Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy đầu tư đổi mới công nghệ ở Việt Nam

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, không sao chép bất cứ tài liệu nào. Các số liệu và kết quả ngiên cứu trong chuyên đề này là trung thực. Các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc. Những quan điểm trình bày trong chuyên đề là quan điểm của cá nhân người viết. Tác giả chuyên đề Bùi Anh Dũng DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CP : Chính phủ CT : Chỉ thị QĐ : Quyết định NQ : Nghị quyết DN : Doanh nghiệp DNNN : Doanh nghiệp nhà

doc94 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1356 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy đầu tư đổi mới công nghệ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước DNNN : Doanh nghiệp vừa và nhỏ FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài GDP : Tổng sản phẩm quốc nội CNH : Công nghiệp hoá HĐH : Hiện đại hoá HTX : Hợp tác xã NSNN : Ngân sách nhà nước VAT : Thuế giá trị gia tăng KH&ĐT : Kế hoạch và đầu tư KH&CN : Khoa học và công nghệ TƯ : Trung ương CNTT : Công nghệ thông tin R&D : Nghiên cứu và triển khai ĐTNN : Đầu tư nước ngoài NCQLKTTƯ : Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương DSI : Viện chiến lược phát triển MPI : Bộ kế hoạch và đầu tư CIEM : Viện nghiên cứu quản lý trung ương DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG CHUYÊN ĐỀ Bảng 1: Đầu tư cho hoạt động KH&CN Bảng 2: Văn bằng độc quyền sáng chế cấp 1981-2005 Bảng 3: So sánh trình độ công nghệ Việt Nam với các nước trong khu vực Bảng 4: Nguồn ngốc ý tưởng đổi mới công nghệ của các doanh nghiêp Bảng 5: Phương thức thực hiện đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Bảng 6: Năng lực của đội ngũ cán bộ công nhân kỹ thuật trong các DN LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển theo hướng tiếp tục con đường đổi mới, chủ động hội nhập, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế một mặt giúp chúng ta có cơ hội tranh thủ tiếp cận các thành tựu tiến bộ khoa học công nghệ trên thế giới đã đạt được để thực hiện thắng lợi quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhưng mặt khác, quá trình này cũng buộc doanh nghiệp Việt Nam phảI đối mặt với thách thức to lớn trước sức ép cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt. Để hội nhập thành công trong điều kiện năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và sản phẩm còn nhiều yếu kém, nhà nước ta cần sớm thực hiện những cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy hơn nữa vai trò của công nghệ đối với quá trình phát triển kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia trong giai đoạn tới. Sở dĩ như vậy là vì đổi mới công nghệ cho phép các doanh nghiệp tăng tỉ trọng phần giá trị gia tăng của sản phẩm, hạ giá thành, cải thiện hiệu quả sản xuất và thúc đẩy tăng trưởng. Trong những năm đổi mới vừa qua. Đảng và nhà nước ta đã chú ý tới vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự nghiệp phát triển thông qua việc ban hành và thực hiện những chính sách thúc đẩy và ứng dụng công nghệ, chuyển giao công nghệ trong sản xuất, dịch vụ, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất. Tuy nhiên tồn tại hiện nay của nền kinh tế là đổi mới khoa học và công nghệ chưa trở thành nhu cầu bức thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp. Các doanh nghiệp chưa tự chú ý cải tiến, đổi mới công nghệ cho phù hợp cũng như chưa chú ý đầu tư để phát triển thương hiệu sản phẩm. Điều này dẫn đến thực trạng là trình độ công nghệ của nhiều nghành và doanh nghiệp còn lạc hậu; năng lực công nghệ nhìn chung còn chậm được cải thiện; nhiều sản phẩm kém sức cạnh tranh cả ở thị trường trong nước và ngoài nước. Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng Khoá IX họp tháng 7/2002 đã đề ra nhiệm vụ cần " thúc đẩy việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp...”.Đổi mới công nghệ đang trở thành vấn đề hết sức quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế nước nhà. Hiện đầu tư đổi mới công nghệ là một vấn đề hêt sức nóng bỏng, mới mẻ ma các nhà kinh tế và doanh nghiệp đang hết sức quan tâm. Trên tinh thần đó em đã chọn nghiên cứu đề tài "Hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy đầu tư đổi mới công nghệ tại Việt Nam giai đoạn 2006-2010". Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là tập trung phân tích thực trạng đầu tư đổi mới công nghệ ở nước ta và các cơ chế chính sách được ban hành và triển khai thực hiện thời gian qua. Trên cơ sở đó, đề tài sẽ nêu bật những tồn tại, nguyên nhân của tình hình, qua đó kiến nghị các cơ chế, chính sách và giải pháp nhằm thúc đẩy các nhà đầu tư tiềm năng cả trong nước và nước ngoài đầu tư đổi mới công nghệ ở nước ta trong thời gian 5 năm tới. Kết cấu của đề tài gồm 3 chương: Chương I: Khái quát về đầu tư đổi mới công nghệ Chương II: Thực trạng cơ chế, chính sách đầu tư đổi mới công nghệ ở Việt Nam Chương III: Kiến nghị hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy đầu tư đổi mới công nghệ ơ Việt Nam giai đoạn 2006-2010 Em xin chân thành cảm ơn Th.S. Bùi Đức Tuân _ Khoa KH&PT Trường ĐHKTQD và Th.s.Trần Toàn Thắng _ Viện NCQLKTW đã nhiệt tình giúp đỡ em nghiên cứu hoàn thành đề án này. Mặc dù đã hết sức cố gắng trong nghiên cứu, nhưng do trình độ kinh nghiệm còn hạn chế và khuôn khổ thời gian có hạn chưa nghiên cứu sâu sắc vấn đề nên bài viết không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, đề tài nghiên cứu rất cần những ý kiến đóng góp, sửa chữa để được hoàn thiện hơn. CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ I. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI ĐẦU TƯ 1. Khái niệm đầu tư Xuất phát từ phạm vi phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư chúng ta có thể có những cách hiểu khác nhau về đầu tư (còn gọi là hoạt động đầu tư ). Đầu tư theo nghĩa rộng, nói chung, là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ1. PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt (2004), giáo trình kinh tế đầu tư, NXB Thống Kê . Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường xá, các của cải vật chất khác...), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật...) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất lao động cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Trong các kết quả đã đạt được trên đây những kết quả là tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc, mọi nơi, không chỉ đối với người bỏ vốn mà còn đối với cả nền kinh tế. Những kết quả này không chỉ nhà đầu tư mà cả nền kinh tế được thụ hưởng. Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế-xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó. Như vậy nếu xem xét trong phạm vi quốc gia thì chỉ có hoạt động sử dụng các hoạt động của các tài sản và nguồn nhân lực sẵn có thuộc phạm trù đầu tư phát triển. Từ đây ta có thể định nghĩa về đầu tư phát triển như sau: Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. 2. Phân loại các hoạt động đầu tư Trong công tác quản lý và kế hoạch hoạt động đầu tư các nhà kinh tế phân loại hoạt động đầu tư theo các tiêu thức khác nhau. Những tiêu thức phân loại đầu tư thường được sử dụng là: - Theo bản chất của đối tượng đầu tư, hoạt động đầu tư bao gồm đầu tư cho các đối tượng vật chất (đầu tư tài sản vật chất hoặc tài sản thực như nhà xưởng,máy móc, thiết bị...) cho các đối tượng tài chính như mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác...) và đầu tư cho các hoạt động phi vật chất (đầu tư tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực như đào tạo, nghiên cứu khoa học, y tế...). Trong các loại đầu tư trên đây, đầu tư đối tượng vật chất là điều kiện tiên quyết, cơ bản làm tăng tiềm lực của nền kinh tế, đầu tư tài chính là điều kiện quan trọng để thu hút mọi nguồn vốn từ mọi tầng lớp dân cư cho đầu tư đối tượng vật chất, còn đầu tư tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực là điều kiện tất yếu để đảm bảo cho đầu tư các đối tượng vật chất tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế- xã hội cao. - Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư có thể phân chia các hoạt động đầu tư thành đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng (kỹ thuật và xã hội). Các hoạt động đầu tư này có quan hệ tương hỗ với nhau. Chẳng hạn đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật và cơ sỏ hạ tầng tạo điều kiện cho đầu tư phát triển kinh doanh đến lượt mình lại tạo tiềm lực cho đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, cơ sở hạ tầng và các hoạt động đầu tư khác. - Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư, hoạt động đầu tư có thể chia thành đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp. + Đầu tư trực tiếp: trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản ký điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết qủa đầu tư đầu tư trực tiếp lại được phân cha thành 2 loại: Đầu tư dịch chuyển và đầu tư phát triển. Đầu tư dịch chuyển là loại đầu tư trong đó người có tiền mua lại một số cổ phần lớn để nắm quyền chi phối hoạt động của doanh nghiêp. Trong trường hợp này, việc đầu tư không làm gia tăng tài sản của doanh nghiệp, mà chỉ thay đổi quyền sử hữu các cổ phần của doanh ngiệp. Đầu tư phát triển là loại bỏ vốn đầu tư để tạo nên những năng lực sản xuất phục vụ mới (cả về lượng và chất). Đây là loại đầu tư để tái sản xuất mở rộng, là biện pháp chủ yếu để cung cấp việc làm cho người lao động, là tiền đề để thực hiện đầu tư tài chính và đầu tư chuyển dịch. + Đầu tư gián tiếp: Trong đó người bỏ vốn đang trực tiếp tham gia điều hành quá trình thực hiện và phân hành các kết quả đầu tư. Đó là việc các chính phủ thông qua các chương trình tài trợ không hoàn lại, có hoàn lại với lãi suất thấp cho các chính phủ của các nước khác và để phát triển kinh tế -xã hội; là việc các cá nhân, các tổ chức mua các chứng chỉ có giá như cổ phiếu, trái phiếu...để được hưởng tức lợi (gọi là đầu tư tài chính). Chính sự điều tiết của bản thân thị trường và các chíng sách khuyến khích đầu tư theo định hướng của nhà nước, từ đó tạo nên một cơ cấu hợp lý, có nghĩa là người có vốn sẽ không chỉ đầu tư cho lĩnh vực thương mại mà cả cho lĩnh vực sản xuất, không chỉ đầu tư tài chính, đầu tư chuyển dịch mà cả đầu tư phát triển. 3. Vai trò của đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước. Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khẳ năng công nghệ của nước ta hiện nay. Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Theo VNIDO, nếu chia quá trình phát triển công nghệ trên thế giới làm 7 giai đoạn thì Việt Nam hiện ở vào giai đoạn 2. Viêt Nam đang là một trong 90 nước kém nhất về công nghệ. Với trình độ công nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và vững chắc. Chúng ta đều biết rằng có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu và phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi. II. CÔNG NGHỆ VÀ VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHỆ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ. 