Lời nói đầu
Ngày nay, hoạt động xuất khẩu trở nên vô cùng quan trọng trong hoạt động thương mại đối với bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới. Thông qua hoạt động xuất khẩu, các quốc gia khai thác được lợi thế của mình trong phân công lao động quốc tế, tạo nguồn thu ngoại tệ quan trọng cho đất nước, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và đặc biệt là tạo công ăn việc làm cho dân cư.
Đối với Việt Nam, từ sau đại hội Đảng VI (1986), nước ta chuyển đổi từ một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang
37 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1337 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu nguyên liệu thúc ăn gia súc ở Công ty TNHH TM Quang Dũng miền bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Cơ chế mới đã đem lại những kết quả khả quan. Sau 20 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển đổi rõ rệt, thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội và đạt được nhịp độ phát triển tương đối cao và vững chắc.
Trong quá trình phát triển đó, có sự đóng góp đáng kể và quan trọng của hoạt động xuất khẩu. Đặc biệt là khi xuất khẩu được coi là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế đối nội cũng như đối ngoại, tạo ra một cơ sở vững chắc cho sự phát triển và thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam hoà nhập với nền kinh tế thế giới, hoạt động xuất khẩu ngày càng được chú trọng.
Với sự quan tâm khuyến khích và đầu tư thích đáng của Nhà nước, hàng loạt các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu ra đời và phát triển nhanh, mạnh. Bên cạnh đó, có không ít những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, bị phá sản. Điều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được thì phải đưa ra những biện pháp phù hợp để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu có hiệu quả. Đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu càng cao, doanh nghiệp càng có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư máy móc thiết bị, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên. Chính vì vậy, hiệu quả của việc đẩy mạnh kinh doanh xuất khẩu không chỉ là thước đo trình độ tổ chức quản lý mà còn là vấn đề sống còn của nhiều doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ ở nước ta.
Tuy nhiên làm thế nào để kinh doanh xuất khẩu có hiệu quả, đó là câu hỏi được đặt ra với các doanh nghiệp khi tham gia kinh doanh xuất khẩu hiện nay. Mỗi doanh nghiệp phải có hệ thống các chỉ tiêu đánh giá một cách khoa học, khách quan, phải vạch ra được những thiếu sót, những tồn tại cần khắc phục. Từ đó, giúp cho doanh nghiệp có giải pháp hữu hiệu trong hoạt động kinh doanh của mình.
ý thức được tầm quan trọng của hoạt động kinh doanh xuất khẩu đối với một doanh nghiệp nói riêng và nền ngoại thương nói chung, cũng như đòi hỏi thực tế của việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của công tác xuất khẩu, với kiến thức được trang bị và những tìm hiểu thực tế trong thời gian thực tập tại Công ty TNHH Thương mại Quang Dũng Miền Bắc, em đã mạnh dạn chọn đề tài:
“Thực trạng và một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu nguyên liệu thức ăn gia súc ở Công ty trách nhiệm hữu hạn Thương mại Quang Dũng Miền Bắc”
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Danh mục Tài liệu tham khảo, Phần nội dung của bài luận văn tốt nghiệp của em được chia làm ba phần chính như sau:
Chương I : Khái quát về hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế mở.
Chương II : Thực trạng về hoạt động xuất khẩu nguyên liệu thức ăn gia súc ở công ty TNHH Thương mại Quang Dũng Miền Bắc.
Chương III: Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu nguyên liệu thức ăn gia súc ở công ty TNHH Thương mại Quang Dũng Miền Bắc.
Bên cạnh những nỗ lực của bản thân, bài luận văn của em được hoàn thành dưới sự chỉ dẫn tận tình, quý báu Thầy giáo GS,TS Phan Văn Tiệm.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Thầy giáo GS, TS Phan Văn Tiệm cũng như toàn thể cán bộ công nhân viên trong Công ty TNHH Thương mại Quang Dũng Miền Bắc cùng thầy cô giáo trong Khoa Thương mại và bạn bè đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành tốt chuyên đề luận văn của mình.
Em xin chân thành cảm ơn !
chương i: khái quát về hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế mở
i. Khái niệm, Vai trò của hoạt động xuất khẩu
1. Khái niệm
Xuất khẩu là việc bán sản phẩm hàng hoá, dịch vụ sản xuất trong nước ra nước ngoài nhằm mục đích thu ngoại tệ, tăng tích luỹ cho ngân sách nhà nước, phát triển sản xuất kinh doanh, khai thác các ưu thế tiềm năng đất nước và nâng cao đời sống nhân dân.
Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh quốc tế nên chủ thể tham gia có quốc tịch khác nhau. Các bên tham gia vào hoạt động xuất khẩu thuộc nhiều quốc gia nên về phong tục tập quán ở các nước là không giống nhau. Vì thị trường xuất khẩu rất rộng lớn và khó kiểm soát nên việc thanh toán chủ yếu thông qua các ngoại tệ mạnh do đó các điều kiện ràng buộc được áp dụng theo thông lệ quốc tế hoặc pháp luật của một quốc gia nào đó mà được cả hai bên chấp thuận.
Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Việc trao đổi hàng hoá mang lại lợi ích cho các quốc gia, do đó các quốc gia đều tích cực tham gia mở rộng hoạt động này. Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của ngoại thương đã xuất hiện từ rất lâu và ngày càng phát triển.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên nhiều lĩnh vực, trong mọi điều kiện, từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng cho đến tư liệu sản xuất và cả công nghệ kỹ thuật cao, dịch vụ cũng như lao động. Tất cả các hoạt động trao đổi này đều nhằm mục đích đem lại lợi ích cho các quốc gia tham gia.
Hoạt động xuất khẩu còn diễn ra trên phạm vi rất rộng cả về không gian lẫn thời gian. Việc xuất khẩu một lô hàng nhất định có thể chỉ diễn ra trong thời gian ngắn, song cũng có thể kéo dài hàng năm. Có thể tiến hành trên phạm vi lãnh thổ một nước hay nhiều nước khác nhau, đối với từng đối tác và nhiều đối tác thuộc các quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhau.
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu
2.1. Đối với nền kinh tế thế giới
- Hoạt động xuất khẩu sẽ tạo cơ hội cho các quốc gia trao đổi phương pháp quản lý, trao đổi thành tựu khoa học tiên tiến... Đây là một yếu tố then chốt trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đặc biệt là các nước đang phát triển như nước ta. Không những cho phép tăng khối lượng sản phẩm mà còn tăng chất lượng sản phẩm, tăng tính đa dạng của sản phẩm, tiết kiệm chi phí lao động xã hội.
- Hoạt động xuất khẩu tăng cường hợp tác và chuyên môn hoá quốc tế là một mắt xích quan trọng trong quá trình phân công lao động quốc tế, góp phần nâng cao uy tín của quốc gia trên thị trường quốc tế. Điều này được chứng minh qua việc Việt Nam nổi lên là một nước đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo và đã trở thành nước có vị trí nhất nhì về sản xuất và xuất khẩu một loạt các sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới như cà phê, hạt tiêu, cao su và nhiều loại thuỷ sản khác. Một loạt các sản phẩm công nghiệp chế biến ngày càng có chỗ đứng trên thương trường quốc tế, góp phần giới thiệu các sản phẩm của Việt Nam với thế giới như: giày da, hàng thủ công mỹ nghệ, vật liệu xây dựng, hàng trang trí nội thất, …( Tham khảo bảng giá trị xuất khẩu của cả nước 7 tháng đầu năm 2006. Phụ lục, trang 35)
- Thông qua hoạt động xuất khẩu sẽ kích thích sản xuất và tiêu dùng trong nền kinh tế mỗi quốc gia. Từ đó, xuất khẩu trở thành một động lực rất mạnh mẽ, thúc đẩy kinh tế phát triển không những ở các nước đang phát triển mà còn ở cả các nước công nghiệp phát triển.
2.2. Đối với nền kinh tế mỗi quốc gia
- Xuất khẩu tạo nguồn vốn chính cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá đất nước. Sự tăng trưởng kinh tế của mỗi một quốc gia đòi hỏi phải có bốn điều kiện là: Nhân lực, tài nguyên, vốn và kỹ thuật. Song không phải bất cứ quốc gia nào cũng có đủ các điều kiện ấy. Trong thời kỳ hiện nay hầu hết các quốc gia đang phát triển đều thiếu vốn, kỹ thuật nhưng lại thừa lao động. Để giải quyết tình trạng này buộc phải tiến hành nhập khẩu những trang thiết bị từ bên ngoài mà trong nước chưa có khả năng đáp ứng. Nhưng vấn đề đặt ra là làm thế nào để có đủ ngoại tệ cần thiết cho việc nhập khẩu. Dự trữ quốc gia về ngoại tệ là nguồn vốn cơ bản vô cùng quan trọng để lập cán cân thanh toán quốc tế, nói lên sức mạnh quốc gia trong đó có sức mạnh về nhập khẩu, những yếu tố sống còn không những về kinh tế mà cả vấn đề chính trị, an ninh quốc gia. Trong thế giới hiện đại, việc đưa vào xuất khẩu để bảo đảm cán cân thanh toán quốc tế là quốc sách cơ bản của bất kỳ quốc gia nào muốn độc lập, tự chủ, không bị động, lép vế trong quan hệ quốc tế.
