LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong các hoạt động của ngân hàng thương mại (NHTM), cho vay là hoạt động chủ yếu, trong đó cho vay ngắn hạn chiếm tỉ trọng lớn nhất và đem lại thu nhập chính cho ngân hàng. Trong những năm gần đây, các ngân hàng thương mại đã mở rộng cho vay trung và dài hạn, song cho vay ngắn hạn vẫn luôn là hoạt động chủ đạo, đặc biệt là đối với thị trường ngân hàng –tài chính Việt Nam.
Trong cho vay ngắn hạn, việc mở rộng quy mô cho vay không thể tách rời việc nân
94 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1505 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và một số giải pháp nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn tại Sở Giao dịch 1 - Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (VietcomBank) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g cao chất lượng cho vay. Do đó, nâng cao chất lượng cho vay là yêu cầu cấp thiết đối với sự tồn tại và phát triển của NHTM, là yêu cầu của nền kinh tế.
Tại SGD I Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, cho vay ngắn hạn là khoản mục cho vay có tỉ trọng lớn nhất. Trong những năm vừa qua, thực hiện Đề án tái cơ cấu lại Ngân hàng Ngoại thương (NHNT), chất lượng cho vay đã được cải thiện nhiều so với thời gian trước đây, tuy vậy vẫn có những điểm chưa tốt. Mặc dù hoạt động cho vay ngắn hạn mang lại lợi nhuận cao, và đem lại thu nhập chính cho SGD, đồng thời cũng làm phát sinh các khoản nợ xấu, gây ảnh hưởng đến hoạt động của SGD.
Từ những vấn đề trên, em đã chọn đề tài:” Nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn của ngân hàng thương mại” làm luận văn tốt nghiệp cho mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu nghiên cứu của Luận văn là làm rõ lí luận về chất lượng cho vay ngắn hạn của ngân hàng thương mại, bước đầu đưa lí luận kiểm nghiệm, áp dụng trong thực tiễn để hiểu sâu sắc hơn vấn đề nghiên cứu.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu hoạt động cho vay của NHTM về khía cạnh chất lượng và chỉ giới hạn ở hình thức cho vay ngắn hạn.
Luận văn chọn điểm nghiên cứu thực tiễn tại Sở giao dịch I Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, thời gian nghiên cứu là từ năm 2003 đến 2005.
4. Kết cấu của Luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục bảng biểu, Luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Lí luận chung về chất lượng cho vay ngắn hạn của NHTM
Chương 2: Thực trạng chất lượng cho vay ngắn hạn tại SGD I
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn tại SGD I
Chương 1
LÍ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY NGẮN HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm hoạt động cho vay của NHTM
Cho vay là hoạt động cơ bản của NHTM. Nó được hiểu là một giao dịch về tiền giữa bên cho vay là ngân hàng và bên đi vay là các cá nhân và tổ chức, trong đó, bên cho vay chuyển giao tiền cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Những đặc trưng của cho vay:
- Cơ sở của quan hệ cho vay: ngân hàng khi chuyển giao tiền cho người đi vay phải có sự tin tưởng đối với người đi vay, tin rằng họ sẽ trả nợ.
- Tài sản giao dịch trong quan hệ cho vay là tiền, ngân hàng giao tiền cho khách hàng sử dụng với những thoả thuận nhất định.
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay. Người đi vay phải hoàn trả cả gốc và thêm một phần gọi là lãi.
Theo QĐ 1627/2001/QĐ- NHNN về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, cho vay được hiểu như sau: Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó, tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và trong thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
1.1.2. Phân loại cho vay của NHTM
Cho vay có thể được phân loại dựa trên nhiều tiêu thức sao cho phù hợp với tính chất, đặc điểm của nhu cầu vay và việc quản lý cho vay của ngân hàng. Có một số cách chủ yếu để phân loại cho vay như sau:
1.1.2.1. Theo đối tượng khách hàng
Theo đối tượng khách hàng, cho vay được phân chia thành:
- Cho vay Chính phủ: Là hoạt động cho vay đối với Nhà nước để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu thường xuyên. Cho vay Chính phủ thường thể hiện bằng việc Ngân hàng mua trái phiếu do Kho bạc phát hành.
- Cho vay đơn vị kinh doanh: Là hoạt động cho vay đối với các đơn vị kinh doanh nhằm tài trợ cho các nhu cầu vốn để kinh doanh. Cho vay đơn vị kinh doanh được thực hiện với nhiều phương thức khác nhau phù hợp với từng nhu cầu vốn cụ thể.
- Cho vay các tổ chức tài chính khác (ngân hàng, công ty tài chính, quỹ tín dụng…): Là hoạt động cho vay chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản hoặc thanh toán liên ngân hàng.
- Cho vay cá nhân: Là hoạt động cho vay đối với khách hàng là các cá nhân - người tiêu dùng với các mục đích mua sắm tìa sản ,tiêu dùng hoặc kinh doanh.
1.1.2.2. Theo mục đích sử dụng vốn vay
Theo mục đích vốn vay được sử dụng, cho vay bao gồm:
- Cho vay kinh doanh: Là hoạt động cho vay mà vốn vay được sử dụng cho mục đích kinh doanh. Đối tượng khách hàng vay kinh doanh có thể là cá nhân hoặc là đơn vị kinh doanh, trong đó chủ yếu là các đơn vị kinh doanh.
- Cho vay tiêu dùng: Là hoạt động cho vay mà vốn vay được sử dụng cho mục đích tiêu dùng. Đối tượng chủ yếu vay tiêu dùng là các cá nhân (vay để mua tài sản) và Chính phủ (vay cho nhu cầu chi tiêu thường xuyên).
1.1.2.3. Theo phương thức cho vay
Về phương thức, cho vay có thể bao gồm các loại chính như sau:
- Cho vay từng lần: Là phương thức cho vay đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, chỉ khi vào thời vụ kinh doanh hay mở rộng sản xuất mới xin vay. Mỗi lần vay vốn, ngân hàng và khách hàng lại thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Là phương thức cho vay mà ngân hàng và khách hàng thoả thuận một hạn mức về số dư trong suốt kỳ hoặc số dư cuối kỳ. Đây là hình thức cho vay phù hợp đối với khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh.
- Cho vay luân chuyển: Là phương thức cho vay mà ngân hàng thoả thuận tài trợ dựa trên kế hoạch lưu chuyển hàng hoá và ngân quỹ của khách hàng. Hình thức này phù hợp với các doanh nghiệp thương mại hoặc doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh có chu kỳ tiêu thụ sản phẩm ngắn.
- Cho vay trả góp: Là phương thức cho vay trong đó ngân hàng trả gốc thành nhiều lần trong thời hạn đã thoả thuận. Phương thức này thường được áp dụng đối với vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định.
- Cho vay thấu chi: Là phương thức cho vay mà ngân hàng thoả thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền trên tài khoản tiền gửi thanh toán của mình trong một thời hạn nhất định (gọi là hạn mức thấu chi) va trong một khoảng thời gian xác định.
Ngoài ra, còn có nhiều phương thức cho vay khác như: cho vay theo dự án đầu tư, cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng, cho vay hợp vốn, cho vay qua việc phát hành thẻ tín dụng…
1.1.2.4. Theo thời hạn
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng.
Ngân hàng và khách hàng thoả thuận thời hạn cho vay căn cứ vào nhu cầu vốn, chu kỳ sản xuất – kinh doanh của khách hàng, thời hạn thu hồi vốn của dự án/phưong án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và nguồn vốn vay của ngân hàng.
Theo thời hạn, cho vay được phân loại thành:
- Cho vay không có thời hạn: Là hình thức cho vay mà việc vay – hoàn trả của khách hàng là thường xuyên, theo kế hoạch luân chuyển hàng hoá và kế hoạch doanh thu của khách hàng, không xác định cụ thể thời điểm trả nợ trên hợp đồng tín dụng.
- Cho vay có thời hạn: Là hình thức cho vay mà thời hạn thu hồi nợ được xác định cụ thẻ trong hợp đồng tín dụng. Cho vay có thời hạn được phân chia thành:
+ Cho vay ngắn hạn: Là hình thức cho vay mà thời hạn cho vay dưới 12 tháng
+ Cho vay trung hạn: Là hình thức cho vay mà thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến dưới 60 tháng.
+ Cho vay dài hạn: Là hình thức cho vay mà thời hạn cho vay từ 60 tháng trở lên.
Thông thường, hai hình thức cho vay trung hạn và dài hạn được ghép thành cho vay trung và dài hạn.
Trong phạm vi nghiên cứu của chuyên đề tốt nghiệp chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu là hình thức cho vay ngắn hạn.
1.1.2.5. Các căn cứ khác
Ngoài những căn cứ chính trên, cho vay còn có thể được phân loại dựa vào một số tiêu thức khác như:
- Theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng:
+ Cho vay có đảm bảo bằng tài sản: là việc cho vay mà ngân hàng yêu cầu người vay phải có tài sản hợp pháp đảm bảo cho khoản vay. Tài sản này chính là nguồn thu nợ cuối cùng của ngân hàng. Đó có thể là tài sản để thế chấp hoặc cầm cố.
+ Cho vay không có tài sản đảm bảo: là việc cho vay mà ngân hàng không yêu cầu người vay phải có tài sản làm vật đảm bảo. Đây chính là hình thức cho vay đảm bảo bằng uy tín, chủ yếu chỉ áp dụng cho các khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh, làm ăn có lãi. Cũng có thể đó là các khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ, các khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn trong thời hạn ngắn mà ngân hàng có thể giám sát việc sinh lợi và khả năng trả nợ của doanh nghiệp.
- Theo phương thức trả nợ, đồng tiền vay
Sự phân loại cho vay trên đây chỉ mang tính chất tương đối. Trong thực tế, bao hàm trong loại cho vay này có thể là các loại cho vay khác. Chẳng hạn, cho vay theo thời hạn ngắn (ngắn hạn) có thể theo phương thức cho vay từng lần, hoặc có thể là cho vay theo hạn mức.
1.2. Cho vay ngắn hạn của NHTM
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của cho vay ngắn hạn
Cho vay ngắn hạn là hình thức cho vay mà thời hạn cho vay đến 12 tháng.
Cho vay ngắn hạn có những đặc điểm sau:
- Vốn vay ngắn hạn luân chuyển cùng chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng. Cho vay ngắn hạn chủ yếu để đáp ứng nhu cầu thiếu hụt tạm thời vốn lưu động trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc cho vay và thu nợ luôn diễn ra lúc bắt đầu và kết thúc của chu kì sản xuất kinh doanh. Ngân hàng thường cho vay khi khách hàng phát sinh nhu cầu vốn để mua vật tư, nguyên vật liệu, hoặc trang trải các chi phí sản xuất. Khi hàng hoá được tiêu thụ, khách hàng có thu nhập, cũng là lúc ngân hàng thu hồi nợ. Xuất phát từ đặc điểm này, các ngân hàng thường quy định thời hạn cho vay trên cơ sở chu kì sản xuất của người vay. Do vậy, thời gian thu hồi vốn trong cho vay ngắn hạn nhanh.
- Thời hạn thu hồi vốn nhanh nên rủi ro của khoản cho vay ngắn hạn thấp hơn khoản cho vay trung và dài hạn, mức lãi suất cho vay ngắn hạn thấp hơn mức lãi suất cho vay trung và dài hạn.
- Hình thức cho vay phong phú: Ngân hàng cung cấp ngày càng đa dạng các loại hình thức cho vay ngắn hạn, như: cho vay ngắn hạn từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay thấu chi, cho vay luân chuyển… Điều này vừa để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng, đồng thời giúp ngân hàng phân tán rủi ro.
- Cho vay ngắn hạn là hoạt động chủ yếu của ngân hàng. Đặc trưng cảu ngân hàng là kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, trong đó nhận tiền gửi ngắn hạn là hoạt động huy động vốn chủ yếu. Cho nên, với sự phù hợp về lãi suất và thời hạn, các ngân hàng chủ yếu cho vay ngắn hạn.
1.2.2. Lý do cho vay ngắn hạn
1.2.2.1. Xuất phát từ nhu cầu vốn của doanh nghiệp
Trong sản xuất và kinh doanh, ngoài số vốn ban đầu khi thành lập, doanh nghiệp còn luôn phải bổ sung, tăng vốn theo quy mô phát triển. Trong các cách thức huy động vốn khác nhau, doanh nghiệp có thể huy động nợ bằng việc vay NHTM. Mỗi doanh nghiệp, căn cứ vào nhu cầu vốn, cơ cấu vốn và chi phí vốn của mình để chọn lựa cách thức huy động nợ phù hợp.
- Xét về cơ cấu vốn, doanh nghiệp vay ngắn hạn vì:
+ Doanh nghiệp thiếu vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tình trạng thiếu vốn lưu động thường xuyên đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm kiếm các nguồn ngắn hạn. Trong khi các nguồn huy động khác gặp khó khăn và hạn chế, thì nguồn vốn vay ngắn hạn từ ngân hàng lại tỏ ra dễ tiếp cận và hiệu quả. Với chức năng huy động và cho vay, là nơi tập trung lượng vốn lớn, là quỹ đầu tư quan trọngcủa nền kinh tế, NHTM là nơi doanh nghiệp có thể tìm được nguồn tài trợ lớn, đáp ứng nhu cầu của mình.