1. Khái niệm và phân loại công nghệ 1.1. Khái niệm công nghệ và các yếu tố cấu thành công nghệ Công nghệ là một yếu tố tạo ra quá trình sản xuất hàng hoá và cung cấp dịch vụ. Nó liên kết các yếu tố khấc của quá trình sản xuất kinh doanh theo một lô gíc về mặt kỹ thuật. Thiếu yếu tố này, không thể có bất kỳ quá trình sản xuất- kinh doanh nào. Ngay trong các quá trình cung cấp dịch vụ thuộc các lĩnh vực phi vật chất, thậm chí trong các hoat động công cộng, người ta cũng nói tới công nghệ, công nghệ triển khai, cung cấp dịch vụ và tiến hành các hoạt động. Công nghệ được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, những cách tiếp cận khác nhau. Theo nghĩa hẹp ban đầu, công nghệ chỉ được dùng trong sản xuất và được hiểu là "phương pháp công nghệ", tức là những phương pháp sản xuất sản phẩm, được mô tả qua những quy trình được hình thành dưới những hình thức bản vẽ, sơ đồ, bảng, biểu. Một khái niệm khác cũng được dùng trong mối quan hệ với công nghệ là khái niệm kỹ thuật-bao gồm toàn bộ các phương tiện kỹ thuật. Về sau, khái niệm công nghệ đã được sử dụng trong cả lĩnh vực cung cấp hàng hoá, dịch vụ và gần đây trong cả quản lý. Cùng với sự phát triển của quá trình chuyển giao công nghệ, khái niệm công nghệ đã được mở rộng: công nghệ là tập hợp tất cả các phương pháp sản xuất, cung cấp dịch vụ cũng như những phương tiện kỹ thuật cần thiết để thực hiện phương pháp đó. Công nghệ không chỉ bị giới hạn trong quá trình sản xuất, mà bao gồm cả những hoạt động nằm ngoài quá trình sản xuất trực tiếp( trong các quá trình chuẩn bị sản xuất và trong phân phối, lưu thông hàng hoá...). Với định nghĩa này, cả hai khái niệm “công nghệ” và “kỹ thuật” theo nghĩa hẹp đã được liên kết lại với nhau. Người ta xem phương pháp và quy trình công nghệ là yếu tố "phần mềm" của công nghệ còn thiết bị, máy móc và công cụ sản xuất là "phần cứng" của công nghệ. Tiếp đó sau thập kỷ 90, khái niệm công nghệ được mở rộng hơn. Nó được định nhĩa như tổng thể của các phương pháp, quy trình, máy móc, thiết bị cần dùng để sản xuất sản phẩm và cung cấp dịch vụ, các hiểu biết, kỹ năng, thông tin cũng như phương thức tổ chức mà con người cần áp dụng để sử dụng những phương pháp, phương tiện đó. Theo định nghĩa này, công nghệ được chia thành 4 yếu tố: phần cứng (các phương tiện kỹ thuật như máy móc, thiết bị, công cụ sản xuất...); phần mềm (các phương pháp, quy trình sản xuất và cung cấp sản phẩm-dịch vụ); phần tổ chức (kết cấu hệ thống sản xuất và quản lý sản xuất, cơ chế vận hành của hệ thống đó); và phần con người (kể cả các kỹ năng, kỹ xảo, kiến thức thông tin mà người lao động và các cán bộ quản lý các cấp cần có để sử dụng được công nghệ). Công nghệ là một khái niệm rộng, thay đổi cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, điều kiện kinh doanh và yêu cầu của quản lý. Hiện nó đã bao hàm một nội dung rất rộng và sau này có thể tiếp tục được mở rộng. Công nghệ, với thuật ngữ quốc tế "technology", được coi là phương tiện, công cụ để biến đổi giới tự nhiên thành thế giới do con người tạo ra; là tác nhân chủ chốt trong quá trình biến đổi các tài nguyên thiên nhiên thành các hàng hoá, dịch vụ. Theo từ điển bách Khoa Việt Nam phát hành 1999 đã tập hợp 5 khái niệm được coi là tiêu biểu về công nghệ như sau: 1, Công nghệ là môn khoa học ứng dụng, nhằm vận dụng các quy luật tự nhiên và nguyên lý khoa học, đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. 2, Công nghệ là phương tiện kỹ thuật, là sự thể hiện vật chất hoá các tri thức ứng dụng khoa học. 3, Công nghệ là tập hợp các cách thức, các phương pháp dựa trên cơ sở khoa học và được sử dụng vào sản xuất trong các ngành sản xuất khác nhau để tạo ra các sản phẩm vật chất hay dịch vụ. 4, Công nghệ bao gồm nhiều yếu tố hợp thành như phương tiện, máy móc, thiết bị, các quá trình vận hành, các phương pháp tổ chức, quản lý đảm bảo cho quá trình sản xuất và dịch vụ xã hội. 5, Xét riêng về mặt kinh tế, trong quan hệ với sản xuất, công nghệ được coi là phương tiện để thực hiện quá trình sản xuất, biến đổi các "đầu vào" để các "đầu ra" cho các sản phẩm và dịch vụ mong muốn. Trong đề tài này công nghệ được hiểu theo nghĩa là sản phẩm trí tuệ, là tập hợp những bí quyết, phương pháp, kỹ năng, quy trình, được thể hiện dưới hai dạng cụ thể là những tri thức hay sáng kiến, sáng tạo được thể hiện trong một sản phẩm. Còn công nghệ về quy trình sản xuất là những bí quyết gắn với quy trình sản xuất ra sản phẩm nói chung2 . Nguồn: tổng quan công nghệ cao, Tổng luận khoa học công nghệ kinh tế, Bộ Khoa học công nghệ và môi trường, số 1-2003 . 1.2. Phân loại công nghệ Việc phân loại công nghệ là rất cần thiết để có thể quản lý, phát triển, hoàn thiện chúng. Trình độ phát triển kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao, càng có nhiều công nghệ được đưa vào khai thác và sử dụng. Thì nhu cầu phân loại công nghệ càng trở nên quan trọng, khó khăn và phức tạp. Việc phân loại công nghệ có thể nhằm những mục tiêu rất khác nhau. Tuy nhiên điều quan trọng hơn cả là cần phân loại công nghệ để có một cái nhìn bao quát, tổng hợp về công nghệ đang tồn tại chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức. Phần lớn các nhà nghiên cứu và quản lý công nghệ đều xem đây như một trong những điểm yếu trong quản lý công nghệ. Công nghệ có thể được phân loại theo những tiêu thức khác nhau, tuy nhiên, dù theo tiêu thức nào thì mỗi cách phân loại cũng chỉ đề cập đến một hoặc một số khía cạnh, phục vụ mục tiêu quản lý có tính chức năng riêng biệt. Bởi vậy, khi nghiên cứu, quản lý, phát triển công nghệ và năng lực công nghệ, cần chú ý tới cách phân chia toàn diện và phối hợp đúng với nhau. Chúng ta phân loại công nghệ dựa theo các căn cứ sau: - Căn cứ vào tính chất của công nghệ hoặc lĩnh vực khoa học công nghệ dựa vào đó để thiết kế. Theo đó, công nghệ được chia thành các nhóm ứng với các lĩnh vực khoa học tự nhiên hoặc khoa học xã hội làm nền tảng cho nó. Ví dụ, người ta phân biệt các công nghệ sinh học, công nghệ cơ khí, công nghệ tin học, công nghệ hoá học... Việc phân chia này có ý nghĩa thực tiễn ở chỗ: Nếu muốn phát triển những công nghệ thuộc nhóm nào thì cần phát triển các ngành khoa học tương ứng. - Căn cứ vào sản phẩm, dịch vụ chủ yếu,đặc trưng sản xuất nhờ công nghệ được xếp loại. Theo đó, các công nghệ được xếp thành từng nhóm phục vụ cho việc sản xuất hoàn chỉnh những sản phẩm hoặc cung cấp các dịch vụ. Ví dụ, người ta phân loại các công nghệ sản xuất ô tô, công nghệ luyện kim, công nghệ truyền thanh, công nghệ quản lý... Hiện nay người ta đang sử dụng cách phân loại này khá nhiều để so sánh mức độ đầu tư cho các công nghệ thuộc các ngành hàng. Nó cũng có ý nghĩa đối với các nhà nghiên cứu, thiết kế công nghệ bởi theo cách phân chia này, có thể dễ dàng hình dung ra địa chỉ ứng dụng công nghệ. - Căn cứ vào quá trình tạo ra công nghệ. Theo cách này, các công nghệ được phân chia thành công nghệ do các tổ chức có nhu cầu về công nghệ mới tự thiết kế và công nghệ được chuyển giao. Đây thường là cách phân chia được áp dụng công nghệ cụ thể phục vụ cho việc quản lý công nghệ và đánh giá năng lực công nghệ của doanh nghiệp. - Căn cứ vào trình độ của các công nghệ trong tương quan với công nghệ cùng loại và có tính "mới" của nó. Căn cứ này, các công nghệ trên cùng một lĩnh vực được phân chia theo các "thế hệ" khác nhau. Thế hệ thứ nhất được xem như thế hệ ban đầu. Những công nghệ thuộc thế hệ này là những công nghệ xuất hiện đầu tiên trên lĩnh vực công nghệ được nghiên cứu, phân loại. Do mỗi lĩnh vực có thể có sự tiến bộ khác nhau mà có những lĩnh vực, công nghệ mới nhất đã được xếp vào thế hệ thứ 5, thứ 6 (trong khi trên lĩnh vực khác, công nghệ mới nhất mới chỉ là thế hệ thứ 5). Những tiến bộ nhờ cải tiến dần dần công nghệ đang được sử dụng có thể dẫn tới sự hình thành công nghệ thuộc thế hệ mới. Mỗi "thế hệ" công nghệ thường có những đặc trưng nhất định, trong đó có những nét mới, tiến bộ hơn về chất so với thế hệ trước nó. Thậm chí công nghệ thế hệ mới trong mỗi lĩnh vực nhất định có thể khác hẳn về nguyên lý so với những công nghệ cùng loại trước đó. Những cách phân loại công nghệ trên đây thường được kết hợp với nhau, cho phép người ta sắp xếp các công nghệ thành một hệ thống có sự phối hợp và xem xét nhiều chiều. Nhờ đó, mỗi công nghệ có thể được xem xét một cách toàn diện và khái quát. Nó giúp việc nghiên cứu, quản lý công nghệ tránh được sự phiến diện cả tầm vĩ mô và tầm vi mô. Điều này cũng giúp cho các nhà hoạch định chính sách và quản lý khắc phục tình trạng bỏ qua những lĩnh vực công nghệ mà ngay tại thời điểm nghiên cứu, phân tích, đánh giá và hoạch định chính sách chưa được sử dụng nhiều hoặc chưa phát huy được tác dụng của nó như mong muốn. 2. Vai trò của công nghệ trong sự phát triển kinh tế xã hội 2.1. Vai trò và vị trí của công nghệ trong sản xuất kinh doanh Đối với sản xuất kinh doanh trong sản xuất doanh nghiệp, công nghệ có những vai trò sau đây: - Công nghệ là một yếu tố cấu thành cơ sở vật chất, tạo nên điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Đặc biệt, công nghệ ảnh hưởng trực tiếp và quyết định tới khả năng sản xuất sản phẩm ngày càng đa dạng, phong phú để thoả mãn những nhu cầu phát triển của xã hội. Không có sự phát triển của công nghệ, đặc biệt là những công nghệ mới, công nghệ có hàm lượng chất xám cao, không thể đa dạng hoá sản xuất và cung cấp cho thị trường nhiều sản phẩmcó ảnh hưởng quyết định tới nền sản xuất và đời sống xã hội hiện đại. Nhiều sản sản phẩm mới chỉ có thể được sản xuất nhờ tiến bộ công nghệ và đổi mới công nghệ, đặc biệt là những công nghệ cao. Hơn nữa, trong nhiều trường hợp, những điều kiện sản xuất mới đòi hỏi phải có những công nghệ phù hợp. - Công nghệ là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Tác động này thể hiện trước tiên ở chỗ nhờ công nghệ và tiến bộ công nghệ mà chất lượng sản phẩm được duy trì và nâng cao, chi phí được tiết kiệm một cách tương đối để giá thành sản phẩm được giảm bớt, sản phẩm mới có tính năng, công dụng tốt hơn có thể được thiết kế và đưa vào sản xuất, tiêu dùng. Hơn nữa, trong điều kiện hiện nay, công nghệ đã dần trở thành một "yếu tố sản xuất trực tiếp". Chính vì vậy, các doanh nghiệp đều cố gắng đầu tư với quy mô ngày càng tăng vào công nghệ để tạo ra sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, việc đổi mới công nghệ chậm hơn các đối thủ cạnh tranh chính là nguyên nhân tụt hậu của doanh nghiệp. - Công nghệ tác động mạnh mẽ tới việc tạo lập một hình ảnh cho doanh nghiệp. Những công nghệ đổi mới công nhệ và sản phẩm một cách nhanh chóng, liên tục có thể tạo được sự tin tưởng của khách hàng. Nhờ vậy họ dễ tạo lập, củng cố uy tín cho mình và từ đó tạo lập một hình ảnh thuận lợi trong cạnh tranh. Điều này cũng bắt nguồn