Thực tiễn cho thấy, để có nguồn vốn nhập khẩu các nước có thể sử dụng các nguồn huy động vốn là: Đầu tư nước ngoài; Vay nợ, viện trợ; Thu từ hoạt động xuất khẩu. Nhưng đối với nguồn vốn đầu tư nước ngoài và nguồn vốn vay nợ, viện trợ bằng phương thức ODA trong tình hình hiện nay không dễ dàng gì có thể huy động được, nhất là sau khi có cuộc khủng hoảng tiền tệ khu vực vừa qua. Hơn nữa khi sử dụng nguồn vốn này các nước thường phải chịu những thiệt thòi và những điều kiện rằng buộc nhất định ... Bởi vậy nguồn vốn quan trọng nhất mà các nước có thể trông chờ vào đó là nguồn thu từ hoạt động xuất khẩu. Có thể nói, xuất khẩu là yếu tố tích cực quyết định quy mô và tốc độ của nhập khẩu.
- Thông qua hoạt động xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành cùng có cơ hội phát triển. Chẳng hạn như phát triển ngành công nghiệp thực phẩm thì trồng trọt chăn nuôi cũng phát triển hoặc khi phát triển ngành may mặc xuất khẩu sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển ngành quan trọng như dệt và các ngành sản xuất nguyên liệu bông, chỉ, thuốc nhuộm, máy khâu, máy dệt và cả các ngành cơ khí khác phát triển.
- Thông qua hoạt động sản xuất hàng hoá xuất khẩu sẽ thu hút, tạo việc làm được hàng triệu lao động, tạo thu nhập ổn định, cải thiện đời sống của nhân dân từ đó góp phần giải quyết hàng loạt các vấn đề xã hội kéo theo.
- Xuất khẩu góp phần thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một nền kinh tế “đóng” sang một nền kinh tế hướng ngoại. Nền kinh tế “đóng” người ta chỉ có thể mở rộng sản xuất cho một thị trường nhỏ hẹp. Ngược lại, trong nền kinh tế “mở”, người ta sản xuất cho thị trường gấp mấy chục và mấy trăm lần thị trường quốc nội.
Như vậy, có thể nói đẩy mạnh xuất khẩu sẽ tạo động lực cần thiết cho việc giải quyết các vấn đề thiết yếu của nền kinh tế mỗi quốc gia, thúc đẩy quá trình chuyên môn hoá sản xuất và còn giúp các nước khai thác triệt để lợi thế của mình trong phân công lao động quốc tế. Điều này nói lên tính khách quan của việc tăng cường xuất khẩu trong quá trình phát triển nền kinh tế của mỗi nước.
2.3. Đối với doanh nghiệp
- Tạo điều kiện rộng lớn để mở rộng thị trường. Các công ty cao su, cà phê, hạt điều, các nhà nuôi lợn sữa, trồng rau, hoa sau khi mở rộng được thị trường xuất khẩu đã làm cho doanh thu của doanh nghiệp từ hàng triệu, chục triệu lên hàng trăm hàng tỷ triệu VNĐ. Vấn đề thị trường là vấn đề sống còn của doanh nghiệp và xuất khẩu duy trì khẩ năng tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
- Qua hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cạnh tranh trên thị trường thế giới về thị phần, về giá cả, chất lượng và mẫu mã của sản phẩm mình đưa vào thị trường quốc tế. Chính yếu tố này buộc các doanh nghiệp phải năng động, sáng tạo để tìm ra cho mình một hướng đi đúng, phù hợp để có thể tồn tại trên thị trường quốc tế.
- Sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động vào làm việc, tạo thu nhập ổn định cho cán bộ công nhân viên, tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, vừa thu hút được lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Tóm lại, hoạt động xuất khẩu cuả doanh nghiệp càng phát triển, doanh nghiệp càng vững mạnh, cơ hội phát triển trong cạnh tranh như một thuỷ thủ từ bơi trong ao nhà vươn ra biển cả. Đó là sự thay đổi về chất trong sự phát triển các doanh nghiệp.
2.4. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
Như trên đã trình bày, kinh tế Việt Nam cần xuất khẩu vì trước đây kinh tế nước ta là một nền kinh tế “đóng” chuyển qua “mở”, từ nông nghiệp tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đang chuyển mình tham gia vào tổ chức thương mại thế giới WTO để hội nhập kinh tế thế giới. Đó là tất cả những gì nói lên vai trò xuất khẩu hiện nay đối với nền kinh tế Vịêt Nam và cũng là con đường sống còn của nền kinh tế non trẻ như nước ta.