+ Doanh nghiệp duy trì một cơ cấu vốn hợp lý. Vay ngắn hạn các NHTM có thể nhằm duy trì cơ cấu vốn hợp lý của doanh nghiệp. Nói đến cơ cấu vốn là nói đến tỷ trọng các nguồn vốn trong tổng nguồn. Các nguồn vốn cấu thành đó là: nợ và vốn chủ sở hữu. Một cơ cấu vốn tối ưu mà doanh nghiệp đạt được là cơ cấu tối đa giá trị tài sản của chủ sở hữu. Sử dụng nợ như thế nào để đạt được chi phí vốn tối ưu, từ đó tối đa giá trị cổ phiếu của doanh nghiệp, là vấn đề quan trọng khi vay vốn ngân hàng nói chung và vay ngắn hạn nói riêng.
+ Doanh nghiệp sử dụng nợ để tạo ra đòn bẩy tài chính. Vì chi phí nợ là chi phí trước thuế nên so với việc sử dụng vốn chủ sỏ hữu, việc sử dụng nợ sẽ tiết kiệm được thuế cho doanh nghiệp, làm khuếch đại thu nhập cho chủ sở hữu. Do vậy, khi thiếu vốn tạm thời, cân nhắc giữa sinh lợi và rủi ro, doanh nghiệp thích lựa chọn vay ngắn hạn để tạo đòn bẩy này.
- Xét về tính chất tài sản cần tài trợ, doanh nghiệp vay ngắn hạn vì:
+ Tài sản cần tài trợ là tài sản lưu động. Tài sản lưu động được thể hiện ở trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp là tiền mặt, các chứng khoán thanh khoản cao, phải thu và dự trữ. Đây là những tài sản ngắn hạn và thường xuyên luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nó có vai trò vô cùng quan trọng đối với những hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp (dự trữ) và đảm bảo khả năng chi trả của doanh nghiệp. Để tài trợ cho tài sản lưu động, doanh nghiệp thường xuyên lựa chọn vay vốn ngắn hạn. Vốn ngắn hạn tài trợ cho tài sản lưu động thông thường dành cho khoản mục dự trữ (nguyên vật liệu).
+ Tài sản cần tài trợ là tài sản cố định. Tài sản cố định là những tư liệu lao động tham gia tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, có hình thái vật chất không thay đổi nhiều từ chu kỳ sản xuất đầu tiên cho đến khi bị loại bỏ khỏi quá trình sản xuất. Tài trợ cho tài sản cố định thường đòi hỏi nguồn vốn lớn và có thời gian chủ yếu là trung và dài hạn. Tuy nhiên, trong trường hợp tạm thời thiếu vốn để đầu tư cho máy móc, thiết bị hoặc cơ sở hạ tầng và có khả năng hoàn trả tiền vay trong một thời gian ngắn (do sự không phù hợp về dòng tiền) thì vay ngắn hạn là giải pháp khả thi và hiệu quả hơn việc vay vốn trung và dài hạn của ngân hàng do chi phí vốn thấp hơn, thủ tục đơn giản hơn và khả năng được vay lớn hơn.
1.2.2.2. Là hoạt động đặc trưng của NHTM
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế, là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư. Trong quá trình vận động của nền kinh tế, xảy ra mối quan hệ giữa hai loại cá nhân và tổ chức:(1) các tổ chức và cá nhân tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn; và (2) các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Sự tồn tại của hai nhóm này hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ (2) sang nhóm thứ (1) nếu cả hai cùng có lợi. Như vậy thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa hai nhóm. Quan hệ tín dụng trực tiếp (quan hệ tài chính trực tiếp) đã có từ lâu và tồn tại cho đến ngày nay.
Tuy nhiên quan hệ trực tiếp bị nhiều giới hạn do sự không phù hợp về quy mô, thời gian, không gian... Điều này cản trở quan hệ trực tiếp phát triển và là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính. Ngân hàng - một trung gian tài chính điển hình này thực hiện việc chuyển tiết kiệm thành đầu tư một cách hiệu quả nhất: cung cấp những dịch vụ có giá trị từ nhỏ nhất đến lớn nhất, kinh doanh rủi ro tốt nhất và có khả năng thẩm định thông tin tốt nhất (do mang tính chuyên môn hoá cao). Vì nguồn lợi lớn mang lại từ nghiệp vụ này (ở các nước phát triển thì doanh thu từ hoạt động tín dụng chiếm khoảng 70%, còn ở các nước đang phát triển thì tỷ lệ này còn cao hơn nhiều, chiếm khoảng 80 – 90%) mà ngân hàng đã đứng ra đảm nhận vai trò trung gian tài chính cho nền kinh tế.
1.2.3. Những trường hợp ngân hàng cho vay ngắn hạn
1.2.3.1. NHTM cho vay ngắn hạn để tài trợ tài sản lưu động
Ngân hàng thương mại thường chia các khoản cho vay của mình thành cho vay ngắn hạn và cho vay trung và dài hạn. Tuỳ thuộc vào nhu cầu và nguyện vọng vay của khác hàng mà sẽ chọn thời hạn phù hợp nhất với mình. Theo sự phân chia thời hạn thì những món vay dưới 1 năm được xếp vào món vay ngắn hạn, nó phù hợp với trường hợp tái trợ cho tài sản lưu động của doanh nghiệp. Các trường hợp cụ thể là:
- Nhằm tài trợ cho nhu cầu vốn tăng thêm cho sản xuất và kinh doanh
Đối với doanh nghiệp sản xuất hàng hoá, doanh nghiệp kinh doanh thương mại, dịch vụ, vốn tăng thêm này chủ yếu để mua nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, tăng dự trữ, đầu tư vào tài sản lưu động ròng.
- Nhằm tài trợ cho hoạt động xuất, nhập khẩu, tài trợ thanh toán quốc tế đối với các doanh nghiệp xuất, nhập khẩu
Ngân hàng có thể tài trợ ngắn hạn cho nhà nhập khẩu thông qua nhiều hình thức khi nhà nhập khẩu không có đủ khả năng thanh toán. Cụ thể, ngân hàng cung cấp các nghiệp vụ sau
+ Tín dụng cho người đặt hàng và hiệp định khung tài trợ nhập khẩu
+ Cho vay mở L/C
+ Tạm ứng cho nhà nhập khẩu
+ Chấp nhận của ngân hàng (Bank Acceptance)
+ Tín dụng chấp nhận hối phiếu dành cho nhà nhập khẩu (hối phiếu tự nhận nợ - promissory note)
Ngân hàng cũng tài trợ xuất khẩu trong nhiều trường hợp. Khi nhà xuất khẩu có khó khăn trong thanh toán mà chưa thu được tiền từ xuất khẩu, NHTM thực hiện các nghiệp vụ tín dụng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu có quy mô lớn và chiếm thị trường rộng. Cụ thể, ngân hàng cung cấp các nghiệp vụ như sau:
+ Tài trợ trong khuôn khổ nhờ thu kèm chứng từ
Thực hiện nghiệp vụ này, nhà xuất khẩu uỷ thác các chứng từ về hàng hoá, vận đơn, bảo hiểm và các chứng từ khác cho ngân hàng phục vụ mình nhờ thu hộ. Ngân hàng này sẽ chuyển tiếp chứng từ đến ngân hàng cần giao dịch với chỉ thị giao chứng từ sau khi đã thanh toán, hoặc chấp nhận thanh toán. Trong quá trình thanh toán sẽ có một yếu tố rất quan trọng, đó là yếu tố thời gian. Chính điều này nảy sinh nhu cầu vốn đối với nhà xuất khẩu. Ngân hàng bên xuất khẩu hoặc bên nhập khẩu đều có thể thực hiện tài trợ ngắn hạn cho nhà xuất khẩu.
+ Nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu
Khi thoả thuận giữa các bên tham gia xuất nhập khẩu chấp nhận có hối phiếu kỳ hạn không huỷ ngang, khi chưa đến hạn thanh toán nhà xuất khẩu có thể mang hối phiếu này đến ngân hàng phục vụ mình xin chiết khấu.
+ Tài trợ trong khuôn khổ chứng từ
Hình thức tín dụng của ngân hàng trên cơ sở chiết khấu bộ chứng từ trước khi đến hạn thanh toán.
+ Tạm ứng cho nhà xuất khẩu
Dựa trên cơ sở mối quan hệ giữa ngân hàng và nhà xuất khẩu, khách hàng có thể đề nghị được cung cấp tín dụng giữa chừng trong khuôn khổ “clean payment” (thanh toán trơn).
+ Bao toàn bộ thanh toán xuất khẩu – Factoring
Đây là hình thức tài trợ xuất khẩu ngắn hạn. Bản chất Factoring là nghiệp vụ chiết khấu các khoản phải thu của nhà xuất khẩu. Ngân hàng thưong mại lớn tiến hành lập các công ty chuyên môn để thực hiện các nghiệp vụ này.
- NHTM cho vay ngắn hạn đối với mục đích tiêu dùng của cá nhân, doanh nghiệp
Hình thức tín dụng này trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phảt triển. Loại nghiệp vụ này giúp nâng cao chất lượng cuộc sống cho các cá nhân và giúp các doanh nghiệp có các sản phẩm phục vụ quá trình sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp. Hình thức này cũng gồm nhiều loại. Ngân hàng có thể tài trợ cho khác hàng bằng tiền mặt, đúng như một khoản cho vay. Ngân hàng cũng có thể cho vay trả góp bằng cách thanh toán cho nhà cung cấp hàng hoá thay cho khách hàng, và khách hàng trả nợ ngân hàng theo phương thức trả góp nhiều lần.
1.2.3.2. NHTM cho vay ngắn hạn để tài trợ tài sản cố định
Các ngân hàng thương mại thường cho các doanh nghiệp vay vốn ngắn hạn để tài trợ cho tài sản lưu động. Tuy nhiên trong một số trường hợp đặc biệt, đối tượng tài trợ của cho vay ngắn hạn là tài sản cố định (máy móc, thiết bị, nhà xưởng). Trong trường hợp này, không thể nói đến sự phù hợp giữa thời hạn của nguồn huy động và tài sản mà chỉ xét đến lí do tại sao khách hàng lại vay vốn ngắn hạn để tài trợ cho tài sản cố định. Những lí do mà khách hàng vay vốn là thiếu vốn tạm thời, duy trì cơ cấu vốn hợp lý, sử dụng đòn bẩy tài chính. Từ những lí do trên mà khách hàng có thể lựa chọn vay vốn ngắn hạn dể tài trợ cho tài sản cố định chứ không nhất thiết phải vay vốn trung và dài hạn.
Trong trường hợp doanh nghiệp tạm thời thiếu vốn đầu tư cho máy móc, thiết bị mà doanh nghiệp vẫn có khả năng hoàn trả trong ngắn hạn, thì vay ngắn hạn là giải pháp hiệu quả hơn so với vay vốn trung và dài hạn. Vay ngắn hạn sẽ giúp doanh nghiệp tận dụng được lợi ích của việc sử dụng nợ, nhanh chóng có được khoản tiền cần thiết mà lại chịu chi phí vốn thấp hơn so với cho vay trung và dài hạn.
Vay ngắn hạn còn có một ưu điểm lớn nũa là tính chất kịp thời với chi phí hợp lý, khi doanh nghiệp chưa đến kỳ thu nợ nhưng đang có nhu cầu sử dụng tiền. Vay ngắn hạn có thủ tục đơn giản hơn vay trung và dài hạn, tiết kiệm được thời gian cho doanh nghiệp trong khâu xét duyệt xin vay, khâu ký kết hợp đồng và quá trình giải ngân. Như vậy, xin vay ngắn hạn trong trường hợp này còn tiết kiệm được cả chi phí cơ hội, mà trong kinh doanh, đây tuy là chi phí không nhìn thấy, nhưng có thể quyết định đến thành công hay thất bại của doanh nghiệp.
Như vậy có thể nói cho vay ngắn hạn không chỉ là phương thức tài trợ chủ yếu đối với tài sản lưu động, mà còn là một giải pháp hiệu quả trong việc tài trợ tài sản cố định.
1.2.4. Các phương thức cho vay ngắn hạn chủ yếu
1.2.4.1. Cho vay thấu chi
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội (vượt) trên số tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong một khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Để được thấu chi, khách hàng làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi và thời hạn thấu chi (có thể phải trả phí cam kết cho ngân hàng). Trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể kí séc, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ… vượt quá số dư tiền gửi để chi trả (trong hạn mức thấu chi). Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi.
Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời gian và quy mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dự đoán dựa vào dự đoán ngân quĩ song không chính xác. Do vậy, hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản. phần lớn là không có bảo đảm, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân vài ngày trong tháng vài tháng trong năm dùng để chi lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng… Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn.
1.2.4.2. Cho vay trực tiếp từng lần
Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Các khách hàng này sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kì sản xuất kinh doanh.
Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và kí hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và các điều kiện bảo đảm nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ khác nhau.
Số lượng cho vay = Nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh - Vốn chủ sở hữu tham gia – Các nguồn vốn khác tham gia
Theo từng kì hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả sử dụng, nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng có thể thu hồi nợ trước hạn, hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc thả nổi theo thời điểm tính lãi.
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay tách biệt. Tiền cho vay dựa vào giá trị của tài sản đảm bảo.
1.2.4.3. Cho vay theo hạn mức
Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì. Đó là số dư tính tại thời điểm tính.
Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Ngân hàng ước lượng các hạn mức tín dụng đối với các doanh nghiệp căn cứ vào phương án sản xuất kinh doanh và nhu cầu vay vốn của khách hàng, tỉ lệ cho vay tối đa trên tổng giá trị tài sản đảm bảo, khả năng nguồn vốn của ngân hàng.
