Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu phát triển làng nghề truyền thống Lụa tơ tằm Vạn Phúc - Hà Đông

I. Mở đầu 1.1.Tính cấp thiết của đề tài. Thực trạng dư thừa lao động và thiếu việc làm ở nông thôn đang là một trong những lực cản chính trong sự nghiệp xoá đói giảm nghèo, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí và là nguyên nhân sâu xa phát sinh các vấn đề tiêu cực. Để giải quyết vấn đề này một nội dung quan trọng phải nói đến đó là khôi phục, phát triển làng nghề truyền thống. Bởi vì, khôi phục và phát triển ngành nghề truyền thống sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm, thu hút lao động dư thừa tr

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1543 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu phát triển làng nghề truyền thống Lụa tơ tằm Vạn Phúc - Hà Đông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ong nông nghiệp, trên địa bàn nông thôn, tránh được luồng di cư ồ ạt từ nông thôn vào thành phố, góp phần thực hiện chiến lược kinh tế mở, đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu, tránh xa các tệ nạn xã hội... Nhìn vào thực trạng phát triển ngành nghề hiện nay của nước ta, chúng ta có thể thấy có một số ngành nghề đã rất phát triển, đem lại thu nhập cao cho người lao động (chủ yếu là những người nông dân) nhưng bên cạnh đó cũng không ít những ngành nghề đã dần bị mai một. Giải pháp cho vấn đề này, đó là chúng ta phải xây dựng một số làng nghề mới và phát triển làng nghề truyền thống, đặc biệt là phải chú trọng tới các làng nghề truyền thống. Vì những làng nghề truyền thống này đã có đầy đủ những điều kiện để phát triển như tay nghề lao động cao, có kinh nghiệm lâu năm truyền từ đời nay sang đời khác, đã có những công nghệ cơ bản cho sản xuất…Mà những làng nghề mới không có được, có chăng cũng chỉ rất ít. Mặt khác, khi kinh tế xã hội ngày càng phát triển, thu nhập của người dân ngày càng khấm khá thì nhu cầu sống của người dân không chỉ là ăn đủ mặc đủ, mà "ăn ngon mặc đẹp" đã trở thành nếp sống mới. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao này, thì đòi hỏi các loại hình sản xuất kinh doanh phải nhanh nhạy nắm bắt, thích nghi thì mới có thể tồn tại được. Đây vừa là điều kiện thuận lợi vừa là điều kiện khó khăn đối với tất cả các loại hình sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các làng nghề truyền thống. Do các làng nghề truyền thống này sản xuất chủ yếu các sản phẩm mang tính cổ truyền ít mang tính hiện đại, cho nên thường không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, nếu các sản phẩm này được các nghệ nhân tạo ra là sản phẩm kết hợp giữa tính truyền thống và hiện đại thì lại được rất nhiều người ưa chuộng. Nắm bắt quy luật phát triển này, biết dựa trên những tiềm năng sẵn có từ lâu, cùng với sự chỉ đạo của các cấp một cách kịp thời, làng nghề truyền thống Vạn Phúc- Hà Đông trong những năm qua kết quả sản xuất, kinh doanh Lụa tơ tằm của họ đã có sự khởi sắc rất rõ nét như: sản phẩm của làng đã nhận được nhiều giải cao về hàng chất lượng cao, mẫu mã đẹp ở trong và ngoài nước; khối lượng xuất khẩu Lụa tơ tằm ngày càng tăng: năm 1990 đạt 220 ngàn mét, năm 1992 đạt 280 ngàn mét, năm 1998 đã đưa lên 600-650 ngàn mét nhưng vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu của thị trường...nhưng bên cạnh những cái đạt được, làng còn có một số vấn đề cần khắc phục như lượng nước thải ra trong quá trình sản xuất chưa được xử lý kịp thời, làng có thị trường tiềm năng lớn chưa phát huy hết...Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải làm gì để khai thác hết tiềm năng dồi dào của làng nghề truyền thống Lụa tơ tằm nơi đây, để có thể tồn tại và có thể cạnh tranh với các sản phẩm tương tự trong nước và nước ngoài?. Nhằm giải quyết một cách tốt nhất vấn đề thiếu công ăn việc làm của người lao động trong làng, tăng thêm thu nhập cho hộ gia đình trong làng, bên cạnh đó có khoản đầu tư thích đáng cho xử lý nước thải. Trước thực tế đặt ra đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu phát triển làng nghề truyền thống Lụa tơ tằm Vạn Phúc - Hà Đông" 1.2. Mục tiêu nghiên cứu. 1.2.1. Mục tiêu chung. Qua nghiên cứu đề tài này chúng tôi mong muốn tìm hiểu thực trạng phát triển làng nghề truyền thống Lụa tơ tằm Vạn Phúc, từ đó thấy được những vấn đề còn hạn chế, nguyên nhân của vấn đề đó và tìm ra những giải pháp. Cụ thể: - Hệ thống hoá cơ sở lý luận làng nghề truyền thống, vị trí, vai trò của làng nghề truyền thống đối với sự phát triển kinh tế xã hội của làng. - Tìm hiểu thực trạng phát triển làng nghề truyền thống Lụa tơ tằm Vạn Phúc trong những năm gần đây và những vấn đề còn tồn tại cần khắc phục, nguyên nhân của vấn đề đó. - Bước đầu đưa ra những phương hướng giải pháp nhằm phát triển mạnh mẽ hơn nữa làng nghề làng nghề truyền thống Lụa tơ tằm Vạn Phúc. 1.2.2. Mục tiêu cụ thể. Từ những mục tiêu chung trên, khi tìm hiểu thực trạng và giải pháp phát triển làng nghề chúng tôi hy vọng rằng sẽ đưa ra những giải pháp nhằm góp phần: + Tăng thu nhập cho các loại hình sản xuất. + Tăng khối lượng công việc, giải quyết tốt nhất nhu cầu lao động của những người lao dộng. + Tăng đầu tư cho việc xử lý nước thải do sản xuất thải ra. + Tạo cho nơi đây không chỉ là trung tâm buôn bán các sản phẩm Lụa tơ tằm mà còn là nơi thu hút được nhiều khách thăm quan, tạo ra nguồn thu mới, góp phần phát triển kinh tế của làng… 1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 1.3.1. Đối tượng nghiên cứu. Các hình thức tổ chức sản xuất Lụa tơ tằm của làng Vạn Phúc - Hà Đông. 1.3.2. Phạm vi nghiên cứu. 1.3.2.1. Phạm vi về nội dung. Tìm hiểu thực trạng và giải pháp phát triển làng nghề truyền thống Lụa tơ tằm Vạn Phúc - Hà Đông. 1.3.2.2. Pham vi về không gian. Tại làng Vạn Phúc- Hà Đông- Tỉnh Hà Tây. 1.3.23. Phạm vi về thời gian. - Thời gian nghiên cứu : Từ năm 2001-2003. - Thời gian thực tập : Từ 12 - 1 -2004 đến 6- 2004. II . Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài. 2.1. Cơ sở lý luận. 2.1.1. Một số khái niệm có liên quan. 2.1.1.1. Khái niệm làng nghề. Làng nghề là một cụm dân cư sinh sống trong một thôn (làng) có một số nghề được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh độc lập. Có số hộ từ 35% trở lên trong làng tham gia hoạt động sản xuất trong các ngành nghề, thu nhập của họ từ các ngành nghề này chiếm trên 50% tổng thu nhập của họ và thu nhập từ các nghề đó chiếm tỷ trọng trên 50% trong tổng giá trị sản phẩm của toàn làng. Chính vì thế, làng nghề thường có đặc điểm chung như sau: - Là nơi quy tụ nhiều nghệ nhân và hộ gia đình chuyên tâm làm nghề lâu đời ... - Tên gọi của làng nghề thường kèm với tên của các nghề thủ công như: gốm sứ, đúc đồng ... - Có tỉ trọng lao động hay số hộ làm ở nghề nào đó so với toàn bộ lao động và hộ ở làng từ 35% trở lên hay tỉ trọng thu nhập từ ngành nghề đó so với tổng thu nhập của thôn trên 50%. 2.1.1.2. Khái niệm ngành nghề truyền thống. Ngành nghề truyền thống là những ngành nghề tiểu thủ công nghiệp đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử phát triển kinh tế nước ta (có tuổi đời trên 100 năm), còn tồn tại đến ngày nay, bao gồm cả ngành nghề mà phương pháp sản xuất được cải tiến hoặc sử dụng máy móc hiện đại để hỗ trợ cho sản xuất, nhưng vẫn tuân thủ công nghệ truyền thống. Vì thế, những ngành nghề được gọi là ngành nghề thủ công truyền thống thường phải có yếu tố sau: - Đã hình thành, tồn tại và phát triển từ lâu đời ở nước ta (có tuổi đời trên 100 năm). - Sản xuất tập trung tài hoa và đội ngũ thợ lành nghề đông đảo. - Kỹ thuật và công nghệ khá ổn định của dân tộc Việt. - Sử dụng nguyên liệu tại chỗ, trong nước là chủ yếu. - Sản phẩm mang tính truyền thống và độc đáo của Việt Nam, có giá trị và chất lượng cao, vừa là hàng hoá, vừa là sản phẩm văn hoá, nghệ thuật, thậm chí trở thành các di sản văn hoá Việt Nam. - Là nghề nghiệp nuôi sống bộ phận dân của cộng đồng, đóng góp đáng kể vào ngân sách của Nhà nước (2). 2.1.1.3. Khái niệm làng nghề truyền thống. Làng nghề truyền thống là làng có chứa đựng cả hai khái niệm trên, đó là những thôn (làng) có một hay nhiều nghề thủ công truyền thống được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh và đem lại nguồn thu nhập chiếm phần chủ yếu (trên 50%) trong năm. Những nghề thủ công đó được truyền từ đời này qua đời khác (có tuổi đời trên 100 năm) và các nghề này hết sức tinh xảo, với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp (bằng 1/3 tổng số hộ hay lao động cùng làm một nghề truyền thống) đã chuyên tâm sản xuất, có quy trình công nghệ nhất định và sống chủ yếu bằng nghề đó. Sản phẩm làm ra có tính mỹ nghệ, được nhiều người biết đến và đã trở thành hàng hoá trên thị trường. Cụ thể là: - Sản xuất có quy trình công nghệ nhất định, được truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác (có tuổi đời trên 100 năm). - Số hộ và số lao động làm một nghề truyền thống ở làng nghề đạt trên 1/3 so với tổng số hộ và lao động của làng trở lên. - Giá trị sản xuất và thu nhập từ ngành nghề truyền thống ở làng đạt trên 50% tổng giá trị sản xuất và thu nhập của làng trong năm. Sản phẩm làm ra có tính mỹ nghệ mang đậm nét yếu tố văn hoá và bản sắc dân tộc Việt Nam và được nhiều người biết đến. 2.1.1.4. Khái niệm phát triển làng nghề truyền thống. * Khái niệm phát triển . Phát triển có thể hiểu là một quá trình tăng lên cả về lượng lẫn về chất trong một thời kỳ nhất định, hay chính là bao gồm cả sự tăng lên về quy mô, sản lượng và sự tiến bộ về cả cơ cấu kinh tế xã hội (3). Với sự phát triển làng nghề truyền thống thì được hiểu là sự tăng lên về quy mô của các loại hình tham gia sản xuất ngành nghề truyền thống, sự tăng lên về số lượng các cơ sở sản xuất, các hộ sản xuất nghề, đồng thời là sự tăng lên về giá trị sản lượng, về thu nhập của người lao động, sự tăng lên về thu nhập của địa phương cũng như sự tăng lên tổng thu nhập của các cơ sở và hộ sản xuất ngành nghề truyền thống. Hay cũng chính là sự thay đổi về GDP của địa phương theo hướng tiến bộ là tăng dần tỷ trọng CN và DV, và cũng được biểu hiện thông qua sự tăng trưởng kinh tế của địa phương 2.1.2. Đặc điểm chung về làng nghề truyền thống. Làng nghề truyền thống ở nước ta có lịch sử lâu đời, phát triển đa dạng và phong phú và thể hiện ở đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, làng nghề truyền thống phát triển đa dang về quy mô, cơ cấu ngành nghề và gắn chặt với sản xuất nông nghiệp. - Về cơ cấu, đã có sự thay đổi thích ứng với cơ chế thị trường. Khi nền kinh tế phát triển, thì nhu cầu tiêu dùng một số sản phẩm của một số nghề thủ công cũng có sự thay đổi nhất định, điển hình là mẫu mã sản xuất, những mẫu mã mang đậm nét truyền thống không thể tồn tại được, thay vào đó là những mẫu mã vừa mang nét truyền thống nhưng cũng mang những nét của hiện đại …Chính vì thế, cơ cấu ngành nghề đã có sự thay đổi, những ngành nghề sản xuất ra sản phẩm đáp ứng thị hiếu tiêu dùng thì có xu hướng phát triển, những ngành nghề không theo kịp thị dần bị mai một. Cho nên, cơ cấu ngành nghề đã có thay đổi thích ứng với cơ chế thị trường. - Về quy mô, đại bộ phận các cơ sở sản xuất kinh doanh trong làng nghề truyền thống có quy mô nhỏ, các hình thức tổ chức của các đơn vị sản xuất cũng mang đậm sắc thái nông nghiệp, nông thôn như các hộ, tổ hợp tác, hợp tác xã... ngày nay, thì đã có xuất hiện các hình thức tổ chức mới như công ty, các doang nghiệp…Do nhu cầu thị trường đã xuất hiện những ngành nghề mới như chế biến nông sản, thực phẩm… - Về trình độ kĩ thuật công nghệ đã có sự đan xen giữa yếu tố truyền thống và yếu tố hiện đại trên cơ sở tận dụng tiềm năng và lợi thế lao động của mỗi địa phương, đồng thời kết hợp tay