từ chỗ người tiêu dùng và khách hàng đòi hỏi về việc đáp ứng nhu cầu mới của họ, đáp ứng tốt hơn, đáng tin cậy hơn những nhu cầu vốn có của họ trong những điều kiện có nhiều thay đổi - Công nghệ là nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Điều này có thể thực hiện được nhờ vào việc áp dụng các công nghệ mới hoặc cải tiến các công nghệ truyền thống, cho phép sử dụng tiét kiệm nguồn lực cho sản xuất, sử dụng nguyên vật liệu rẻ tiền, dễ kiếm thay thế cho các loại vật tư quý hiếm hoặc sử dụng những phương pháp và phương tiện có năng suất cao hơn, ổn định hơn. Theo quan điểm phát triển kinh tế theo chiều sâu được thể hiện qua hàm sản xuất Cobb-Douglas: Y = T. La. Kb .Rd Trong đó: Y-kết quả đầu ra của hoạt động kinh tế (GDP) Hàm sản xuất này cần phân biệt rõ hai loại yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế: thứ nhất, những yếu tố tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế, bao gồm lao động, vốn sản xuất và tài nguyên. Thứ hai: yếu tố góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các yếu tố trên, đó là khoa học-công nghệ. Vì yếu tố này không xác định được sự đóng góp trực tiếp nên có thể đánh giá bằng cách: t = g - (al + bk + d.r) Trong đó: g-tốc độ tăng trưởng kinh tế l,k,r-tốc độ tăng trưởng lao động, vốn, tài nguyên t-tác động của khoa học-công nghệ và tăng trưởng kinh tế Như vậy tiến bộ khoa học -công nghệ và việc ứng dụng chúng vào sản xuất không chỉ làm tăng năng suất, tăng hiệu quả theo cấp số cộng mà là cấp số nhân. 2.2. Vai trò của công nghệ và tiến bộ công nghệ trong việc tạo lập môi trường kinh doanh Đối với việc tạo lập môi trường kinh doanh, công nghệ và tiến bộ công nghệ vừa có vai trò, ảnh hưởng trực tiếp, vừa có ảnh hưởng gián tiếp. Vai trò này thể hiện trên các mặt sau: - Công nghệ cho phép mở rộng và nâng cấp hệ thống cơ sở vật chất-kỹ thuật cũng như cơ sở hạ tầng xã hội. Hệ thống này là những điều kiện không thể thiếu cho các hoạt động chung của cộng đồng. Việc mở rộng và nâng cấp chúng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh cũng như cho toàn xã hội nói chung. - Công nghệ cho phép khai thác được những lợi thế, những loại tài nguyên mà trước đó chưa thể khai thác được. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các loại tài nguyên có trữ lượng nhỏ, có điều bất lợi cho việc thăm dò, khai thác hoặc chế biến. Chẳng hạn, với những công nghệ và phương tiện kỹ thuật truyền thống, không thể đặt vấn đề khai thác những mỏ than, chuyển hoá than thành khí mônô oxyt cacbon, người ta có thể khai thác dễ dàng và có hiệu quả những mỏ than ở độ sâu vài trăm mét, thậm chí chỉ với trữ lượng rất thấp. Hoặc nhờ công nghệ chụp ảnh đa phổ diện rộng, người ta có thể tiến hành điều tra tài nguyên đã với tất cả các vùng lãnh thổ, bất kể địa hình phức tạp, khó khăn như thế nào. - Tiến bộ công nghệ cho phép các nhà kinh doanh có thể tiếp cận và xử lý thông tin một cách nhanh chóng, kiểm tra các thông tin một cách dễ dầng. Đặc biệt quan trọng là các lĩnh vực công nghệ thông tin, từ điện tử, điện thoại, mạng internet. Nhờ chúng mà các thông tin về kinh doanh cũng như môi trường kinh doanh mới được hình thành. Chính nhờ những sáng chế và phát minh trong lĩnh vực điện tử và các công nghệ dựa trên các phát minh này mà công nghiệp điện tử được hình thành và phát triển, cũng nhờ kỹ nghệ tin học phát triển mà có các hoạt động thương mại điện tử. Hệ thống giáo dục đào tạo cũng có những thay đổi cơ bản không chỉ về nội dung mà cả về hình thức và tổ chức nhờ sự tiến bộ của công nghệ thông tin và các thiết bị nghe-nhìn. Ngay trong lĩnh vực tài chính-ngân hàng, tiến bộ trong công nghệ thông tin giúp hình thành mạng lưới toàn cầu làm thị trường tài chính quốc tế hoạt động liên tục không gián đoạn. Tiến bộ công nghệ, thông qua việc tạo ra sự bình đẳng trong tiếp cận thông tin, thúc đẩy mạnh mẽ việc hình thành một hệ thống luật lệ tạo nên môi trường. Mặt khác, những bất lợi hợp lý tạo ra sự bất bình đẳng nhanh chóng được phát hiện để có thể sửa chữa kịp thời. 2.3. Vai trò của công nghệ trong quá trình phát triển kinh - tế xã hội quốc gia - Công nghệ tạo điều kiện chuyển từ phát triển kinh tế theo chiều rộng sang phát triển kinh tế theo chiều sâu. Phát triển kinh tế theo chiều rộng là sự tăng trưởng nhờ vào việc gia tăng các đầu vào của sản xuất như vốn, lao động và tài nguyên thiên nhiên. Việc khai thác nhanh các yếu tố nguồn lực nói trên tất yếu sẽ dẫn tới cạn kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi trường sinh thái. Với sự ra đời của các công nghệ mới, công nghệ sinh học, công nghệ điện tử, tin học viễn thông…đã làm cho nền kinh tế chuyển từ phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu, nghĩa là thực hiện tăng trưởng dựa trên việc nâng cao hiệu quả các yếu tố sản xuất. Với vai trò này, công nghệ là phương tiện để chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và nền kinh tế tri thức, trong đó phát triển nhanh các ngành công nghệ cao, sử dụng nhiều lao động trí tuệ là đặc điểm nổi bật. - Công nghệ thúc đẩy quá trinh hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ không chỉ đẩy nhanh tốc độ phát triển của ngành, mà còn làm cho phân công lao động xã hội ngày càng trở nên sâu sắc và đưa đến phân chia các ngành thành nhiều thành phần nhỏ, xuất hiện nhiều ngành, nhiều lĩnh vực kinh tế mới. Từ đó làm thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, thể hiện: + Tỷ trọng trong GDP cuả ngành công nghiệp và dịch vụ có xu hướng tăng dần, còn của ngành nông nghiệp thì càng giảm. + Cơ cấu kinh thế trong nội bộ mỗi ngành cũng biến đổi theo hướng ngày càng mở rộng quy mô sản xuất ở những ngành có hàm lượng kỹ thuật, công nghệ cao. Lao động tri thức ngày càng chiếm tỷ trọng lớn, mức độ đô thị hoá cũng ngày càng nhanh. Tất cả trở thành đặc trưng của sự phát triển công nghệ - Tăng sức cạnh tranh của hàng hoá, thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường. Mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận. Muốn vậy các doanh nghiệp phải sản xuất mặt hàng có nhu cầu lớn, tối thiểu hoá chi phí các yếu tố đầu vào, nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã, hình thứ hàng hoá…cho phù hợp. Những yêu cầu đó chỉ được thực hiện khi áp dụng công nghệ vào trong sản xuất kinh doanh. Việc áp dụng công nghệ vào sản xuất, kinh doanh không chỉ tạo ra lợi thế cạnh tranh, mà còn tạo ra nhiều loại sản phẩm mới, tăng quy mô sản xuât doanh nhiệp, nâng cao vị thế doanh nghiệp trên thị trường. 3. Các hướng phát triển công nghệ. 3.1. Những xu hướng chủ yếu trong phát triển ứng dụng công nghệ và sản xuất kinh doanh a.Các hướng phát triển và đổi mới công nghệ trong sản xuất kinh doanh. Công nghệ và sự phát triển, đổi mới chúng sẽ trở thành động lực trực tiếp thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất-kinh doanh. Việc lựa chọn hướng phát triển, ứng dụng chúng sẽ quyết định trực tiếp và mạnh tới hướng cũng như khả năng phát triển của doanh nghiệp. Theo những dự báo gần đây của các chuyên gia kinh tế và công nghệ, có thể hình dung sự đổi mới và phát triển công nghệ trong vài thập kỷ tới như sau: - Đối với công nghệ truyền thống: các công nghệ truyền thống sẽ được tiếp tục sử dụng, khai thác, đồng thời được đổi mới cho phù hợp với điều kiện sản xuất và đời sống. Nhữnh đổi mới , cải tiến này sẽ tập trung vào hướng sau: Thích ứng hoá các công nghệ truyền thống với các điều kiện sản xuất và đời sống hiện đại.Hầu hết các công nghệ đang được khai thác, sử dụng sẽ không mất đi, mà sẽ được hiện đại hoá, hoàn thiện và cải tiến. Những lĩnh vực chủ yếu cần được cải thiện trong những thập kỷ tới để công nghệ truyền thống có thể được tiếp tục sẽ là vấn đề vệ sinh và môi trường kinh tế- xã hội. Thay đổi nguyên, nhiên liệu và năng lượng để công nghệ truyền thống thích ứng với cơ sở nguyên liệu mới, đặc biệt là vật liệu mới. Cải tiến công nghệ cho phù hợp với quy mô và điều kiện kinh doanh hiện đại. Đa dạng hoá các công nghệ truyền thống, phát triển thêm các nhánh công nghệ mới có ưu thế hơn trên cơ sở các nguyên lý công nghệ truyền thống. Bên cạnh những công nghệ thuần tuý dựa trên một hệ thống, sẽ có những công nghệ mới được thiết kế dựa trên sự phối hợp một số công nghệ truyền thống. "Lĩnh vực giao thoa" của các hướng công nghệ khác nhau sẽ là một lĩnh vực được nghiên cứu, khai thác trong một thập kỷ tới. Tăng hiệu quả của các công nghệ truyền thống. Theo hướng nà._.y, những nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ công nghệ sẽ tập trung giải quyết những "khâu yếu" trong các công nghệ và các thiết bị trong dây truyền sản xuất hoàn chỉnh sau này, các nghiên cứu sẽ tập trung vào các thiết bị, giai đoạn chủ yếu của công nghệ để hiện đại hoá, cải tiến các thông số kinh tế-kỹ thuật của chúng, từ đó nâng cao hiệu suất sử dụng. Nhờ các giải pháp này, một số công nghệ sơ khai của thời kỳ công nghiệp hoá sẽ được khai thác trở lại. - Xu hướng nghiên cứu, ứng dụng những công nghệ mới. Đó là xu hướng ứng dụng các công nghệ sinh học, công nghệ điện tử-tin học, tự động hoá, công nghệ vật liệu mới và công nghệ hàng không vũ trụ. + Công nghệ sinh học: hướng áp dụng công nghệ sinh học được tăng cường trên hai mặt. Chúng sẽ được sử dụng để tạo ra ngày càng nhiều những sản phẩm mới, có nguồn gốc sinh học tự nhiên để thay thế các sản phẩm hoá học đã được sử dụng quá nhiều. Sản phẩm của công nghệ sinh học sẽ được áp dụng phục vụ cho sản xuất và đời sống, đặc biệt là việc đảm bảo và tăng cường sức khoẻ và năng lực của con ngưòi. Các phương pháp sinh học sẽ được áp dụng độc lập hoặc kết hợp đan xen với các phương pháp cơ-lý-hoá truyền thống. Công nghệ gen sẽ là một trong những hướng được phát triển và ứng dụng mạnh mẽ. + Công nghệ điện tử-tin học. Tin học hoá, tự động hoá sẽ được áp dụng trong hầu hết các lĩnh vực sản xuất và đời sống xã hội. Bên cạnh việc hoàn thiện và tạo ra các thiết bị tự động mới có tính năng, tác dụng hoàn hảo, tiết kiệm và thuận tiện trong sản xuất sử dụng nhiều hệ thống tự động hoá toàn bộ các quy trình, dây chuyền công nghệ tự động hoá toàn bộ, các xưởng sản xuất và các nhà máy tự động hoá hoàn toàn cũng sẽ được đưa vào sản xuất với số lượng và tỷ trọng ngày càng nhiều. Công nghệ thông tin và những tiến bộ mạnh mẽ trong lĩnh vực này sẽ cho phép tìm kiếm, trao đổi, khai thác các thông tin công nghệ một cách nhanh chóng trên phạm vi rộng. Nhờ vậy nó đã trở thành một nhân tố thúc đẩy sự tiến bộ công nghệ trên các lĩnh vực khai khác. Tuy nhiên, bản thân công nghệ thông tin cũng là ngành cần luôn được đổi mới, và trở thành ngành có độ rủi ro cao. + Công nghệ vật liệu mới. Nhóm công nghệ này bao gồm các công nghệ và kỹ thuật cụ thể liên quan tới việc sản xuất ra các loại nguyên, vật liệu mới trên cơ sở những nguyên lý khoa học đã biết, nhưng chưa được ứng dụng trong công nghệ hoặc chưa được biết tới. Nó cũng bao gồm cả việc khai thác các công dụng mới của các nguyên, vật liệu đã được sử