Trong kì, khách hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Một số trường hợp ngân hàng quy định hạn mức cuối kì. Dư nợ trong kì có thể lớn hơn hạn mức. Tuy nhiên đến cuối kì, khách hàng phải trả nợ để giảm bớt dư nợ cuối kì không được vượt quá hạn mức.
Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoá hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kỉêm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ phát tiền cho khách hàng.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nghiệp vụ này ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ. Khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lí ngân quỹ cho khách hàng. Tuy nhiên do các lần vay không tách biệt thành các kì hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát được hiệu quả của từng lần vay. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện ra vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài chính, hoặc dư nợ lâu không giảm sút.
1.2.4.4. Cho vay luân chuyển
Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc quí, người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thoả thuận trong 1 năm hoặc vài năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách hàng và quyết định cho vay nữa hay không tuỳ mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng cũng như tình hình tài chính của khách hàng.
Việc cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá nên cả ngân hàng lẫn doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá để dự đoán dòng ngân quĩ trong thời gian tới.
Người vay cam kết các khoản vay sẽ được trả cho người bán và mọi khoản thu bán hàng đều dùng để trả vào tài khoản tiền vay trước khi được trích trích trả lại tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng.
Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hóa đơn nhập hàng và số tiền cần vay. Ngân hàng cho vay và trả tiền cho người bán. Giá trị những hàng hoá mua vào là đối tượng được ngân hàng tài trợ và thu nhập bán hàng đều là nguồn để chi trả cho ngân hàng. Ngân hàng sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tuỳ theo khối lượng và chất lượng quan hệ nợ nần của người vay.
Cho vay luân chuyển thường được áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kì tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng.
Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho các khách hàng. Thủ tục cho vay chỉ cần thực hiện 1 lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, vì vậy việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn.
1.2.5. Vai trò của cho vay ngắn hạn
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế đã hình thành nên những mối quan hệ vay mượn giữa các cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế. Cho vay ngắn hạn của ngân hàng đối với các cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế đã đóng góp rất nhiều vào sự phát triển của một đất nước. Đây là nguồn vốn lớn của nền kinh tế. Nguồn vốn vay ngắn hạn đã góp phần ổn định, duy trì và mở rộng sản xuất đối với doanh nghiệp, nâng cao đời sống của các cá nhân, là cơ sở cho một nền kinh tế nói chung, đối với các doanh nghiệp và ngân hàng. Khi nói đến cho vay ngắn hạn, điều quan trọng không phải là giá trị của các khoản vay mà phải là chất lượng của các khoản vay. Chất lượng các khoản vay phản ánh chất lượng hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và thể hiện tính ổn định và khả năng sinh lời của ngân hàng.
1.2.5.1. Đối với nền kinh tế
Ngân hàng thưong mại là một trung gian tài chính quan trọng, là nơi tập trung, tích tụ và phân bố đầu tư có hiệu quả trong nền kinh tế. Cho vay là một hoạt động mang tính chất đầu tư cho nền kinh tế của NTHM. Thị trường chứng khoán, các quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, công ty tài chính là các tổ chức tài chính chủ yếu cung cấp nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Và trách nhiệm chính cung cấp vốn ngắn hạn cho nền kinh tế thuộc về ngân hàng thương mại.
Quan hệ cho vay đã hình thành và phát triển trong nền kinh tế hàng hoá. Cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, cho vay ngày càng trở nên quan trọng. Nó góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển và đến lượt nền kinh tế với nhu cầu vốn liên tục gia tăng lại đòi hỏi cho vay phải nâng cao chất lượng. Nâng cao chất lượng cho vay mà ở đây đề cập đến chất lượng cho vay ngắn hạn là cần thiết vì:
- Nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn để đưa hoạt động cho vay thích nghi đối với nền kinh tế thị trường, đáp ứng được nhu cầu vốn gia tăng không ngừng của nền kinh tế.
- Đảm bảo chất lượng cho vay ngắn hạn sẽ đảm bảo vòng quay vốn cho vay ở mức tính toán đảm bảo nguồn vốn sẵn sàng cho vay tại ngân hàng, tăng khả năng cho vay của ngân hàng đối với nền kinh tế.
- Nâng cao chất lượng cho vay làm đồng vốn cho vay thực hiện được mục tiêu vay vốn của doanh nghiệp. Từ đó, thúc đẩy hoạt động đầu tư, tích cực chuyển tiết kiệm thành đầu tư huy động tối đa vốn trong dân cư cho đầu tư phát triển. Do đó sẽ giúp làm giảm lượng tiền thừa trong lưu thông, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ.
- Qua việc cho vay có hiệu quả vào các công trình thuộc nhiều ngành, lĩnh vực, nền kinh tế đã có những thành tựu phát triển nhất định. Nước ta ngày càng có uy tín trên trường quốc tế, cải thiện vị trí trong danh mục đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài.
- Nâng cao chất lượng cho vay để tăng khả năng cạnh tranh giữa các ngân hàng. Các ngân hàng muốn tăng năng lực cạnh tranh thì n._.gay từ hoạt động cho vay, phải chú trọng nâng cao chất lượng. Đồng thời, xu hướng cạnh tranh ngày nay còn là việc áp dụng công nghệ ngân hàng hiện đại, tiếp cận dần công nghệ hiện đại của thế giới.
- Nâng cao chất lượng cho vay còn thúc đẩy sự hợp tác giữa các ngân hàng trong nền kinh tế. Khi nhu cầu vốn trở nên quá lớn đối với khả năng tài trợ của một ngân hàng, thì nhiều ngân hàng có thể cùng cho vay. Sự hợp tác này vừa là cách hỗ trợ vốn tốt nhất cho doanh nghiệp, vừa là sự hợp tác để hạn chế rủi ro cho các ngân hàng. Thị trường tài chính do vậy có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất hơn.
1.2.5.2. Đối với doanh nghiệp
- Cho vay ngắn hạn là nguồn bổ sung kịp thời cho các nhu cầu về vốn ngắn hạn của doanh nghiệp. Nguồn vốn này giúp các doanh nghiệp tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh, hoặc giúp doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn tạm thời về tài chính. Trong nhiều trường hợp, vay vốn ngân hàng còn là giải pháp tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp bắt kịp những cơ hội kinh doanh, tận dụng được thời cơ phát triển sản xuất.
- Cho vay ngắn hạn đồng thời là động lực, yếu tố kích thích sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Các điều kiện trong cho vay ngắn hạn tạo áp lực buộc doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Khi doanh nghiệp vay vốn từ ngân hàng thì áp lực mà họ phải chịu là thời hạn trả tiền và khoản lãi sẽ phải trả, chính vì điều này nên các doanh nghiệp cố gắng quay vòng vốn nhanh và tìm kiếm cơ hội kinh doanh tốt nhất vì mục tiêu lợi nhuận.
1.2.5.3. Đối với sự tồn tại và phát triển của NHTM
- Chất lượng cho vay ngắn hạn làm tăng khả năng hoạt động của NHTM do tạo được vòng quay vốn lớn, đảm bảo được nguồn vốn lớn luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
- Chất lượng cho vay ngắn hạn còn có tác động đến hoạt động tạo nguồn của ngân hàng. Chất lượng cho vay tốt, vốn của khách hàng được sử dụng hiệu quả sẽ tạo ra hình ảnh tốt, tăng uy tín của ngân hàng, thu hút thêm được nhiều khách hàng, huy động được nhiều hơn.
- Chất lượng cho vay ngắn hạn làm gia tăng khả năng sinh lợi của các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, giảm được sự chậm chễ, giảm chi phí nghiệp vụ, chi phí quản lí, các chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn. Từ đó, cải thiện được tình hình tài chính, tăng thế cạnh tranh cho ngân hàng.
- Chất lượng cho vay tạo thuận lợi cho sự tồn tại lâu dài của ngân hàng, bởi vì chất lượng cho vay cho phép ngân hàng có những khách hàng trung thành và đáng tin cậy. Khi khách hàng có mối quan hệ tốt với ngân hàng, họ có xu hướng sử dụng nhiều hơn các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Họ không chỉ gửi tiền vào ngân hàng nhằm mục đích thanh toán mà có thể sử dụng dịch vụ khác như bao thanh toán, quản lí ngân quỹ … điều này tạo ra những khoản lợi không thể lượng hoá hết được. Và theo các số liệu thống kê thì doanh thu từ các khách hàng thường xuyên chiếm một tỉ lệ lớn trong tổng doanh thu của ngân hàng.
1.3. Chất lượng cho vay ngắn hạn
1.3.1. Quan niệm về chất lượng cho vay
Quan điểm về chất lượng cho vay trước đây chỉ được giới hạn trong phạm vi an toàn cho vay, thể hiện tổn thất phát sinh từ những rủi ro cho vay. Chất lượng cho vay được coi là cao khi các khoản vay không có tổn thất hoặc có tổn thất nhưng chỉ trong giới hạn nhất định, và ngược lại khi tổn thất là lớn thì chất lượng cho vay được coi là thấp. Chính vì thế, khi nói đến khía cạnh nâng cao chất lượng cho vay thì người ta thường nghĩ ngay đến việc giảm những tổn thất trong quá trình cho vay.
Tuy nhiên, những chủ thể tham gia vào trong một món vay phải gồm hai bên: một bên là bản thân ngân hàng - phía cấp vốn, bên còn lại là khách hàng vay vốn – phía sử dụng vốn. Ngoài ra còn có cơ quan quản lý Nhà nước. Chính vì vậy, chất lượng cho vay phải được hiểu rộng hơn chứ không chỉ bó hẹp trong phạm vi xem xét tổn thất từ phía ngân hàng.
Một hoạt động cho vay được coi là có hiệu quả khi nó đáp ứng được các mục tiêu của cho vay. Mục tiêu của ngân hàng khi cho vay là: một mặt, tài trợ vốn cho khách hàng một cách có hiệu quả, giúp khách hàng có vốn để thành lập, duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh; mặt khác, xét cho vay là hoạt động kinh doanh của ngân hàng, mục tiêu là thu hồi nợ và có lãi. Hoạt động cho vay có chất lượng phải đáp ứng được cả hai yêu cầu trên.
Đối với các chủ thể khác nhau thì quan niệm về chất lượng cho vay sẽ khác nhau. Đối với NHTM, chất lượng cho vay thể hiện qua quy mô cho vay, việc đảm bảo các nguyên tắc an toàn trong cho vay, việc mang lại thu nhập thông qua hoạt động cho vay… Còn đối với doanh nghiệp thì chất lưọng cho vay lại thể hiện qua khả năng đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời và đầy đủ, chi phí vốn hợp lý, hiệu quả mang lại từ việc sử dụng vốn vay. Đối với cơ quan quản lý Nhà nước thì chất lượng cho vay được thể hiện trên hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế, tính ổn định của thị trường tài chính và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp.
Chất lượng cho vay là một khái niệm vừa cụ thể vừa trừu tượng. Có thể sử dụng một số công thức và chỉ số để cụ thể hoá chất lượng cho vay, tuy nhiên đối với những mặt không thể lượng hoá được thì sẽ sử dụng các chỉ tiêu định tính
Do giới hạn của đề tài chỉ tập trung vào phía ngân hàng nên khái niệm chất lượng cho vay được hiểu từ cái nhìn của ngân hàng và được cụ thể bằng các chỉ tiêu định tính và định lượng chính.
1.3.2. Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá chất lượng cho vay
1.3.2.1. Nhóm các chỉ tiêu định tính
Đây là nhóm chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay trên cơ sở pháp lý; việc tuân thủ các quy chế, quy trình nghiệp vụ; việc thực hiện theo đúng cam kết trong hợp đồng cho vay.
- Trên cơ sở pháp lý, hoạt động cho vay có chất lượng phải chấp hành pháp luật của Nhà nước, cao nhất là Luật các tổ chức tín dụng, các quy chế cho vay, các văn bản chỉ đạo của Chính phủ và ngân hàng Nhà nước và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
- Trên cơ sở quy chế cho vay của NHTM, hoạt động cho vay có chất lượng luôn phải tuân thủ các quy chế, quy trình nghiệp vụ cho vay. Từ những đặc điểm riêng có của mình, hầu hết các ngân hàng đều nghiên cứu và đưa ra các quy chế cho vay phù hợp nhất. Cụ thể là các ngân hàng lập ra Sổ tay tín dụng, trong đó đưa ra các khái niệm, quy định, các quy trình và các hướng dẫn cụ thể dành cho các cán bộ ngân hàng. Các quy định trong quy trình cho vay được áp dụng cụ thể cho từng trường hợp xin vay ở mỗi NHTM là nhằm thực hiện việc cho vay có chất lượng. Do vậy việc tuân thủ những quy trình là tiền đề của chất lượng cho vay.
- Trên cơ sở hợp đồng cho vay, khi tiến hành hoạt động cho vay, ngân hàng và khách hàng sẽ lập nên một hợp đồng tín dụng. Trong hợp đồng tín dụng sẽ quy định chi tiết về các yếu tố quan trọng như thời hạn vay, mục đích sử dụng, số tiền vay, phương thức trả nợ, trả lãi... và được thể hiện ở dạng những cam kết. Một khoản vay được coi là có chất lượng khi nó được thực hiện đúng những cam kết đã kí trong hợp đồng tín dụng. Nếu một khoản vay mà ngay từ mục đích vay vốn khách hàng đã không tuân thủ theo đúng cam kết thì khoản vay đó không được coi là có chất lượng. Hoặc khoản vay mà không được hoàn trả đúng thời hạn, khách hàng khất lần nhiều lần thì cũng không đạt được chất lượng.