nghề cao với công cụ cơ giới hoá, hiện đại hoá và áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất. Thứ hai, sản phẩm của các làng nghề truyền thống mang đậm tính đơn chiếc, có tính mỹ thuật cao và mỗi sản phẩm là một tác phẩm nghệ thuật. Vì vậy, quá trình sản xuất tuân theo những công nghệ truyền thống và thường nhạy bén với thị trường trong việc đổi mới mẫu mã, chất lượng và có điều kiện linh hoạt thay đổi hướng sản xuất. Nhơ bám sát thị trường, am hiểu thị hiếu nên các mặt hàng của làng nghề truyền thống được cải tiến nhanh chóng và đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng. Đây là nét nổi trội mang tính cách tân của làng nghề truyền thống. Thứ ba, làng nghề truyền thống có khả năng giải quyết tốt việc làm cho người lao động, lao động trong làng nghề thường có trình độ kỹ thuật cao, tay nghề tinh xảo, khéo léo, có đầu óc thẩm mỹ và đầy tính sáng tạo. Nhất là những làng nghề lâu đời như Gốm sứ Bát Tràng, nghề trạm khảm trai Chuyên Mỹ (Hà Tây)…. Một đặc điểm nổi bật ở đây, lao động ở những làng nghề truyền thống chủ yếu là lao động hộ gia đình, chỉ có một số ít là từ nơi khác tới. Ngoài ra, do làng nghề truyền thống có lao động với trình độ kỹ thuật cao, tay nghề giỏi,…sản phẩm do họ làm ra dễ được chấp nhận, cho nên quy mô sản xuất ngày càng được mở rộng, giải quyết thêm số lao động dư thừa. Thứ tư, về hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh của làng nghề truyền thống theo các giai đoạn khác nhau. Trong thời kì tập chung quan liêu bao cấp, làng nghề truyền thống thường được gọi là "Đội nghành nghề" của hợp tác xã, nơi có đông người thì thành lập HTX. Từ khi bước vào cơ chế mới, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi đa dạng hoá các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, thì quy mô sản xuất trở về với mô hình truyền thống là hộ gia đình, bên cạnh sự xuất hiện các doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần…Còn ngày nay, trong quá trình đi lên sản xuất cơ giới hoá, kế thừa và phát huy kinh nghiệm chuyển lên trình độ HTX tiểu thủ công nghiệp, các hộ sản xuất kinh doanh trong làng nghề vẫn tiếp tục đẩy mạnh, đẩy nhanh trang thiết bị cơ sở vật chất cho sản xuất như dệt lụa Vạn Phúc (Hà Tây). Thứ năm, làng nghề truyền thống là một sự kết tinh giá trị văn hóa, văn minh lâu đời của dân tộc. Đặc điểm này được thể hiện trong các sản phẩm của các làng nghề truyền thống, những sản phẩm mang đậm nét văn hoá dân tộc như trống đồng Ngọc Lũ, những nét văn hoa trên những bộ áo dài duyên dáng của người con gái Việt Nam… 2.1.3. Vai trò và ý nghĩa của việc phát triển làng nghề truyền thống. Thứ nhất, làng nghề truyền thống đã tạo ra một khối lượng hàng hoá đa dạng phục vụ cho tiêu dùng và cho xuất khẩu. Phát triển làng nghề truyền thống là giải pháp hết sức quan trọng nhằm phát huy tối đa nguồn nhân lực sẵn có ở nông thôn như: tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhiên liệu, phế phẩm của nông nghiệp được huy động vào quá trình sản xuất kinh doanh, cũng như khai thác có hiệu quả nguồn vốn trong nhân dân, cơ sở vật chất kỹ thụât và những kỹ năng, kỹ xảo của người lao động. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh sản xuất nhằm tạo ra ngày càng nhiều hàng hoá có chất lượng tốt, phục vụ đắc lực cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Tuy khối lượng hàng hoá do làng nghề truyền thống làm ra còn nhỏ bé, nhưng nó đã góp phần đáng kể vào việc thúc đẩy kinh tế hàng hoá ở nông thôn phát triển. Hiện nay, sản xuất của làng nghề truyền thống phát triển theo hướng chuyên môn hoá, đa dạng hoá sản phẩm đã làm cho các làng nghề năng động hơn. Trong khi chưa có điều kiện để phát triển kinh tế trang trại thì việc làng nghề truyền thống đẩy mạnh sản xuất những mặt hàng may mặc, gốm sứ, đồ gỗ mỹ nghệ,…phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu là rất quan trọng.Và quan trọng hơn cả là thời gian qua ở làng nghề truyền thống đã có hàng trăm hộ nông dân chuyển sang phát triển ngành nghề truyền thống hoặc vừa sản xuất nông nghiệp, vừa sản xuất làm ngành nghề. Vì thế, đã tăng cường cơ sở vật chất cho kinh tế nông thôn. Thứ hai, phát triển làng nghề truyền thống là biện pháp hữu hiệu giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn. Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã có nhiều biện pháp để giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn như: đưa dân đi xây dựng vùng kinh tế mới, thâm canh tăng vụ… Những biện pháp này ít nhiều đã có tác động tích cực giải quyết một phần công ăn viẹc làm cho người lao động ở nông thôn. Song sản xuất nông nghiệp, bản thân nó không thể có khả năng giải quyết số lao động ở nông thôn. Cho nên, trong điều kiện đất đai canh tác ít, nguồn vốn hạn hẹp, lao động dư thừa, việc tìm ra biện pháp hữu hiệu để giải quyết việc làm cho người lao động là đòi hỏi hết sức cấp bách có ý nghĩa cấp bách có ý nghĩa chính trị, xã hội to lớn hiện nay. Sự phát triển của làng nghề truyền thống ở nông thôn đã không chỉ thu hút klao động ở gia đình, làng xã mình mà còn thu hút lao động từ các địa phương khác đến làm thuê. Chính vì thế, sự phát triển làng nghề truyền thống được coi là biện pháp hữu hiệu để giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn. Thứ ba, phát triển làng nghề truyền thống góp phần gia tăng thu nhập, cải thiện đời sống dân cư ở nông thôn và tăng tích luỹ. Qua thực tế có thể cho thấy, không ít làng nghề truyền thống còn tồn tại đến ngày nay có nền kinh tế khá phát triển, thu nhập bình quân đầu người trong làng khoảng trên 400 nghìn đồng/ 1tháng như làng gốm sứ bát tràng là 570.000 đồng, như làng lụa tơ tằm Vạn Phúc xấp xỉ 70% hộ khá giầu…Kết quả này một phần cho thấy, làng nghề truyền thống đã đem lại thu nhập cao cho nguời nông dân hơn là việc chỉ đơn thuần làm nông nghiệp. Do: Thứ nhất, làng nghề thủ công truyền thống thường đa số sản xuất thủ công, chính vì thế, họ có thể tranh thủ vừa làm công việc chính như sản xuất nông nghiệp vừa có thể tham gia sản xuất các sản phẩm thủ công truyền thống của làng mình, có thêm thu nhập, cải thiện đời sống. Thứ hai, làng nghề thủ công truyền thống phát huy được những kinh nghiêm quý đã được đúc kết từ lâu của cha ông, lại tận dụng được các trang thiết có sẵn từ các thế hệ trước, thì tại sao chúng ta lại không sản xuất để lắm các thuận lợi này trong khi làm các nghề khác đối với làng này không có?. Chính vì thế, làng nghề thủ công truyền thống là việc phát huy các thế mạnh sẵn có để tăng thu nhập cho người dân, giải quyết được nhiều việc làm cho người ở độ tuổi lao động trong độ tuổi lao động trong làng. Từ đó có khả năng tăng tích luỹ, đầu tư lớn mở rộng sản xuất. Thứ ba, phát triển làng nghề truyền thống, đưa làng nghề trở thành làng văn hoá. Qua đó, chúng ta có chúng ta có thể khai thác phát triển thành điểm du lịch văn hoá cho khách thập phương và nước ngoài, không chỉ khuyến khích việc tiêu thụ các sản phẩm, mà còn khuyến khích các ngành nghề khác phát triển như dịch vụ …Từ đó, có thể tạo ra nhiều công ăn việc làm hơn, tạo điều kiện tăng thu nhập cho các hộ trong làng, khả năng tích luỹ cao. Thứ tư, phát triển làng nghề truyền thống sẽ chuẩn bị đội ngũ lao động có khả năng thích ứng với lĩnh vực công nghiệp. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn đã tác động rất lớn đến sự phát triển làng nghề truyền thống. Đây là nhân tố thúc đẩy việc huy động các nguồn lực trong nhân dân để đưa vào sản xuất kinh doanh làm cho nền kinh tế ở nông thôn tăng trưởng mạnh mẽ, tạo điều kiện để phát huy cơ sở vật chất kỹ thuật, phục vụ đời sống dân cư nông thôn. Khi làng nghề truyền thống ở nông thôn phát triển mạnh, nó sẽ tạo ra một đội ngũ lao động có tay nghề cao và lớp nghệ nhân mới. Chính thông qua lực lượng này để tiếp thu những tiến bộ kỹ thuật và công nghệ tiên tiến áp dụng vào sản xuất, làm cho sản phẩm có chất lượng cao, giá thành giảm, khả năng cạnh tranh trên thị trường lớn. Khi làng nghề truyền thống phát triển mạnh mẽ, thì cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường và hiện đại, chính là tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ lao động thích ứng với tác phong công nghiệp, nâng cao tính tổ chức, tính kỷ luật. Qua đó, trình độ người lao động ngày càng nâng cao, lại là cơ sở thuận lợi đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào lĩnh vực sản xuất và hoạt động dịch vụ trong làng nghề. Thứ năm, phát triển làng nghề truyền thống tạo điều kiện phân bố lại và sử dụng hợp lý lao động. Bởi, phát triển làng nghề truyền thống tạo cho người lao động có thu nhập cao hơn. Từ đó sẽ thu hút lao động chuyển sang làm các ngành nghề thủ công truyền thống hoặc làm các nghề có liên quan khác như thương mại, dịch vụ…Khi đó, lao động nông nghiệp sẽ giảm và lao động trong các ngành phi nông nghiệp sẽ tăng, tạo điều ra động lực cho quá trình phân công lại lao động theo hướng CNH- HĐH. Qua đó, phát triển làng nghề truyền thống cũng góp phần chuyển dịch lao cơ cấu động và cơ cấu kinh tế NNNT theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp tăng dần tỷ trọng Công Nghiệp và Dịch Vụ. Thứ sáu, phát triển làng nghề truyền thống góp phần gìn giữ bản sắc văn hoá dân tộc. Chính các sản phẩm làng nghề truyền thống làm ra là sự kết tinh, sự giao lưu và phát triển các giá trị văn hoá, văn minh lâu đời của dân tộc. Cho nên, người nước ngoài biết đến Việt Nam cũng chính thông qua các mặt hàng thủ công truyền thống. Các sản phẩm đó mang lại những nét đặc sắc riêng biệt nhưng cũng mang lại những nét tương đồng với các dân tộc khác trên thế giới. Trong quá trình công nghiệp hoá ý thức bảo tồn nghề thủ công truyền thống không được coi trọng nữa, thì những nét văn hoá độc đáo đó sẽ bị mai một. Cho nên, việc duy trì ngành nghề truyền thống, bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc là rất cần thiết vì: các sản phẩm thủ công truyền thống có giá trị trường tồn đặc biệt, nó mang trong mình bản sắc văn hoá dân tộc mà các dân tộc khác không có được. Mặt khác, các sản phẩm thủ công truyền thống là bức thông điệp bền vững của dân tộc được lưu truyền cho thế hệ sau. 2.1.4. Quy trình công nghệ dệt. Dệt lụa bao gồm nhiều bước, cũng gọi các công đoạng hay các khâu công việc: - Khâu tơ - KHâu hồ sợi - Khâu dệt - Khâu nhuộm Mỗi khâu sản xuất ấy đều phải tiến hành theo những quy định khá nghiêm ngặt. Ngay từ khâu tơ, người thợ không chỉ quấn sợi vào ống đơn thuần như quay sợi để dệt vải (sợi bông, sợi gai…). Tơ lụa đòi hỏi phải chọn sợi, đẽo sợi, mắc sợi, để lựa chọn riêng sợi dọc, sợi ngang. Công việc tỷ mỷ, công phu nên các cụ xưa có câu: Quay tơ ra mắt, ra mành, Mắt thì mắc dọc, màng thì dệt ngang. Mốt soi thì đẹt đầu hàng, Mốt cục thì đánh go ngang cho bền. Sau đó, sợi tơ phải đem hồ. Việc hồ sợi chỉ thực hiện đối với sợi dọc. Kỹ thuật hồ sợi đòi hỏi rất cao. Cả tỉnh Hà Tây, xưa và nay chưa làng dệt nào hồ sợi giỏi bằng làng Vạn Phúc. ở đây người ta pha thêm sáp ong vào hồ để hồ sợi, đồng thời sử dụng bí quyết gia truyền làm cho sợi hò vừa dẻo dai, vừa bóng. Nhưng do nhu cầu của thị hiếu người tiêu dùng trong những năm qua, họ thích các sản phẩm lụa tơ tằm nhưng lại muốn sản phẩm ở giá rẻ, không nhăn, bóng sợi… thì như Vạn Phúc lại bỏ qua khâu hồ sợi này, chỉ có một số nhà sản xuất các sản phẩm lụa cao cấp. Vì chi phí cho khâu này khá cao, không thể tự các hộ gia đình có thể làm nếu như không có kinh nghiệm lâu năm. Tiếp theo người ta lấy các sản phẩm đã qua hai khâu trên về để dệt. Trước kia, khung cửi dệt cổ truyền, người ta chỉ có thể dệt một trong hai loại,dệt hoa và dệt trơn. Nhưng ngày nay, thì việc dệt hoa hay dệt trơn chỉ cần thay đổi một số chi tiết trong máy thì có thể dệt được lụa