dụng. Đặc biệt các loại "vật liệu thông minh" với các tính năng rất đa dạng sẽ được nghiên cứu, thiết kế, đưa vào sử dụng với khối lượng ngày càng nhiều và trong hầu hết các lĩnh vực. + Công nghệ hàng không-vũ trụ. Đây cũng là một hướng bao gồm nhiều loại công nghệ cụ thể liên quan đến việc khai thác vũ trụ và kinh doanh các dịch vụ từ vũ trụ, từ các công nghệ vật liệu, công nghệ điều tra, thăm dò điều tra từ vũ trụ... Các tiến bộ trong ngành này sẽ được nhanh chóng chuyển giao sang các ngành kinh tế khác. b. Phương thức phát triển và ứng dụng công nghệ Về phương thức phát triển và ứng dụng công nghệ, những xu hướng chủ yếu là: - Công nghệ sẽ được phát triển và ứng dụng đồng bộ để tạo ra một sản phẩm cuối cùng hoặc để khép kín hoá quá trình kinh doanh. Nói cách khác chúng sẽ được phát triển và hoàn thiện định hướng theo sản phẩm cuối cùng. Do đó, sự tham gia của các chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau sẽ tăng lên. Việc đổi mới và ứng dụng công nghệ mới này sẽ được triển khai trên quy mô rộng lớn, trong mọi lĩnh vực chứ không chỉ trong lĩnh vực trọng điểm. Trong đó, vai trò của các doanh nghiệp với tư cách là địa chỉ ứng dụng và đơn vị đặt hàng sẽ được nâng cao. - Công nghệ tin học sẽ được áp dụng với quy mô ngày càng lớn và tính chất đa dạng vào việc nghiên cứu, tạo ra các công nghệ mới hoặc cải tiến các công nghệ hiện hành. Vai trò của các cán bộ, chuyên gia công nghệ và kỹ huật sẽ có sự thay đổi, chuyển từ vị trí thiết kế chi tiết các công nghệ sang vị trí tìm hướng giả quyết, xác định các ý tưởng về giải quyết, xác định các ý tưởng về giải pháp và đánh giá, lựa chọn giả pháp công nghệ. Các tính toán cụ thể và các phương án chi tiết sẽ do máy tính thực hiện ngày càng nhiều. - Công nghệ sẽ được bố trí một cách linh hoạt.Thực chất đây là phương thức bố trí công nghệ hoặc các công nghệ có liên quan theo phương thức mà ngừơi ta có thể thay đổi, cải biến nhằm thích ứng tốt hơn, nhanh chóng hơn với những thay đổi trong môi trường kinh doanh, đặc biệt là sự thay đổi trong nhu cầu người tiêu dùng bản thân việc quản lý và thay đổi các phương án bố trí công nghệ như thế này cũng sẽ được tự động hoá. - Tốc độ mới công nghệ cũng như tốc độ nghiên cứu, triển khai và ứng dụng công nghệ mới sẽ nhanh chóng hơn. Chu kỳ đổi mới công nghệ sẽ được được rút ngắn. Mức độ mới của các công nghệ mới cũng sẽ rất khác nhau. Bên cạnh những công nghệ hoàn toàn mới sẽ có những công nghệ chỉ có các yếu tố mới bộ phận. Việc đánh giá công nghệ để lựa chọn đầu tư cho chúng sẽ được ưu tiên xem xét trên cơ sở mức độ phổ biến của nó và hiêu quả do nó đưa lại. c. Về việc tổ chức phát triển và ứng dụng công nghệ Việc tổ chức phát triển và ứng dụng công nghệ có ảnh hưởng to lớn không chỉ hiệu quả của các hoạt động khoa học-công nghệ, mà tới chính bản thân việc tiếp tục duy trì và phát triển các hoạt động đó. Những xu hướng chủ yếu là rất chặt chẽ giữa các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng công nghệ với các cơ sở sản xuất kinh doanh, biến chúng trở thành một bộ phận trong hệ thống kinh doanh của các cơ sử sản xuất kinh doanh, biến chúng trở thành một bộ phận trong hệ thống kinh doanh của các cơ sở sản xuất. Theo xu hướng này, tỷ trọng của các cơ sở nghiên cứu độc lập sẽ giảm mạnh. Ngay các cơ sở này cũng dành một phần năng lực ngày càng lớn của mình nghiên cứu các chương trình phục vụ các doanh nghiêp hoặc thực hiện các dự án, kế hoạch nhiên cứu, sự liên kết giữa nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu ứng dụng sẽ được tổ chức chặt chẽ hơn. Số lượng các chương trình, dự án, đề tài nghiên cưú có địa chỉ ứng dụng hoặc định hướng theo các dịa chỉ ứng dụng cụ thể sẽ chiếm tỷ trọng lớn tuyệt đối. Ngược lai các cơ sử nghiên cứu thuần tuý trước đây và hiện nay cũng sẽ tham gia vào việc nghên cứ cơ bản ngày càng nhiều hơn. Sự liên kết giữa các cơ sở nghiên cưú, ứng dụng sẽ có quy mô ngày càng tăng và tính chất ngày càng đa dạng. Sự trao đổi cán bộ và phối hợp nghiên cứu diễn ra ngày càng linh hoạt. Các nhà khoa học rực tiếp khai thác kết quả nghiên cứu của mình đẻ sản xuất ra sản phẩm tiêu thụ trên thị trường ngày một nhiều hơn. Nhờ mạng lưới thông tin toàn cầu. Các thông tin công nghệ có thể thay đối một cách nhanh chóng và việc chuyển giao công nghệ cũng trở nên dễ dàng, thuận lợi hơn. 3.2. Những xu hướng biến động trong môi trường ứng dụng công nghệ Một trong những nguyên nhân dẫn tới sự phát triển nhanh chóng của công nghệ là sự thay đổi của môi trường nghiên cứu và ứng dụng công nghệ. Tuy những biến động này tiếp tục diễn ra theo cả hai chiều hướng thuận lợi cũng như bất lợi cho sự phát triển của công nghệ sẽ chiếm ưu thế. Trong những thập kỷ tới , những nội dung sau đây đặc trưng cho sự biến động của môi trường nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ công nghệ. Vị trí, vai trò của các hoạt động khoa học-công nghệ sẽ được tăng cường. Lực lượng tham gia nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học-công nghệ sẽ đông đảo hơn. Tỷ lệ lao động có trình độ cao trong nguồn nhân lực của xã hội cũng sẽ tăng dần. Quan hệ cung cầu tiếp tục điều tiế của các tập đoàn, công ty lớn sẽ được tăng cường và sự trao đổi được mở rộng quy mô toàn cầu nên sự mất cân đối giữa trình độ lao động cũng như lực lượng lao động thuộc các lĩnh vực khoa học sẽ có thể mau chóng được khắc phục. Đầu tư và các khoản chi cho nghiên cứu và ứng dụng công nghệ mới sẽ tăng lên. Nguồn trang trải cho các kinh phí nghiên cứu, ứng dụng công nghệ cũng trở nên đa dạng hơn, cơ cấu sẽ thay đổi theo hướng đóng góp của các doanh nghiệp và cơ sở trực tiếp sử dụng thành quả nghiên cứu, ứng dụng tăng lên. Tỷ lệ chi phí từ ngân sách nhà nước cho nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học-công nghệ trở thành một chỉ tiêu quan trọng trong đánh giá khẳ năng tăng cường năng lực cạnh tranh và sự phát triển của mỗi quốc gia. Đối với các công ty, doanh ngiệp, mức và tỷ lệ chi cho các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học-công nghệ chịu tác động theo hai hướng trái ngược nhau. Một mặt, những tiến bộ công nghệ được tổ chức ở nhiều nơi, việc nghiên cứu trùng sẽ có xác xuất cao hơn, làm giảm sác xuất ứng dụng kết quả của một dự án nghiên cứu cụ thể. III. ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ 1. Khái niệm và các điều kiện đổi mới công nghệ. 1.1. Khái niệm đổi mới công nghệ Đổi mới công nghệ (technological innovation) là hoạt động nghiên cứu nhằm đổi mới, cải tiến công nghệ đã có, góp phần cải thiện chất lượng, hạ giá thành, tăng năng suất và hiệu quả sản xuất kinh doanh3. TS. Nguyễn Văn Phúc, (2002), giáo trình quản lý đổi mới công nghệ, NXB Thống Kê . Đổi mới công nghệ có thể bao gồm nhiều hoạt động khác nhau như: hoạt động nghiên cưú và triển khai để cải tiến sản phẩm có chất lượng, mẫu mã tốt hơn, có sức hấp dẫn hơn và khẳ năng cạnh tranh hơn; hoạt động nghiên cứu và triển khai để cải tiến, đổi mới quy trình công nghệ sao cho đạt chi phí thấp hơn, năng suất, hiệu quả cao hơn; nhiên cứu để hoàn thiện công nghệ sản phẩm hoặc công nghệ quy trình sán xuất nhập ngoại cho phù hợp với điều kiện trong nước. Hoạt động đổi mới công nghệ không chỉ dừng lại ở khâu nghiên cứu đổi mới đó vào thực tiễn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Toàn bộ quá trình đổi mới công nghệ bao gồm việc tạo ra và triển khai ứng dụng tiến bộ công nghệ vào thực tiễn được cấu thành bởi ba giai đoạn có tính kế tiếp nhau: phát minh, đổi mới và truyền bá. Phát minh và sáng chế là ba giai đoạn đầu tiên tạo tiến bộ công nghệ. Đó là quá trình tìm tòi các ý tưởng mới và biến chúng thành các giải pháp kỹ thuật-công nghệ cụ thể nhằm giải quyết một số vấn đề cụ thể trong sản xuất và đời sống. Kết quả của các phát minh là ý tưởng khoa học mới, phương pháp mới để thực hiện một số dich vụ hoặc để sản xuất một sản phẩm. Đặc điiểm đặc trưng của phát minh là tính "mới"của điều mà nó đưa ra. Người ta cũng phân biệt phát minh về khoa học , những phát minh về nguyên lý hoặc quy luật hoạt động và vận động của tự nhiên, xã hội và tư duy với phát minh kỹ thuật và công nghệ, phương pháp sản phẩm, dịch vụ mới. Phát minh và sáng chế là kết quả của quá trình lao động, nghiên cứu, thử nghiệm có tích luỹ lâu dài, có tính hệ thống, có tổ chức, mặc dù xuất phát điểm của nó có thể là ngẫu nhiên , bộc phát. Các phát minh và sáng chế có thể xuất phát từ mong muốn có một công nghệ tiến bộ hơn, có hiệu quả hơn hoặc là xuất phát từ một nhu cầu nào đó của thị trường. Theo pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới, người ta tiến hành xác định và bảo vệ quền lợi vật chất cho tác giả của các phát minh nhờ một công cụ là (bằng phát minh sáng chế). Đổi mới công nghệ và sản phẩm là ứng dụng thương mại đầu tiên của một phát minh. Nó phải chắt lọc tư tưởng cơ bản từ các nguyên lý khoa học hoặc các giải pháp kỹ thuật đã được biết để chế thử và thử nghiệm việc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường. Đổi mới là một giai đoạn tất yếu, cần thiết không thể thiếu trong quá trình triển khai thực tế một phát minh. Nếu thiếu, nó một phát minh sẽ không được ứng dụng vào thực tiễn. Giai đoạn thứ ba là truyền bá. Đây là giai đoạn mà việc ứng dụng công nghệ được lan truyền từ từ nơi đầu tiên mà nó đươc sáng tạo và được triển khai sang nơi khác. Phạm vi và tốc độ lan truyền là rất quan trọng với tiến bộ công nghệ nói chung. Giai đoạn truyền bá cần thời gian và tiền của vì đó cũng là một quá trình chuyển giao kiến thức và học hỏi. Nhưng khác với các giai đoạn trước, các quá trình học hỏi này không bị ràng buộc vào một phòng nghiên cứu hoặc hãng nào. 1.2. Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động công nghệ và đổi mới công nghệ Hoạt động của tiến bộ công nghệ không chỉ được đánh giá bằng các chỉ tiêu tuyệt đối như công ty IBM đã chi 5201 triệu USD cho nghiên cứu và phát triển, trong khi công ty Andant chi hơn 277 triệu USD. Tuy nhiên từ thông tin trên chưa thể nói rằng IBM là hãng có hoạt động công nghệ tốt hơn. Tính theo doanh số đã Amdaht đã chi 13.2% trong khi đó IBM chỉ chi 8.3%. Tính theo lợi nhuận Amdaht chi 109%, IBM chi 78%.Rõ ràng ở đây phải tính theo các chỉ tiêu tương đối nhằm dựa vào một mặt bằng thống nhất để có thể so sánh được hoạt động của các đơn vị khác nhau. Một số chỉ tiêu sau thường được dùng để đánh giá hoạt động đổi mới công nghệ và tiến bộ công nghệ. -Tỷ lệ (%) doanh thu dành cho nghiên cứu và phát triển -Tỷ lệ (%) chi phí dành cho nghiên cứu và phát triển trong tổng chi phí sản xuất kinh doanh. -Tỷ lệ (%) chi phí nghiên cứu và phát triển so với lợi nhuận. Do đặc điểm kỹ thuật-công nghệ của mỗi ngành mà tỷ suất đầu tư cũng như nhu cầu đầu tư đổi mới công nghệ của mỗi ngành hoàn toàn khác nhau, làm cho sự so sánh các chỉ tiêu cho nghiên cưú đầu tư giữa các ngành không phải lúc nào cũng có ý nghĩa. Chính vì thế, các chỉ tiêu trên thường được so sánh giữa các doanh nghiệp cùng ngành hơn là giữa các ngành với nhau. 2. Các hình thức đổi mới công nghệ Theo Frederick betz 4 .TS. Nguyễn Văn Phúc, (2002), GT quản lý đổi mới công nghệ, NXB Thống kê có bốn hình thức đổi mới công nghệ -Đổi mới căn bản -Đổi mới dần dần -Đổi mới có hệ thống -Đổi mới công nghệ thế hệ sau. 2.1. Đổi mới căn bản. Đổi mới căn bản bắt đầu từ kiến thức mới nhất về khoa học mới như thế nào và việc các nhà đầu tư tạo ra công nghệ mới dựa trên các hiện tượng khoa học mới như thế nào. Các công cụ của khoa học thường trở thành các thiết bị của công nghệ mới. Vì vậy, thường trong đổi mới công nghệ căn bản có sự chuyển giao trực tiếp kiến thức và kỹ thuật từ khoa học thông qua kỹ thuật đế công nghệ. Lô gíc của quá trình đổi mới căn bản còn chỉ ra rằng chúng ta không thể phân biệt một cách đơn giản giữa nghiên cứa kỹ thuật, nghiên cứu công nghệ và phát triển sản phẩm nếu như chúng ta không tính tới quyền sở hữu trí tuệ của việc nghiên cứu. Trong thiết kế sản phẩm, quy trình sản xuất là những là những tài liệu độc quyền rất quan trọng đối với việc thiết kế và sản xuất và bán sản phẩm của hãng. Đây là kiến thức về sản phẩm cụ thể tạo ra sự khác biệt về cạnh tranh giữa các hãng. 2.2. Đổi mới dần dần Đổi mới dần dần làm tăng khả năng chức năng của công nghệ hiện có thông qua việc cải tiến hoạt động, độ an toàn, chất lượng sản phẩm và hạ thấp chi phí. Lôgic của quá trình đổi mới dần dần khác hẳn với lôgic của quá trình đổi mới căn bản đi trực tiếp từ khoa học đến công nghệ. Quá trình đổi mới công nghệ dù diễn ra như thế nào thì dần dần cũng xoay quanh công nghệ và sản phẩm. Quá trình đổi mới này thường trải qua 5 bước: Dự đoán công nghệ; khai thác công nghệ; khuyến khích công nghệ. Tuy nhiên trong một doanh nghiệp thường có nhiều công nghệ liên quan đến nhau, các hoạt động của mỗi bước thuộc những công nghệ khác nhau có thể đan xen vào nhau. 2.3. Đổi mới công nghệ một cách có hệ thống Đổi mới công nghệ một cách có hệ thống là đổi mới căn bản tạo ra khả năng chức năng mới dựa trên cơ sở cấu trúc lại các công nghệ hiện có. Đối với loại hình thức này, việc đổi mới công nghệ thường được hoạch định theo những chương trình dài hạn. Trong các chương trình này, các hoạt đọng đổi mới công nghệ được tổ chức và sắp xếp theo ý đồ của tổ chức tiến hành đổi mới công nghệ. Mỗi hoạt động hoặc nhóm hoạt động đổi mới công nghệ được tổ chức tiến hành đổi mới công nghệ. Mỗi hoạt động hoặc nhóm tổ chức công nghệ được liên kết với các hoạt động trước và sau nó. 2.4. Đổi mới công nghệ thế hệ sau Những đổi mới dần dần hệ thống bên trong một hệ thống vẫn có thể tạo ra những thế hệ kỹ thuật mới của một hệ thống."Thế hệ" ở đây được hiểu là một trình độ công nghệ mới dựa trên những nền tảng tri thức mới với một hệ thống các nguyên lý so với những gì đã có. Kiểu đổi mới như vậy vẫn thuộc loại đổi mới mang tính chất có hệ thống có tính toàn diện cũng được gọi là đổi mới công nghệ thế hệ sau. 3. Các nhân tố ảnh hưởng tới đổi mới công nghệ 3.1. Quy mô của doanh nghiệp và đổi mới công nghệ Nhiều nhà kinh tế cho rằng quy mô của doanh nghiệp càng lớn, công nghệ càng tiên tiến thì khẳ năng đổi mới công nghệ cũng cao hơn so với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Doanh nghiệp có vốn nên có khả năng chi cho nghiên cứu và phát triển nhiều hơn và thời gian cần thiết để thu hồi vốn trong trong một thời gian có thể dài hơn là doanh nghiệp nhỏ. Phát minh và đổi mới thường đòi hỏi phải mua sắm các thiết bị chuyên dùng đắt tiền và các nhà nghiên cứu thì ngày càng phải chuyên môn hoá sâu và có quan hệ rộng rãi, các điều kiện nghiên cứu và phát triển như thế dễ được sử dụng có hiệu quả hơn ở các doanh nghiệp có quy mô lớn. Doanh nghiệp có quy mô lớn có thể tiến hành nhiều dự án lớn cho nên rủi ro của từng dự án này có thể được trang trải bằng thành công của các dự án khác. 3.2. Cơ cấu thị trường và đổi mới công nghệ Nói đến cơ cấu thị trường và đổi mới công nghệ người ta còn nhắc nhiều hơn đến vấn đề đối thủ cạnh tranh. Quan điểm của các nhà kinh tế trước đây cho rằng càng độc quyền càng có nhiều điều kiện để đổi mới công nghệ doanh nghiệp tham gia nghiên cứu và phát triển. Tuy vậy so với vấn đề quy mô thì quyền lực thị trường là phạm trù khó đo và đánh giá được một cách chính xác. Kinh nghiệm của một số nghiên cứu và phát triển tính theo doanh số tăng theo mức độ tập trung. Các điều kiện ra nhập thị trường cũng là một nhân tố cơ cấu quan trọng tác động đến khả năng nghiên cứu cho thấy tỷ trọng nghiên cứu và phát triển tính theo doanh số tăng theo mức độ tập trung. Các điều kiện ra nhập thị trường cũng là một nhân tố cơ cấu quan trọng tác động đến khả năng nghiên cứu, phát triển và đổi mới công nghệ, đây cần phân biệt hai hình thức gia nhập. Thứ nhất là một doanh nghiệp ra nhập thị trường bằng cách bắt chước kiểu đổi mới sản phẩm của hãng khác hoặc là áp dụng quy trình sản xuất do các hãng khác đổi mới. Hình thức thứ hai là một doanh nghiệp mới gia nhập thị trường bằng cách chủ động tiến hành nhiên cứu hoặc tiếp nhận phương pháp công nghệ mới để sản xuất các sản phẩm hiện hành. Các điều kiện gia nhập là nhân tố quan trọng tác động đến đổi mới công nghệ và các hãng tham gia thị trường mới đóng góp đáng kể vào việc đổi mới công nghệ. 3.3. Chính sách công và đổi mới công nghệ Đổi mới công nghệ mang lại lợi ích cho người chủ sáng tạo ra nó và mang lại lợi ích cho xã hội. Lợi ích của người sáng tạo ra công nghệ mới có thể là lợi nhuận hay uy tín xã hội, danh tiếng. Lợi ích của xã hội là tạo ra sự tăng trưởng cao cho nền kinh tế, khắc phục những hạn chế, sự thiếu hụt các nguồn lực, cải thiện các vấn đề môi trường, giải quyết các vấn đề xã hội. Gần đây, một số nhà kinh tế cho rằng hai yếu tố quan trọng cho đổi mới công nghệ là khẳ năng và động cơ đổi mới công nghệ. Yếu tố khả năng đề cập đến năng lực và sự sẵn sàng chấp nhận đầu tư tiền của vào các dự án dài hạn có độ rủi ro cao. Trong trường hợp này các nhà độc quyền thường mạnh về tài chính để trang trải cho nghững dự án dài hạn có độ rủi ro cao. Thực tế này ủng hộ quan điểm của một số nhà kinh tế cho rằng độc quyền là hình thức kinh doanh tạo ra những điều kiện lý tưởng do việc đi sâu vào đổi mới công nghệ. Một yếu tố quan trọng khác thúc đẩy sự đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp chính là động cơ đổi mới công nghệ của họ. Bên cạnh đó, sản phẩm đổi mới công nghệ rất dễ bị sao chép và bắt chước làm cho người phát minh ra nó không thu hết được các nguồn lợi vật chất mà lẽ ra họ có thể thu được. Nếu chỉ dựa vào tư nhân có thể không khuyến khích mạnh các cá nhân, các doanh nghiệp và các tập thể nghiên cứu, đổi mới công nghệ. Để đạt được mục đích này nhà nước thường sử dụng các chính sách sau đây dưới nhiều hình thức khác nhau. a. Cấp bằng sáng chế. Sáng chế là sự độc quyền về một sản phẩm hoặc một quy trình nào đó người chủ có thể sản xuất và bán. Bằng sáng chế do nhà nước cấp, cho phép tác giả của nó độc quyền khai thác hay không cho phép người khai thác thương mại sáng chế của mình trong một số năm nhất định. Đặc quyền này là "phần thưởng" cho phát minh, sáng chế đó mỗi nước, thời gian độc quyền khai thác sản phẩm hoặc quy trình được quy định không giống nhau. Bằng sáng chế được coi như một tài sản riêng, có thể mua bán, trao đổi, hoặc cho cấp giấy phép cho người khác sử dụng. Nó có thể được khai thác thương mại hoặc không được đưa vào sử dụng nếu như người sở hữu sáng chế đó muốn như vậy. Theo như các số liệu hiện nay, chỉ có khoảng1/2 số bằng sáng chế được sử dụng vì có những vì có những phát minh đi trước quá xa so với thời đại của họ, hoạc có thể triển khai được những mà đưa vào ứng dụng thì quá đắt so với khả năng thanh toán hoặc không hấp dẫn nhà sản xuất nếu xét về lợi nhuận. Ngoài ra còn một thực tế nữa là nhiều phát minh thực sự đạt trình độ công nghệ cao nhưng không được sử dụng vì có nhiều sản phẩm thay thế có sẵn. Bốn tiêu chuẩn để có khả năng cấp bằng sáng chế là: tính sáng tạo, tính mới lạ, tính có ích, vấn đề về chuyên môn. b. Tài trợ cho nghiên cứu và phát triển Tài trợ nhà nước. Đầu tư đổi mới công nghệ là đầu tư có hiệu quả cao cho xã hội nói chung nhưng không phải lúc nào cũng mang lại hiệu quả cao cho một ngành hay một doanh nghiệp. Vì vậy, tài trợ của nhà nước cho nghiên cưú và phát triển là một nhân tố rất quan trọng tác động đến đổi mới công nghệ. Hiện nay, hầu như mọi quốc gia đều tìm cách tăng nguồn ngân sách tài trợ cho nghiên cứu và phát triển để tạo lợi thế về khoa học-công nghệ cho mình. Tài trợ tư nhân ngày càng đóng vai trò quan trọng tác động đến đổi mới công nghệ. Khi nền kinh tế càng phát triển thì kinh tế tư nhân càng vững mạnh và càng có nhiều vốn đầu tư của tư nhân chiếm tỷ lệ ngày càng cao. Hình thức chủ yếu của việc đầu tư từ nhân cho nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ công nghệ là tài trợ cho các dự án nghiên cứu, phát triển công nghệ và hỗ trợ cho các dự án sản xuất thử. Đối tượng trực tiếp nhận các tài trợ này có thể là các cơ quan nghiên cứu, thiết kế nhưng có thể là các trung tâm nghiên cứu của các doanh nghiệp. c. Các chính sách hỗ trợ khác. Đây là một sự kết hợp giữa một loạt các chính sách cụ thể khác nhau về các mặt kinh tế-tài chính, tổ chức, pháp lý, đào tạo, xã hội... theo những cách thức và mức độ khác nhau. Người ta thường chia thành ba nhóm chính sách hỗn hợp chủ yếu là: - Các chính sách thúc đẩy cạnh tranh để thúc đẩy tiến bộ công nghệ. - Chính sách mua sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ do các dự án đổi mới công nghệ tạo ra. Chính sách thuế. Các quốc gia thường cố gắng áp dụng một chính sách thuế thực sự có tác dụng kích thích việc hình thành một số hãng làm hạt nhân nâng cao tiềm lực quốc gia. IV. XU HƯỚNG ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ TRÊN THẾ GIỚI 1. Khái niệm đầu tư đổi mới công nghệ Đầu tư đổi mới công nghệ được hiểu là bỏ vốn để thay đổi, cải tiến công nghệ đã có (trong nước, nước ngoài), góp phần cải thiện chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đầu tư đổi mới công nghệ có thể bao gồm nhiều hoạt động khác nhau như: đầu tư cho hoạt động nghiên cưú và triển khai để cải tiến, đổi mới quy trình công nghệ sao cho đạt chi phí thấp hơn, năng suất, hiệu quả hơn; đầu tư cho việc nhập khẩu công nghệ mới nghiên cứu để hoàn thiện công nghệ sản phẩm hoặc quy trình sản xuất nhập ngoại cho phù hợp với điều kiện trong nước... Chủ thể đầu tư đổi mới công nghệ về nguyên tắc là doanh nghiệp, nhưng cũng có thể là nhà công nghệ, kỹ thuật thuộc bộ phận nghiên cứu và triển khai các doanh nghiệp, cũng có thể là các cán bộ khoa học làm việc tại các việc nghiên cứu nằm ngoài doanh nghiệp. Nguồn vốn để đầu tư đổi mới công nghệ có thể từ nhiều nguồn khác nhau: của ngân sách nhà nước (thông qua chương trình hỗ trợ, thể chế tài chính của nhà nước), vốn doanh nghiệp, vốn của các tổ chức nghiên cứu và triển khai, vốn trong nước, vốn nước ngoài. 