Các nhóm chỉ tiêu định tính trên đây đã có thể phản ánh một phần của chất lượng cho vay. Đây là những chỉ tiêu gần như bắt buộc phải có để một khoản cho vay được coi là có chất lượng. Tuy vậy, muốn xem xét cụ thể, cẩn thẩn và toàn diện thì cần phải xét đến các chỉ tiêu định lượng.
1.3.2.2. Nhóm các chỉ tiêu định lượng
Nhóm các chỉ tiêu định lượng phản ánh mặt lượng của khoản cho vay, thông qua việc phân tích các chỉ tiêu về lượng, tính toán và so sánh các tỷ lệ. Nhóm các chỉ tiêu định lượng bao gồm:
a. Chỉ tiêu về tăng trưởng dư nợ cho vay
Mức tăng trưởng tuyệt đối dư nợ cho vay = Dư nợ cho vay năm nay – Dư nợ cho vay năm trước
Mức tăng trưởng tương đối dư nợ cho vay = Dư nợ cho vay năm nay / Dư nợ cho vay năm trước
Chỉ tiêu về tăng trưởng dư nợ cho vay tuyệt đối và tương đối phản ánh mức tăng trưởng trong hoạt động cho vay của ngân hàng, thể hiện chất lượng hoạt động cho vay xét về quy mô.
b. Chỉ tiêu vòng quay vốn cho vay
Vòng quay vốn cho vay = Doanh số thu nợ / Dư nợ cho vay bình quân
Chỉ tiêu vòng quay vốn cho vay phản ánh thực trạng sử dụng vốn của ngân hàng. Nó đề cập đến việc người vay có trả nợ thường xuyên, đúng kỳ hạn và nhanh chóng hay không. Nó phản ánh khả năng sử dụng vốn có hiệu quả của ngân hàng. Nếu các chỉ tiêu khác không thay đổi, vòng quay vốn càng lớn chứng tỏ những tài sản (các khoản vay) của ngân hàng có tính thanh khoản cao, khả năng sinh lợi tốt. Vòng quay vốn cho vay lớn với mức dư nợ bình quân không đổi, doanh số trả nợ lớn chứng tỏ chất lượng cho vay cao hơn so với vòng quay nhỏ, doanh số trả nợ thấp. Tuy nhiên vòng quay vốn không phản ánh được nhiều thông tin vì vòng quay vốn này có mối tương quan chặt chẽ với vòng quay vốn của doanh nghiệp. Nếu khách hàng là một doanh nghiệp thương mại và dịch vụ thì vòng quay vốn nhanh, do đó vòng quay vốn của NHTM cũng lớn. Nếu khách hàng là doanh nghiệp sản xuất thì vòng quay vốn của các doanh nghiệp này sẽ nhỏ, dẫn đến vòng quay vốn của NHTM cũng nhỏ hơn.
c. Chỉ tiêu về nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = Tổng dư nợ quá hạn / Tổng dư nợ cho vay * 100%
Chỉ tiêu này phản ánh tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dư nợ. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ số dư nợ quá hạn càng lớn (trong một tương quan với tổng dư nợ cho vay). Một ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn cao thì chất lượng cho vay thấp.
Muốn xem xét một cách toàn diện, chỉ tiêu của năm nay cần phải được so sánh với chỉ tiêu này của những năm trước đó. Khi xét trên mối quan hệ về thời gian, ta có thể thấy chính xác tình hình qua các năm, qua đó có thể thấy được chất lượng cho vay qua các năm. Đồng thời cũng có thể đánh giá được hiệu quả của công tác và các biện pháp giảm nợ quá hạn, nâng cao chất lượng cho vay.
d. Chỉ tiêu tỷ lệ nợ khó đòi
Tỉ lệ nợ khó đòi = Tổng dư nợ khó đòi / Tổng dư nợ cho vay * 100%
Chỉ tiêu này càng cao, rủi ro mất vốn càng lớn, thì chất lượng cho vay càng thấp. Đồng thời nó thể hiện chất lượng thẩm định dự án kém, quan hệ khách hàng không tốt, việc đôn đốc thu hồi nợ còn yếu.
e. Chỉ tiêu mức sinh lời của đồng vốn cho vay
Mức sinh lời của đồng vốn cho vay = Thu nhập từ cho vay / Dư nợ cho vay bình quân * 100%
Thu nhập của các ngân hàng trong hệ thống các NHTM ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là tử các khoản cho vay, mà trong các khoản cho vay thì các khoản cho vay ngắn hạn luôn chiếm một tỷ trọng lớn. Do vậy có thể nói rằng thu nhập từ việc cho vay ngắn hạn có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Chỉ tiêu này đánh giá hoạt động cho vay ở khía cạnh là hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Chỉ tiêu này phản ánh mức lợi nhuận thu được trên một đồng vốn cho vay. Mức sinh lợi cao cho thấy chứng tỏ hoạt động cho vay của ngân hàng là có hiệu quả.
Có thể xem xét một chỉ tiêu là tỷ lệ thu nhập
Tỷ lệ thu nhập = Thu nhập từ cho vay / Tổng thu nhập * 100%
Từ tỷ lệ này, có thể biết được thu nhập từ cho vay đóng góp bao nhiêu phần trăm vào thu nhập của ngân hàng. Từ đó có thể xem xét vai trò của hoạt động cho vay và chất lượng của hoạt động cho vay đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
1.3.3. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn của NHTM
Cho vay ngắn hạn là một trong những nghiệp vụ quan trọng nhất và đem lại nguồn thu lớn nhất cho NHTM, nó cũng đồng thời cũng có những ảnh hưởng không nhỏ đến các mặt hoạt động khác của ngân hàng. Việc cho vay của NHTM không chỉ có ảnh hưởng đến bản thân NHTM mà còn có ảnh hưởng đến các cá nhân và tổ chức khác trong xã hội. Những tác động này vô cùng lớn và có ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Do vậy việc nâng cao chất lượng tín dụng không những giúp ngân hàng kinh doanh có lợi, đáp ứng được tốt nhu cầu vốn của các doanh nghiệp và cá nhân, giúp nền kinh tế phát triển thuận lợi.
Nâng cao chất lượng kinh doanh giúp ngân hàng tồn tại một cách vững vàng, củng cố các mối quan hệ với các đối tác, tăng khả năng hoạt động và đặc biệt là tăng khả năng cạnh tranh. Đối với nền kinh tế, việc nâng cao chất lượng tín dụng sẽ giúp đầu tư vốn có hiệu quả, từ đó có thể khuyến khích tiết kiệm, đầu tư, cải thiện chất lượng cuộc sống, giảm lượng tiền trong lưu thông, ổn định thị trường tiền tệ... phát triển nền kinh tế.
Như vậy, việc nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn là cần thiết, khách quan; trước hết vì sự tồn tại và phát triển của NHTM, đồng thời là vì sự phát triển của nền kinh tế.
1.3.4. Các điều kiện để một khoản vay ngắn hạn có chất lượng
Hoạt động cho vay ngắn hạn diễn ra giữa hai chủ thể là NHTM và khách hàng. Đồng thời việc cho vay nằm trong một môi trường lớn hơn, đó là những điều kiện của nền kinh tế. Do vậy, để có một khoản vay tốt cần phải có những điều kiện thuận lợi từ các bên có liên quan.
1.3.4.1. Các điều kiện về phía NHTM
- Khả năng thẩm định cho vay
Trong quy trình tín dụng của các ngân hàng, thẩm định cho vay là khâu đầu tiên và quan trọng. Thẩm định là việc đánh giá, thẩm tra, dự đoán về độ chính xác, an toàn và hiệu quả của một hợp đồng tín dụng. Kết quả của quá trình thẩm định sẽ dùng để quyết định xem có thực hiện món vay hay không. Mặc dù không thể tránh được tất cả các sai sót, nhưng làm tốt khâu này sẽ tạo tiền đề cho việc thu hồi đủ cả vốn và lãi một cách đầy đủ, đúng hạn. Quá trình thẩm định không chỉ đòi hỏi việc tuân thủ nghiêm ngặt về hồ sơ và an toàn thông tin mà còn yêu cầu trình độ chuyên môn và sự phán đoán linh hoạt của cán bộ. Đối với cho vay ngắn hạn, do tính đặc thù là “thường xuyên”, kịp thời nên khâu thẩm định cũng đòi hỏi phải nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng, đồng thời phải đảm bảo chính xác và an toàn.
- Chất lượng cán bộ tín dụng
Trong tất cả các ngành và lĩnh vực của nền kinh tế, con người luôn đóng vai trò quan trọng nhất. Chính vì thế, để nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn, cần có nhiều yếu tố, trong đó con người là yếu tố trung tâm. Nền kinh tế ngày càng phát triển, các ngành và lĩnh vực do đó cũng ngày càng phức tạp và yếu tố chất xám ngày càng tăng. Ngành ngân hàng là một ngành đặc biệt trong nền kinh tế, nơi mà các công nghệ hiện đại nhất được ứng dụng. Tính phức tạp và tinh vi trong việc xử lý các nghiệp vụ đòi hỏi cán bộ ngân hàng phải có đủ trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức. Trình độ cán bộ tín dụng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cho vay, trước hết là trong công tác thẩm định, phân tích tín dụng, quản lý tín dụng. Mặt khác, khách hàng của ngân hàng ngày càng phong phú, hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Do đó, cán bộ tín dụng cũng phải có trình độ, hiểu biết nhiều lĩnh vực để có thể đánh giá được khách hàng và dự án xin vay.
- Thông tin tín dụng
Vấn đề thông tin là một vấn đề nhạy cảm và có tính quyết định đến thành công hay thất bại của công việc kinh doanh. NHTM hoạt động trong một lĩnh vực rất nhạy cảm với những thay đổi của nền kinh tế và mang tính rủi ro cao. Do vậy, thông tin đối với ngân hàng là vô cùng quan trọng. Trong quá trình hoạt động của mình, ngân hàng không thể có được tất cả những thông tin cần thiết: về khách hàng, quan hệ tín dụng của khách hàng với những tổ chức tín dụng khác, tài sản đảm bảo, những mối quan hệ khác của khách hàng, tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng… Mọi thông tin đều có ảnh hưởng đến quyết định của cán bộ tín dụng trong quá trình thẩm định cho vay. Việc thiếu thông tin tạo ra những rủi ro lớn cho ngân hàng, tạo ra rủi ro lựa chọn đối nghịch. Do đó, ngân hàng nào càng nắm được nhiều thông tin chính xác sẽ càng có lợi thế trong cạnh tranh.
- Kiểm soát nội bộ
Trong quá trình hoạt động của ngân hàng, không thể tránh khỏi việc xẩy ra những rủi ro do yếu tố chủ quan hoặc khách quan. Nếu các cán bộ ngân hàng không nắm vững hay không tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc cho vay thì có thể sẽ dẫn đến tổn thất trong cho vay. Công tác kiểm soát nội bộ là cần thiết để điều chỉnh các cán bộ thực hiện đúng pháp luật, cơ chế cho vay. đồng thời phát hiện nhanh chóng sai sót, lệch lạc trong hoạt động tín dụng, tìm được giải pháp khắc phục kịp thời.
1.3.4.2. Các điều kiện về phía khách hàng
Khi việc cho vay chưa diễn ra thì vai trò của cán bộ tín dụng là vô cùng quan trọng. Tuy vậy, khi khoản cho vay đã diễn ra, khách hàng đã vay được tiền từ ngân hàng thì khách hàng chính là người quyết định đến chất lượng của món vay. Khách hàng là người trực tiếp sử dụng vốn vay, do đó có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cho vay. Việc khách hàng có đủ các điều kiện được vay hay không, khách hàng sử dụng vốn vay như thế nào, khả năng trả nợ cho ngân hàng… đều quyết định đến chất lượng cho vay.
- Phương án xin vay
Phương án sản xuất kinh doanh tốt sẽ đem lại hiệu quả cho món vay. Một phương án tốt sẽ sử dụng tốt nguồn vốn vay, đem lại lợi nhuận cho khách hàng, dòng tiền và kết quả kinh doanh sẽ đủ để trả đủ vốn và lãi của khoản vay.
- Tình hình tài chính của doanh nghiệp
Khi xem xét hồ sơ khách hàng, chỉ những khách hàng có tình hình kinh doanh tốt, những chỉ tiêu tài chính có hiệu quả thì mới được xem xét để cho vay. Tình hình tài chính của doanh nghiệp được thể hiện trước hết qua bảng tổng kết tài sản: quy mô tài sản (tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, chứng khoán có giá, các khoản phải thu, dự trữ, tài sản cố định…), quy mô và cơ cấu nguồn vốn (các khoản nợ phải trả, vay ngân hàng, nợ quá hạn, các chủ nợ, giá trị của các khoản nợ, thứ tự ưu tiên thanh toán nợ..). Tiếp đến cần phải xem xét đến báo cáo kết quả kinh doanh và báo cáo lưu chuyển tiền tệ: luồng tiền, các tỷ lệ tài chính như: nhóm tỷ lệ thanh khoản, nhóm tỷ lệ sinh lời, nhóm tỷ lệ rủi ro và nhóm tỷ lệ về cơ cấu vốn, tài sản đảm bảo. Nếu tình hinh tài chính của khách hàng tốt, đáp ứng được những yêu cầu của ngân hàng, khoản vay sẽ ít rủi ro hơn. Khi rủi ro được giảm thiểu thì chất lượng cho vay được nâng cao.