mà người sản xuất mong muốn. Cũng khác với các máy cổ truyền, thì máy cải tiến ngày nay có thể dệt lụa hoa với một người một máy, khong như ngày trước hai người một máy, một người dệt còn một người cài hoa (kéo hoa). Dệt xong, chúng ta mới chỉ được tấm lĩnh mộc, cho nên chúng ta tiếp tục chuội trắng, nhuộm màu. Lúc này chúng ta mới có một tấm vải lụa mềm mại, bóng mịn, nhiều màu như chúng ta mong muốn. Nhưng chúng ta chú yư đối với khâu cuối cùng này, không phải loại lụa nào cũng ăn màu, không loại màu nhuộm nào cũng có thể nhuộm. Vì thế, các hộ gia đình kiêm khâu này đều là những gia đình có kinh nghiệm rất lâu năm, có con mắt rất tinh đời. 2.2. Cơ sở thực tiễn. 2.2.1. Thực trạng phát triển làng nghề truyền thống của một số nước trên thế giới. Thực trạng phát triển làng nghề truyền thống của các nước khác nhau, tuỳ theo từng giai đoạn thì phát triển khác nhau. Nước ta là một nước giàu truyền thống văn hoá, các sản phẩm từ làng nghề truyền thống cũng rất phong phú và đa dạng. Nhưng trước những thay đổi của thế giới, đại đa số các sản phẩm của chúng ta chưa đáp ứng được với nhu cầu đó, trong khi một số nước, các sản phẩm thủ công truyền thống của họ lại ngày càng phát triển (họ cũng có điều kiện về tự nhiên, về vị trí địa lý). Chính vì thế, việc tìm hiểu thực trạng phát triển các làng nghề truyền thống có cùng nhiều điều kiện như nước ta là hết sức cần thiết. Vì, một mặt chúng ta học hỏi được nhiều kinh nghiệm trong sản xuất, một mặt rút ra được những khó khăn trước mắt để kịp thời sửa chữa và dưa ra được những giải pháp tối ưu nhất. Cụ thể như sau: 2.2.1.1. Phát triển làng nghề truyền thống ở Nhật Bản. Nhật Bản là một nước giàu truyền thống và là một nước có cùng dòng máu da vàng như chúng ta. Tuy công nghiệp hoá diễn ra nhanh và mạnh song làng nghề vẫn tồn tại, các nghề thủ công truyền thống vẫn phát triển. Họ không những duy trì và phát triển các ngành nghề cổ truyền mà còn mở ra một số nghề mới. Đồng thời Nhật Bản rất chú trọng đến việc hình thành các xí nghiệp vừa và nhỏ ở thị trấn, thị tứ làm vệ tinh cho các xí nghiệp lớn ở đô thị. Ngành nghề tiểu thủ công truyền thống của họ bao gồm: Chế biến lương thực, thực phẩm, đan nát, dệt chiếu, dệt lụa…Đầu thế kỷ XX, Nhật Bản có 867 nghề thủ công truyền thống vẫn còn hoạt động. Năm 1992 đã có 2640 lượt người của 62 nước trong đó có Trung Quốc, Anh, Pháp… tới thăm các làng nghề truyền thống của Nhật. Trong đó đáng chú ý, vào những năm 70 ở tỉnh Ôita ( miền Tây nam Nhật Bản )đã có phong trào” mỗi thôn làng một sản phẩm “ nhằm phát triển làng nghề cổ truyền trong nông thôn, do đích thân ông tỉnh trưởng phát động và tổ chức. Kết quả cho thấy, ngay những năm đầu tiên họ đã sản xuất được 143 loại sản phẩm, thu được 1,2 tỷ USD trong đó 114 triệu USD thu từ bán các mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Phong trào” mỗi thôn làng một sản phẩm “ đã nhanh chóng lan rộng khắp nước Nhật. Đi đôi với với việc phát triển ngành nghề cổ truyền, Nhật Bản còn nghiên cứu các chủ trương chính sách, ban hành các luật lệ, thành lập nhiều văn phòng cố vấn khác. Nhờ đó các hoạt động phi nông nghiệp được phát triển mạnh mẽ; thu nhập ngoài nông nghiệp chiếm 85% tổng thu nhập của hộ. Năm 1993 nghề thủ công và làng nghề đã đạt giá trị sản lượng tới 8,1 tỷ USD. 2.2.1.2. Phát triển làng nghề truyền thống ở Trung Quốc. Trung Quốc là một nước liền kề với chúng ta, cũng có nghề thủ công truyền thống nổi tiếng như đồ gốm sứ, dệt vải, dệt tơ lụa, nghề giấy…Đầu thế kỷ XX, Trung Quốc có khoảng 10 triệu thợ thủ công, làm việc trong các hộ gia đình, trong phường nghề và làng nghề. Đến 1954 số người làm nghề tiểu thủ công nghiệp được tổ chức vào HTX . Sau này pháp triển thành xí nghiệp Hương Trấn va cho đến nay vẫn còn tồn tại ở một số địa phương. Xí nghiệp Hương Trấn là tên gọi chung của các xí nghiệp công, thương, xây dựng,… hoạt động ở khu vực nông thôn. Nó bắt đầu xuất hiện vào năm 1978 khi Trung Quốc thực hiện chính sách mở cửa. Xí nghiệp Hương Trấn phát triển mạnh mẽ đã góp phần đáng kể vào việc thay đổi bộ mặt nông thôn. Những năm 80, các xí nghiệp cá thể và làng nghề phát triển nhanh, đóng góp tích cực trong việc tạo ra 60% giá trị sản lượng công nghiệp nông thôn và trong số 32% sản lượng công nghiệp nông thôn do các xí nghiệp cá thể tạo ra có phần đóng góp đáng kể từ làng nghề. 2.2.1.3. Phát triển làng nghề truyền thống ở philippin. Philippin là một nước thuộc vùng Đông Nam á như chúng ta, ngay từ đầu chính phủ của họ đã quan tâm đến công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn trên cơ sở phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nông thôn. Từ những năm 1978-1982, Chính phủ đã đề ra chương trình và dự án phát triển công nghiệp nông thôn, mà trước hết tập trung vào ngành nghề tiểu thủ công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng đơn giản, chế biến thực phẩm và chế tạo công nghiệp. Chương trình của Chính phủ chủ yếu tập trung giúp tiểu thủ công nghiệp về tài chính, công nghệ và tiếp thị. Cụ thể là miễn thuế cho các xí nghiệp có quy mô dưới 20 lao động và ưu tiên vốn tín dụng với lãi suất thấp cho xí nghiệp nhỏ để hỗ trợ chuyển giao kỹ thuật công nghệ và thông tin thị trường giá cả. Đến năm 1993 kim ngạch xuất khẩu sản phẩm rất lớn như sản phẩm nước dừa tinh khiết NATA đạt được 14 triệu USD trong đó 85% xuất khẩu sang Nhật Bản. 2.2.2. Thực trạng phát triển làng nghề truyền thống ở Việt Nam. Cũng như cũng nước khác trên thế giới, trải qua các giai đoạn, ngành nghề truyền thống của chúng ta cũng có những bước thăng trầm khác nhau. Để có những bước phát triển tiếp theo, chúng ta không thể làm theo những nước phát triển đi trước mặc dù có một số đặc điểm giống chúng ta, mà chúng ta phải nhìn vào cả thực tế của nước ta đã và đang tồn tại. 2.2.2.1. Sơ lược quá trình phát triển sản xuất trong các làng nghề truyền thống ở nước ta trước cách mạng tháng 8-1945. Thời kỳ này, ngành nghề truyền thống tương đối phát triển, ngoài một số ngành nghề cũ trước kia, đã xuất hiện thêm một số ngành nghề mới nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội và tiêu dùng lúc bấy giờ. Sản phẩm của các làng nghề ở nước ta không những chỉ dược tiêu dùng trong nước mà còn được đưa sang Pháp và một số nước trên thế giới như Anh … Từ những năm 1930, Thực dân Pháp đã chú trọng đầu tư phát triển sản xuất trong các làng nghề, nhằm khai thác vơ vét của nước ta và ngăn cản sự di dân ra thành phố làm công nghiệp và cách mạng vô sản. Giai đoạn 1935-1945, Thực dân Pháp đã đưa ra một số chính sách đầu tư đào tạo thợ học nghề, quảng cáo sản phẩm, ban cấp phẩm, tặng bội tinh cao quý cho những thợ có tay nghề giỏi, tiêu thụ sản phẩm cho người sản xuất. Với biện pháp như vậy, thời kỳ này các ngành nghề truyền thống phát triển mạnh mẽ. Theo tài liệu của học giả Pháp, năm 1935 ở nước ta đã có tới 108 nghề thủ công khác nhau, đến năm 1943 các nghề thủ công nghiệp ở các địa phương đã thu hút 277.400 thợ vào làm việc và giá trị sản lượng tiểu thủ công nghiệp đạt tới 45 triệu đồng (tiền đông Dương). 2.2.2.2. Thời kỳ trước đổi mới (1986). * Sự biến dộng ngành nghề trong các làng nghề truyền thống. Trước ngày miền Bắc nước ta được giải phóng, quan hệ sản xuất trong nghề truyền thống là quan hệ sản xuất tiểu chủ. Từ năm 1957, chúng ta tiến hành cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, xây dựng quan hệ sản xuất mới, chúng ta bắt đầu đẩy mạnh xây dựng các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp, nông lâm trường…đồng thời cũng xây dựng các xí nghiệp, thành lập các HTX và tổ hợp làm nghề truyền thông mà trước hết ở địa phương (làng, xã) có nghề thủ công truyền thống phát triển. Khi công nghiệp chưa được phát triển thì phần lớn các loại sản phẩm tiêu dùng trong dân chủ yếu là sản phẩm của nghề thủ công. Sự phát triển của hàng loạt các xí nghiệp công nghiệp nhỏ như: Dệt, nhuộm, mía đường…đã làm cho nhiều nghề chuyên sản xuất các mặt hàng đó không cạnh tranh nổi, do vậy nhiều làng nghề không thể phát triển được, thợ thủ công trong các làng nghề phải chuyển sang làm nông nghịêp và những nghề khác. Sự phát triển của công nghiệp đã tác động vào một số nghề làm cho quá trình sản xuất của các làng nghề truyền thống được cải tiến, góp phần nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm nhưng vẫn giữ được công nghệ thủ công truyền thống. Do vậy, một số nghề không những không bị mất đi mà còn phát triển tốt (gốm sứ, trạm khắc gỗ, sơn mài…). Mộ._.t số nghề do nhu cầu, thị hiếu của xã hội thay đổi, ít được ưa chuộng (chõng tre, khăn xếp…) hầu như không được tiếp tục sản xuất. Một số làng nghề chuyên sản xuất các mặt hàng phục vụ tiêu dùng thông thường nội địa(dệt chiếu, đan rổ rá, hương…) ít bị biết động mà vẫn được phát triển tốt. Mặc dù vậy, trong những năm trước thời kỳ đổi mới đất nước, sản xuất tiểu thủ công nghiệp truyển thống của nước ta đã có những bước phát triển khá tốt cả về mặt sản phẩm cũng như tạo công ăn việc làm cho người lao động. * Một số kết quả và hiệu quả sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Qua kết quả điều tra hàng năm của Tổng Cục Thống kê ta thấy, trong giai đoạn này giá trị sản lượng ngành tiểu thủ công nghiệp ở nước ta tăng nhanh, năm 1981 chỉ đạt 27.713 triệu đồng, tới năm 1986 đã đạt tới 48.530 triệu đồng tăng 1,75 lần so với năm 1981. Năng suất lao động bình quân một lao động tiểu thủ công nghiệp cũng được tăng dần từ 17.270 đồng (1981) lên 26.890 đồng (1986). Giá trị hàng tiểu thủ công nghiệp xuất khẩu cũng đã tăng một cách đáng kể luôn chiếm 30%- 40% trong tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu của nước ta. Thể hiện ở biểu1: * Lao động trong ngành nghề TTCN. Trong thời kỳ này, nước ta con nằm trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hầu hết chỉ mới chú trọng khuyến khích phát triển sản xuất trong các HTX, tập đoàn sản xuất của Nhà nước, chưa coi trọng tới việc phát triển kinh tế hộ gia đình, các khu kinh tế tập thể luôn chiếm số lao động khoảng 60%- 70% còn lại thuộc về cá thể, tư nhân. Tuy vậy, trong thời kỳ này, các ngành nghề truyền thống và tiểu thủ công nghiệp đã góp phần giải quyết việc làm cho người dân, tăng nguồn thu cho người dân quanh vùng. 2.2.2.3. Thời kỳ từ năm 1986 đến nay. Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam(1986) Thực hiện cơ chế quản lý kinh tế mới, xóa bỏ chế độ tập chung quan liêu bao cấp, đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển theo hướng một nèn kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Từ đó đã đánh dấu một bước ngoặt lịch sử của sự phát triển kinh tế đất nước. Cũng chính nhờ vào sự đổi mới kinh tế này mà hàng loạt các chính sách kinh tế- xã hội được Nhà nước ban hành, tạo động lực thúc đẩy sản xuất, kinh doanh trong các hộ gia đình, trong các làng nghề, phố nghề. *Giai đoạn 1986- 1988: Đây là giai đoạn đầu tiên của thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế. Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra một số chính sách khuyến khích phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Từ đó, đã khuyến khích được nhiều người dân trong các làng nghề tham gia khôi phục, phát triển ngành nghề truyền thống của họ. Mặt khác, trong thời kỳ này, tình hình các nước Đông Âu và Liên Xô (cũ) tương đối ổn định- Một thị trường tiềm năng tương đối lớn của nước ta. Do vậy, trong những năm1986- 1987 sản phẩm của ngành nghề truyền thống của nước ta xuất khẩu đạt tới mức cao nhất, năm 1986 kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đạt tới 246 triệu USD. Điều đó cũng cho thấy rằng, phát triển ngành nghề đã tạo khối lượng công việc lớn cho người lao động, góp phần tăng thu nhập, ổn định cuộc sống kinh tế- xã hội cho người dân trong làng nghề và các vùng lân cận. * Giai đoạn 1990 đến 1992: Đây là giai đoạn trì trệ nhất từ trước tới giờ của nhóm hàng tiểu thủ công nghiệp ở nước ta. Vì, thị trường tiêu thụ lớn nhất của nước ta là các nước Đông Âu và Liên Xô (cũ) đang rơi vào tình trạng khủng hoảng, trong khi đó chúng ta chưa có điều kiện để mở rộng thị trường. Vì vậy, vấn đề xuất khẩu sản phẩm truyền thống của nước ta đang đứng trước khó khăn, kim ngạch xuất khẩu giảm dần và được phản ánh qua biểu 2. * Giai đoạn 1992 tới nay: Sau thời gian dài trì trệ trong việc sản xuất cùng với sự hụt hẫng các Công ty, đơn vị kinh doanh tìm tòi và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, góp phần từng bước phục hồi và phát triển sản xuất, tạo thêm nhiều việc làm, tăng cường thu hút lực lượng lao động vào làm nghề. Chỉ sau một năm khôi phục mà số mặt hàng đã tăng lên một số lượng đáng kể, cụ thể là hàng thảm cói xuất sang thị trường khu vực năm 1992 tăng 21,5 lần so với thời kỳ thịnhvượng năm 1988, hàng thêu mỹ nghệ khác tăng7,5 lần (số liệu thống kê năm 1994). Do thị trường tiêu thụ sản phẩm được mở rộng, đã tác động mạnh tới việc phát triển sản xuất của các làng nghề truyền thống, nhất là đối với các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, làm cho các làng nghề truyền thống của nước ta dần được khôi phục và phát triển trở lại với đúng nghĩa của nó. 2.2.3. Một số nhận xét chung về tình hình phát triển làng nghề truyền thống trong thời gian qua. 2.2.3.1. Về thị trường. Thị trường tiêu thụ sản phẩm vừa là mục tiêu của sản xuất, sản xuất ra cái gì? sản xuất bao nhiêu? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? ở đâu? đồng thời cũng là nơi cung cấp thông tin tới người sản xuất để họ bố trí sản xuất sao cho hiệu quả cao nhất. Do vậy, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay, nhất là trong lĩnh vực ngành nghề truyền thống, yếu tố thị trường đã tác động mạnh mẽ và làm ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất của các làng nghề truyền thống. Xuất khẩu: Trước đây, sản phẩm của các làng nghề truyền thống chủ yếu được xuất sang các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô cũ (chiếm 80%- 90% khối lượng xuất khẩu). Nhưng từ những năm 1990 đến nay, với sự tan dã của khối các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô (cũ) đã làm cho thị trường tiêu thụ sản phẩm của nước ta bị mất đi trong khi đó việc tiếp cận, khai thác và mở rộng thị trường các nước trong khu vực và thế giới chưa được triển khai nghiên cứu, đây là thị trường rất khắt khe về chất kượng, mẫu mã, thời gian… là cho các mặt hàng thủ công truyền thống của nước ta không xuất được hoặc xuất với một lượng ít. Từ đó dẫn tới tình trạng sản xuất trong nước bị đình đốn, đời sống của người làm nghề truyền thống gặp khó khăn, lao động không có việc làm. Tiêu thụ trong nước: Một mặt do công nghiệp phát triển sản xuất ra nhiều mặt hàng tiêu dùng có thể thay thế được một số mặt hàng truyền thống với chất lượng cao, giá thành thấp hơn, dẫn tới tình trạng hàng hóa truyền thống không thể cạnh tranh nổi, mặt khác, do hàng ngoại được nhập vào một cách tràn lan gây ra sự cạch tranh và ép gía các mặt hàng của nhóm ngành nghề thủ công truyền thống, làm cho các sản phẩm làng nghề truyền thống không tiêu thụ được. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng các làng nghề truyền thống của nước ta gặp khó khăn trong phát triển 2.2.3.2. Vị trí của các làng nghề truyền thống trong phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trong những năm qua các nghề thủ công và làng nghề truyền thống đã được quan tâm chú ý tới, nhưng chỉ dưới hình thức. Sự quan tâm đầu tư này chưa thật tương xứng với lợi ích mà làng nghề truyền thống đem lại, có chăng cũng chỉ với số ít làng nghề truyền thống có từ rất lâu đời đã được gìn giữ cho tới ngày nay. Còn đối với một số làng nghề truyền thống đã bị mai một thì mới được nhắc tới. Chính vì thế, Đảng và Nhà nước cần có những chính sách cụ thể hơn, đầu tư thiết thực hơn cho các làng nghề truyền thống vừa phát huy được kinh nghiệm quý báu, vừa tận dụng được nguồn nhân lực sẵn có và gìn giữ được văn hóa truyền thống, một món ăn không thể thiếu được trong mỗi người dân nơi đó…. 2.2.3.3. Vốn đầu tư cho sản xuất. Các làng nghề truyền thống, các nghề thủ công ở nước ta chủ yếu phát triển theo hộ gia đình, với phương thức tự cung tự cấp nên đa số các hộ ở đây đều thiếu vốn đầu tư trang thiết bị sản xuất dẫn tới tình trạng công nghệ chắp vá, không đồng bộ, chủ yếu dựa vào lao động thủ công. Những năm gần đây, có một số loại vốn đầu tư của các hiệp hội về phát triển kinh tế và giải quyết việc làm như: Vốn vay từ quỹ quốc gia về xóa đói giảm nghèo…nhưng số lượng và tỷ lệ các hộ được vay vốn trong các làng nghề còn quá ít ỏi, trong khi đó nhu cầu vay vốn của các hộ lại rất lớn. Mặt khác, các loại thủ tục vay vốn quá phiền hà, chậm trễ nên khi đồng vốn tới ta người sản xuất thì thời cơ sử dụng đồng vốn không còn hiệu quả cao, không đảm bảo được đúng kế hoạch sản xuất của các cơ sở, của hộ. 2.2.3.4. Trang thiết bị, công nghệ và mẫu mã sản phẩm. Các làng nghề truyền thống nhìn chung có các công cụ và trang thiết bị quá đơn giản so với nhiều ngành nghề khác, đặc biệt là so với ngành công nghiệp. Tuy vậy, trong điều kiện công nghệ kỹ thuật phát triển như hiện nay, đời sống kinh tế xã hội ngày một nâng cao, nên nhu cầu về chất lượng sản phẩm phải được nâng cao, mẫu mã đẹp đặc biệt đối với các sản phẩm như thủ công mỹ nghệ, dệt… Nhưng trong những năm qua các làng nghề truyền thống chậm có sự đổi mới trang thiết bị, công nghệ sản xuất do nhiều nguyên nhân như: thiếu vốn đầu tư để đổi mới, thiếu kiến thức, chậm đào tạo…do đó năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm, mẫu mã kém dẫn tới tình trạng khó có thể cạnh tranh được trên thị trường trong và ngoài nước. Đây cũng là một nguyên nhân quan trọng làm hạn chế việc khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống của nước ta trong thời gian qua. 2.2.3.5. Tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Với cơ chế phát triển kinh tế như hiện nay, bên cạnh những tác dộng tích cực của nó thì vấn đề cần quan tâm giải quyết hiện nay trong lĩnh vực các mặt hàng truyền thống của ta là: trong suốt thời gian qua chưa có một cơ quan nào đứng ra quản lý sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, đã dẫn tới tình trạng quá nhiều đơn vị, tổ chức cạnh tranh lẫn nhau, tự ý giảm giá để bán được sản phẩm của mình, trong khi đó gía nguyên liệu trong nước có xu hướng tăng lên. Điều đó tất yếu làm cho thu nhập của người lao động bị giảm, làm cho các làng nghề truyền thống của ta không phát triển được hoặc phát triển chậm. 2.2.3.6. Đào tạo kỹ thuật tay nghề cho người lao động. Từ nhiều đời nay, việc đào tạo nghề trong các nghề truyền thống chủ yếu theo phương thức truyền nghề trong phạm vi từng gia đình, từng dòng họ và làng xóm. Với phương thức đào tạo như vậy khó đáp ứng được yêu cầu phát triển sản xuất của các làng nghề hiện nay. Do đó, để góp phầm thúc đẩy và mở rộng sản xuất của các làng nghề truyền thống đòi hỏi có các giải pháp toàn diện cho vấn đề đào tạo chuyên môn, kỹ thuật chuyên ngành, tăng số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ lao động, trên cơ sở đó mới đáp ứng nhu cầu phát triển nhân lực cho từng làng nghề nói riêng và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung. 2.2.3.7. Một số vấn đề về chính sách. - Chính sách vay vốn: Thời gian qua, chính sách cho vay vốn mới áp dụng cho các xí nghiệp Nhà nước, hợp tác xã, hộ nông nghiệp, còn với các hộ làng nghề thủ công chưa được giúp đỡ về mặt này. Tuy một số nghề đòi hỏi nguồn vốn đầu tư không lớn (mây tre đan, thêu ren) nhưng trong một số nghề đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn hơn (gốm sứ Bát Tràng, dệt Triều Khúc, dệt tơ lụa Vạn Phúc…) đặc biệt là cơ sở muốn đầu tư mở rộng sản xuất, đưa công nghệ mới vào sản xuất mà bản thân hộ, cơ sở không tự giải quyết được. - Chính sách khuyến khích sản xuất và cung cấp nguyên vật liệu cho các cơ sở sản xuất ngành nghề truyền thống như: Trợ giá nguyên vật liệu, miễn giảm thuế cho những hộ tham gia sản xuất… - Ngoài ra còn một số chính sách: Thuế, trợ giá sản phẩm, khuyến khích hoàn thiện công nghệ mới hay nhập mới công nghệ vào sản xuất, tặng các danh hiệu cho những thợ giỏi, các nghệ nhân… III. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu. 3.1. Đặc điểm địa bàn làng Vạn Phúc - Hà Đông. Làng lụa Vạn Phúc mặc dù nằm liền kề với thị xã Hà Đông nhưng mới chỉ là một xã thuộc thị xã Hà Đông. Trong một vài năm qua, với sự cố gắng của hội đồng nhân dân các cấp, làng Lụa Vạn Phúc đã được công nhận là một phường mới thuộc thị xã Hà Đông. Đây là một bước tiến mới, một bộ mặt mới là điều kiện rất thuận lợi để kinh tế nơi đây phát triển. 3.1.2. Đặc điểm về tự nhiên. 3.1.2.1. Về địa hình. Làng Lụa Vạn Phúc là một phường đồng bằng thuộc thị xã Hà Đông và chỉ cách trung tâm thị xã chưa đầy 300 m. Chính do đặc điểm này mà việc trao đổi buôn bán, thông tin văn hoá, xã hội giữa các phường, các huyện thị khác rất dễ dàng. Với tổng diện tích đất tự nhiên là 143.9744 ha, lại tiếp giáp: * Phía Đông giáp với Quận Thanh Xuân-Hà Nội, nơi có rất nhiều cá trường Đại học và chỉ cách trung tâm thủ đô 10 km và rất thuận tiện cho các phương tiện giao thông như ô tô, xe máy...Vì thế, việc giao lưu văn hoá, kinh tế, xã hội vô cùng thuận lợi. * Phía Tây Nam giáp với Huyện Chương Mỹ, đây cũng là một huyện có ngành nghề thủ công phát triển, dễ cho việc trao đổi học hỏi kinh nghiệm giữa các làng nghề cho sự phát triển chung của các làng nghề… * Phía tây giáp với Huyện Hoài Đức, đây là nơi được coi là làng nghề chế biến nông sản rất phát triển. Vì thế, trong việc chỉ đạo, định hướng sản xuất, kinh doanh thì làng Vạn Phúc có thể học hỏi, vì đường như điều kiện để sản xuất của các nhóm hộ nơi đây không có sự khác biệt, đặc biệt là về vốn. Mặt khác, dọc theo quốc lộ 6 chúng ta có thể tới tỉnh Hòa Bình, qua đó chúng ta có thể mở rộng thị trường tiêu thụ tại nơi đây * Phía Bắc giáp với Huyện Từ Liêm- Cầu Giấy- Hà Nội. Vì thế, việc trao đổi buôn bán với Hà Nội lại càng thuận lợi. Đây cũng là con đường dẫn tới tỉnh Vĩnh Phúc, vì thế sẽ rất thuận lợi cho việc mở rộng thị trường các sản phẩm lụa tơ tằm Vạn Phúc. 3.1.2.2. Khí hậu và thời tiết. Làng Lụa Vạn Phúc thuộc thị xã Hà Đông- tỉnh Hà Tây, là một tỉnh thuộc Đồng Bằng châu thổ Sông Hồng nên ít nhiều cũng chịu ảnh hưởng của vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, một năm có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa nóng ẩm và mùa khô hanh. Mùa mưa nóng ẩm từ tháng 4- 10. Đó là khoảng thời gian tương đối dài, rất thuận lợi cho người sản xuất và kinh doanh Lụa tơ tằm. Vì, nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm Lụa trong thời gian này là rất cao. Mặt khác, đây cũng là thời gian thu hoạch tơ tằm của một số nơi trồng dâu nuôi tằm lớn như Thái Bình, Hải Dương, Hưng yên…cho nên giá tơ tằm lúc này là rẻ nhất, lại có khả năng cung cấp nguyên liệu cao chất lượng tương đối tốt phục vụ cho sản xuất và kinh doanh lụa tơ tằm của làng. Mùa khô hanh từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau. Đây là khoảng thời gian khó khăn cho các địa phương trồng dâu nuôi tằm lớn, chính vì thế, các hộ sản xuất, kinh doanh lụa tơ tằm cũng gặp không ít khó khăn. Nhiệt độ trung bình là 230C cao nhất là tháng 6 và tháng 7 có hôm lên tới 380C- 400C, nhiệt độ thấp nhất là vào tháng riêng có đợt giảm tới 100C. Độ ẩm trung bình: từ 70%- 85%. Với nhiệt độ và ẩm độ như vậy không gây khó khăn gì cho việc sản xuất lụa tơ tằm Vạn Phúc. 