Nghị quyết Đại hội Đảng VI đã được cụ thể hoá bằng nhiều chính sách kinh tế vĩ mô nhằm đạt mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu. Một trong những thành tựu quan trọng nhất của chính sách đổi mới (1986) là tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân hàng năm thời kỳ 1986- 2005 là 21,2% cao gần gấp hai lần tăng trưởng GDP. Nếu xuất khẩu bình quân ở giai đoạn trước đổi mới là 1,4 tỷ USD, thì giai đoạn 2001- 2005 đã tăng lên 22 tỷ USD ( gấp gần 16 lần). Với mục tiêu phát triển xuất khẩu cao làm động lực thúc đẩy tăng trưởng GDP và xuất khẩu bình quân đầu người ngày càng tăng thể hiện qua các thời kỳ 1986- 2005:
Xuất khẩu và GDP của Việt Nam từ 1986- 2005
Chỉ tiêu
ĐVT
1986 -
1990
1991-
1995
1996 -
2000
2001 -
2005
XK bình quân
Tỷ trọng XK so với GDP
XK bình quân/người
Chỉ số phát triển XK 5 năm
Tốc độ tăng XK bình quân năm
triệu USD
%
USD
%
%
1406
20,5
18,1
130,7
28,0
3431
25,2
43,6
119,3
17,8
10365
37,4
129,9
122,1
21,6
22166
54,0
274,0
117,9
17,5
Nguồn: Báo cáo thống kê năm 2006; Tổng cục thống kê
Xuất khẩu của Việt Nam vượt qua ngưỡng 10 tỷ USD vào năm 1999, trong khi đó Hàn Quốc và Đài Loan vào năm 1978, Malaysia, Indonesia và Thái Lan là năm 1980. Theo báo cáo thống kê của tổng cục thống kê, hiện nay trong khối ASEAN, chúng ta đứng thứ 6 sau Philippin, kim ngạch chiếm 0,3% so với tổng xuất khẩu của thế giới.
Những thay đổi trong chính sách quản lý kinh tế của Nhà nước cũng dần tạo thế chủ động trong điều hành sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Việc tham gia trực tiếp của người sản xuất vào quá trình tiêu thụ sản phẩm ở thị trường trong nước và ngoài nước đã gắn bó chặt chẽ sản xuất với tiêu dùng, chất lượng sản phẩm nâng lên rõ rệt, cải thiện sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế. Cơ cấu hàng xuất khẩu thay đổi theo hướng tăng sản phẩm chế biến sâu và tinh, giảm tỷ trọng hàng thô hay mới sơ chế. Bước chuyển mình rõ nét là tỷ trọng hàng thô xuất khẩu so với tổng kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 1996- 2000 ở mức 54,8% ở và giai đoạn 2001- 2005 giảm xuống còn 45,3%.
ii. các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu
1. Các công cụ và chính sách kinh tế vĩ mô
1.1. Thuế quan
Trong hoạt động xuất khẩu, thuế quan là loại thuế đánh vào từng đơn vị hàng xuất khẩu. Việc đánh thuế xuất khẩu được Chính phủ ban hành nhằm quản lý xuất khẩu theo chiều hướng có lợi nhất cho nền kinh tế trong nước và mở rộng các quan hệ đối ngoại. Nhìn chung công cụ này chỉ được áp dụng đối với một số ít mặt hàng xuất khẩu bổ sung nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Chính sách khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng là một chính sách thuế quan hiện hành, khuyến khích mạnh xuất khẩu hàng hoá cuả nước ta hiện nay
1.2. Các công cụ phi thuế quan:
- Công cụ Quota (hạn ngạch): hạn ngạch được hiểu như quy định của Nhà nước về số lượng cao nhất của một mặt hàng hay một nhóm mặt hàng được phép xuất khẩu trong một thời gian nhất định thông qua hình thức cấp giấy phép.
Bên cạnh việc thi hành những biện pháp quản lý hàng xuất khẩu như kể trên, các quốc gia còn áp dụng một số các biện pháp phi thuế quan khác như: Đặt ra các tiêu chuẩn về chất lượng hàng hoá, các thông số kỹ thuật quy định cho hàng xuất khẩu, các quy định về kiểm dịch,…Việc ban hành luật cấm bán phá giá hàng nước mình trên thị trường thế giới cũng là một công cụ phi thuế quan
1.3. Tỷ giá và các chính sách đòn bẩy có liên quan nhằm khuyến khích hoạt động xuất khẩu
- Một chính sách tỷ giá hối đoái thuận lợi cho xuất khẩu là chính sách duy trì tỷ giá tương đối ổn định và có sức mua tương đối của đồng bản tệ ở mức thấp. Kinh nghiệm của các nước đang thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu là điều chỉnh tỷ giá hối đoái thường kỳ để đạt mức tỷ giá cân bằng trên thị trường và duy trì mức tỷ giá tương quan với chi phí và giá cả trong nước. Việc một số các cường quốc là đối thủ cạnh tranh không ngừng gây sức ép đòi tăng giá đồng bản tệ ( yên, nhân dân tê, ...) trong những năm gần đây để kìm hãm bớt tăng trưởng xuất khẩu, bành trướng thị trường thế giới, Trung Quốc, Nhật Bản là một ví dụ.