- Năng lực điều hành, quản lý và đạo đức kinh doanh của chủ doanh nghiệp
Một trong những yêu cầu quan trọng khi xem xét cho vay khách hàng là việc nhân viên tín dụng gặp gỡ trực tiếp và đàm phán với chủ doanh nghiệp. Thông qua quá trình gặp gỡ và trao đổi này thì nhân viên tín dụng có thể hiểu thêm nhiều về đối tượng cho vay, về kinh nghiệm, về kiến thức, về ý thức và quyết tâm kinh doanh. Đây mặc dù là một yếu tố phi tài chính nhưng lại vô cùng quan trọng thuộc về doanh nghiệp và có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Khi chủ doanh nghiệp có trình độ chuyên môn cao, năng lực lãnh đạo tốt thì ngay ở khâu đầu tiên là lập dự án đầu tư cũng đã thể hiện khả năng thành công của dự án, khả năng sử dụng vốn vay từ ngân hàng một cách hiệu quả. Nếu ngược lại, nếu như chủ doanh nghiệp không có đủ trình độ quản lý và kinh nghiệm cần thiết thì khoản vay không phát huy được tác dụng, không đảm bảo được chất lượng cho vay và kết quả xấu nhất là ngân hàng mất vốn. Bên cạnh việc xem xét về trinh độ chuyên môn của khách hàng, cán bộ tín dụng cũng phải đánh giá khách hàng trên khía cạnh đạo đức. Tính trung thực, mức độ thực hiện đúng các cam kết trong hợp đồng tín dụng là điều kiện tiên quyết để đảm bảo khoản vay có hiệu quả.
1.3.4.3. Các điều kiện về nền kinh tế
Mọi hoạt động của doanh nghiệp không thể tách rời khỏi những biến động của thị trường. Bất cứ sự thay đổi nào trên thị trường như tình hình lạm phát, tăng trưởng hay suy thoái, mức thuế, giá cả thị trường… đều có ảnh hưởng đến khách hàng của doanh nghiệp, doanh số bán hàng, tình hình tiêu thụ, từ đó ảnh hưởng đến doanh thu, chi phí, lợi nhuận… Khi nền kinh tế tăng trưởng thì mọi yếu tố của thị trường đều thuận lợi đối với việc đầu tư mới, nhu cầu tăng, mức giá tăng sẽ tạo điều kiện tốt cho việc kinh doanh của doanh nghiệp. Ngược lại khi nền kinh tế bị giảm phát hoặc mức lạm phát quá cao (lạm phát hai con số) thì chi phí sản xuất, chi phí nhân công tăng quá cao, khiến cho công việc kinh doanh của doanh nghiệp không thuận lợi. Do vậy, có thể nhận thấy rằng khi nền kinh tế tăng trưởng tốt thì dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng thường cao hơn rất nhiều so với những thời điểm nền kinh tế không thuận lợi. Một nền kinh tế ổn định là cần thiết để các doanh nghiệp có thể kinh doanh tốt, ngân hàng cũng có thể mở rộng cho vay và thu lợi nhuận cao, đảm bảo chất lượng cho vay.
Chương 2
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CHO VAY NGẮN HẠN TẠI SỞ GIAO DỊCH I NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
2.1. KHÁI QUÁT VỂ TÍNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA SỞ GIAO DỊCH I
2.1.1. Giới thiệu chung
2.1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Sở giao dịch I Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam mới được tách ra từ Hội sở vào năm 2005. Cùng với sự phát triển của hệ thống ngân hàng Vietcombank, việc để Hội sở vừa thực hiện chức năng kinh doanh và chức năng quản lý không còn phù hợp. Hệ thống Vietcombank đã liên tục phát triển, số chi nhánh mở ra trên cả nước ngày càng lớn, lượng vốn huy động được và cho vay tăng mạnh, năm sau cao hơn năm trước, nhiệm vụ quản lý là rất lớn và quan trọng, đòi hỏi phải có một bộ phận chuyên nghiệp phụ trách công việc này. Đồng thời, công việc kinh doanh ở Hội sở có một vai trò rất lớn đối với toàn hệ thống, các chỉ tiêu hoạt động của Hội sở luôn chiếm khoảng 20 – 25% toàn hệ thống. Để phù hợp với sự phát triển trong giai đoạn mới, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã quyết định tách bộ phận kinh doanh của Hội sở để thành lập Sở giao dịch I Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, với chức năng kinh doanh như các chi nhánh cấp 1 khác.
Sở giao dịch hiện đang có địa chỉ tại Toà tháp Vietcombank Tower, 198 Trần Quang Khải. Sở giao dịch tuy không có các chi nhánh và phòng giao dịch trực thuộc nhưng phạm vi hoạt động rất lớn, không chỉ trong phạm vi thành phố Hà Nội mà còn mở rộng sang phạm vi các tỉnh lân cận. Các khách hàng của Sở giao dịch I chủ yếu là những khách hàng lớn có được từ quá trình kinh doanh trước đây. Khi tách ra từ Hội sở chính, Sở giao dịch đã rất cố gắng trong việc mở rộng phạm vi hoạt động, chủ động tìm kiếm khách hàng và đã thu được rất nhiều thành công, thị phần huy động vốn của Sở giao dịch chiếm 9% trên địa bàn thành phố Hà Nội, đóng vai trò đầu tàu trong sự phát triển của Vietcombank khu vực phía Bắc.
2.1.1.2. Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức của Sở giao dịch có những điểm rất đặc biệt. Do mới được tách ra từ Hội sở chính nên các phòng ban giữa Hội sở chính và Sở giao dịch vẫn có những mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trước đây thì chỉ duy trì một phòng Tín dụng ngắn hạn thì nay tách ra thành hai phòng: Phòng Tín dụng ngắn hạn TW (Trung ương) và Phòng Tín dụng ngắn hạn Sở giao dịch. Đối tượng phục vụ của hai phòng này có đôi chút khác biệt, trên phòng tín dụng ngắn hạn TW thì đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp Nhà nước có quy mô lớn như Tổng công ty lương thực miền Bắc – Vinafood 1, Công ty Than, Xí nghiệp đóng tàu.. còn ở phòng Tín dụng Sở giao dịch là các khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hiện nay thì sự trùng lặp về hoạt động đang được Ban lãnh đạo xem xét và điều chỉnh lại cho phù hợp với hoạt động của Hội sở và Sở giao dịch.
Chức năng và nhiệm vụ của các Phòng, ban như sau:
- Phòng kế toán giao dịch: Là phòng nghiệp vụ thực hiện giao dịch trực tiếp với khách hàng, tổ chức hạch toán kế toán theo quy định của Nhà nước và của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
- Phòng tín dụng ngắn hạn Sở giao dịch: Là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ có nhu cầu vốn ngắn hạn từ ngân hàng, với chức năng khai thác và sử dụng vốn tối ưu nhằm mục tiêu lợi nhuận.
- Phòng đầu tư dự án Sở giao dịch: Là phòng nghiệp vụ đáp ứng nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của khách hàng. Nhiệm vụ là nghiên cứu tiền khả thi, khả thi và xem xét cho vay các dự án kinh doanh của doanh nghiệp có thời hạn từ 1 năm trở lên.
- Phòng tín dụng trả góp và tiêu dùng: phụ trách việc quan hệ với khách hàng vay vốn là các cá nhân và doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn để tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ có chất lượng cao, cải thiện đời sống. Hiện nay phòng đang thực hiện một số dịch vụ chính như sau: cho vay mua nhà, ô tô trả góp, cho vay cán bộ công nhân viên và mới nhất là cho vay du học.
- Phòng tài trợ thương mại: Là phòng nghiệp vụ, tổ chức thực hiện các nghiệp vụ về tài trợ thương mại: thực hiện thanh toán L/C xuất nhập khẩu, các nghiệp vụ nhờ thu, chiết khấu chứng từ, bảo lãnh thanh toán… Phòng còn có chức năng nghiệp vụ mua bán và thu đổi ngoại tệ. Do số lượng giao dịch được thực hiện ở Sở giao dịch là rất lớn nên đã lập ra hai phòng chuyên biệt cho từng nghiệp vụ là : Phòng thanh toán nhập khẩu và Phòng thanh toán xuất khẩu
- Phòng Bảo lãnh Sở giao dịch: Là phòng nghiệp vụ thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh cho các khách hàng có nhu cầu bảo lãnh. Các nghiệp vụ bảo lãnh mà Sở giao dịch đang tiến hành là bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh đảm bảo tham gia dự thầu, bảo lãnh đảm bảo khả năng thanh toán (thường dùng trong thanh toán xuất nhập khẩu).
- Phòng Vay nợ viện trợ sở giao dịch: Là phòng nghiệp vụ thực hiện công tác quản lý các khoản vay nợ có tính viện trợ từ nước ngoài, được các tổ chức quốc tế viện trợ cho Việt Nam nhằm mục tiêu phát triển kinh tế, cải thiện môi trường… Ngân hàng Ngoại thương được chỉ định làm nhiệm vụ thay chủ đầu tư để quản lý nguồn vốn này sao cho có lợi nhất.
- Phòng quản lý thẻ: Là phòng nghiệp vụ thực hiện chức năng quản lý toàn bộ hệ thống thẻ ATM của ngân hàng Ngoại thương. Các chức năng quản lý được thể hiện ở việc phát triển mạng lưới, phát triển số lượng khách hàng, nâng cao chất lượng thanh toán.
- Phòng thanh toán thẻ Sở giao dịch: Là phòng nghiệp vụ thực hiện việc quản lý quá trình thanh toán thẻ của VCB, kiểm soát các giao dịch, các nghiệp vụ chuyển tiền, rút tiền, mua hàng…
- Phòng tiền tệ kho quỹ: là phòng nghiệp vụ quản lý an toàn kho quỹ, quản lý quỹ tiền mặt theo quy định của NHNN và VCB, tổ chức điều chuyển tiền giữa quỹ nghiệp vụ của Sở giao dịch với NHNN, các chi nhánh khác trong cùng hệ thống trên địa bàn, các Quỹ tiết kiệm, các điểm giao dịch trong và ngoài quầy, thu chi tiền mặt giao dịch có giá trị lớn.
- Phòng Quan hệ khách hàng: Là phòng nghiệp vụ có chức năng quản lý tất cảcác khách hàng của Sở giao dịch không tính đến họ thực hiện nghiệp vụ nào. Nhiệm vụ của phòng rất quan trọng, có ý nghĩa lớn đối với quá trình chấm điểm tín dụng cho khách hàng, và đây là cơ sở để thực hiện việc xem xét cho vay đối với một khách hàng.
Ngoài ra còn có các phòng khác thực hiện các chức năng được phân công như: Phòng Hối đoái Sở giao dịch, Phòng dịch vụ tài khoản khách hàng, Phòng Hành chính - tổng hợp…
2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch 1
Năm 2005, năm cuối cùng của kế hoạch 5 năm 2001 – 2005, nền kinh tế nước ta nói chung và Hà Nội nói riêng gặp không ít khó khăn do ảnh hưởng từ sự biến động của giá dầu mỏ, vàng và các loại ngoại tệ mạnh với biên độ cao trong năm, dịch cúm gia cầm diễn biến phức tạp. Hà Nội hiện là địa phương có chỉ số tăng giá cao nhất toàn quốc. CPI tháng 12 của Hà Nội tăng 9.55% so với chỉ số giá tháng 12 năm 2004.
Bên cạnh đó, Hà Nội có thêm nhiều kênh huy động vốn mới như hoạt động của Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, trái phiếu xây dựng Thủ đô lần thứ nhất, một số Tổng công ty phát hành trái phiếu doanh nghiệp… khiến cạnh tranh thu hút vốn ngày càng trở nên quyết liệt. Ngoài ra, tiến trình cổ phần hoá của các doanh nghiệp Nhà nước còn chậm, nhiều chương trình dự án của Chính phủ, thành phố triển khai, gây ách tắc về vốn của các doanh nghiệp, qua đó cũng ảnh hưởng đến hoạt động và chất lượng tín dụng của ngân hàng. Tuy vậy, đối với Sở giao dịch I - Hội sở Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trong năm 2005 đã đạt được các kết quả khả quan về hoạt động kinh doanh.
2.1.2.1. Tổng kết hoạt động năm 2005 của Sở giao dịch I
(Quy đổi ngoại tệ theo tỷ giá báo cáo 15.875 VND/USD)
2.1.2.1.1. Về huy động vốn
Công tác huy động vốn của Sở giao dịch I vẫn duy trì kết quả tốt, năm 2005 đạt được 20.650 tỷ đồng, tăng 28.8% so với năm 2004, trong khi tỷ lệ này tính chung cho toàn hệ thống Vietcombank đạt 15.8%. Trên địa bàn Hà Nội, mức tăng trưởng tổng vốn huy động của các Tổ chức tín dụng (TCTD) bằng 19.2% so với năm 2004. Tính đến năm 2005, thị phần huy động vốn của Sở giao dịch I đạt 9.125% trên địa bàn Hà Nội.