3.1.3. Đặc điểm về kinh tế xã hội của làng Vạn Phúc - Hà Đông. Vạn Phúc với 12 thôn và thôn nào cũng sản xuất, kinh doanh chủ yếu lụa tơ tằm. Chỉ còn một số ít các hộ sản xuất nông nghiệp. Phường có dòng sông Nhuệ chảy qua, đây là nơi chứa nước thải và là nơi cung cấp nước cho các hộ sản xuất nông nghịêp. Trong những năm qua, nhu cầu thị trường trong nước và ngoài nước về tiêu thụ các sản phẩm lụa tơ tằm rất cao, khả năng của chúng ta có thể đáp được với khối lượng lớn, khả năng cạnh tranh của các sản phẩm lụa của chúng ta là rất cao. Trong khi đó, chúng ta lại không dám sản xuất với khả năng có thể, chỉ sản xuất với khối lượng rất ít để đáp ứng một phần thị trường trong nước và nước ngoài. Làng lụa Vạn Phúc cũng như nhiều địa phương, cơ sở sản xuất lụa khác trong nước, vì vậy, trong những năm qua, với sự chỉ đạo của các cấp ban ngành của tỉnh Hà Tây, làng Vạn Phúc đã có sự thay đổi cần chú ý, số lượng LĐ, số hộ tham gia sản xuất đang dần tăng lên, các ban ngành đã có sự thay đổi trong phương thức kích thích đầu tư cho các đơn vị sản xuất mở rộng quy mô sản xuất. Cụ thể như sau: 3.1.3.1. Về đất đai. Được thể hiện trong biểu3: Tổng diện tích đất tự nhiên 143,97 ha không đổi qua các năm, nhưng trong cơ cấu thì lại có sự thay đổi đáng kể. Diện tích đất nông nghiệp có xu hướng giảm mạnh từ 42,32% tổng diện tích đất tự nhiên năm 2001, chỉ còn 38.15% tổng diện tích đất tự nhiên năm 2002, chỉ còn 33,21% năm 2003 tổng diện tích đất tự nhiên. Và tốc độ giảm này lại có xu hướng giảm mạnh hơn qua các năm và được thể hiện ở tốc độ tăng trưởng qua các năm, năm 2002 so năm 2001 là 90,15% và năm 2003 so với năm 2002 là 87,06%. Mặt khác, diện tích các loại đất khác lại tăng dần qua các năm, đặc biệt là diện tích đất chuyên dùng tăng từ 32,99% tổng diện tích đất tự nhiên năm 2001, lên 36,32% tổng diện tích đất tự nhiên năm 2002, lên 43,08% tổng diện tích đất tự nhiên năm 2003. Trong đó, diện tích đất xây dựng là tăng mạnh nhất, điều này một phần cho thấy được vấn đề đầu tư cho phát triển của làng nghề đang có xu hướng tăng cao. Tóm lại, trong 3 năm qua, cơ cấu diện tích có sự thay đổi theo chiều hướng rất có lợi cho sư phát triển của làng nghề truyền thống lụa tơ tằm Vạn Phúc thể hiện rõ là tỷ lệ diện tích đất NN trên một khẩu NN có sự giảm sút từ 3,06 sào năm 2001, xuống còn 2,78 sào năm 2002, còn 2,43 sào năm 2003 và cùng với sự giảm sút này còn có sự giảm sút của diện tích đất NN/1 LĐNN như trong biểu 3. Mặt khác, là diện tích đất chuyên dùng trên một hộ có sự gia tăng năm 2001 là 0,57 sào, năm 2002 có 0,63 sào, năm 2003 có 0,74 sào. Nhưng nhìn chung, diện tích đất nông nghiệp bình quân của một LĐNN vẫn còn rất cao, trong khi đó diện tích đất chuyên dùng vẫn còn rất thấp. Trong những năm tới, các cấp phường cần có sự điều chỉnh để tạo điều kiện cho các hộ sản xuất được sử dụng đất với diện tích lớn hơn, thuận lợi cho việc mở rộng quy mô sản xuất của các hộ. 3.1.3.2. Về dân số và lao động. Thể hiện ở biểu 4: Tổng số nhân khẩu qua các năm có sự gia tăng, nhưng với tốc độ chậm lại, năm 2002 so với năm 2001 là 100,24%, năm 2003 so với năm 2002 là 100,22%. Sự gia tăng này do nhân khẩu NN có xu hướng giảm, nhưng lại giảm chậm hơn là số nhân khẩu phi NN tăng lên. Đây là dấu hiệu đầu tiên cho thấy sự thay đổi trong cơ cấu lao động của làng. Ngoài ra, tổng số nhân khẩu tăng lên ở đây cũng có thể là do nguyên nhân tổng số hộ tăng lên qua các năm, năm 2001 có 2239 hộ, năm 2002 có 2245 hộ, năm 2003 có 2251 hộ. Trong đó có sự giảm xuống của hộ có thu nhập chính từ NN, từ 327 hộ năm 2001 xuống còn 325 hộ năm 2002, xuống còn 322 hộ năm 2003 (mặc dù có tốc độ giảm xuống có giảm), sự tăng lên của hộ có thu nhập chính từ TM, DV và XD, cùng với sự tăng lên của hộ có thu nhập chính từ TTCN mà chủ yếu ở đây là hộ sản xuất lụa tơ tằm truyền thống cho thấy, cách nhìn nhận của các hộ nơi đây đã có sự thay đổi, chuyển dần sang làm các ngành nghề XD, DV, TM và TTCN, giảm dần hộ làm NN, phù hợp với quá trình CHH- HĐH NN, NT của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Về lao động, LĐ trong độ tuổi LĐ có sự gia tăng, năm 2002 tăng 11 người với tốc độ gia tăng 100,24% so với năm 2001, năm 2003 tăng 15 người với tốc độ gia tăng 100,32% với năm 2002 nhưng vẫn ở mức 52% tổng nhân khẩu. Nhưng trong cơ cấu LĐ trong độ tuổi LĐ lại có sự thay đổi, LĐNN có sự giảm xuống (năm 2001 có 395 LĐ, năm 2002 còn 389 LĐ, năm 2003 còn 381 LĐ), nhưng LĐNN kiêm làm TTCN và LĐ phi NN có sự tăng lên, với tốc độ tăng cũng tăng qua các năm như trong biểu 4. Và vấn đề chú ý ở đây là LĐNN kiêm làm TTCN, LĐ làm TTCN, không chỉ tăng lên về số lượng mà tốc độ gia tăng cũng có sự tăng lên, tuy không phải là con số lớn. Điều này giúp chúng tôi có thể khẳng định rằng, sự đầu tư cho TTCN (mà chủ yếu là sản xuất lụa tơ tằm truyền thống) đang tăng lên và có thể tăng hơn nữa trong những năm tới. Tóm lại, với bình quân LĐNN/ Hộ có TN chính từ NN giảm dần, LĐ làmTTCN/ Hộ TTCN, LĐ kiêm làm TTCN/ Hộ NN kiêm TTCN tăng dần qua các năm,cho thấy rõ rằng, hiệu quả của việc khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống lụa tơ tằm nơi đây đang dần được hiện ra và đang theo chiều hướng tốt. Nhưng LĐ TTCN vẫn chỉ ở con số trên 35% tổng số LĐ trong độ tuổi trong làng. Vì thế, các cấp ban ngành cần có những chỉ đạo cụ thể, giúp cho địa phương tăng với tốc độ LĐ TTCN cao hơn nữa, nhằm nâng cao khả năng sản xuất lụa tơ tằm truyền thống này, thu hút được nhiều lao động trong và ngoài làng hơn nữa, từ đó có khả năng nâng cao được thu nhập cho người sản xuất cũng như LĐ nơi đây, phát huy hết tiềm năng sẵn có trong làng. 3.1.3.3. Về cơ sở hạ tầng. Được thể hiện ở biểu 5: Biểu 5: Một số cơ sở hạ tầng của Phường Vạn Phúc qua 3 năm (2001-2003) Chỉ tiêu ĐVT 2001 2002 2003 So sánh (%) 02/01 03/02 BQ I. Đường giao thông Ha 9,77 10,11 10,41 103,45 102,97 103,21 II. Thủy lợi 1. Kênh mương Km 7,20 7,20 7,20 100,00 100,00 100 2. Trạm bơm. Trạm 3 3 3 100,00 100,00 100 III. Điện 1. Trạm biết thế Trạm 5 5 5 100,00 100,00 100 - Tổng công suất KVA 3900 3900 3900 100,00 100,00 100 IV. Y tế 1 1 1 100,00 100,00 100 - Trạm y tế Cái 1 1 1 100,00 100,00 100 V. Giáo dục 1. Trường THPT Trường 1 1 1 100,00 100,00 100 2. Trường THCS Trường 1 1 1 100,00 100,00 100 3. Trường tiểu học Trường 1 1 1 100,00 100,00 100 4. Trường mầm non Trường 1 1 1 100,00 100,00 100 (Nguồn: Ban thống kê phường Vạn Phúc năm 2003). Hầu như trong 3 năm qua, cơ sở hạ tầng nơi đây không có sự thay đổi và đã có sự đầu tư tương đối thích ứng cho các ngành, nghề sản xuất của địa phương, trừ đường giao thông là có sự thay đổi và theo chiều hướng tốt. Đây là kết quả của sự quan tâm của các ban ngành trong tỉnh, diện tích đường giao thông tăng khá nhanh. Và đặc biệt là trong năm 2002- 2003 tổng cục du lịch tỉnh Hà Tây đã đầu tư cho phường Vạn Phúc 1 tỷ đồng để xây dựng 3 tuyến phố. Đây mới chỉ là bước đầu của sự đầu tư cho phường phát triển cơ sở hạ tầng, nhằm tạo cho nơi đây có điều kiện phát triển thêm ngành du lịch làng nghề truyền thống, tăng thêm thu nhập cho phường, tạo thêm công ăn việc làm mới cho người lao động nơi đây. 3.1.4. Kết quả sản xuất kinh doanh của làng Vạn Phúc - Hà Đông. Với tất cả sự thay đổi trên đã làm thay đổi phần lớn kết quả sản xuất của phường trong 3 năm qua, và được thể hiện như ở biểu 6. Nhìn chung kết quả sản xuất của cả làng, chúng ta có thể thấy, doanh thu của cả làng với các điều kiện trên mà doanh thu đạt được khá cao năm 2003 đạt được 40,028 tỷ đồng, và với tốc độ ngày càng tăng năm 2002 so với năm 2001 là 104,01%, đến năm 2003 so với năm 2002 là 104,52%- đây là kết quả hết sức đáng mừng. Trong 3 năm qua, mặc dù diện tích và lao động tham gia vào sản xuất NN có giảm, nhưng nhìn vào kết quả đạt được thì hoàn toàn trái lại (mặc dù sự gia tăng này với tốc độ giảm xuống) năm 2001 chỉ được 763,4 tỷ đồng, năm 2002 được 780,245 tỷ đồng, năm 2003 được 792,134 tỷ đồng. Mặt khác, giá trị sản xuất TTCN, giá trị sản xuất các ngành DV, TM, XD tăng lên, tất cả thực tế này cho thấy, sự phân công lại lực lượng lao động đang dần có sự phù hợp. Nhưng kết quả đó thật sự đã khai thác hết được tiềm năng vốn có ở nơi đây hay chưa thì còn phải xem xét rất nhiều vấn đề. Với giá trị sản xuất bình quân trên một lao động của các ngành thu được như trong biểu 6 này thì kết quả này còn ít, đặc biệt là giá trị sản xuất bình quân lao động NN còn rất thấp, điều này có nghĩa là những người lao động trong NN cần phải được sự hỗ trợ của các cấp chính quyền để có thể nâng cao được mức thu nhập hơn nữa. Còn các ngành, nghề TTCN, thì có giá trị sản xuất khá cao chiếm trên 60% giá trị sản xuất của cả phường xong cũng chưa nói được điều gì, vì vốn đầu tư cho sản xuất thường khá cao, và ngành DV, TM, XD cũng như vậy, nhưng nó cũng là điều đáng mừng vì, qua 3 năm giá trị sản xuất thu được bình quân một lao động đã có sự gia tăng, cho thấy, có thể là đầu tư cho sản xuất TTCN đang gia tăng, nhưng cũng có thể do giá trị sản xuất của một lao động đang tăng lên. Đây là biểu hiện của tính hiệu quả của việc khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống lụa tơ tằm Vạn Phúc. 3.2. Phương pháp nghiên cứu. 3.2.1. Phương pháp nghiên cứu chung. - Phương pháp duy vật biện chứng: do các hiện tượng nghiên cứu là những hiện tượng kinh tế xã hội, luôn vận động không ngừng, có mối quan hệ ràng buộc với nhau. Cho nên, muốn tìm ra được những vấn đề cần giải quyết, tìm ra biện pháp thích hợp thì chúng ta phải xem xét nó theo một thể thống nhất, giải quyết vấn đề một cách đồng bộ. - Phương pháp duy vật lịch sử: đây là phương pháp đứng trên quan điểm lịch sử để đánh giá vấn đề dựa vào những gì xảy ra trong quá khứ để tìm tòi và phát triển thành quy luật. 3.2.2. Phương pháp cụ thể. 3.2.2.1. Phương pháp chuyên khảo. Đó là phương pháp đi sâu nghiên cứu vào các đơn vị điển hình, có thể là điển hình lạc hậu hay điển hình tiên tiến nhưng chủ yếu là điển hình tiên tiến. 3.2.2.2. Phương pháp thống kê kinh tế. Là phương pháp nghiên cứu khoa học dựa trên cơ sở các phương pháp của thống kê. Nội dung của phương pháp bao gồm: - Điều tra thu thập dựa trên cơ sở quan sát số lớn. * Đối với tài liệu thứ cấp: là tài liệu có sẵn đã được công bố. Trong luận văn này, chúng tôi có sử dụng một số tài liệu về làng nghề, ngành nghề truyền thống ở Việt Nam cũng như trên thế giới qua một số sách báo. Chúng tôi còn tham khảo một số kết quả nghiên cứu trước đây về làng nghề truyền thống, các báo cáo tổng hợp, các báo cáo thống kê của xã. * Đối với tài liệu sơ cấp: là những tài liệu có được thông qua điều tra thu thập thực tế tại địa bàn nghiên cứu. Để thu thập được tài liệu này chúng tôi sử dụng phương pháp điều tra thông qua các bước sau: Bước một: chọn mẫu điều tra là bước đầu quan trọng trong quá trình nghiên cứu. Phường Vạn Phúc với gần 1000 hộ (năm 2003) tham gia sản xuất dệt lụa tơ tằm trong đó có 596 hộ có máy dệt, máy mắc trục (máy đảm nhiệm khâu tơ), lồi nhuộm, 60 hộ kinh doanh các sản phẩm lụa tơ tằm. Mặt khác, với quy trình sản xuất với bốn khâu: từ khâu tơ, khâu dệt, khâu hồ, khâu nhuộm, nhưng nay các hộ dệt đã chuyển sang mua tơ máy với chất lượng tốt hơn tơ quay tay ngày xưa, mặt khác chi phí cho khâu hồ là rất cao nên quy trình sản xuất nay chỉ còn 3 khâu (bỏ qua khâu hồ sợi) và với quy mô sản xuất khác nhau, cho nên, chúng tôi tiến hành chọn mẫu điều tra theo tỷ lệ xấp xỉ 1/9 như sau: Biểu 7: Quy mô sản xuất của các hộ dệt lụa tơ tằm trong làng nghề truyền thống Vạn Phúc và số mẫu điều tra. Hộ sản xuất kinh doanh Số lượng Mẫu điều tra 1. Hộ chuyên khâu tơ 35 4 2. Hộ dệt 531 60 - Hộ chuyên 523 58 Trong đó: • Hộ có 1 máy 72 8 • Hộ có 2 máy 397 44 • Hộ có 3 máy 38 4 • Hộ có 4 máy 12 1 • Hộ có 5 máy 4 1 • Hộ có 10 máy 1 1 - Hộ kiêm khâu tơ, nhuộm 8 2 Trong đó: • Hộ có 10 máy trở lên 2 1 • Hộ có 5 máy 5 1 3. Hộ chuyên nhuộm 30 3 4. Hộ kinh doanh thành phẩm 60 7 Trong đó: - Hộ tự sản xuất ra thành phẩm 25 3 - Hộ mua sản phẩm từ khâu dệt 15 2 - Hộ đặt sản xuất tại các hộ 17 2 Tổng 655 78 (Số liệu thu thập từ trưởng thôn và một số kết quả điều tra). Bước hai: Tiến hành xây dựng phiếu điều tra trong đó thể hiện đầy đủ các chỉ tiêu chủ yếu của đề tài. Bước ba: Phỏng vấn thử và có sự giúp đỡ của các nghệ nhân có tiếng trong làng, sau đó thiết lập phiếu điều tra. Lần đầu tiên chúng tôi tiến hành phỏng vấn thử một số hộ, sau đó xem xét, bổ xung phần còn thiếu và loại bỏ phần không phù hợp. Bước bốn: Tiến hành điều tra, phỏng vấn trực tiếp 73 hộ cụ thể. - Tổng hợp, hệ thống hoá tài liệu trên cơ sở phân tổ thống kê theo những thông tin nhất định. - Phân tích tài liệu qua phân tích mức độ của hiện tượng, phân tích tình hình biến động và mối quan hệ giữa các hiện tượng. Thông qua quan sát, tìm hiểu thực tế, qua các số liệu thu thập được từ các phòng ban trong UBND phường, HTX TTCN, HTX NN… chúng tôi đã thấy được tình hình phát triển kinh tế- xã hội của làng nghề truyền thống lụa tơ tằm Vạn Phúc trong 3 năm qua (2001-2003). Qua các số liệu thu thập được từ các phiếu điều tra chúng tôi tiến hành, xử lý và phân tích, so sánh các vấn đề trong quá trình sản xuất và kinh doanh lụa tơ tằm, từ đó thấy được các yếu tố ảnh hưởng…trong việc phát triển làng nghề truyền thống lụa tơ tằm Vạn Phúc. 3.2.2.3. Phương pháp so sánh. So sánh hiệu quả sản xuất lụa tơ tằm của các nhóm hộ khác nhau. Từ đó chúng ta có thể tìm ra được nhóm hộ nào sản xuất có hiệu quả. 3.3.3. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu. Các chỉ tiêu hiệu quả: là dùng để đánh giá hiệu quả kinh tế của quá trình sản xuất và kinh doanh: + Tỷ suất giá trị sản xuất: GO/IC Trong đó : GO = Khối lượng x Giá bán GO là giá trị sản xuất. + Tỷ suất giá trị gia tăng:VA/IC Trong đó: VA= GO- IC VA là giá trị gia tăng. IC là chi phí trung gian + Thu nhập hỗn hợp: MI MI = VA- Thuế(T)- Khấu hao(A)- Lao động làm thuê (nếu có). Trong đó: Khấu hao được tính như sau: Mức khấu hao= GB- GT N Với: GB: Nguyên giá TSCĐ (gía trị ban đầu). GT: Giá trị thu hồi khi thanh toán TSCĐ. N: Năm sử dụng TSCĐ + Hiệu quả sử dụng lao động: MI/ L. Trong đó: L là công lao động. IV. kết quả nghiên cứu 4.1. Tình hình chung của làng nghề truyền thống lụa tơ tằm Vạn Phúc - Hà Đông. 4.1.1. Tình hình phát triển sản xuất và kinh doanh của làng nghề truyền thống Lụa tơ tằm Vạn Phúc. Nghề dệt lụa có từ xa xưa trên đất Việt Nam. Thế kỷ XV, lụa Việt Nam đã theo chân thương gia lên tầu biển đi tới bạn bè xa gần bốn phương. Lụa ở Việt Nam có nhiều nơi sản xuất nhưng đối với người gắn bó với lụa, không thể không nhắc đến Lụa Vạn Phúc (thuộc thị xã Hà Đông, Hà Tây), một vùng dệt lụa thủ công lâu đời và lừng danh với các sản phẩm độc đáo. Em về Vạn Phúc cùng anh áo lụa em mặc thêm thanh vẻ người Tương truyền, bà Lã Thị Nga, một cô gái làng (từ thời Cao Biền) làm tiết độ sứ ở nước ta. Bà đã đưa đến nghề dệt lụa thô sơ với sản phẩm lụa mộc mạc, bình dân (sau này bà được phong là thành Hoàng làng). Từ khi có go võng (thế kỷ XVI) nghề dệt Vạn Phúc được cải tiến, phát triển mạnh mẽ và cho ra đời nhiều mặt hàng độc đáo, cao cấp như gấm, lụa, the, lĩnh… với nhiều hoa văn sinh động, tinh tế. Từ thời phong kiến nghề dệt Vạn Phúc đã nổi tiếng khắp kinh đô Thăng Long, sản phẩm ở đây đã được sử dụng may quốc phục. Đến đời Nguyễn, triều đình đã đón một số nghệ nhân nổi tiếng vào kinh thành Huế để dạy thêu, dệt gấm cho các cung nữ. Gia đình cụ Đỗ Văn Sửu đã từng dệt bức trướng tặng vua Tự Đức, được triều đình Huế khen ngợi, con trai cụ Sửu là Đỗ Văn ái đã dệt long bào dâng hiến vua Khải Định Những năm đầu thế kỷ XX, lụa Vạn Phúc đã được nhiều người nước ngoài biết đến. Các sản phẩm tơ lụa được bày bán trong các cửa hiệu nổi tiếng ở phố Hàng Ngang, Hàng Đào._.ự lãnh đạo của các cấp chính quyền, cần phải mở ra những ngành nghề mới như may mặc, thêu, dịch vụ… để phục vụ tốt hơn, đáp ứng được nhu cầu cao hơn của người tiêu dùng, không chỉ là những tấm vải tơ lụa, mà còn có các sản phẩm đã được may sẵn với những kiểu cách khác nhau hợp với nhiều mẫu người, tăng khả năng tiêu thụ các sản phẩm tơ tằm, từ đó khích thích sự phát triển của làng nghề truyền thống lụa tơ tằm, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống của người dân. Nhưng bên cạnh việc các hộ kinh doanh ngày càng bán được nhiều sản phẩm làm từ tơ tằm của Vạn Phúc, thì đã có một số hộ đã mua các loại vải của Trung Quốc nhập lậu trà trộn vào các sản phẩm tơ lụa của Vạn Phúc, có mẫu mã bóng đẹp hơn nhưng có độ bền không cao, thiếu mềm mại. Đã ảnh hưởng không nhỏ tới uy tín cho các sản phẩm mang nhãn mác Vạn Phúc. Vì vậy, các cơ quan chức năng cần tìm ra hướng giải quyết, để sản phẩm tơ lụa Vạn Phúc dần đến tay nhiều người tiêu dùng hơn trong và ngoài nước. Mặt khác, các chủ cửa hàng này chưa có khả năng giao tiếp với các du khác nước ngoài, nên việc bán sản phẩm hoặc giới thiệu sản phẩm cho các họ hết sức hạn chế. Tóm lại, để mở rộng thị trường kinh doanh, thì các hộ này cần phải được nâng cao hơn về trình độ giao tiếp, bán nhiều hơn các sản phẩm là từ các chất liệu tơ tằm như quần áo, túi sách… ngày càng đa dạng hơn, nhiều mẫu mã, mầu sắc đẹp và có chất lượng hơn. .. 4.2.4.2. Tình hình tiêu thụ của các hộ dệt. Các hộ này sản xuất chủ yếu là bán ở dạng sản phẩm thô, các sản phẩm này được các hộ bán ngay tại nhà vì có các thương gia trong và ngoài địa phương mua để kinh doanh, tình trạng sản xuất bị ứ đọng thường ít xảy ra đặc biệt là các hộ sản xuất với quy mô nhỏ. Trong năm qua, nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm tơ lụa tăng đáng kể vì giá của sản phẩm này không đắt so với các loại vải khác là bao nhiêu. Nhưng tại sao các hộ sản xuất ở Vạn Phúc lại không sản xuất với hết công suất của máy? nguyên nhân của vấn đề này là do: Một phần các hộ không có vốn để sản xuất nên họ chỉ sản xuất với khả năng tiền vốn của mình. Một phần do người sản xuất chưa thực sự được tiếp cận trực tiếp với người tiêu dùng (giá bán tại gia đình rất thấp nhưng khi đến tay người tiêu dùng thì lại rất cao, làm cho người tiêu dùng luôn có cảm giác các sản phẩm tơ tằm chỉ dành cho những người giầu có, khá giả). Chính vì tư tưởng đó mà ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng tiêu thụ sản phẩm tơ tằm. Ngoài bán cho các thương gia tại hộ sản xuất (chiếm tới trên 40%) thì các hộ này giữ lại để tiêu thụ tại các cửa hàng hoặc đem bán cho các cửa hàng kinh doanh tại địa phương (khoảng 40% lượng sản phẩm sản xuất ra) số rất ít còn lại là để xuất khẩu thông qua tổ chức Hội liên hiệp các làng nghề, HTXTTCN cho nên các hộ sản xuất rất trông chờ các thương gia tới mua, dẫn đến tình trạng các thương gia chịu nợ nhưng vẫn phải bán, điều đó đã làm cho tiền vốn để quay vòng sản xuất giảm đi, dẫn đến các hộ sản xuất không sản xuất được hết công suất của máy trong một năm. Tóm lại, mặc dù trong năm qua, các hộ sản xuất đều tăng khối lượng sản xuất ra so với các năm trước nhưng con số này còn rất hạn chế, bởi các hộ này còn chịu rất nhiều tác động ảnh hưởng tới mà rất cần có sự quan tâm của các cấp ban ngành, để người dân nơi đây có thể phát huy được hết những tiềm năng vốn có, nhằm nâng cao hơn nữa thu nhập bình quân của cả làng, xứng đáng với tên gọi làng nghề truyền thống lụa tơ tằm Vạn Phúc. 4.3. Những yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển làng nghề truyền thống Lụa tơ tằm Vạn Phúc - Hà Đông. 4.3. 1. Vốn. Đây là yếu tố hết sức quan trọng đối với bất kỳ một làng nghề truyền thống nào đó là nhân tố cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh. Mà làng nghề truyền thống lụa Vạn Phúc cũng không nằm ngoài các làng nghề đó. Nó quan trọng đối với hộ sản xuất, kinh doanh vì nó sẽ quyết định tới quy mô sản xuất, kinh doanh của các nhóm hộ, điều này lại quyết định tính kinh tế, các hộ có quy mô sản xuất càng cao thì các sản phẩm làm ra có tính hiệu quả càng cao, và với mức đầu tư cho sản xuất một loại sản phẩm càng cao thì mang lại thu nhập bình quân trên một công lao động càng cao.. Mặt khác, đầu tư cho sản xuất phải cần một lượng vốn rất lớn. Chính vì thế, trong năm qua có rất nhiều hộ có như cầu về vốn lớn để mở rộng sản xuất kinh doanh, hiện tại tổng số vốn các hộ nơi đây đã vay vốn lên đến 9 tỷ đồng, với số vốn vay khá lớn đó thì các hộ sản xuất, kinh doanh các sản phẩm tơ lụa phát triển tương đối so với các năm trước cả về quy mô sản xuất, cũng như khai thác tốt hơn công suất làm việc của máy dệt, nhưng thực tế vẫn chưa thể khai thác hết nhu cầu cao của người tiêu dùng trong và ngoài nước. 4.3.2. Đầu vào. Yếu tố đầu vào (tơ tằm) là một trong những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng sản xuất và chất lượng sản phẩm tơ tằm, và đó là giá cả và mùa vụ. Đầu tiên đó là giá cả. Với nguồn vốn hạn hẹp chỉ cho phép người dệt mua với khối lượng tơ nhất định để phục vụ cho sản xuất, có chăng một phần là tích lũy cho sản xuất giai đoạn sau. Vì, nếu giá đầu vào thấp thì không có khó khăn gì cho người dệt mua tơ tằm về dệt ngay cả khi người dệt phải phát huy hết công suất sản xuất của máy để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tăng cao. Nhưng nếu giá tơ tằm quá cao thì họ lại chỉ sản xuất cầm chừng, chỉ khi nào nhu cầu tiêu dùng lên quá cao, mà chưa được đáp ứng thì họ mới phải mua tơ tằm về để sản xuất. Phản ứng này hết sức phổ biến của các hộ sản xuất nơi đây, họ thường xuyên phải đối diện với sự thay đổi đó. Năm 2003 là một năm có sự thay đổi khá rõ rệt mà phần trên chúng tôi đã nêu ra. Sự thay đổi này được giải thích như sau: Thứ nhất: Đó là giá cả tơ tằm thế giới. Nếu như trên thị trường tơ tằm thế giới lên cao, thì tơ tằm trong nước được tập trung chủ yếu là xuất khẩu, nếu như giá tơ tằm trong nước không cao bằng. Dẫn đến thị trường tơ tằm trong nước giá tăng cao và khan hiếm cho sản xuất. Người dệt lúc này thu quy mô sản xuất lại, nếu như nhu cầu tiêu dùng không thay đổi. Ngược lại, nếu như giá cả trên thị trường thế giới thấp, thì tơ tằm trong nước có mức giá thấp như thị trường trên thế giới, khi đó các hộ dệt bắt đầu mua vào với lượng nhất định tùy theo khả năng và nhận biết của họ. Thứ hai: Đó là mùa vụ tơ tằm. Vào thời điểm thu hoạch và được mùa thì giá tơ rất rẻ, chất lượng tơ thường rất tốt. Đây là thời gian thuận lợi cho người dệt mua tơ về phục vụ sản xuất và một phần tích lũy nếu có khả năng. Nhưng nếu vào mùa thu hoạch, người trồng dâu nuôi tằm không được mùa tơ thì tơ tằm rất khan hiếm, giá tơ tằm lên rất cao, chất lượng thường không tốt. Người dệt lụa chỉ có thể nhập tơ lúc này khi họ thật sự cần thiết và thường không có sự tích lũy. Ngoài hai lý do trên, thì người dệt nơi đây chưa có một tổ chức nào đứng ra thu mua tơ tằm và bán cho người dệt với giá hợp lý, không bị ảnh hưởng lớn lắm của biến động giá tơ. Trong những năm qua, HTXTTCN đã chuyển dệt sang làm hoạt động dịch vụ cho sản xuất TTCN mà chủ yếu là dịch vụ cho sự phát triển sản xuất lụa tơ tằm. Nhưng do số vốn hiện có của HTX thì việc thu mua tơ tằm vào những thời vụ được mùa và giá rẻ còn rất hạn chế, chỉ có thể bình ổn được giá tơ tằm ở thời điểm giá quá cao thường vào cuối năm ( tháng 11 cuối năm sang tháng 3 sang năm), nhưng với khối lượng tơ còn ít so với nhu cầu của hộ dệt đáp ứng nhu cầu tăng cao vào cuối năm. Vì thế, vào thời điểm này hộ sản xuất vẫn phải mua tơ tằm từ thị trường trôi nổi với giá cao. Chính vì những lý do trên, mà người dệt nơi đây thường tin tưởng vào giá cả của họ mua từ các thương gia mang