- Trợ cấp xuất khẩu cũng là một trong những biện pháp có tác dụng thúc đẩy mở rộng xuất khẩu đối với mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu. Biện pháp này được áp dụng vì khi thâm nhập vào thị trường nước ngoài thì sự rủi ro cao hơn so với tiêu thụ trong nước. Việc trợ cấp xuất khẩu cho các mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu có thể dưới các hình thức, trợ giá, miễn, giảm thuế xuất khẩu, hạ lãi cho vay vốn sản xuất hàng xuất khẩu hoặc cho bạn hàng nước ngoài vay ưu đãi để họ có điều kiện mua sản phẩm của nước mình ... Tất nhiên, trợ cấp xuất khẩu phải được thực hiện theo đúng các quy định của WTO và các hiệp định song phương và đa phương khác nhau.
1.4. Các chính sách đối với cán cân thanh toán thương mại
Trong hoạt động kinh tế thương mại nói chung bảo đảm cân bằng cán cân thanh toán và cán cân thương mại có ý nghĩa quan trọng góp phần vào việc củng cố lòng tin đối với các đối tác nước ngoài, nâng uy tín của mình trên thị trường quốc tế và tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế nhanh. Đương nhiên biện pháp để giữ cân bằng không phải là hạn chế nhập khẩu, cấm nhập khẩu hoặc vay vốn. Sự cân bằng theo kiểu đó là cân bằng tiêu cực. Vấn đề đặt ra là cần khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, trong đó chú trọng tới mặt hàng chủ lực, giảm bớt nhập siêu tiến tới cân bằng xuất nhập. Như vậy, nhìn chung việc giữ cán cân thanh toán, cán cân thương mại đã chứa đựng trong đó những yếu tố thúc đẩy hoạt động xuất khẩu.
2. Các quan hệ kinh tế quốc tế
Trong hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế, các mối quan hệ quốc tế có tác động ảnh hưởng trực tiếp mạnh mẽ đối với hoạt động xuất khẩu. Khi xuất khẩu hàng hoá từ quốc gia này sang quốc gia khác người xuất khẩu phải đối mặt với hàng rào thuế quan, hàng rào phi thuế quan, các hàng rào này chặt chẽ hay nới lỏng phụ thuộc chủ yếu vào quan hệ kinh tế song phương giữa nước nhập khẩu và nước xuất khẩu. Với xu hướng toàn cầu nền kinh tế hiện nay nhiều liên minh kinh tế ở mức độ khác nhau được hình thành. nhiều hiệp định thương mại song phương và đa phương giữa các quốc gia, các tổ chức kinh tế cũng được ký kết với mục tiêu thúc đẩy hoạt động thương mại trong khu vực và toàn thế giới. Nếu một quốc gia tham gia vào các liên minh kinh tế và các hiệp định thương mại ấy sẽ là một tác nhân tích cực đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của một quốc gia. Nếu không chính nó lại trở thành vật cản đối với việc thâm nhập vào thị trường khu vực đó.
Tóm lại có được các mối quan hệ quốc tế mở rộng, bến vững và tốt đẹp sẽ tạo
những tiền đề thuận lợi cho việc đẩy mạnh xuất khẩu của một quốc gia.
3. Các yếu tố chính trị, chính phủ, pháp luật
ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động mua bán quốc tế. Các Công ty kinh doanh xuất khẩu đều phải tuân thủ các quy định của Chính phủ liên quan, tập quán và luật pháp quốc gia, quốc tế hiện hành. Khi hoạt động kinh tế quốc tế nói chung, kinh doanh xuất khẩu nói riêng các nhà kinh doanh luôn phải lưu ý: Các quy định của luật pháp Việt Nam đối với hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế (thủ tục và các quy định về mặt hàng xuất khẩu, quy định về quản lý ngoại tệ ... ). Các hiệp ước, hiệp định thương mại mà Việt Nam tham gia. Các quy định nhập khẩu của các quốc gia mà doanh nghiệp có quan hệ làm ăn. Các vấn đề pháp lý và tập quán quốc tế có liên quan tới việc xuất khẩu như: Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế năm 1950 hay luật bảo hiểm quốc tế, luật vận tải quốc tế, các quy định về giao nhận ngoại thương, INCOTERMS 2000 ...