BẢNG 1. NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG CÁC NĂM
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Số vốn
Tăng trưởng
2003
2004
2005
04/03
05/04
Tổng nguồn huy động
13302.5
16025
20650
20.47%
28.86%
1. Theo nguồn huy động
- Từ khu vực dân cư
9817.5
11337.5
14577
15.48%
28.57%
- Từ khu vực doanh nghiệp
3485
4687.5
6073
34.51%
29.56%
2. Theo đồng tiền
- Tiền gửi VND
5565
7087.5
10175
27.36%
43.56%
- Tiền gửi ngoại tệ (quy đổi sang VND)
7737.5
8937.5
10475
15.51%
17.20%
3. Theo kỳ hạn
- Tiền gửi không kỳ hạn
-
-
1740
-
-
- Tiền gửi có kỳ hạn
-
-
18910
-
-
Huy động từ khu vực dân cư và các tổ chức kinh tế chiếm 90% tổng nguồn vốn, còn lại là từ các TCTD nước ngoài và Kho bạc Nhà nước. Huy động vốn ngoại tệ chiếm tỷ lệ cao hơn so với đồng Việt Nam (chiếm 51%), một phần do tác động tích cực của quyết định tăng lãi suất đầu tư đầu năm của Sở giao dịch I theo lãi suất điều chỉnh của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ làm chênh lệch lãi suất giữa VND và USD ngày càng bị thu hẹp, một phần là do tâm lý người dân lo ngại lạm phát gia tăng, khi chỉ số tăng giá tiêu dùng hiện nay đang ở mức cao. Từ năm 2004 đến cuối năm 2005, FED liên tục tăng lãi suất 13 lần từ 1,25% lên tới 4,25%/năm trong khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Việt Nam năm 2005 tăng 8,4%.
Mức huy động vốn của Sở giao dịch phân theo loại tiền huy động năm 2005 như sau:
- Huy động USD đạt 660 triệu USD, tăng 17,2% so với năm 2004
- Huy động VND đạt 10.175 tỷ đồng, tăng 43,3% so với năm 2004
Về cơ cấu nguồn vốn, do nguồn tiền gửi tiết kiệm luôn chiếm tỷ trọng lớn nên nguồn vốn huy động bị ảnh hưởng bởi điều kiện lãi suất trên thị trường, nhất là với chiều hướng lãi suất gia tăng trong cả năm 2005. Bên cạnh đó, nguồn tiền gửi thanh toán vẫn duy trì tăng trưởng ổn định, đạt 4350 tỷ đồng vào cuối năm 2005. Các đợt huy động kỳ phiếu của Ngân hàng cũng đạt được kết quả khả quan, góp phần tăng cao nguồn vốn huy động.
2.1.2.1.2. Về sử dụng vốn
Công tác quản lý và sử dụng vốn của Sở giao dịch I được thực hiện theo phương châm an toàn và hiệu quả nhằm vừa đảm bảo khả năng sinh lời vừa đả._. thời gian và chi phí cho khách hàng, không nên áp dụng. Phương thức cho vay theo hạn mức hiện đang được áp dụng tỏ ra phù hợp hơn. Nhưng việc kiểm soát khoản vay trong trường hợp này là khó khăn đối với ngân hàng. Các khoản vay theo hạn mức tín dụng không tách biệt, ngân hàng khó kiểm soát chi tiết từng khoản vay, cho nên có thể dẫn đến rủi ro tín dụng. Trong khi đó, cho vay theo phương thức luân chuyển đòi hỏi người vay phải xuất trình các chứng từ hợp pháp, hợp lệ về hàng hoá đã nhập thì mới được nhận tiền. Việc cho vay căn cứ vào lượng giá trị hàng hoá thực nhập như vậy không chỉ hỗ trợ vốn kịp thời cho khách hàng, không tốn kém nhiều thời gian và chi phí (cùng có những ưu điểm của cho vay theo hạn mức) mà còn định hướng cho số tiền cho vay của ngân hàng được sử dụng đúng mục đích.
Một phương thức hiệu quả khác là chiết khấu thương phiếu. Đối với ngân hàng, đây là hình thức cấp tín dụng ngắn hạn ít rủi ro, vì ngân hàng luôn nắm trái quyền đòi nợ chính ở các giấy tờ có giá. Nếu trường hợp Ngân hàng không thu hồi được nợ của người phát hành, thì có thể truy đòi ở những người liên đới hoặc có thể đem tái chiết khấu tại NHNN khi chứng từ đến hạn thanh toán. Uu điểm nổi trội của phương thức chiết khấu là chứng từ được chiết khấu thường có tính thanh khoản cao, thậm chí gần như tiền mặt. Việc thực hiện nghiệp vụ này tạo ra một khoản thu nhập cho ngân hàng, đồng thời tạo nên những tài khoản có tính thanh khoản cao. Với thời hạn ngắn, an toàn cao, đây là một phương thức cho vay ngắn hạn tốt.
Ngoài ra, khi chiết khấu chứng từ có giá, các doanh nghiệp thường ghi tăng tài khoản tiền gửi của mình tại Ngân hàng để thực hiện thanh toán. Khoản lãi mà ngân hàng trả cho số tiền này chỉ là lãi suất tiền gửi thanh toán – chi phí mà ngân hàng phải trả là nhỏ. Số tiền này có thể chưa được sử dụng toàn bộ, và như vậy, nguồn vốn của Ngân hàng lại tăng lên.
Hiện nay, Sở giao dịch cũng đã thực hiện chiết khấu giấy tờ có giá, song còn rất hạn chế. Với những ưu điểm trên, cho vay luân chuyển và chiết khầu thương phiếu là những phương thức cho vay ngắn hạn hiệu quả. Phát triển các phương thức này sẽ giúp nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn ở Sở giao dịch.
3.2.3. Nâng cao chất lượng thẩm định cho vay
Một trong những nguyên nhân lớn nhất làm hạn chế chất lượng cho vay, cụ thể là cho vay ngắn hạn, là chất lượng thẩm định. Thẩm định cho vay là khâu thẩm tra khách hàng và dự án xin vay trên nhiều tiêu chí, từ đó đưa ra quyết định cho vay hay không cho vay, cho vay như thế nào. Do vậy, chất lượng cho vay phụ thuộc rất lớn đến chất lượng thẩm định. Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định là:
Một là, nâng cao chất lượng thu thập thông tin. Thông tin là đầu vào của việc thẩm định. Thông tin không chính xác, không đầy đủ thì thẩm định sẽ không đúng. Ngân hàng không thực sự hiểu biết khách hàng thì khó tránh khỏi việc cho vay không hiệu quả. Để nâng cao chất lượng thông tin, cần có nhiều giải pháp, có thể kể đến là:
- Thu thập thông tin từ bên trong doanh nghiệp thông qua các hình thức phỏng vấn trực tiếp người vay và gặp gỡ tại cơ sở để tìm hiểu cặn kẽ về ngành nghề sản xuất kinh doanh, tiềm năng của sản phẩm khách hàng sản xuất trên thị trường, mục đích vay vốn, tình hình tài chính của người vay. Một số thông tin khác liên quan đến doanh nghiệp như lịch sử và xu hướng phát triển, đội ngũ cán bộ, trình độ quản lý, quan hệ đối tác đều tiết lộ khả năng, triển vọng của doanh nghiệp. Một yêu cầu quan trọng khác trong việc thu thập thông tin là phải phân biệt được các thông tin trọng yếu và không trọng yếu, đánh giá được mức độ tin cậy của thông tin, từ đó, mới có hướng thu thập những thông tin thật sự cần thiết.
- Thu thập thông tin từ bên ngoài qua nhiều nguồn chính thức hoặc không chính thức. Nguồn thông tin chính thức là thông tin của các cơ quan chức năng như kiểm toán độc lập, trung tâm thông tin tín dụng, các cơ quan hữu quan như cơ quan thuế, hải quan, công an, toà án... Nguồn thông tin cũng có thể là không chính thức như thông tin từ đối tác của khách hàng, từ các ngân hàng bạn mà khách hàng đã có quan hệ tín dụng hoặc từ các mối quan hệ khác, từ dư luận xã hội, phương tiện thông tin đại chúng.
- Thu thập thông tin của ngân hàng còn phải hướng tới xây dựng một hệ thống thông tin đầy đủ về thị trường, giá cả, các dự báo, xây dựng các tiêu chuẩn trong từng ngành và trong toàn nền kinh tế để làm căn cứ so sánh, đánh giá khi phân tích, chấm điểm tín dụng.
- Trong việc thu thập thông tin, phải tính đến không chỉ yếu tố chính xác, tin cậy, mà còn phải tính đến chi phí để có các thông tin đó. Có như vậy, hoạt động tín dụng mới mang lại được thu nhập cho ngân hàng.
Hai là, nâng cao chất lượng xử lý thông tin. Từ những thông tin thu thập được, cần phải xử lý theo nhiều cách thức để đưa ra kết luận hợp lý, đúng đắn. Thông tin thu thập được có thể rất nhiều, song cần phải sàng lọc được những thông tin quan trọng và tin cậy.
Các thông tin thu thấp được đều là số liệu trong quá khứ và mang tính thời điểm. Nhưng Ngân hàng không chỉ cần quan tâm để kết quả hoạt động của khách hàng trong trạng thái tĩnh ở một thời điểm nào, mà cần phân tích khách hàng trong trạng thái động. Do đó, khi xử lý thông tin, không chỉ phân tích đơn thuần các chỉ tiêu thời điểm, còn cần phải phân tích tỷ lệ giữa các năm, giữa các doanh nghiệp trong cùng ngành, tìm hiểu được xu hướng phát triển của doanh nghiệp. Qua đó, ngân hàng cũng đánh giá được rủi ro của doanh nghiệp, xem xét tính khả thi của dự án xin vay.
Việc chấm điểm tín dụng là một cách xử lý thông tin có hiệu quả. Tuy nhiên, với các thang điểm rời rạc như hiện nay, còn nhiều chỉ tiêu chung chung cho mọi doanh nghiệp thì việc phân tích định lượng chưa mang lại hiệu quả cao. Nếu chỉ lấy đó làm căn cứ chính để xem xét cấp tín dụng thì rõ ràng, ngân hàng chịu rủi ro rất lớn. Do vậy, khi phân tích tín dụng, không nên phân tích mọi chỉ tiêu, vừa không cần thiết, vừa có thể không mang lại hiệu quả, hay thậm chí, các con số tính toán được lại phản ánh sai lệch. Việc phân tích định tính là rất quan trọng.
3.2.4. Đảm bảo thực hiện tốt hơn quy trình cho vay
Quy trình cho vay đã được quy định và hướng dẫn cụ thể trong Cẩm nang tín dụng của NHNT Việt Nam. Đó là một quy trình được tính từ khi ngân hàng tiếp nhận hồ sơ xin vay của khách hàng đến khi thu hồi hết nợ, giải chấp tài sản đảm bảo, thanh lý hợp đồng. Đây là quy trình chặt chẽ, bao gồm nhiều bước. Cán bộ tín dụng phải theo sát quy trình, đặc biệt ở những khâu quan trọng như thẩm định, trong đó có khâu thẩm định tài sản đảm bảo.
Tuy nhiên, các cán bộ tín dụng cũng phải rất linh hoạt trong việc áp dụng quy trình này vào từng trường hợp cụ thể. Đối với khách hàng đã có quan hệ tín dụng lâu dài với ngân hàng, thì các bước hướng dẫn hồ sơ, thủ tục là không cần thiết, bước thu thập, điều tra thông tin có thể giảm nhẹ do kế thừa thông tin có sẵn, cán bộ chỉ cần tập trung nhiều hơn vào dự án xin vay. Ngược lại, đối với khách hàng lần đầu có quan hệ tín dụng, cán bộ tín dụng cần thiết phải thực hiện đầy đủ, kỹ lưỡng các bước trong quy trình, để đảm bảo rằng khách hàng hiểu rõ và thực hiện được các yêu cầu của ngân hàng.
Trong cho vay ngắn hạn, thời gian và thời cơ là yếu tố quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp xin vay mà còn đối với ngân hàng cho vay. Do đó, áp dụng một quy trình linh hoạt, vừa đảm bảo các quy định, vừa giảm nhẹ thủ tục, giảm bớt thời gian là cần thiết.
Thực hiện tốt quy trình cho vay đòi hỏi cán bộ ngân hàng phải thực hiện tốt ngay ở từng bước của quy trình, vì bước sau có tính kế tiếp bước trước. Do đó, tuân thủ quy trình chặt chẽ mà lại rất linh hoạt là điều kiện quan trọng để có được các quyết định cho vay đúng đắn, tạo điều kiện hết sức cho khách hàng, đồng thời đảm bảo an toàn, sinh lợi cho ngân hàng. Chất lượng cho vay nhờ đó được nâng cao.
3.2.5. Cơ cấu lại dư nợ cho vay
Cơ cấu dư nợ cho vay cũng có ảnh hưởng nhất định đến chất lượng của hoạt động cho vay. Trong cơ cấu dư nợ cho vay theo thời hạn, dư nợ cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn là phù hợp với chức năng của NHTM - cung cấp vốn ngắn hạn. Song nếu dư nợ ngắn hạn tăng cao mà lại không đảm bảo được chất lượng thì rủi ro của ngân hàng lại rất lớn. Do đó, trong cơ cấu dư nợ, cần phải kết hợp giữa việc mở rộng và nâng cao chất lượng.