đến tận nhà, và nhận biết chất lượng tơ tằm qua kinh nghiệm của mình. Vì thế, với làng phát triển ngành nghề truyền thống như Vạn Phúc thì rất cần có những cơ quan, tổ chức cung cấp thông tin cho hộ sản xuất về thị trường đầu vào, có những dự đoán trong tương lai để hộ sản xuất có những ứng phó để phục vụ cho sản xuất. Đặc biệt là tổ chức thu mua tơ tằm cho các hộ sản xuất vào đầu mùa tơ tằm, để bán cho các hộ vào thời điểm cuối thời vụ, khan hiếm tơ tằm. Để cho các hộ sản xuất không phải lo lắng tích lũy tơ tằm từ đầu vụ, tập trung vào sản xuất để mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng mà không cần phải có số vốn lớn, để có số tiền quay vòng cao. 4.3.3. Lao động. Với lao động chủ yếu là nữ, tuổi đời còn trẻ, thì lao động nơi đây đã đáp ứng được yêu cầu của công việc dệt lụa tơ. Ngoài ra, nếu nhu cầu lao động cao thì việc huy động là không gặp khó khăn kể cả việc đào tạo lao động phục vụ sản xuất không tốn kém thời gian, tiền bạc là bao, tại hình thức đào tạo chủ yếu theo phương pháp truyền nghề trong phạm vi gia đình, nhưng các nghệ nhân và lao động làm trong các nghề như may mặc, thêu… thì lại rất thiếu, lao động có trình độ thì không có nhiều. Và trong hộ gia đình sản xuất kinh doanh kiến thức, kinh nghiệm kinh doanh trong cơ chế thị trường còn rất ít, quản lý theo kinh nghiệm là chính, nên các hộ sản xuất còn gặp rất khó khăn khi muốn tăng năng suất lao động, mở rộng quy mô sản xuất khi mà khả năng tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm kém, không nhanh nhạy với nhu cầu thay đổi của thị truờng về mẫu mã mầu sắc, loại vải thì có sản xuất bao nhiêu cùng không mang lại tính kinh tế theo quy mô, mà còn có khả năng ứ động vốn dẫn đến phá sản. Ngoài ra, trong những năm qua, nhu cầu các sản phẩm như quần áo, mũ giầy… có xu hướng tăng rất cao và có thể tăng hơn nữa, nhưng cần có sự đầu tư hơn nữa cho người lao động về trình độ tay nghề làm các sản phẩm hợp thời trang này đáp ứng nhu cầu mua tốt hơn cho các du khách… Từ đó có thể tăng thu nhập cho các nghề khác như dịch vụ du lịch, may, thêu…phát triển hơn nữa ngành nghề truyền thống lụa tơ tằm nơi đây. 4.3.4. Kỹ thuật công nghệ sản xuất. Do có sự thay thế máy thủ công truyền thống thành những máy Zăc-ka tư những năm 1992, nghề dệt gần như được phục hồi, năng suất lao động tăng cao, mà lao động cần cho một máy dệt giảm từ 2 người xuống còn 1 người, yêu cầu kỹ thuật của lao dộng cũng không cao như ngày trước, người lao động làm cũng đỡ vất vả hơn. Nhưng cho đến năm 2003 thì số máy này đã trở thành rất cũ, mặc dù nó là máy dệt loại tốt nhất cho đến hiện nay của đại bộ phận các làng dệt lụa tơ tằm truyền thống trong nước. Các hộ dệt ở Vạn Phúc nếu như không tự mình biết sửa chữa những sai sót của máy thì chi phí cho sửa chữa này là hơi cao khoảng trên 600 nghìn một năm. Không những thế, mà thời gian để tìm ra những sai sót và sửa chữa mất khoảng 15 giờ trên một tháng (tính cả năm thì sẽ mất 7,5 ngày). Kết quả này ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả của sản xuất. Vì vậy, việc thay đổi một số chi tiết đã cũ trong máy để giảm một khoản không đáng mất là cần thiết để nâng cao hiệu quả sản xuất. Nhưng để thay đổi thì rất khó trong suy nghĩ các hộ, không phải vì họ không có khả năng mà họ cho rằng, với công suất của máy như hiện nay thì việc để nguyên như thế, công suất của máy vẫn có thể đáp ứng được nhu cầu sản xuất của hộ, nhiều khi còn không phát huy hết. Trong những năm tới, các hộ cần tìm giải pháp cho mình để nâng cao khả năng sản xuất, cải thiện máy dệt thì hiệu quả lao động của họ sẽ cao hơn. Ngoài ra, các cấp cần có giải pháp thích hợp cho các hộ mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao năng suất lao động của người lao động. 4.3.5. Sản phẩm và thị trường tiêu thụ sản phẩm của làng nghề truyền thống Lụa tơ tằm Vạn Phúc. Sản phẩm và tiêu thụ sản phẩm là yếu tố quyết định cho cả quá trình sản xuất, nếu sản phẩm tốt, cộng với thị trường tiêu thụ cao thì sẽ làm cho giá trị sản phẩm mang lại tất sẽ cao. Nhưng ở Vạn Phúc thì hai vấn đề này đang gặp không ít khó khăn. Về tiêu thụ sản phẩm: Cả quá trình sản xuất có tốt, có rẻ, nhưng nếu không tiêu thụ được sản phẩm thì kết quả sản xuất cũng chỉ là con số không. Nhưng đặc điểm của các hộ sản xuất nơi đây là thường sản xuất theo đơn đặt hàng và với các hộ sản xuất với khối lượng nhỏ thì được các thương gia đến tận nhà mua, một số ít là tiêu thụ tại địa phương (trong các quầy hàng của làng) và xuất khẩu thì rất ít. Đây là ưu thế của các hộ sản xuất nhỏ ở Vạn Phúc, nhưng còn nhỏ so với tiềm năng sản xuất của các hộ. Trong những năm vừa qua, để giải quyết vấn đề này, các cấp lãng đạo trong làng đã tạo điều kiện cho các hộ sản xuất kinh doanh tham gia vào các cuộc hội chợ hàng Việt Nam chất lượng cao, các hội chợ giới thiệu sản phẩm tại các quốc gia khác trên thế giới, mở các trang web để giới thiệu sản phẩm lụa truyền thống… Ngoài ra, được sự chỉ đạo của tổng cục du lịch tỉnh Hà Tây, các cửa hàng, đường xá được nâng cấp để làng một mặt có thể khai thác tốt các dịch vụ du lịch, một mặt giới thiệu cho các du khách các sản phẩm, nhằm tìm kiếm và mở rộng thị trường. Đây là giải pháp rất lạc quan. Nhưng có một vấn đề các hộ kinh doanh trong làng, họ chưa có khả năng giao tiếp bằng tiếng Anh khi giao dịch với khách nước ngoài mặc dù họ rất niềm nở, cửa hàng trưng bày đẹp mắt, điều này ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng tiêu thụ sản phẩm của các hộ này. Chúng ta rất mong chờ vào kết quả của các định hướng này trong các năm tới. Về sản phẩm: Đó là yếu tố gần như quyết định đến khả năng tiêu thụ của sản phẩm và nó là sự kết hợp của chất lượng (tỷ lệ tơ tằm trong một sản phẩm), mẫu mã kiểu cách các sản phẩm, khổ vải, mầu sắc. Một thực tế đặt ra với chất lượng sản phẩm, người tiêu dùng thì có nhu cầu sử dụng cao nhưng lại đòi hỏi có giá rẻ, nên năm 2003 chúng ta nếu đi vào các cửa hàng kinh doanh tơ lụa thì chỉ có một số ít là sản phẩm tơ tằm do các hộ dệt tại đây sản xuất, còn lại rất nhiều mặt hàng vải tơ lụa chủ yếu của trung quốc nhập lậu vào, với mẫu mã, mầu sắc rất đẹp, rẻ hơn nhưng chất lượng kém hơn (độ bền không cao, không mát và mềm mại như các sản phẩm nơi đây sản xuất). Đối với người tiêu dùng sành vải tơ lụa thì điều này ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của làng nghề. Còn về mẫu mã sản phẩm thì thường xuyên được thay đổi rất phù hợp với thi hiếu người tiêu dùng, nhưng giá cả cho 1 bộ mẫu mã sản phẩm là khá cao, dẫn đến, các hộ sản xuất nhỏ thường ít chú ý tới việc thay đổi mẫu mã, chỉ sản xuất với các mẫu mã truyền thống có từ nhiều năm trước, hoặc có sự thay đổi khi trong họ hàng bạn bè cho mượn hay trao đổi mẫu mã cho nhau để sản xuất, nhưng số hộ này có rất ít. Chính vì thế, số hộ sản xuất đều quanh năm và với khối lượng sản phẩm lớn là rất ít. Nếu như được đầu tư nhiều hơn thì khả năng sản xuất và kinh doanh của các hộ nơi đây có thể được tăng lên đáng kể. Còn đối với mầu sắc của sản phẩm, dường như đã đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng, nhưng lại kém chất lượng, chỉ đẹp ở thời gian đầu, sau một vài lần giặt thì các màu này bị thay đổi, điều này ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng sản phẩm, sẽ dẫn đến mất uy tín đối với các sản phẩm lụa tơ tằm Vạn Phúc. Chính vì thế, để tránh những vấn đề xảy ra trên cần có cơ quan chức năng đứng ra kiểm định chất lượng các loại vải khi đươc ra thị trường để tiêu thụ. 4.3.6. Quy mô sản xuất. Như phần trên tôi đã nghiên cứu, tìm hiểu, quy mô sản xuất là yếu tố quan trọng nó ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả kinh tế của các hộ gia đình sản xuất. Thường quy mô sản xuất càng lớn thì tính hiệu quả càng cao, xong một thực tế đặt ra là có muốn mở rộng quy mô thì các hộ cần có một số vốn tương đối lớn, đòi hỏi có sự hiểu biết, kinh nghiệm nhất định đó là nhanh nhạy với sự thay đổi của thị trường, biết tìm kiếm, mở rộng thị truờng cho các sản phẩm làm ra…Đây là mấu trốt rất quan trọng cho các nhóm hộ khi quyết định sản xuất loại vải gì? sản xuất như thế nào? đáp ứng cho ai? có nên tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất hay không? Trong những năm tới, các hộ gia đình dệt lụa tơ tằm rất cần có sự chỉ đạo, hướng dẫn để có thể mở rộng được quy mô sản xuất một cách hiệu quả như vấn đề vay vốn, hướng dẫn các hộ có khả năng thành lập công ty…để có đủ tư cách pháp nhân xuất khẩu các loại vải sang một số thị trường tiềm năng. Từ đó tăng doanh thu cho các hộ sản xuất, đưa mức thu nhập bình quân đầu người nơi đây ở mức khá hơn. 4.3.7. Một số vấn đề khác. Bên cạnh những vấn đề đặt ra trên còn rất nhiều vấn đề nhỏ khác như các sản phẩm tơ tằm giờ đây đã bỏ qua khâu hồ mà ngày xưa đã làm cho các sản phẩm lụa tơ nơi đây khác với các sản phẩm lụa tơ địa phương khác. Có nên chăng các hộ dệt địa phương cần phải được phục hồi, bỏ qua tính lợi ích kinh tế trước mắt để chuẩn bị cho việc mở rộng thị trường trong nước và quốc tế. Như vấn đề môi trường, ở đây ôi nhiễm nguồn nước một cách trầm trọng, không chỉ có thế mà ở đây còn ô nhiễm tiếng ồn cũng tương đối trầm trọng, mà chưa được giải quyết, ảnh hưởng không nhỏ tới sức khỏe người dân nơi đây. Tóm lại, để có sự phát triển mạnh trong tương lai của các sản phẩm tơ lụa Vạn phúc thì rất cần có những giải pháp, định hướng trong việc cung cấp thông tin, đào tạo tay nghề, đào tạo giao tiếp, vốn… của một tổ chức, nơi sẽ được coi là tiếng nói của các hộ sản xuất, của người tiêu dùng, của các thương gia… 4.4. Những giải pháp phát triển làng nghề truyền thống Lụa tơ tằm Vạn Phúc - Hà Đông. 4.4.1. Về vốn đầu tư. Như phần trên chúng tôi đề cập tới, thì vấn đề vốn vẫn còn là bức xúc của các hộ dệt, nhuộm, kinh doanh... Do vốn đầu tư cho các hộ này là rất cao, nên trong vấn đề mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh của các hộ gặp không ít khó khăn, đặc biệt là vào các thời vụ thu hoạch tơ tằm và thời điểm nhu cầu các sản phẩm tơ tằm lên cao ( thường là tháng 5-9 trong năm). Cho nên trong những năm tới, các hộ này rất cần sự hỗ trợ của các tổ chức như Ngân hàng NN và phát triển nông thôn, các quỹ tín dụng… về tiền vốn, cho các hộ này ngoài khả năng thế chấp tài sản vay vốn với thời gian (5-10 năm), với lãi suất ưu đãi, trả lãi theo năm, thì các hộ này có thể vay vốn bằng hình thức vay tín chấp đối với các hộ sản xuất với quy mô lớn, từ đó tạo cho họ có số vốn lớn để đầu tư cho mở rộng quy mô sản xuất cả về hình thức lẫn năng suất lao động. Để các hộ tránh tình trạng các hộ phải vay vốn của các tổ chức cá nhân với lãi suất cao vào các thời điểm thời vụ, thì các tổ chức như Ngân hàng nông nghiệp có thể tạo điều kiện cho các hộ này vay vốn với thời gian ngắn với thủ tục vay vốn nhanh gọn, để đồng vốn đó kịp được với thời gian mà họ cần. Giải pháp này mang lại tính hiệu quả cao hơn cho cả người sản xuất và các tổ chức cho vay vốn. 4.4.2. Về thị trường tiêu thụ sản phẩm. Nguyên nhân trong năm qua, mặc dù giá trị sản xuất của các sản phẩm tơ lụa của làng tăng lên nhưng vẫn chưa khai thác được hết khả năng sản xuất của máy, chỉ có một số hộ sản xuất quy mô lớn là năng suất lao động cao và tận dụng gần như triệt để công suất làm việc của máy trong một năm đó là do những hộ sản xuất với quy mô lớn họ thường có những kiến thức và rất nhanh nhạy lắm bắt thị trường cần gì? và cần như thế nào, thông tin đến với các hộ này là rất kịp thời, còn các hộ sản xuất nhỏ thì thông tin đến với họ chậm, kiến thức về kinh tế thị trường, quản lý kinh tế kém, họ chỉ trông chờ vào các thương gia đến gia đình mua, chứ không chú ý tới việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ. Chính vì vậy, để