2. Xu hướng đầu tư đổi mới công nghệ trên thế giới Trong một vài thập kỷ qua, với sự vận động và phát triển không ngừng, nền kinh tế toàn cầu đã diễn ra nhiếu biến đổi sâu sắc. Trong đó, nhiều xu hướng và trào lưu phát triển trên thế giới buộc từng nước, đặc biệt là các nước đang phát triển ở trình độ thấp như nước ta, phải có ứng xử phù hợp đối với vấn đề đổi mới công nghệ cao. Sau đây là một số xu hướng nổi bật: - Những thành tựu và phát triển vượt trội của khoa học và công nghệ để phục vụ và phát triển kinh tế, giúp cho các nhà sản xuất gia tăng hiệu quả, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. - Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng diễn ra mạnh mẽ. Phân công lao động và chuyên môn hoá trong sản xuất ngày càng sâu giữa các nước trên toàn cầu, không chỉ dừng lại trong sản xuất các loại hàng hoá mà còn sâu hơn là chuyên môn hoá trong sản xuất các thiết bị của moọt sản phẩm. Hay nói cách khác, những dây chuyền sản xuất quốc gia đã và đang được hình thành ngày càng nhiều. Cùng với đó là sự lưu chuyển dễ dàng của các loại hàng hoá, các yếu tố sản xuất, đặc biệt là vốn và công nghệ giữa các nước và sự xuất hiện ngày càng nhiều các công ty xuyên quốc gia. Điều này làm cho môi trường cạnh tranh của doanh nghiệp ngày càng gay gắt hơn. Doanh nghiệp không chỉ cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước mà còn cạnh tranh với doanh nghiệp trên toàn cầu. Chính vì vậy, các doanh nghiệp đều phải luôn đổi mới và sáng tạo nâng cao năng lực công nghệ của mình để từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh. Đối với quốc gia, tạo ra xu hướng phân công lao động mạnh mẽ giữa các nước và hình thành dây chuyền sản xuất toàn cầu đang tạo ra bẫy "lao động rẻ" và nguy cơ trở nên bãi thải công nghệ. Hiện nay, trên thế giới, những tiến bộ và phát minh công nghệ ngày càng phong phú, tinh vi và thay đổi nhanh hơn. Nhiều loại công nghệ cao xuất hiện và được rất nhiều nước, nhất là những nước phát triển, quan tâm nghiên cứu và triển khai. Việc ứng dụng những loại hình công nghệ cao đã đem lại nguồn lợi kinh tế cho nhiều nước và làm thay đổi ngoạn mục chất lượng cuộc sống. Chính vì vậy, nhiều nước đang phát triển đã và đang tận dụng được những lợi ích do công nghệ cao mang lại thông qua việc tạo điều kiện thúc đẩy ứng dụng nhanh và rộng rãi những thành tựu công nghệ cao trong nền kinh tế. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM I. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ Ở NƯỚC TA 1. Tình hình đầu tư đổi mới công nghệ Trong suốt những năm qua, đặc biệt sau những năm đổi mới, đầu tư đổi mới công nghệ đã có những tiến bộ nhất định. Đầu tư đổi mới công nghệ có dấu hiệu gia tăng và mang lại một số kết quả nhất định trong một số ngành, lĩnh vực. 1.1. Trong công nghiệp Trong công nghiệp nhờ ứng dụng công nghệ và đổi mới công nghệ, năng lực và trình độ công nghệ của một số ngành kinh tế đã được cải thiện một bước, giúp các ngành này làm chủ được công nghệ ngoại nhập, đạt trình độ công nghệ mức trung bình của thể giới như ngành xây dựng, điện lực, điện dân dụng, lắp ráp ô tô, dầu khí, thiết bị điện, may, xe máy, chế tạo khuôn mẫu, chế biến thuỷ sản, xăm lốp, đồ nhựa.v.v…Đáng chú ý, những tiến độ về đổi mới công nghệ mới chủ yếu diễn ra tại một số doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, các doanh nghiệp trong khu chế xuất, khu công nghiệp thuộc những ngành, lĩnh vực được Nhà nước chú trọng đầu tư. Tuy nhiên, trình độ công nghệ lạc hậu của nhiều ngành đã hạn chế năng lực cạnh tranh của sản phẩm làm ra. Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 416.863 tỷ đồng năm 2005 tăng 17,2% 5 Nguồn: Vụ kinh tế Công nghiệp so với vùng này, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 8,7%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 24%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 20,9%. Một số ngành do đổi mới công nghệ nêntốc độ tăng trưởng rất cao như than sạch tăng 21,7%; một số sản phẩm hoá chất là phân hoá học tăng 24,7%; một số sản phẩm điện tử, cơ khí chế tạo máy công cụ tăng 32,8%; ô tô các loại tăng 31,1% so với thực hiện năm 2004. Ngoài ra. Một số ngành khác đang đầu tư mạnh mẽ để đổi mới công nghệ tuy nhiên kết quả còn chưa khả quan lắm, điện sản xuất tăng 15,4%, thuỷ sản chế biến tăng 15,9%; sữa hộp 15,2%, quần áo may sẵn 14,8%; xe máy 11,7%; quạt điện dân dụng tăng 2,5% so với vùng vày. 1.2. Trong nông nghiệp Một số tiến bộ khoa học kỹ thuật được ứng dụng một cách sáng tạo. Một số công nghệ mới đã và đang được áp dụng trong sản xuất nông lâm ngư nghiệp như công nghệ tạo giống mới, công nghệ canh tác mới, kỹ thuật nuôi. Đầu tư đổi mới công nghệ đã bước đầu góp phần nâng cao năng suất cây trồng vật nuôi. Ví dụ, năng suất lúa tăng từ 42,2 tạ/năm lên 48,2 tạ/ha năm 2004; năng suất ngô tương ứng từ 27,5 tạ/ha lên 34,9 ta/ha; sản lượng sữa tươi tăng từ 51,4 nghìn tấn năm 2000 lên 151,3 nghìn tấn năm 2004; sản lượng thuỷ sản nuôi trồng tương ứng từ 589,6 nghìn tấn lên 1155,6 nghìn tấn6 .Nguồn: Tổng cục thống kê- Trang Web www.most.gov.vn . Công nghệ bảo quản, chế biến sau thu hoạch, công nghệ chế biến gỗ, chế biến gạo.v.v… đã bắt đầu được chú trọng đổi mới. Một số doanh nghiệp chế biến gạo xuất khẩu, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất mỳ chính từ nguyên liệu sẵn doanh nghiệp thuộc ngành sữa và doanh nghiệp tinh luyện dầu thực vật đã đầu tư công nghệ tương đối hiện đại. Khoảng 70% số doanh nghiệp chế biến thuỷ sản có trình độ công nghệ tương đối hiện đại, tạo ra sản phẩm cạnh tranh được với các nước trên thế giới. Tuy nhiên, mặc dù đã đạt được những tiến nbộ nhất định nhưng nhìn chung, ngành vẫn chưa thoát khỏi phương thức sản xuất cũ và lạc hậu. 1.3. Trong lĩnh vực dịch vụ Mặc dù là ngành có năng lực công nghệ còn rất khiêm tốn so với thế giới, ngành bưu chính viễn thông đã có tốc độ đã có tốc độ đổi mới công nghệ tương đối nhanh. Sau chiến lược tăng tốc viễn thông (1990 - 2000), ngành đã có một số cơ sở hạ tầng viễn thông tương đối hiện đại với hệ thống truyền dẫn vệ tinh, cáp quang và vi ba sổ trái rộng ra cả nước và kết nối quốc tế, các dịch vụ viễn thông và internet, cố định và di động ngày càng phát triển và đa dạng Việt Nam đang là nước đứn._.ện các hoạt động đổi mới công nghệ và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao, kêu gọi và tạo mọi điều kiện để tri thức Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia đầu tư đổi mới công nghệ ở Việt Nam. - Sửa đổi Nghị định 1998 NĐ-CP về chuyển giao công nghệ cho phù hợp với thế hệ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp nước ngoài yên tâm chuyển giao công nghệ vào Việt Nam; tổ chức các hoạt động đào tạo, nâng cao năng lực đào tạo, nâng cao năng lực đào tạo chuyên gia của Việt Nam trong việc đánh giá công nghệ và tiếp thu công nghệ của các dự án đầu tư nước ngoaì. Sớm xây dựng chiến lược hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ nhằm thúc đẩy nhanh hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. - Ban hành chính sách khuyến khích doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có trách nhiệm, năng lực và lợi ích trong việc tiếp thu công nghệ do phía đối tác và đầu tư nước ngoài chuyển giao. Thực hiện hàng năm khen thưởng, tuyên dương những doanh nghiệp, dự án đầu tư nước ngoài có thành công trong nghiên cứu đổi mới công nghệ. c) Tăng cường trách nhiệm của cán bộ, ngành và địa phương đối với công tác thúc đẩy đàu tư đổi mới công nghệ trong lực lượng cán bộ công nghệ, trong các tổ chức triển khai, trong doanh nghiệp cũng như toàn xã hội. - Thực hiện đánh giá năng lực công nghệ, tốc độ đổi mới công nghệ của một số lĩnh vực quan trọng, có tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế quốc dân, tiến hành đánh giá hiệu quả đầu tư của nhà nước cho các chương trình quốc gia về đổi mới công nghệ, chú trọng công tác quản lý quá trình đổi mới và phát triển công nghệ. Việc đánh giá cần do một cơ quan độc lập thực hiện, theo những tiêu chí xác định để đảm bảo tính khách quan và chính xác. - Cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao năng lực công nghệ của người lao động nước ta phát triển hệ thống dạy nghề phù hợp với xu thế phát triển khoa học kỹ thuật của thế giới và nhu cầu của thị trường, mở rộng hệ thống đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Sớm nghiên cưú phương pháp giáo dục và đào tạo lực lượng cán bộ kỹ thuật công nghệ tại các trường đại học và dạy nghề, tạo thói quen đổi mới sáng tạo và chủ động trong hoạt động nghiên cứu của họ, gắn công tác đào tạo nghiên cứu khoa học của các trường đại học công nghệ với thực tiễn và nhu cầu của thị trường nhằm hình thành lực lượng nhiên cứu công nghệ có năng lực hiện đổi mới công nghệ ở nước ta. - Từng bước chuyển chế độ biên chế sang chế độ hợp đồng lao động đối với cán bộ KH&CN, tạo điều kiện cho việc lưu chuyển cán bộ hình thành thị trường lao động trong hoạt động khoa học và công nghệ. Thực hiện quyền tự chủ tự chịu trách nhiệm về quản lý nhân sự đối với các tổ chức KH&CN trong việc quyết định tuyển dụng, đào tạo, bố trí sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức cho thôi việc, xếp lương, cho thôi việc và các chế độ đãi ngộ khác đối với cán bộ công nhân viên. - Đẩy mạnh việc tuyển chọn và gửi học sinh, sinh viên, cán bộ KH&CN đi vào tạo một cách đồng bộ ở các nước có trình độ KH&CN tiên tiến, trước mắt trong một số lĩnh vực công nghệ trọng điểm quốc gia phối hợp chặt chẽ giữa việc đào tạo với cơ quan sử dụng cán bộ KH&CN. Điều chỉnh cơ cấu đào tạo theo hướng đào tạo công nhân kỹ thuật (đặc biệt là công nhân có trình độ tay nghề cao) cho các ngành đang đầu tư nước ngoài và các ngành kinh tế -xã hội trọng điểm. Khuyến khích mở các trường đại học, viện nghiên cứu công nghệ quốc tế hoặc các khu vực tại Việt Nam. Thu hút các viện nghiên cứu, trường đại học có uy tín của nước ngoài liên kết hoặc mở phân viện, phân hiệu hoặc tổ chức các chương trình đào tạo nguồn nhân lực KH&CN tại Việt Nam. - Khuyến khích và thúc đẩy phong cách nghiên cứu hướng tơí đổi mới công nghệ của nhà khoa học, tổ chức nghiên cứu và triển khai các doanh nghiệp cũng như nâng cao nhận thức của xã hội về yêu cầu cần đổi mới công nghệ trong hoàn cảnh hiện nay, khuyến khích sự phối hợp, hợp tác giữa các đối tượng liên quan trong quá trình thực hiện nghiên cứu đổi mới công nghệ. Thực hiện các biện pháp tuyên truyền, phát động phong trào phát huy tinh thần đổi mới, sáng tạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, của cá nhân trong xã hội. Thực hiịen những biện pháp khuyến khích khen thưởg xứng đáng, kịp thời với những cá nhân, tập thể có thành tích trong nghiên cứu đầu tư đổi mới công nghệ đem lại lợi ích kinh tế-xã hội. - Tến hành định kỳ đánh giá hiệu quả đầu tư nhà nước KH&CN nói chung, đầu tư đổi mới công nghệ nối riêng, tác động đầu tư cho công nghệ và khoa học tới nền kinh tế và tăng trưởng kinh tế. - Ban hành chính sách khen thưởng đối với cá nhân có thành tích KH&CN có giá trị và khoa học và thực tiễn cao, chính sách khuyến khích cán bộ KH&CN làm việc tại địa bàn có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn chính sách sử dụng cán bộ KH&CN đến tuổi nghỉ hưu nhưng còn có khẳ năng chuyên môn, sức khoẻ và tâm huyết với nghề nghiệp. 