4. Các yếu tố khoa học công nghệ
Đối với lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu, việc nghiên cứu và đưa vào ứng dụng các công nghệ mới, các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật sẽ giúp cho các đơn vị sản xuất tạo ra những sản phẩm mới với chất lượng cao và mẫu mã đa dạng hơn. Nhờ đó chu kỳ sống của sản phẩm được kéo dài và có thể thu được nhiều lợi nhuận hơn. Yếu tố khoa học công nghệ là một trong những yếu tố mạnh mẽ nhất, tăng sức cạnh tranh bền vững cho hàng xuất khẩu của bất kỳ quốc gia nào
Trong hoạt động xuất khẩu cũng vậy, việc áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ có tác động làm tăng hệ quả của công tác này. Điều thấy rõ nhất, là nhờ sự phát triển của bưu chính viễn thông, tin học mà các đơn vị ngoại thương có thể đàm phán ký kết hợp đồng với đối tác qua điện thoại, điện tín ... giảm được chi phí đi lại.
Bên cạnh đó khoa học công nghệ còn có tác động vào các lĩnh vực như vận tải hàng hoá, bao gói, bảo quản hàng hoá, quảng cáo tiếp thị và kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng ... Đó là những nhân tố ảnh hưởng tích cực đến hoạt động xuất khẩu.
chương ii: thực trạng hoạt động xuất khẩu nguyên liệu thức ăn gia súc ở công ty TNhh thương mại quang dũng miền bắc
i. khái quát về công ty tnhh thương mại quang dũng miền bắc
1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty.
Công ty trách nhiệm hữu hạn Thương mại Quang Dũng Miền Bắc, là một doanh nghiệp có hệ thống hạch toán độc lập, hoàn toàn tự chủ về mặt tài chính, có tư cách pháp nhân, được mở tài khoản tại ngân hàng Thương mại và sử dụng con dấu riêng theo quy định của Nhà nước. Công ty được thành lập theo giấy chứng nhận kinh doanh số 0102 020449 ngày 30 tháng 1 năm 1999 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội cấp. Công ty được thành lập bởi bà: Cao Thị Cẩm Tú ( Giám đốc Công ty), ông Lý Anh Dũng và bà Diệp Hữu Linh Lan.
Tên giao dịch: The Northern Quang Dung Trading Company Limited;
Tên viết tắt: Northern Quang Dung Co .,Ltd;
Trụ sở chính: A11, Tầng 3, Khách Sạn Horizon, 40 Cát Linh, Phường Cát Linh, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội;
SĐT (văn phòng): 7332471;
Fax (văn phòng): 7332470.
Ngành, nghề kinh doanh:
- Mua bán thức ăn gia súc, giống vật nuôi; nguyên liệu, thức ăn bổ sung dùng nuôi trồng thuỷ sản;
- Đại lý ký gủi hàng hoá, dịch vụ thương mại; Kinh doanh nhà, tư vấn xây dựng ( Không bao gồm dịch vụ thiết kế công trình), thi công xây lắp công trình xây dựng, cho thuê kho bãi, mua bán xe ô tô, mua bán hoá chất ( Trừ hoá chất nhà nước cấm), máy nông nghiệp; Cho thuê văn phòng, mua bán máy điện thoại, máy fax, tổng đài nội bộ đến 32 số và phụ kiện, mua bán thiết bị viễn thông- điện lực- cấp nước và phụ kiện;
- Mua bán máy vi tính ( trừ máy in màu), thiết bị nguồn, thiết bị chống sét, lắp đặt bảo trì, bảo dưỡng thiết bị viễn thông, thiết bị may thêu công nghiệp và dân dụng. Hạt nhựa, kim khí điện máy, vật liệu xây dựng, hàng trang trí nội thất, thiết
bị chăn nuôi, phân bón;
- Mua bán thuỷ sản; nông sản thực phẩm, lương thực./.
