một phần lãi.Cách thu này có lợi cho cả Ngân hàng và khách hàng vì giúp đỡ doanh nghiệp trong lúc khó khăn đồng thời Ngân hàng vừa thu được nợ.Nếu Ngân hàng thu theo lãi trước thì nợ quá hạn của Ngân hàng không giảm mà thuế thu nhập lại bị đánh cao hơn -Nếu doanh nghiệp chịu thua lỗ trong kinh doanh là do nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai…thì Ngân hàng có thể giảm một phần hoặc toàn bộ lãi phạt quá hạn cho bên vay. Thứ hai: Đối với các khoản nợ quá hạn chắc chắn không có khả năng thu hồi thì không có cách nào khác là Ngân hàng tiến hành xiết nợ tài sản và xử lý các tài sản thế chấp để thu hồi nợ.Ngân hàng có thể khai thác tài sản thế chấp theo hướng: -Những tài sản nào có thể bán lại với giá chấp nhận được thì bán ngay để thu hồi vốn cho Ngân hàng,giá cả có thể thấp hơn giá dự kiến nhưng tính về mặt lâu dài thì không thiệt hại vì giữ tài sản không mất chi phí quản lý,không mất nhiều công sức khai thác,nhất là những lúc cần vốn để cho vay,đầu tư -Với những tài sản xiết nợ không bán được ngay,cần phải phân loại,đánh giá từng tài sản để có biện pháp khai thác kịp thời và hữu hiệu nhất. -Đối với những tài sản đã chuyển quyền sở hữu,sử dụng cho Ngân hàng như khách sạn,nhà cửa kho bãi…thì Ngân hàng có thể đem góp vốn liên doanh,cho thuê hoặc sử dụng vào mục đích kinh doanh của mình. -Đối với các tài sản còn vướng mắc về thủ tục pháp lý,chưa chuyển quyền sử dụng và sở hữu cho Ngân hàng thì Ngân hàng cần chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng có thẩm quyền để giải quyết,đưa vào xử lý để thu hồi vốn cho Ngân hàng 2.3.2.9/ Nâng cao công tác kiểm tra,kiểm soát. Công tác kiểm tra,kiểm soát hoạt động tín dụng phải được thực hiện thường xuyên,kịp thời và trở thành một trong những hoạt động cơ bản của công tác quản trị điều hành.Muốn vậy,Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm cần tiếp tục hoàn thiện công tác kiểm tra kiểm soát theo hướng: -Hoàn thiện,củng cố,tăng cường cán bộ có kinh nghiệm,có năng lực sang làm công tác kiểm tra kiểm soát. -Đảm bảo thực hiện công tác kiểm tra,kiểm soát thường xuyên đối với tất cả các khoản nợ.Trong công tác này,Ngân hàng có thể tiến hành như gửi cán bộ tín dụng định kỳ xuống giám sát,mỗi lần gửi nên gửi một cán bộ khác nhau để tránh xảy ra tình trạng cán bộ tín dụng có thể móc ngoặc với bên đi vay đồng thời tránh cái nhìn chủ quan của một cán bộ tín dụng. *Một số giải pháp khác. 1/Phát triển hình thức bảo hiểm quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có hai hình thức thực hiện bảo hiểm quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ nhất: Các Doanh nghiệp trước khi tiến hành sản xuất kinh doanh thì phải mua bảo hiểm ở công ty bảo hiểm Thứ hai:Ngân hàng kiêm luôn chức năng này. Để vay vốn Ngân hàng trước tiên Doanh nghiệp phải lập một dự án như thông lệ và Ngân hàng sẽ tiến hàng thẩm định dự án đó.Nếu Ngân hàng thấy không cho vay được thì thôi.Còn nếu cho vay được thì khi giao tiền cho khách hàng,Ngân hàng sẽ giữ lại một tỷ lệ nhất định của khoản vay và cấp cho khách hàng một thẻ bảo hiểm.Các khoản tiền bảo hiểm đó sẽ được sử dụng để bù đắp rủi ro cho Ngân hàng trong trường hợp khách hàng làm ăn thua lỗ,mất khả năng thanh toán.Cách làm này có lợi là Ngân hàng có thể chủ động phòng ngừa từ xa đối với những rủi ro có thể xảy ra khi cho vay những dự án có tính rủi ro cao,đồng thời khách hàng không có lý do gì để trốn tránh trách nhiệm mua bảo hiểm vì khoản đóng bảo hiểm đã được Ngân hàng giữ lại ngay khi cho vay.Tuy nhiên,cần phải thấy rằng đây cũng chỉ là một trong những biện pháp nhằm hạn chế bớt tác hại của rủi ro,không thể coi đó là chỗ dựa cho Ngân hàng,mà điều cốt yếu là phải thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa để không cho các rủi ro đó xảy ra.Đó mới là mục tiêu mà ngành Ngân hàng cần phải hướng tới.Các Doanh nghiệp cần phải thấy rõ được điều này không chỉ có lợi cho Ngân hàng mà còn có lợi cho chính Doanh nghiệp vì khi mua bảo hiểm nếu gặp rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh thì sẽ có khoản để bù đắp lại một phần hoặc toàn bộ tổn thất tuỳ thuộc vào mức đóng bảo hiểm 2/Triển khai chương trình đổi mới công nghệ. Công nghệ là phương tiện và chìa khoá nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng và quản lý hệ thống.