Trong cơ cấu dư nợ ngắn hạn, SGD vẫn có một tỷ trọng lớn cho khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh còn vay ngắn hạn với tỷ trọng khiêm tốn (khoảng 20%). Cơ cấu dư nợ bất cập như vậy vừa hạn chế khả năng tài trợ cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, vừa làm tăng rủi ro của ngân hàng nếu tập trung quá nhiều vào một khu vực, làm ngân hàng mất đi những khoản thu nhập tiềm năng từ khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Việc cơ cấu lại dư nợ cho vay phải được thực hiện bằng chính sách khuyến khích các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có dự án khả thi đến vay vốn ngân hàng, vừa phải do tính chủ động hỗ trợ, tư vấn các doanh nghiệp này từ phía ngân hàng. Ngân hàng có thể cùng khách hàng nghiên cứu dự án vay vốn sao cho có hiệu quả nhất, đứng trên quyền lợi hợp lý của khách hàng để tư vấn cho vay và là người hỗ trợ vốn. Làm như vậy, không chỉ ngân hàng thu hút được các doanh nghiệp có khả năng vay vốn kinh doanh, mà còn đảm bảo chất lượng cho vay được tốt hơn, nhất là khi ngân hàng là một trong những người quản lý giám sát trực tiếp vốn vay.
3.2.6. Tăng cường công tác quản lý tín dụng
Quản lý tín dụng là công tác quan trọng trong quy trình cho vay. Quản lý tín dụng tốt là điều kiện đủ để có các khoản tín dụng tốt, an toàn. Đây là điều kiện cần thiết để đảm bảo chất lượng cho vay.
Công tác này bao gồm quản lý, kiểm soát khoản vay; xử lý những phát sinh và thu hồi nợ.
Thứ nhất, về quản lý kiểm soát khoản vay.
Sau khi giải ngân, cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo dõi việc sử dụng vốn vay của đơn vị. Cán bộ tín dụng cần phải theo dõi tiến độ thực hiện của phương án vay vốn.Việc kiểm soát khách hàng không chỉ thực hiện qua việc xem xét các báo cáo tài chính là đủ, mà cần phải trực tiếp, nhanh nhạy bám sát hoạt động sản xuất - kinh doanh của họ.
Cán bộ tín dụng cần có những đợt kiểm tra định kỳ đến cơ sở, và cả những đợt kiểm tra bất kỳ. Trong mỗi đợt kiểm tra, cán bộ cần tận dụng triệt để thời gian tiếp xúc ở đơn vị, đảm bảo xem xét tất cả các yếu tố liên quan đến đặc tính của khoản cho vay. Cán bộ tín dụng cần:
- Đánh giá tinh thần trách nhiệm của chủ doanh nghiệp đối với vốn vay ngân hàng thông qua trách nhiệm gặp gỡ, trao đổi với cán bộ tín dụng về những vấn đề liên quan đến khoản vay và khả năng, nghĩa vụ hoàn trả nợ.
- Đánh giá khả năng thanh toán của khách hàng qua các chỉ tiêu về khả năng thanh toán (khả năng thanh toán nhanh, khả năng thanh toán hiện hành) để đảm bảo khách hàng có thể thực hiện được lịch trả nợ.
- Đánh giá lại dự án vay vốn trong thực tế, so sánh, xem xét sự khác biệt giữa dự án và thực tế ở các chỉ tiêu như quy mô, doanh thu, lợi nhuận, hiệu suất sử dụng tài sản, sức cạnh tranh của sản phẩm. Qua đó, tìm hiểu xu hướng phát triển để có những nhận định đúng về dự án, về khoản vay, về những rủi ro tiềm ẩn, đặt ra cơ sở để xử lý các phát sinh nếu có sau này.
- Đánh giá lại tài sản đảm bảo về giá trị và tình trạng, xem xét xem giá trị đó có còn đáp ứng được các tỷ lệ yêu cầu so với giá trị khoản vay hay không. Ngân hàng luôn cần có sự điều chỉnh kịp thời trong việc cung ứng vốn vay cho tương ứng với tài sản đảm bảo, hoặc yêu cầu doanh nghiệp phải bổ sung tài sản đảm bảo.
Ngân hàng cũng cần theo dõi quyền lợi hợp pháp của mình đối với tài sản đảm bảo để chắc chắn về nguồn thu hồi nợ khi khách hàng không trả được nợ.
- Đánh giá sự thay đổi trong tình hình tài chính của doanh nghiệp, cơ cấu vốn, tình hình phân chia lợi nhuận trong doanh nghiệp. Nếu có sự thay đổi bất thường về cơ cấu vốn, tăng nợ bất thường... thì đó là dấu hiệu cho thấy doanh nghiệp đang hoạt động không tốt.
Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh, chủ doanh nghiệp thường không tách bạch tiền cho hoạt động sản xuất kinh doanh và tiền để chi tiêu gia đình. Do đó, cán bộ tín dụng cần phải khéo léo tìm hiểu việc sử dụng vốn vay của khách hàng, việc quản lý tài chính của bản thân người vay, từ đó đánh giá được khả năng sử dụng vốn có hiệu quả hay không của họ.
Thứ hai, về xử lý những phát sinh
Những phát sinh trong quá trình cho vay là những phát sinh bất lợi, thường là biểu hiện của khoản nợ có vấn đề. Trong trường hợp này, cán bộ tín dụng phải có những xử lý kịp thời, hợp lý để giảm bớt sự bất lợi, ngăn ngừa những phát sinh xấu hơn.
Khoản nợ có vấn đề ở đây không chỉ là những khoản nợ quá hạn, khó đòi, mà ngay cả những khoản nợ còn trong hạn, nhưng đã có biểu hiện xấu. Những biểu hiện đó là sự chậm trễ bất thường trong việc gửi báo cáo đến ngân hàng, trong lịch trình trả nợ, thái độ lảng tránh của khách hàng hoặc trực tiếp hơn là tình hình hàng hoá không tiêu thụ được, bị ứ đọng...
Đối với các khoản nợ có vấn đề, cán bộ tín dụng cần phải nhanh nhạy nhận biết mức độ nghiêm trọng, tích cực theo dõi để tìm ra nguyên nhân của vấn đề, từ đó đưa ra cách xử lý hợp lý, kịp thời. Một số hướng cụ thể có thể áp dụng là:
- Nếu khách hàng chỉ gặp khó khăn tạm thời, song vẫn có ý chí và quyết tâm vượt qua khó khăn, thì ngân hàng áp dụng chính sách hỗ trợ cho vay thêm, tiến hành gia hạn nợ, giảm lãi suất ở mức nhất định, hay thậm chí, cùng doanh nghiệp kinh doanh, tư vấn cho doanh nghiệp trong việc cơ cấu, tổ chức lại theo hướng hiệu quả. Đây là hướng giải quyết tích cực đối với cả doanh nghiệp vay vốn và ngân hàng cho vay. Doanh nghiệp vẫn còn cơ hội để vươn lên. Đồng thời ngân hàng vẫn có cơ hội trông đợi vào sự thành công của doanh nghiệp để biến khoản nợ xấu thành khoản nợ tốt, ngân hàng có cơ hội thu hồi đẩy đủ vốn vay.
- Nếu khách hàng không có khả năng vượt qua khó khăn, thậm chí có thái độ lừa đảo, không hợp tác tích cực, thì ngân hàng nên áp dụng phương pháp xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi vốn, hoặc bán lại cho Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp. Đây là giải pháp cuối cùng để cứu vãn tình thế.
Thứ ba, về công tác thu hồi nợ.
Thu hồi nợ là công tác quan trọng để thực hiện bảo toàn vốn, đảm bảo cho ngân hàng luôn luôn có một lượng vốn trong ngân hàng theo kế hoạch đáp ứng được các nhu cầu mới. Công tác thu hồi nợ phải được thực hiện chặt chẽ, kiên quyết mà hợp lý. Nhất là trong trường hợp thu hồi vốn vay ngắn hạn, công tác này cũng cần thực hiện tốt, vì thời gian là yếu tố quan trọng trong cho vay ngắn hạn, không thể để khoản nợ kéo dài mà không thu hồi được. Để có thể thu hồi được nợ đúng hạn trong cho vay ngắn hạn, thì một trong những yếu tố quan trọng là việc xác định kỳ hạn nợ của ngân hàng đối với doanh nghiệp đó. Cán bộ tín dụng cần xác định kỳ hạn dựa trên việc phân tích dự án xin vay và khả năng tài chính của doanh nghiệp.
3.2.7. Nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng, tăng cường công tác kiểm soát nội bộ
Nhân tố con người luôn là nhân tố trung tâm, vì con người là chủ thể của mọi hành động. Trong hoạt động tín dụng cũng vậy. Cán bộ tín dụng là người trực tiếp tiếp cận các yêu cầu vay vốn, đại diện cho ngân hàng tiến hành thẩm tra cho vay, do đó, đóng vai trò quan trọng đến quyết định có cho vay hay không, cho vay như thế nào, quyết định đến chất lượng cho vay. Vì thế, đào tạo cán bộ tín dụng về cả trình độ nghiệp vụ và tư cách đạo đức là việc làm cần thiết, thường xuyên.
-Về trình độ nghiệp vụ: Để mở rộng và phát triển hoạt động cho vay, trước hết Chi nhánh cần phải có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, hợp lý, đồng bộ, xây dựng tập thể cán bộ đoàn kết, sáng tạo, có tinh thần trách nhiệm cao. Tại Chi nhánh, không có bộ phận thẩm định riêng, cán bộ tín dụng đồng thời kiêm cán bộ thẩm định cho nên, ngoài trình độ ký thuật nghiệp vụ cho vay, cần tiếp tục thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về chế độ kế toán mới, phương pháp kỹ thuật thẩm định dự án, phương pháp phân tích hoạt động kinh tế, bổ sung các kiến thức về pháp luật, chính sách, chủ trương của Nhà nước, các kiến thức chuyên ngành... Nhất là hiện nay, hoạt động hỗ trợ khách hàng vay vốn ngày càng tỏ ra có hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng cho vay, cho nên, cán bộ tín dụng cần phải liên tục bổ sung, nâng cao kiến thức chuyên ngành trên nhiều lĩnh vực hoạt động của khách hàng, để có thể hỗ trợ khách hàng hiệu quả nhất, mang lại những khoản vay có chất lượng.
- Về tư cách đạo đức nghề nghiệp: Chi nhánh cần phát huy hơn nữa các phong trào nêu gương tốt tại đơn vị thông qua chính sách khen thưởng, khuyến khích thoả đáng, đồng thời điều chỉnh những hành vi không đúng của một bộ phận cán bộ. Việc tạo được một đội ngũ cán bộ vừa có năng lực, vừa có đạo đức nghề nghiệp tốt, cùng đồng sức vì sự phát triển của Ngân hàng là điều kiện đầu tiên mang lại thành công cho Ngân hàng, trong đó, có thành công trong hoạt động cho vay ngắn hạn.
Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ cũng cần tăng cường. Là một hoạt động quan trọng nhằm đảm bảo chất lượng hoạt động của Ngân hàng, công tác này trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng cho vay, trong đó có cho vay ngắn hạn. Việc kiểm tra, kiểm soát ở đây không chỉ đơn thuần là kiểm tra theo các số liệu, chỉ tiêu, mà quan trọng hơn, là kiểm tra tính tuân thủ quy chế, quy định, quy trình cho vay của các cán bộ tín dụng, đảm bảo họ làm việc theo đúng pháp luật, trên cơ sở lợi ích của ngân hàng kết hợp với lợi ích khách hàng. Việc kiểm tra này cần được coi là hoạt động tự giác, khách quan. Có như vậy, việc kiểm tra, kiểm soát mới thực sự có ý nghĩa điều chỉnh kịp thời hoạt động của Ngân hàng, trong đó có hoạt động cho vay ngắn hạn.
3.2.8. Thực hiện marketing ngân hàng hiệu quả
Trong bối cảnh nền kinh tế cạnh tranh gay gắt hiện nay, trong lĩnh vực ngân hàng, việc tìm được thế mạnh riêng bằng chất lượng hoạt động là vấn đề quan tâm của mọi ngân hàng. Xây dựng được một chính sách marketing hiệu quả, từ đó nâng cao chất lượng cho vay là cần thiết để tăng năng lực cạnh tranh cho ngân hang.
- Thành lập bộ phận nghiên cứu thị trường:
Là một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, một mục tiêu quan trọng của Ngân hàng là mở rộng thị phần, tăng thu nhập. Để thực hiện điều nay, chất lượng hoạt động cho vay phải tiếp tục được nâng cao. Ngược lại, công tác nghiên cứu thị trường, nhất là trong sự cạnh tranh gia tăng, càng tỏ ra là một nhân tố thúc đẩy hoạt động cho vay cả về quy mô và chất lượng.
Trong xu hướng ngày nay, thành lập một bộ phận nghiên cứu thị trường là cần thiết để tiếp cận tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Nghiên cứu thị trường ở đây không chỉ là nghiên cứu thị trường của Ngân hàng, mà còn là nghiên cứu thị trường của khách hàng.
+ Nghiên cứu thị trường của Ngân hàng: Bộ phận nghiên cứu thị trường sẽ nghiên cứu các nhu cầu vay vốn trên thị trường, khả năng cung cấp vốn vay và thị phần hiện có về các sản phẩm cùng loại của các ngân hàng cạnh tranh, tìm hiểu hình thức cho vay ngắn hạn nào là hiệu quả, chất lượng cho vay ngắn hạn tại ngân hàng đối thủ ra sao. Từ đó, ngân hàng có thể đưa ra những giải pháp để hoàn thiện sản phẩm cho vay ngắn hạn của mình, vừa căn cứ trên nhu cầu thị trường, vừa căn cứ trên góc độ cạnh tranh. Ngân hàng cũng có thể kịp thời loại bỏ những món cho vay nhiều rủi ro, không hiệu quả. Tất cả là nhằm đưa ra các khoản cho vay chất lượng cao.