Trên đây là một danh mục nganh nghề đăng ký kinh doanh Thương mại rất rộng, bao quát khá nhiều mặt hàng nhưng doanh nghiệp chỉ kinh doanh trong từng thời gian khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật. Căn cứ để đăng ký kinh doanh mặt hàng nguyên liệu thức ăn gia súc của Công ty là xuất phát từ nước ta là một nước nông nghiệp, có khả năng cung cấp nguyên liệu thức ăn gia súc cho hoạt động chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản cũng như khả năng cạnh tranh về giá thành cao. Chính vì vậy, cho đến nay, sau gẩn 8 năm hoạt động, trong 4 ngành nghề kinh doanh, Công ty chủ yếu tập trung vào hoạt động xuất khẩu nguyên liệu thức ăn gia súc. Một số hoạt động khác như đại lý ký gửi hàng hoá, dịch vụ thương mại hay tư vấn xây dựng cho thuê kho bãi, hầu như Công ty không có khả năng triển khai vì một phần do cơ sở hạ tầng còn yếu kém, thủ tục hành chính nước ta còn rườm rà, chưa thực sự đáp ứng được những yêu cầu của ngành nghề kinh doanh. Mặt khác, lý do chủ yếu là Công ty mới thành lập, quy mô nhỏ nên việc phát triển ngành nghề kinh doanh này chưa đem lại hiệu quả cao.
Tuy vậy, một số ngành nghề như: Mua bán lương thực, hàng trang trí nội thất hay thức ăn bổ sung dùng nuôi trồng thuỷ sản đang có triển vọng tăng mạnh do mục tiêu chung của Công ty là hướng xuất khẩu vào những mặt hàng có khả năng cạnh tranh cao, tận dụng được những nguồn lực sẵn có ở trong nước (điều kiện đất đai màu mỡ, nhiều sông ngòi, kênh rạch, khí hậu nhiệt đới) nhằm đem lại hiệu quả kinh doanh cao.
2. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý.
Để thực hiện tốt mục tiêu, chiến lược kinh doanh trước mắt cũng như lâu dài thì tổ chức bộ máy quản lý quyết định sự thành bại trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Một cơ cấu tổ chức quản lý tinh gọn, hợp lý sẽ khuyến khích người lao động trong công ty làm việc có chất lượng và năng suất cao, giảm thiểu được thời gian chết và những chi phí không hợp lý khác. Hiện nay, Công ty tổ chức quản lý theo hệ thống dọc gồm 3 bộ phận chính là: Bộ phận tổ chức hành chính, Bộ phận kế hoạch và thị trường và Bộ phận kế toán. Các Bộ phận này làm việc dưới sự
lãnh đạo trực tiếp của Ban giám đốc.
Sơ đồ: Phần Phụ lục, trang36
Giám đốc Công ty:
- Điều hành toàn bộ công việc của Công ty từ việc tổ chức lao động đến việc thực hiện nghiệp vụ kinh doanh của Công ty. Đồng thời chịu trách nhiệm về quyền hạn, nghĩa vụ trước pháp luật về việc chấp hành các quy định của nhà nước cũng như của Công ty.
- Thay mặt Công ty ký kết và thỏa thuận các hợp đồng kinh tế và các văn bản giao dịch. Đồng thời tổ chức thu thập, xử lý thông tin giúp Công ty trong việc xây dựng kế hoạch hằng năm.
Phó giám đốc: Do giám đốc bổ nhiệm, là trợ thủ và thay mặt giám đốc khi vắng mặt giám đốc, là người trực tiếp truyền đạt mọi mệnh lệnh và quyết định của Giám đốc tới từng phòng ban.
Phòng tài chính kế toán: Tham mưu và thừa hành nhiệm vụ do Giám đốc giao:
- Quản lý toàn bộ nguồn vốn, các tài liệu, số liệu về kế toán tài chính, quyết toán, tổng kiểm kê tài sản hàng năm theo định kỳ của Nhà nước.
- Hoàn thành tốt công tác báo cáo về tài chính và nộp các khoản ngân sách cho Nhà nước theo quy định.
- Tính toán các thương vụ kinh doanh của các đơn vị, cơ sở trực thuộc đưa ra các phương án khả thi để bảo lãnh vay ngân hàng trong hoạt động sản xuất thuận lợi.
Phòng tổ chức hành chính: Tham mưu và thừa hành nhiệm vụ do Giám đốc giao:
- Tổ chức nhân sự, tổ chức bộ máy quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh,
công tác quản lý hồ sơ của cán bộ công nhân viên trong Công ty.
- Cân đối tiền lương, tuyển lao động ngắn hạn và dài hạn, điều chỉnh lao động
giữa các đơn vị, giải quyết, quyết định cho cán bộ công nhân viên thôi việc về hưu,
nghỉ mất sức, kỷ luật...
- Căn cứ vào chế độ chính sách của Nhà nước để giải quyết các vấn đề cụ thể
và chế độ bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, ...
Phòng kế hoạch và thị trường: Tham mưu, thừa hành nhiệm vụ do Giám đốc giao:
- Xây dựng các kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm từ các số liệu báo
cáo định kỳ của các bộ phận khác trong công ty, từ tình hình thực tế của thị trường,
xây dựng phương hướng phát triển sản xuất kinh doanh và kế hoạch dài hạn.