Để triển khai các đề án trong chương trình đổi mới công nghệ cần phải có sự chỉ đạo cụ thể,tuyển hoặc đào tạo những các bộ có chuyên môn thực hiện.Đề ra các thứ tự ưu tiên cho các dự án để tránh dàn trải.Công nghệ tốt,trang thiết bị hiện đại giúp tăng nhanh tốc độ liên lạc trong nội bộ để vừa làm tăng tính kịp thời của thông tin,làm rút ngắn thời gian thẩm định mà vẫn đảm bảo ra quyết định chính xác,làm tăng tín cạnh tranh Ngân hàng. 3/Khuyến khích khách hàng tham gia các giao dịch về ngoại tệ. Để hạn chế rủi ro do sự biến động tỷ giá,tăng gánh nặng trả nợ cho khách hàng,Ngân hàng khuyến khích các doanh nghiệp tham gia các giao dịch về ngoại tệ khi vay vốn.Khách hàng có thể tham gia các giao dịch kỳ hạn,giao dịch trên thị trường tương lai,giao dịch quyền chọn.Khi tham gia các giao dịch về ngoại tệ,doanh nghiệp hạn chế và xác định trước được mức lỗ tối đa của doanh nghiệp khi có biến động tỷ giá và trong trường hợp dự toán chính xác,doanh nghiệp có thể thu lời từ hoạt động này.Để khuyến khích khách hàng tham gia các giao dịch ngoại tệ,Ngân hàng nên chủ động giới thiệu chi tiết,rõ ràng cho khách hàng về cách thức nội dung,bản chất của giao dịch đồng thời tham gia mạnh mẽ vào thị trường tài chính quốc tế. 3.3/Kiến nghị. 3.3.1/Kiến nghị với Nhà nước. Hoạt động của hệ thống Ngân hàng liên quan đến hầu hết mọi lĩnh vực của nền kinh tế.Chính vì vậy việc tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động Ngân hàng không chỉ là việc ban hành và sửa đổi các điều luật quy định mà là toàn bộ hệ thống pháp luật kinh tế nói chung.Vấn đề này đòi hỏi Nhà nước sớm giải quyết thông qua việc ban hành sửa đổi các văn bản pháp luật như luật về thế chấp tài sản,về hợp đồng trong kinh doanh,về quyền sở hữu tài sản…Sự đồng bộ,phù hợp của hệ thống pháp luật một mặt tạo hành lang pháp lý cho các Ngân hàng và doanh nghiệp hoạt động,một mặt đảm bảo tính an toàn hiệu quả cho hoạt động đầu tư tín dụng của Ngân hàng. Đồng thời,Nhà nước cần có biện pháp mạnh mẽ thực hiện luật khuyến khích đầu tư trong nước và có biện pháp bảo vệ người sản xuất trong nước để khuyến khích công dân Việt Nam tham gia đầu tư,tạo thuận lợi cho họ kinh doanh và Ngân hàng có cơ hội đầu tư tín dụng. Nhà nước cũng cần có những chính sách phát triển kinh tế đồng đều cho các vùng,có chính sách khuyến khích đầu tư vào những vùng mà hiện trạng kinh tế ở đó còn nhiều yếu kém để rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các vùng. Nhà nước cần sớm chấn chỉnh lại các doanh nghiệp,đặc biệt các doanh nghiệp quốc doanh.Nhà nước chỉ để lại những doanh nghiệp có hiệu quả và thực sự cần thiết cho nền kinh tế quốc dân nhằm tạo điều kiện cho đầu tư tín dụng có hiệu quả,có trọng điểm. 3.3.2/Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước. Đề nghị Ngân hàng Nhà nước sớm ban hành quy chế hoạt động ngân hàng trong khu chế xuất,khu công nghiệp tập trung. Đề nghị Ngân hàng Nhà nước có quy định giản lược các yêu cầu về hồ sơ mà trên thực tế rất khó có khả năng đáp ứng Tiến tới thực hiện theo thông lệ quốc tế: Một khi đã là nợ không có khả năng thu hồi thì Ngân hàng được phép bù đắp bằng khoản nợ dự phòng rủi ro,không phân biệt nguyên nhân khách quan hay chủ quan.Đối với trường hợp nguyên nhân chủ quan thì ngân hàng phải hạch toán ngoại bảng,theo dõi sát sao để thu tối đa nguồn bù đắp,giảm đến mức thấp nhất thiệt hại cho Ngân hàng. Kết luận Nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn của Ngân Hàng Thương Mại là một trong những vấn đề cấp bách và cần thiết để nâng cao vai trò của Ngân hàng trong nền kinh tế,đồng thời làm lành mạnh và phát triển hệ thống tài chính.Tuy nhiên hiện nay,chất lượng tín dụng trung dài hạn đang có những dấu hiệu sa sút làm ảnh hưởng không tốt tới hoạt động Ngân hàng và của nền kinh tế.Vì vậy,vấn đề không phải là cố gắng tăng dư nợ bằng mọi cách mà yêu cầu hàng đầu là phải đảm bảo nguồn vốn của Ngân hàng và đồng vốn của Ngân hàng cho vay phải phát huy hiệu quả đối với các dự án đầu tư,đồng thời vẫn đảm bảo mức lợi nhuận của Ngân hàng. Chất lượng tín dụng là một vấn đề phức tạp,để nâng cao chất lượng tín dụng không phải là một sớm một chiều là làm được mà cần phải có sự nghiên cứu kỹ lưỡng của lãnh đạo Ngân hàng.Trong đề tài này em xin đóng góp một cách nhìn của riêng mình, đưa ra các giải pháp để nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29052.doc
Tài liệu liên quan