2. Nhóm cơ chế chính sách và giải pháp xây dựng và phát triển thị trường KH&CN ở Việt Nam Bên cạnh việc tạo môi trường đào tạo kinh doanh và phát triển thị trường KH&CN là một hướng quan trọng nhằm tạo động lực thúc đẩy đầu tư đổi mới công nghệ để thị trường KH&CN phát triển ở nước ta, trong thời gian tới cần thực hiện: a) Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật cần thiết cho thị trường công nghệ và khoa học vận hành. - Ban hành văn bản pháp quy liên quan tới các vấn đề hiện đang rất bức xúc như : các giao dịch, hợp đồng mua bán, chuyển giao công nghệ làm rõ cơ sở pháp ký của doanh nghiệp khoa học công nghệ và hoạt động công ích, các doanh nghiệp hoạt động dịc vụ chuyển giao công nghệ và sở hữu trí tuệ mới được ban hành, phổ biến rộng rãi nghiên cưú để tạo điề kiện thuận lợi để thực hiện quá trình đăng ký sở hữu trí tuệ nhằm giảm bớt thủ tục hành chính, giảm chi phí và thời gian đăng ký quyền sở hữu trí tuệ. Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nàh nước về tài chính- kế toán trong chuyển giao công ngệ sở hữu trí tuệ thị trường KH&CN nhằm tăng cườg đống góp của KH&CN vào sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội. - Tổ chức tốt tuyên truyền, phổ biến thông tin bằng nhiều hình thức về hệ thống pháp luật liên quan tới sở hữu trí tuệ cho các đối tượng liên quan, tạo thói quen trong xã hội về thực hiện pháp luật theo các giao dịch về công nghệ. Nâng cao năng lực và hiểu biết của cán bộ trong việc phát hiịen các vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, thực hiện bảo vệ có hiệu quả và hiệu lực thể chế xử lý các vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, thực hiện bảo vệ có hiệu quả trên thực tế quyền lợi của các cá nhân tổ chức đối với tài sản trí tuệ được pháp luật công nhận. b) Thúc đẩy nhu cầu đổi mới công nghệ và nhu cầu đầu tư đổi mới công nghệ. Bên cạnh việc tạo môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng theo pháp luật giữa các doanh nghiệp thuộc mội thành phần kinh tế, tiếp tục thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhà nước cần có cơ chế chính sách "kích cầu " đầu tư đổi mới công nghệ của doanh nghiệp như sau: - Thực hiện tốt nghị định 119 về các chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu và triển khai (trong đó có đầu tư đổi mới công nghệ ) các doanh nghiệp được quyền mở rộng hợp tác ,liên kết đầu tư đổi mới công nghệ với các tổ chức, các cá nhân trong và ngoài nước dưới nhiều hình thức: tự triển khai hoạt động nhgiên cứu và triển khai (thông qua thành lập các bộ phận nghiên cứu khoa học độc lập tại doanh nghiệp tự thành lập các công ty khoa học công nghệ, dịch vụ công nghệ trực thuộc ), liên kết với các viện, trường đại học đổi mới công nghệ góp vốn cổ phần vào các công ty đầu tư mạo hiểm, công ty dịch vụ công nghệ ... - Xây dựng và thực hiện chiến lược đào tạo, phát triển nguồn nhân lực gắn với nhu cầu của nền kinh tế và xã hội, hỗ trợ các doanh nghiệp sớm có ngay đội ngũ các chuyên gia công nghệ có năng lực, đặc biệt là các doanh nghiệp có quy mô lớn, có tiềm lực công nghệ cao, bên cạnh việc hợp tác đặt hàng với các viện nghiên cứu, doanh nghiệp có thể thực hiện hình thức "thuê" chuyên gia công nghệ từ các viện nghiên cứu ở trong nước, nước ngoài để thực hiện các dự án đổi mới công nghệ của mình . - Thúc đẩy việc triển khai và thực hiện Nghị định 90/2001NĐ-CP về phát triển DNNVV, ban hành chính sách hỗ trợ của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia đầu tư đổi mới công nghệ trong sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh của mình thông qua các hình thức như: hỗ trợ vốn để thực hiện các dự án để đổi mới công nghệ của doanh nghiệp, hỗ trợ các chuyên gia vẫn thực hiện các dịch vụ công nghệ, dịch vụ bảo hộ quuyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực về công nghệ...hỗ trợ các hiệp hội DNNVV tổ chức các hoạt động tuyên truyền, thông tin công nghệ, đổi mới công nghệ. - Sửa đổi nghị định 68-CP cho phép tổ chức nghiên cứu và triển khai của nhh nước thành lập doanh nghiệp công nghệ, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hoạt động theo luật doanh nghiệp thay cho hoạt động theo luật DNNN để đầu tư thử nghiệm và ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào thực tế cuộc sống. Ban hành nghị định về đổi mới cơ chế về hoạt động của tổ chức nghiên cứu và triển khai của nhà nước theo hướng chuyển các tổ chức nghien cứu khoa học công nghệ sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp phi lợi nhuận, các tổ chức này tự chủ về tài chính nhân lực được mở rộng hợp tác liên kết với các tổ chức các cá nhân trong nước và ngoài nước thực hiện các hợp đồng nghiên cứu đổi mới công nghệ và thực hiện nghĩa vụ theo luật định. c) Phát triển mạnh hệ thống các tổ chức dịch vụ công nghệ thông tin, môi giới công nghệ. - Nhà nước tăng cường đầu tư nâng cấp, hiện đại hoá cơ sở thông tin KH&CN hiện có, xây dựng và phát triển hệ thống thông tin KH&CN quốc gia liên thông với quốc tế, khai thác có hiệu quả các nguồn thông tin KH&CN trong và ngoài nước, khẳng định tình trạng lạc hậu về thông tin hiện nay của nước ta. - Nhà nước tạo điều kiện và môi trường và pháp lý dể hình thành và phát triển các laọi hình doanh nghiệp dịch vụ công nghệ, thông tin công nghệ . Triển khai xây dựng mạng lưới thông tin công nghệ và đổi mới công nghệ ở trung ương và địa phương phục vụ các doanh nghiệp, đặc biệt có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và những đối tượng ở nông thôn, địa bàn khó khăn có điều kiện tiếp cậnvới thông tin công nghệ và đổi mới công nghệ. Xây dựng và phát triển các ngân hàng dữ liệu quốc gia về KH&CN, trước hết là thông tin liên quan tới các quốc gia về KH&CN, trước hết là các thông tin liên quan tới các kết quả nghiên cứu được hà nước cấp kinh phí, các thông tin về sở hữu trí tuệ, số liệu điều tra cơ bản về tài nguyên thiên nhiên và tiềm lực về KH&CN tới người sử dụng, các thông tin về đổi mới công nghệ, chú trọng thông tin về đổi mới công nghệ, chú trọng thông tin phục vụ DNNVV, phát triển nông thôn, vùng sâu, vùng xa. - Tổ chức thường kỳ các cuộc thi sáng tạo và đổi mới công nghệ, triển lãm hội trợ sản phẩm công nghệ (chợ công nghệ) tại các trung tâm lớn trong phạm vi cả nước. Tổ chức các chương trình giới thiệu về sản phẩm công nghệ có giá trị trên các phương tiện thông tin đại chúng phát triển hệ thống dịch vụ cung cấp sản phẩm công nghệ trên phạm vi cả nước và tuỳ theo đặc thù của từng địa phương, đồng thời có chính sách khuyến khích đặc biệt phát triển hệ thông dịch vụ cung ứng này tại các địa bàn nông thôn vùng sâu, vùng xa. Mở rộng diện các dịch vụ công nghệ giảm các quyền trong cung cấp dịch vụ công nghệ. 3. Các cơ chế chính sách khuyến khích, hỗ trợ đầu tư đổi mới công nghệ. a) Chính sách đầu tư. Đổi mới cơ chế đầu tư của nhà nước đối với hoạt động khoa khoa học và công nghệ theo hướng. - Sửa đổi cơ chế tài trợ, đầu tư của nhà nước cho KHQCN theo hướng hạn chế đầu tư trực tiếp cho hoạt động nghiên cứu đổi mới công nghệt heo cơ chế xin- cho, chuyển sang đầu tư gián tiếp (như tạo điều kiện hạ tầng hoàn thiện khung khổ pháp luật cho thị trường vốn phát triển ở Việt Nam, hỗ trợ hình thành thí điểm đầu tư mạo hiểm…) đầu tư của nhà nước phải có trọng tâm, trọng điểm để tạo bước bứt phá về một số công nghệ cao tác động tích cực đến việc nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả kinh tế, việc đầu tư cho các đề tài nghiên cứu cần ưu tiên và đều kiện để đánh giá được chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật công nghệ, mở rộng khẳ năng tiếp cận của nhiều đối tượng đối với nguồn vốn hỗ trợ của nhà nước đối mới công nghệ trên cơ sở cạnh tranh, tuyển chọn công khai, đảm bảo các dự án bảo vệ công nghệ do nân sách hỗ trợ phải gắn với nhu cầu xã hội, của doanh nghiệp. - Sớm triển khai hoạt động của quỹ hỗ trợ hoạt động và công nghệ có đánh giá định kỳ về hiệu quả sử dụng đầu tư của nàh nứơc từ kỳ này. Cơ quan quản lý nhà nước về KH&CN cần phối hợp với các bộ, ngành, tiến hành đánh giá, định kỳ tốc độ đổi mới công nghệ của ngành kinh tế chủ yếu, đề xuất với chính phủ giải pháp cần thiết điều chỉnh hoặc hoàn thiện chính sách thúc đẩy đầu tư đổi mới công nghệ trong nước. Quy định về chế độ tự đánh giá và đánh giá bên ngoài định kỳ đối với các tổ chức KH&CN của nhà nước của các tiêu chuẩn tương hợp với mức tiêu chuẩn quốc tế để nâng cao hiệu quả đầu tư. Kết quả và ứng dụng kết quả đổi mới công nghệ, dần trở thành tiêu trí quan trọng nhất đối với danh nghiệp và các tổ chức KH&CN để nhân được tài trợ của nhà nước. - Triển khai áp dụng cơ chế tự chủ tài chính đối với tổ chức KH&CN của nhà nước phù hợp với mỗi loại hoạt động KH&CN như nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu luận cứ phục vụ xây dựng chính sách chiến lược nghiên cứu các lĩnh vực KH&CN trọng điểm và những lĩnh vực công ích, nghiên cưú và ứng dụng và phát triển công nghệ. Các tổ chức KH&CN nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ tạo ra sản phẩm phục vụ nhu cầu thị trường, chuyển sang một trong các hình thức tổ chức: tổ chức KH&CN hoạt động theo cơ chế tự trang trải kinh phí, doanh nghiệp, doanh nghiệp KH&CN. Đối với các tổ chức này nhà nước chỉ cấp kinh phí theo cơ chế đơn đặt hàng nhiệm vụ KH&CN. Cải tiến chế độ tài chính trong việc thực hiện nhiệm vụ KH&CN và đổi mới công nghệ, nghiên cứu áp dụng cơ chế khoán kinh phí thực hiện đề tài, dự án KH&CN, cải thiện tủ tục thanh quyết toán tài chính theo hướng đơn giản hoá nhưng đảm bảo quản lý chặt chẽ sản phẩm đầu ra. - Xây dựng cơ chế, chính sách đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư cho hoạt động khoa học công nghệ, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, sử dụng vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) đầu tư cho đổi mới công nghệ, khuyến khích thành lập quỹ phát triển KH&CN và quỹ đầu tư mạo hiểm có vốn ngoài ngân sách nhà nước, đẩm bảo tốc độ tăng chi cho KH&CN trong đó chú trọng đổi mới công nghệ từ ngân sách nhà nước hàng năm tốc độ cao hơn tốc độ tăng chi ngân sách nhà nước. Tập trung đầu tư đổi mới công nghệ trọng điểm, dành vốn đầu tư thích đáng cho nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng trong các nghành khoa học, thực hiện đầu tư đồng bộ giữa xây dựng cơ sở vật chất -kỹ thuật với đào tạo cán bộ KH&N. - Trong thời gian 5 năm tới, quỹ hỗ trợ KH&CN dành tỷ lệ thích đáng nguồn vốn để hỗ trợ hoạt động nghiên cứu đổi mới công nghệ, phát triển các sản phẩm công nghệ, phát triển các sản phẩm công nghệ để ứng dụng vào