- Có kế hoạch cung ứng vật tư cho các đơn vị theo kế hoạch.
- Có trách nhiệm về chất lượng và bảo quản vật tư trong kho, quản lý tốt các kho của Công ty.
- Nghiên cứu và tìm kiếm các biện pháp mở rộng thị trường, tiêu thụ hàng hoá của Công ty.
Các phòng nghiệp vụ: Có vai trò thi hành việc sản xuất, xuất khẩu các mặt hàng theo kế hoạch của Công ty. Công ty có 3 phòng nghiệp vụ chức năng:
- Phòng NV1: kinh doanh xuất khẩu nguyên liệu thức ăn gia súc.
- Phòng NV2: kinh doanh xuất khẩu máy nông nghiệp, thiết bị chăn nuôi.
- Phòng NV3: kinh doanh xuất khẩu nông sản, thực phẩm.
Với cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý như hiện nay của Công ty là tương đối hợp lý. Một mặt giữ nguyên chế độ một thủ trưởng, chỉ có Giám đốc là người có quyền ra quyết định đối với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Mặt khác, phát huy được sự giúp đỡ của các phòng ban trong việc chuẩn bị các quyết định, đồng thời hướng dẫn, tư vấn, kiểm tra đối với các đơn vị thực hiện quyết định.
3. Nội dung hoạt động kinh doanh của Công ty.
- Nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu, dịch vụ, liên doanh, liên kết đầu tư trong và ngoài nước, ... theo đúng luật pháp hiện hành của Nhà nước và hướng dẫn của Bộ Thương mại.
- Tổ chức sản xuất, nâng cao năng suất lao động, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Chấp hành luật pháp của Nhà nước, thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước.
- Thực hiện đầy đủ cam kết trong hợp đồng kinh tế đã ký kết với các đơn vị
trong và ngoài nước.
- Quản lý và sử dụng tốt đội ngũ cán bộ công nhân viên.
Trong số năm nội dung trên, nội dung công tác nghiên cứu thị trường, liên doanh, liên kết đầu tư thị trường trong và ngoài nước của Công ty còn nhiều hạn chế. Một mặt do kinh phí của Công ty còn eo hẹp, trang thiết bị và phương tiện làm việc còn nghèo nàn gây nên những khó khăn đáng kể cho hoạt động chuyên môn, xúc tiến thương mại. Mặt khác, khâu chuẩn bị khách hàng, đối tác tham gia các chương trình xúc tiến thương mại của Công ty còn yếu do đó chưa thực sự phát huy được tác dụng của việc mở rộng thị trường, góp phần tăng trưởng xuất khẩu. Thậm chí một số chương trình khảo sát thị trường, tham gia hội chợ triển lãm chưa được chuẩn bị kỹ, còn mang tính hình thức.
4. Nguồn nhân lực
Yêú tố con người luôn là linh hồn của mỗi doanh nghiệp, chất lượng nguồn lao động có ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng sản phẩm và sự phát triển của doanh nghiêp. Vì vậy để biết được sự phát triển của Công ty chúng ta cần xem xét tình hình lao động của Công ty qua bảng dưới đây.
Bảng 1: Số lượng công nhân viên trong Công ty (2003- 2005)
Chỉ tiêu
2004
2005
SL(người)
Tỷ trọng(%)
SL(người)
Tỷ trọng(%)
Lao động quản lý
Lao động nghiệp vụ
Lao động nghiên cứu
Lao động trực tiếp
9
20
5
5
23,08
51,28
12,82
12,82
7
26
8
9
14
52
16
18
Tổng
39
100%
50
100%
Nguồn: Báo cáo tài chính; Phòng Kế toán
Qua bảng số liệu trên ta thấy, số lượng lao động của Công ty có xu hướng tăng. Nếu năm 2004 tổng số lao động của Công ty là 39 người thì năm 2005 tăng lên 50 người. ở đây cần nhấn mạnh sự giảm về số lượng lao động quản lý từ 23,08%( 2004) xuống còn 14%(2005), đây là kết quả của việc tinh giản bộ máy quản lý gọn nhẹ. Tuy nhiên lao động về nghiệp vụ , nghiên cứu và lao động trực tiếp đều tăng. Có sự gia tăng này do Công ty đang đứng trước những yêu cầu thực tế về nghiệp vụ chuyên môn, giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng và hoạt động nghiên cứu sản phẩm và thị trường. Tuy nhiên, công tác này đòi hỏi cán bộ phải có nghiệp vụ chuyên môn sâu, có kinh nghiệm và nhạy bén với tình hình thực tiễn. Hiện Công ty có kế hoạch đưa nhân viên đi đào tạo ở nước n._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36695.doc