có thể giúp họ tiếp cận được với người tiêu dùng và khả năng mở rộng quy mô sản xuất để ngày càng tăng tính hiệu quả kinh tế không chịu sự phụ thuộc vào các thương gia, thì các cấp chính quyền địa phương cần có một tổ chức đứng ra, chịu trách nhiệm cung cấp thông tin về thị trường đầu vào, đầu ra, hướng dẫn cho các gia đình có thể tìm kiếm được nhiều thị trường tiêu thụ sản phẩm hơn nữa, chi phí cho tổ chức này hoạt động do các hộ này đóng góp, một phần là cần có sự hỗ trợ của chính quyền các cấp mà địa phương chịu sự chỉ đạo. Ngoài ra, tổng cục du lịch tỉnh Hà Tây, và địa phương đầu tư cơ sở hạ tầng hơn nữa về đường xá, quy hoạch được các hộ sản xuất, kinh doanh lại với nhau, tách khu dân cư ra khỏi khu sản xuất ,tạo điều kiện đầu tư chiều sâu xây dựng mặt bằng và hệ thống cấp thoát nước trong khu vực của làng nghề để tránh ô nhiễm tiếng ồn và nguồn nước. Mặt khác, nó tạo điều kiện thuận lợi cho các du khách thăn quan. Từ đó, không chỉ tạo điều kiện cho ngành du lịch làng nghề phát triển mà qua hoạt động dịch vụ du lịch đó giúp cho các thương gia trong và ngoài nước có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với người sản xuất để có thể ký kết các hợp đồng sản xuất và có thể tiêu thụ sản phẩm trực tiếp cho các du khách đến tham quan. Khích thích cho ngành nghề truyên thống này ngày càng phát triển.Ngoài ra, các mặt hàng này đang chịu một sức ép do hàng nhập lậu từ Trung quốc. Vì vậy, một mặt cần nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm của làng nghề thông qua các biện pháp đầu tư , marketing, tìm thị trường, liên doanh, liên kết, tằng cường tổ chức sản xuất và quản lý sản phẩm, tạo mọi điều kiện thay đổi mẫu mã của sản phẩm, nắm vững thị hiếu của người tiêu dùng. Kiên quyết ngăn chặn hàng nhập lậu, khuyến khích tiêu dùng trong nước. Phát triển mạnh các trung tâm thương mại, hình thành các tụ điểm thương mại… 4.3.3. Về tay nghề của người lao động. Tính đến cuối tháng 12 năm 2002 thì Vạn Phúc đã được công nhận có 3 nghệ nhân trong sản xuất kinh doanh lụa tơ tằm truyền thống. Hiện 3 nghệ nhân này đều là thành viên chủ chốt trong hiệp hội làng nghề Vạn Phúc. Đó là điều hết sức đáng mừng, bởi thông qua hoạt động của hiệp hội đã thu hút được sự quan tâm của các nghệ nhân để truyền nghề cho các thế hệ đi sau về kỹ thuật sản xuất, khôi phục mẫu mã truyền thống…Nhưng do những điều kiện khách quan mà các nghệ nhân chưa thực sự được cống hiến và truyền nghề một cách cụ thể cho người sản xuất nơi đây, cho nên số lao động trẻ có trình độ kỹ thuật không nhiều và còn rất hạn chế. Chính vì thế, trong những năm tới, các cấp địa phương cần có sự đầu tư hỗ trợ hợp lý cho các nghệ nhân, để các nghệ nhân có đủ điều kiện phát triển nghề bằng cách cải tiến mẫu mã phục hồi quy trình, tìm kiếm thị trường, tổ chức làm thử sản phẩm …và truyền nghề lại cho các thế hệ sau. Còn các lao động trong làng nghề cần phải nâng cao trình độ dân trí và học vấn, để tạo ra một đội ngũ lao động có tay nghề có trình độ, dễ dàng cho việc tiếp thu công nghệ kỹ thuật đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nông thôn. 4.4.4. Về tổ chức sản xuất. Hiện nay, hộ gia đình là hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh chủ yếu và có hiệu quả. Nhưng trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, hộ gia đình không thể có đủ tầm nhìn chiến lược để định hướng phát triển nghề nghiệp, bởi trình độ hiểu biết về thị trường còn hạn hẹp. Vì vậy, các cơ quan chức năng cần có sự giúp đỡ hộ gia đình trong sản xuất và kinh doanh một cách hợp lý nhằm giúp hộ có thể tăng khả năng sản xuất, mở rộng quy mô, tăng thu nhập cho các hộ gia đình. Ngoài ra, cần có các lớp học sơ cấp tại địa phương đào tạo cho hộ về trình độ quản lý, trình độ nắm bắt thông tin, tìm kiếm thị trường. Còn một số hộ sản xuất với quy mô lớn thì cần có sự hướng dẫn cơ quan pháp luật để có thêm thông tin về thành lập công ty…tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ này tăng thêm uy tín, giúp cho việc mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm sang các nước trên thế giới. 4.4.5. Về môi trường. Việc bảo vệ môi truờng sinh thái là vấn đề cấp thiêt cần được quan tâm đúng mức trong làng nghề, chính vì vậy, chúng ta phải tập trung giải quyết vấn đề sau: Cần có sự quy hoạch các hộ dệt, các hộ nhuộm vào một khu tách ra khỏi khu dân cư. Đầu tư chiều sâu để đổi mới công nghệ, xây dựng hệ thống cấp thoát nước và hệ thống xử lý chất độc hại do các hộ nhuộm thải ra. Làng nghề truyền thống cần có phương án bảo vệ môi trường bằng cách dựa vào nguồn kinh phí của địa phương hay sự đóng góp của nhân dân. Từng bước nâng cấp hệ thống giao thông, có biện pháp trồng và bảo vệ cây xanh ở hai bên đường cũng như khu vực sản xuất của làng nghề để môi trường được xanh, sạch, đẹp. Các cấp các ngành ở địa phương, TW có những bộ phận chuyên trách để giám sát thực thi về môi trường cho làng nghề, đồng thời có những biện pháp xử lý thích đáng những cá nhân vi phạm luật bảo vệ môi trường. 4.4.6. Về chủ trương chính sách. Khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống là một giải pháp rất cần thiết để giải quyết tình trạng sư thừa lao động trong xã hội và đem lại thu nhập, cải thiện đời sống cho nhân dân, từ đó đưa kinh tế vùng phát triển. Tuy nhiên việc đó đang gặp rất nhiều khó khăn cần có sự quan tâm của Nhà nước về cơ chế chính sách điển hình một số chính sách sau: * Chính sách vốn - Triển khai rộng rãi các hình thức tín dụng trong làng nghề, đó là tín dụng cộng đồng làng xã để giúp đỡ nhau tạo vốn phát triển sản xuất. - Đa dạng hóa các hình thức cho vay đối với làng nghề, thay đổi định mức cho vay và thời gian cho vay, mở rộng hình thức cho vay tín chấp, cho vay bảo lãnh với những nhóm hộ sản xuất nhỏ, có chính sách hỗ trợ vốn để họ có điều kiện sản xuất kinh doanh. Cải tiến thủ tục cho vay sao cho thật đơn giản, mặt khác vẫn phải đảm bảo an toàn cho vốn vay. - Cần ưu tiên vốn đầu tư ngân sách Nhà Nước hỗ trợ và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội cho địa phương. Tạo cho giao thông đi lại thuận tiện, giúp cho quá trình vận chuyển hàng hóa thuận lợi, giúp cho khách thăm quan đi lại dễ dàng - Nhà nước cần có biện pháp xử lý nghiêm minh đối với hiện tượng cho vay nặng lãi, lừa đảo, chiếm dụng vốn tạo môi trường kinh doanh trong sạch. * Chính sách tăng cường công tác quản lý đối với làng nghề truyền thống Công tác quản lý của Nhà nước đối với làng nghề là rất cần thiết nhằm đưa làng nghề phát triển đúng hướng, hạn chế được những yếu kém bất cập tồn tại trong quá trình phát triển làng nghề. Nhà nước cần chú ý tới một số chính sách như sau để giải quyết vấn đề này: - Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật và tạo môi trường kinh doanh cho các làng nghề, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho môi truờng sản xuất kinh doanh ở các làng nghề có sản phẩm mang đậm nét văn hóa, nhưng đang gặp khó khăn về tiêu thụ sản phẩm tren thị trường như làng nghề truyền thống tơ tằm Vạn Phúc. - Xây dựng và thực hiện các chương trình dự án; khẩn trương hình thành, phát triển các tổ chức tư vấn nhằm hỗ trợ, giúp đỡ làng nghề trong quá trình sản xuất kinh doanh. Sự giúp đỡ của các tổ chức tư vấn này tập trung vào những lĩnh vực xuất khẩu, chuyển giao công nghệ, đào tạo và dịch vụ… - Tạo điều kiện khuyến khích hoạt động của hội làng nghề như Hội liên hiệp làng nghề của Vạn Phúc, bởi thông qua tổ chức này mà các nhóm hộ sản xuất, người lao động được cung cấp các thông tin về kinh tế, kỹ thuật, công nghệ cũng như giá cả thị trường, đồng thời góp phần giải quyết vấn đề lao động và việc làm cho nhiều người V. kết luận và kiến nghị. Làng nghề truyền thống ở nước ta có vị trí hết sức quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế xã hội của các địa phương như Làng nghề Vạn Phúc, trong những năm qua làng nghề truyền thống lụa tơ tằm đã góp phần không nhỏ vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xã hội của địa phương. Mỗi năm, làng nghề đã tạo được công ăn việc làm ổn định và góp phần làm tăng thu nhập cho hơn một nghìn lao động ở địa phương và một số lao động từ các tỉnh khác, địa phương khác. Các sản phẩm tơ tằm do làng nghề Vạn Phúc làm ra, bước đầu đã đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng trong nước và một phần cho xuất khẩu và sản phẩm này đã kết hợp được một cách hài hòa kinh nghiệm cổ truyền với công nghệ hiện đại (các máy dệt bán tự động). Xong bên cạch những gì mà làng nghề truyền thống lụa tơ tằm Vạn Phúc đã làm được, còn có một số vấn đề tồn tại song song với nó, đó là sự quan tâm chưa đúng mức cho vấn đề môi trường sinh thái, chưa thực sự khai thác hết tiềm năng vốn có của mình, đặc biệt là công suất của máy… Để trong những năm tới, làng nghề truyền thống lụa tơ tằm Vạn Phúc phát triển hơn nữa, thì với kiến thức và thời gian tìm hiểu, nghiên cứu hạn chế chúng tôi xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị như sau: Thứ nhất: Đối với các hộ sản xuất kinh doanh. Trước tiên đó là các hộ sản xuất kinh doanh cần phải nâng cao tinh thần trách nhiệm của mình khi sản xuất, kinh doanh các sản phẩm truyền thống đó là đảm bảo chất lượng tốt, mềm mại, đẹp về hình thức của sản phẩm, bởi nó là nét đẹp văn hóa của địa phương và của nước Việt Nam. Không vì chạy theo lợi nhuận trước mắt mà làm ảnh hưởng tới uy tín của các sản phẩm lụa Vạn Phúc, mang tiếng tăm không tốt đối với bạn bè nước ngoài về các sản phẩm văn hóa Việt Nam. Các hộ sản xuất cần phải tích cực ủng hộ các định hướng chỉ đạo của các cấp chính quyền như vấn đề quy hoạch các hộ sản xuất, kinh doanh vào một khu; thực hiện nghiêm về vấn đề xử lý nước thải trước khi thải ra các kênh, mương, dòng sông; trong kinh doanh các sản phẩm thì cần có sự trung thực, không nhập lậu các mặt hàng kém chất lượng ảnh hưởng tới uy tín chung của nghề dệt truyền thống nơi đây. Thứ hai: Đối với các cấp ban ngành của địa phương. - Các cấp ban ngành địa phương cần có sự hỗ trợ cho tổ chức Hội liên hiệp làng nghề trong làng, giúp cho tổ chức này có đủ kinh phí để hoạt động, để qua tổ chức này khuyến khích được các nghệ nhân có thể được cống hiến, truyền nghề cho các thế hệ sau. - Thành lập các nhóm thanh tra giám sát vấn đề thực hiện các nghĩa vụ và quyền lợi của các hộ sản xuất kinh doanh như vấn đề môi trường, nộp thuế…Các hộ nào không làm đúng trách nhiệm của mình sẽ được trừng phạt nghiêm, nhưng bên cạch đó có những biện pháp khích lệ kịp thời đối với các hộ sản xuất kinh giỏi, cấp giấy chứng nhận cho các nghệ nhân kèm theo chế độ ưu đãi đối với những người này. Thứ ba: Đối với cơ quan cấp Nhà nước. - Nhà nước cần có những dự án hỗ trợ vốn đầu tư cho sản xuất , xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản phục vụ cho sản xuất của làng nghề truyền thống, để các làng nghề này vừa có thể tạo được nhiều công ăn việc làm cho lao động, vừa có thể duy trì được những nét văn hóa lâu đời của cha ông để lại. - Nhà nước cũng cần có chính sách hợp lý đối với mặt hàng truyền thống xuất khẩu. Đặc biệt là trong thủ tục, giảm thuế tạo điều kiện thuận lợi cho các sản phẩm truyền thống cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của các nước trên thế giới. - Các tổ chức Ngân hàng, các tổ chức tín dụng cần có những chính sách cho vay vốn ưu đãi, thủ tục đơn giản đối với các hộ sản xuất trong ngành nghề truyền thống, giúp họ có khả năng duy trì và mở rộng quy mô sản xuất các mặt hàng truyền thống với các mẫu mã hiện đại, đặc biệt là các mặt hàng tiêu dùng có khả năng tiêu thụ cao như vải tơ lụa…có khả năng tạo nhiều công ăn việc làm cho người dân. mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33869.doc
Tài liệu liên quan