+ Nghiên cứu thị trường của khách hàng: Việc nghiên cứu thị trường của khách hàng là cần thiết nhằm đánh giá được đúng tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng, làm căn cứ đưa ra chính sách tín dụng hợp lý.
Hiện nay, phần lớn khách hàng của SGD đều tự chủ về tài chính song việc cung cấp các thông tin tài chính của khách hàng còn chưa đầy đủ, chưa đủ độ tin cậy. Việc dự đoán triển vọng của doanh nghiệp không thể chỉ dựa trên các báo cáo tài chính mà còn phải dựa trên các thông tin về thị trường sản phẩm. Bộ phận nghiên cứu thị trường của khách hàng cần phải tìm hiểu rõ các thông tin về thị trường loại sản phẩm mà khách hàng sản xuất: số lượng các doanh nghiệp cung ứng sản phẩm, nhu cầu của thị trường về sản phẩm, phân đoạn thị trường của sản phẩm, vị trí cạnh tranh của khách hàng về giá cả, chất lượng, thị phần... Từ đó có thể đưa ra các dự đoán về khả năng thành công của khách hàng, mức độ rủi ro của dự án của khách hàng. Nghiên cứu thông tin thị trường khách hàng còn là biện pháp kiểm tra, đối chiếu với thông tin khách hàng cung cấp cho ngân hàng, từ đó, hiểu biết sâu sắc hơn về khách hàng. Có như vậy, mới có thể thực hiện cho vay có chất lượng.
- Xây dựng chính sách khách hàng hợp lý:
Tuy đã triển khai một chính sách khách hàng hợp lý, song trong thời gian tới, Chi nhánh cần củng cố hơn nữa công tác này nhằm thu hút đông đảo khách hàng sử dụng dịch vụ cũng như gửi tiền và vay tiền của ngân hàng.
Đối với khách hàng truyền thống, SGD cần duy trì và phát triển quan hệ tín dụng tốt đẹp, đặc biệt là với các doanh nghiệp lớn. Theo định hướng của Nhà nước và của NHNT Việt Nam, SGD cần hướng tới mở rộng đi kèm với nâng cao chất lượng cho vay đối với các ngành công nghiệp chế biến, thương nghiệp, các ngành sản xuất hàng xuất khẩu... Ngoài các khách hàng truyền thống, SGD cũng cần tiếp tục tìm thêm nhiều quan hệ khách hàng mới, hướng tới các khách hàng tốt, hoạt động hiệu quả. Đối với các khách hàng có khó khăn về tài chính, SGD cần phân tích, đánh giá để đáp ứng dần từ thấp đến cao, trên cơ sở vừa đảm bảo an toàn cho vay, vừa giúp đỡ doanh nghiệp, vừa tạo được những khách hàng tiềm năng gắn bó lâu dài.
Trong có cấu khách hàng, phần lớn khách hàng hiện tại của SGD là các doanh nghiệp nhà nước. Việc cơ cấu lại khách hàng theo hướng mở rộng hơn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là hướng đi đúng đắn mà SGD cần tiếp tục thực hiện. Đồng thời, cho vay, nhất là cho vay ngắn hạn của Ngân hàng mới chỉ dành phần lớn là cho vay kinh doanh, cho vay tiêu dùng chưa được chú trọng đúng mức. Nằm trong địa bàn dân cư, đối với SGD, cho vay tiêu dùng là một thị trường còn nhiều tiềm năng cần khai thác tích cực hơn. Các khoản vay này thường quản lý dễ dàng hơn các khoản vay đối với doanh nghiệp, do vậy thực hiện khoản vay có chất lượng thường dễ dàng hơn. Điều này không chỉ giúp gắn kết hình ảnh ngân hàng với dân chúng mà còn là cách thức đa dạng hoá loại hình cho vay, tăng lợi nhuận, nâng cao chất lượng cho vay.
Tóm lại, để nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn, SGD cần tiếp tục thực hiện các giải pháp cơ bản trên. SGD cần có sự nghiên cứu kỹ lưỡng về định hướng chiến lược, đưa ra các giải pháp trước mắt và giải pháp lâu dài, triển khai thật hiệu quả, phù hợp với thực tiễn, thì các giải pháp này mới có thể thực sự mang lại ý nghĩa và hiệu quả. Nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn là yêu cầu cần thiết đối với sự tồn tại và phát triển của không chỉ riêng SGD mà còn của các NHTM nói chung.
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Là một phần thuộc hệ thống NHNT Việt Nam, hoạt động của Sở giao dịch I có liên quan mật thiết tới hoạt động của toàn hệ thống. Chất lượng cho vay ngắn hạn của SGD không chỉ phụ thuộcvào các yếu tố liên quan đến bản thân SGD mà còn chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác liên quan đến cấp hệ thống. Để nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn tại SGD, chuyên đề xin được đưa ra một số kiến nghị như sau:
3.3.1. Đối với NHNT Việt Nam
- Về quy trình cho vay, trong năm 2005 (22/4/2005) đã ban hành Cẩm nang tín dụng của riêng ngân hàng Ngoại thương. Tuy vậy đây mới là phiên bản đầu tiên, còn nhiều thiếu sót và chưa cụ thể đối với các nghiệp vụ. Trong thời gian tới, NHNT cần tiếp tục nghiên cứu và ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể hơn để giúp cho quá trình cho vay được thuận tiện và chính xác hơn, giúp cán bộ ngành tín dụng nắm bắt và thực hiện đúng công việc đảm bảo chất lượng công việc.
- Về đảm bảo tiền vay, trong Cẩm nang tín dụng đã ban hành, NHNT Việt Nam đã ban hành các hướng dẫn bổ sung thực hiện bảo đảm tiền vay, trong đó, có quy định các nội dung cần thực hiện. Tuy nhiên, cần có sự hướng dẫn cụ thể hơn nữa, nhất là sự hỗ trợ về chuyên môn để thành lập Tổ thẩm dịnh tài sản đảm bảo. Trách nhiệm thẩm định tài sản hiện nay cần được xem xét lại vì có tới hai phòng có trách nhiệm là Phòng Quan hệ khách hàng và Phòng Tín dụng ngắn hạn SGD.
- Về nhân sự, NHNT Việt Nam cũng cần thực hiện tốt hơn nữa các chính sách về nhân sự: tuyển chọn, đào tạo cán bộ, khen thưởng kịp thời, rõ ràng. NHNT cần tiếp tục thường xuyên có chính sách đào tạo cán bộ qua các lớp tập huấn cấp Hệ thống, gửi cán bộ đi đào tạo chuyên sâu, nghiên cứu các nghiệp vụ mới, công nghệ ngân hàng hiện đại trên thế giới để tìm cách áp dụng ở Ngân hàng. Tuyển chọn nhân sự ngày càng trở nên quan trọng. NHNT phải có chính sách tuyển chọn đúng đắn để từng bước nâng cao trình độ đội ngũ, đưa ngân hàng vươn đến tầm cao của các hoạt động và dịch vụ chuyên nghiệp, hoàn hảo.
-Về chương trình hiện đại hoá ngân hàng, đây là chương trình mà Ngân hàng đã chủ động triển khai tích cực từ năm 2001 nằm trong đề án Tái cơ cấu NHNT, đã đưa lại những kết quả nhất định. Trong thời gian tới, NHNT Việt Nam cần tiếp tục triển khai mạnh mẽ hơn, nhanh chóng áp dụng công nghệ tiên tiến trong hoạt động của mình, đồng thời, luôn tích cực cập nhật, học hỏi công nghệ mới, tạo điều kiện áp dụng nhanh chóng các công nghệ ngày ở các ngân hàng chi nhánh.
- Về phát triển hợp tác quốc tế, NHNT Việt Nam cần đẩy mạnh hơn nữa quan hệ hợp tác quốc tế để khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn lực bên ngoài, mở rộng hoạt động kinh doanh trên thị trường tiền tệ quốc tế, từng bước tiến gần đến các tiêu chuẩn quốc tế trong hoạt động. Việc liên kết với các đối tác chiến lược là rất cần thiết trong thời điểm hiện nay.
- Về hình ảnh và văn hoá doanh nghiệp, NHNT Việt Nam đã rất chủ động, tích cực trong việc xây dựng thương hiệu NHNT. Việc củng cố, làm tôn vinh thêm thương hiệu này không chỉ trong tầm quốc gia mà còn ở tầm quốc tế có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của NHNT Việt Nam nói chung và hệ thống các chi nhánh nói riêng. Cùng với sự liên kết với những thương hiệu nổi tiếng thì tên tuổi của VCB sẽ ngày càng trở nên quen thuộc với các đối tượng khách hàng.
3.3.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước
- NHNN cần hướng dẫn việc thực hiện các Nghị quyết của NHNN, Nghị định của Chính phủ đến các NHTM một cách cụ thể, kịp thời. NHNN cũng có thể tổ chức thường xuyên các khoá tập huấn cần thiết dành cho cán bộ các NHTM.
- NHNN cần nghiên cứu, cải tiến thủ tục để các NHTM chủ động hơn trong hoạt động, chẳng hạn trong việc quyết định mức thu các loại phí dịch vụ, chủ động tổ chức cơ cấu, bổ nhiệm cán bộ sao cho phù hợp với thực tiễn ở mỗi ngân hàng.
- Cho phép các NHTM tự xây dựng chính sách lương, thưởng để khuyến khích cán bộ tín dụng làm tốt, hạn chế các tiêu cực có thể nảy sinh.
- Cùng hệ thống các NHTM, NHNN cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục để người dân hiểu biết đúng đắn về hoạt động ngân hàng, ngày càng chủ động tích cực tiếp cận NHTM. Hiểu biết đúng đắn của người dân là điều kiện cần thiết để ngân hàng có môi trường thuận lợi cho phát triển.
3.3.3. Đối với Nhà nước
- Chính phủ cần tạo lập môi trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ, chặt chẽ để người vay và người cho vay thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình.
- Chính phủ cần ổn định nền kinh tế vĩ mô, vì đây là môi trường chung của mọi hoạt động kinh tế, của bản thân ngân hàng cũng như của khách hàng vay vốn.
- Chính phủ cần tiếp tục hoàn thiện Luật Kế toán, Luật Kiểm toán nhà nước để có chuẩn mực trong công tác kế toán, kiểm toán. Đối với các NHTM, đây là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng thông tin tín dụng, ảnh hưởng tới chất lượng cho vay.
- Chính phủ cần có biện pháp giải quyết dứt điểm nợ tồn đọng trong cho vay theo Chỉ định của Chính phủ; đẩy nhanh tiến trình cơ cấu lại nợ để lành mạnh hoá tình hình tài chính. Hiện nay, các NHTM chưa đạt được tỉ lệ an toàn COOK là do có vấn chủ sở hữu quá nhỏ. Với việc phát hành thành công trái phiếu có khả năng chuyển đổi nhằm tăng vốn điều lệ, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đang có cơ hội để tiếp tục tăng vốn từ việc phát hành trái phiếu này. Do vậy, Chính phủ cần tiếp tục nghiên cứu đề án bổ sung cho các NHTM tiếp tục được tăng vốn trong điều kiện việc mở cửa thị trường ngân hàng – tài chính sắp đến.
- Ngân hàng Nhà nước và Bộ tài chính cần tiếp tục nghiên cứu nhằm thay đổi tỉ lệ phần vốn góp của cổ đông chiến lược nước ngoài vào các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam. Điều này sẽ giúp các NHTM thu hút được những cổ đông chiến lược có sức mạnh, có kinh nghiệm tổ chức quản lý để giúp các ngân hàng tiến hành hiện đại hoá ngân hàng thành công, đưa các tỉ lệ ngang tầm với các ngân hàng lớn khác trong khu vực.
KẾT LUẬN
Trước các yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, với phương châm phát huy tối đa nguồn nội lực, tín dụng ngân hàng là một giải pháp quan trọng về vốn. Sự ra đời của Thị trường chứng khoán tạo ra một kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, là một sự bổ sung tốt cho hệ thống NHTM. Tuy vậy, cho vay ngắn hạn của ngân hàng đối với khách hàng luôn giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Trong quá trình cạnh tranh và phát triển, các Ngân hàng nhận thấy chất lượng của khoản cho vay còn quan trọng hơn việc mở rộng quy mô cho vay một cách ồ ạt.
Vì vậy, nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn luôn là nội dung quan trọng hàng đầu trong chiến lược phát triển của các ngân hàng. Để nâng cao chất lượng cho vay, vai trò của bản thân Ngân hàng thương mại là quan trọng nhất, tuy nhiên vẫn không thể tách rời các bên có liên quan như khách hàng, Ngân hàng Nhà nước và môi trường kinh tế.
Luận văn đã phân tích những vấn đề lí luận cơ bản về cho vay ngắn hạn và chất lượng cho vay ngắn hạn, phân tích thực trạng hoạt động của SGD I Ngân hàng Ngoại thương trong 3 năm gần nhất, để từ đó, dưới góc độ nhà quản lý ngân hàng, đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn của NHTM. Do điểm nghiên cứu chỉ là SGD của một ngân hàng và quy mô nghiên cứu của một luận văn tốt nghiệp nên các giải pháp đưa ra mới chỉ mang tính đề xuất.
Em hy vọng rằng những nghiên cứu trên phần nào có ý nghĩa đối với SGD I NHNT Việt Nam cũng như các ngân hàng thương mại nói chung. Em tin rằng, nếu có điều kiện đi sâu nghiên cứu một vài nhóm giải pháp, thì tính thực tiễn của Luận văn sẽ lớn hơn nhiều.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28546.doc