các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân thông qua: “chương trình thương mại hoá sản phẩm công nghệ”. Biện pháp này được thực hiện này thông qua: + Giám sát thực hiện có hiệu quả các chương trình trọng điểm quốc gia về KH&CN (trong đó chương trình đổi mới công nghệ). Theo đó, chú trọng thu hút sự tham gia bình đẳng của các doanh nghiêp, các nhà khoa học vào việc kiến nghị các chuyên đề nghiên cứu của các chương trình nói trên, dành sự ưu tiên hỗ trợ xứng đáng đối với những dự án có sự phối hợp giữa doanh nghiệp – thị trường - vốn và có địa chỉ sử dụng rõ ràng, có triển vọng tác động mạnh mẽ tới các hoạt động kinh tế khác, có sự đóng góp tài chính của nhiều bên: doanh nghiệp - viện nghiên cứu - nhà khoa học, có sự hợp tác trong nước và ngoài nước. Nhanh chóng phổ biến và đưa ra các kết quả có giá trị của các chương trình này vào cuộc sống chú ý gắn kết sự hỗ trợ của nhà nước cho các dự án đầu tư đổi mới công nghệ với chương trình cải cách doanh nghiệp nhà nước đã được chính phủ thông qua. + Tổ chức đánh giá kết quả của các chương trình công nghệ trọng điểm quốc gia (2010-2005) đặc biệt phát hiện các kết quả có khẳ năng ứng dụng ngay vào thực tiễn để tiếp tục có biện pháp hỗ trợ bổ sung nhằm tối đa háo tác động của các chương trình đó vào thực tế cuộc sống (như tạo nguồn tài chính để ứng dụng các kết quả nghiên cứu, tổ chức các chương trình đào tạo để nâng cao khẳ năng tiếp thu các kiến thức khoa học kỹ thuật mới, tổchức phổ biến tiến bộ trong lĩnh vực công nghệ sinh học cho nông thôn, hỗ trợ một phần tài chính cho họ ứng dụng các thành tựu kỹ thuật…). + Các bộ ngành rá soát trong các đè tài đã dược nghiệm thu gần đây những công trình đổi mới công nghệ có khẳ năng đem lại hiệu quả cao trong cuộc sống. Từ đó trích một phần kinh phí ngân sách nhà nước cấp hàng năm cho hoạt dộng KH&CN của các bộ nhành địa phương để hỗ trợ thực hành nốt công đoạn biến những kết quả nghiên cưú thành sản phẩm công nghệ (kể cả hỗ trợ tiền đăng ký sở hữu trí tuệ tại các cơ quan có thẩm quyền). Cơ chế hỗ trợ đối với các dự án này có thể dưới dạng tài trợ tòan phần hay tài trợ một phần kinh phí (30%-50%) cho người thực hiện dự án. Phần kinh phí còn lại có thể huy động từ các nguồn khác nhau nguồn tự có của bên thực hiện dự án nguồn tài trợ và huy động từ các nguồn vốn khác nhau nguồn tự có của bên thực hiện dự án, nguồn tài trợ huy động được ở trong nước và ngoài nước nguồn vốn vay tín dụng, nguồn vốn góp của công ty đầu tư mạo hiểm… Trong trường hợp được tài trợ toàn phần, bên thực hiện dự án sẽ chỉ được coi là một trong những ngươì sở hữu quyền tác giả nếu như sản phẩm công nghệ được đăng bản quyền, còn trong trường hợp huy động từ nhiều nguồn vốn chủ dự án sẽ được hưởng quyền sở hữu đối với sản phẩm công nghệ theo quy định của pháp luật, người hưởng cơ chế này có thể là doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, các viện nghiên cứu, hà khoa học có dự án khẳ thi . + Đối với việc hỗ trợ tạo ra sản phẩm công nghệ, quỹ hỗ trợ KHCN tập rung ưu tiên đối với những dự án đã có địa chỉ sử dụng cụ thể (người mua) có khẳ năng được cơ quan có thẩm quyền công nhận (đăng ký quyền sở hữu công nghiệp). Hình thức tài trợ cho các dự án thuộc chương trình này sẽ có thể là hỗ trợ một phần kinh phí, hỗ trợ lãi suất (nếu chủ dự án vay vốn của ngân hàng thương mại hay quỹ đầu tư và phát triển để thực hiện dự án) nghiên cứu phương án để quỹ hỗ trợ KH&CN được bảo lãnh tín dụng hay bù lãi suất cho các danh nghiệp thực hiện dự án nghiên cứu đổi mới công nghệ khi vay tín dụng ngân hàng. + Nhà nước trích tiền ngân sách để mua lại quyền sở hữu đối với những sản phẩm công nghệ có khẳ năng tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế quốc dân sau khi sản phẩm này đã được nghiên cứu thành công, được công nhân để ứng dụng đại trà. - Có chính sách khuyến khích doanh nghiệp bỏ vốn trực tiếp đầu tư cho hoạt động đổi mới nghiên cứu đổi mới công nghệ nhằm răng dần tỷ trọng đầu tư của khu vực doanh nghiệp cho đổi mới công nghệ, nhất là những doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp thuộc các ngành sản xuất mũi nhọn và có khẳ năng cạnh tranh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay, đầu tư đổi mới công nghệ ở nước ta mới được thực hiện chủ yếu qua con đường đầu tư trực tiếp của nhà nước hoặc doanh nghiệp (nhà nước, nước ngoài) trong khi chưa có cơ chế khuyến khích đầu tư đổi mới công nghệ thông qua kênh gián tiếp để huy đọng nguồn vốn nhàn rỗi của xã hội cho đầu tư đổi mới của công nghệ (cả vốn trong nước và nước ngoài). Vì vậy cần nhanh chóng phát triển thị trường vốn ở Việt Nam, mở rộng thêm các kênh tạo vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ (như góp vốn cổ phần, hình thành đầu tư mạo hiểm, quỹ khoa học và công nghệ). Nhà nước cần ban hành những quy định cụ thể về cơ chế hoạt động của các thể chế tài chính để các thể chế này có thể đi vào hoạt động có hiệu quả. - Nghiên cứu khẳ năng xây dựng mạng thông tin hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa HTX và trang trại. Một mặt, mạng thông tin cung cấp cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa hợp tác xã và trang trại những thành tựu công nghệ, chính sách, pháp luật của nàh nước, những cơ chế chính sách khuyến khích hỗ trợ DNNVV, TX và trang trại, phối hợp với tổng công ty bưu chính viễn thông hình thành mạng thông tin dành riêng miễn thuê bao trong mạng trực tuyến để hỗ trợ DNNVV mở mang web của mình trên mạng. b) Cơ chế, chính sách về thuế nhằm khuyến khích đầu tư đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Hoàn thiện các công cụ khuyến khích về thuế hiện hành mở rộng đói tượng và tạo điiêù kiện để đối tượng có liên quan để được hưởng ưu đãi về thuế để đầu tư đổi mới công nghệ. - Nhanh chóng triển khai những chính sách thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ theo tinh thần của nghị định 119/CP, đơn giản hoá các quy định và thủ tục xá nhân hỗ trợ để các doanh nghiệp thuộc mị thành phần kinh tế dễ dàng tiếp cận và hướng lợi từ các chính sách khuyến khích của nhà nước dựa trên nguyên tắc công khai, bình đẳng. - Ngoài các chính sách ưu đãi về thuế hiện hành đối với các tổ chức các hạot động khoa học được quy định tại nghị định 81-CP (2002) ưu đãi đối với doanh nghiệp có những dự án đầu tư vào nghên cúu phát triển khoa học công nghệ dịch vụ khoa học công nghệ, chuyển giao công nghệ .. được quy định trong luật khuyến khích đầu tư trong nước, xem xét thực hiện thêm các giải pháp sau: + Cho phép doanh nghiệp được hoạch toán các khoản chi cho hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ, đầu tư để ứng dụng công nghệ vào giá thành sản phẩm công nghệ (nghị định 81-CP chỉ quy định với khoản đầu tư cho hoạt động KH&CN) Để thực hiện giải pháp này, cần quy định rõ tỷ lệ % tối đa doanh thu doanh nghiệp được phép hạch toán để chi cho hoạt động KH&N của mình. + Cho phép các doanh nghiệp được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với lợi nhuận thu được từ việc ứng dụng các kết quả của các dự án đổi mới công nghệ vào sản xuất và thực hiện các hợp đồng KH&N với các tổ chức khác để chuyển giao công nghệ đã được đổi mới trong thời hạn 3-5 năm + Miễn thuế VAT, thuế thu nhập cho các viện nghien cưúvà triển khai đối với các hợp đông mua bán sản phẩm công nghệ và chuyển giao công nghệ do chính mình tạo ra. - Ngoài ra, cần nghiên cứu thực hiện bổ sung các chính sách khuyến khích, hỗ trợ về đất đai, quyền sử dụng nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có mặt băng đầu tư đổi mới công nghệ. c) Tổ chức thực hiện nghiêm túc các chủ trương cơ chế chính sách KH&N vào cuộc sống - Các cơ quan quản lý nhà nước chức năng cần nhanh chóng thể chế hoá những chủ trương, đường lối đã nêu lên tại đại hội Đảng lần thứ IX thành những văn bản pháp quy.Mặt khác, cần rà soát lại các văn bản hiện hành và sửa đổi những văn bản không còn phù hợp trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hoá. - Hiện nay những tư tưởng đổi mới của luật khoa học và công nghệ luật sử hữu công nghiệp và luật sử hữu trí tuệ (2005) Nghị định 81-CP, Nghị định 186_CP và nhiều văn bản pháp quy khác liên quan đền hoạt động khoa học và công nghệ nói chung, đổi mới công nghệ nói riêng vẫn chưa được cụ thể hoá thành những thông tư hướng dẫn cho những nghị định, quyết định đã được chính phủ ban hành, đồng thời nghiên cứu xây dựng và trình chính phủ sớm ban hành những văn bản pháp quy khác ứng với nhiệm vụ đã nêu tại nghị quyết 188 của tủ tướng chính phủ. Trong quá trình xây dựng các văn bản chính sách cần có sự phối hợp, hợp tác và thống nhất giữa các cơ quan để ngay từ đầu tránh thiếu sự nhất quán của các biện pháp chính sách sẽ được ban hành. - Đi đôi với việc ban hành những văn bản pháp quy mới, các cơ quan chức năng cần tiến hành tông kết, đánh giá việc thực thi những cơ chế, chính sách hiện hành sớm phát hiện những vướng mắc trong thực thi các văn bản để kịp kiến nghị sửa đổi bổ sung cho phù hợp với tình hình mới. Hiện nay một số cơ chế, chính sách liên quan tới đầu tư đổi mới công nghệ được thể hiện trong các văn bản pháp quy của các bộ ngành ra đời nhiều năm. Đến nay đã lỗi thời hoặc rút kinh nghiệm hay sửa đổi (như quy định về quyền KH&CN của các cán bộ nghành địa phương quy định về thí điểm thành lập doanh nghiệp nhà nước trong các tổ chức nghiên cứu và triển khai, quy định về chuyển giao công nghệ quy dịnh về tín dụng cho hạot động của các nghiên cứu và triển khai ...). KẾT LUẬN Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay, công nghệ ngày càng trở thành yếu tố quan trọng quyết định năng lực cạnh tranh của quốc gia nối chung và của doanh nghiệp nói riêng. Vấn đề thúc đẩy đổi mới công nghệ và ứng dụng công nghệ cao là một trong những chủ đề rất được quan tâm nghiên cứu ở tất cả các nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển nhất là những năm gần đây. Qua phần mở đầu và ba chương nội dung chính, đề tài đã phân tích tương đối sâu và tổng hợp các vấn đề liên quan đến đầu tư đổi mới công ngọê ở Việt Nam nhằm mục tiêu đưa ra những cơ chế chính sách thích hợp cải thiện tình hình trong thời gian tới. Với quan niệm cho rằng, tình hình thực tế hiện nay, thị trường KH&CN là kênh quan trọng để doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, bên cạnh việc xem xét trực tiếp tình hình đầu tư đổi mới công nghệ, đề tài đã phân tích sâu thực trạng phát triển thị trường KH&CN ở Việt Nam để có thể thiết kế dược một hệ thống các cơ chế, chính sách toàn diện hơn. Trong đề tài này đã đưa ra các nhóm kiến nghị hoàn thiên cơ chế, chính sách thúc đẩy đầu tư đổi mới công nghệ: 1. Nhóm chính sách kinh tế-xã hội 2. Nhóm cơ chế, chính sách và giải pháp xây dựng phát triển thị trường KH&CN 3. Các cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ đầu tư đổi mới công nghệ Đề tài đã cố gắng hoàn thành mục tiêu đặt ra là hoàn thiện những cơ chế chính sách thúc đẩy đầu tư đổi mới công nghệ. Tuy nhiên, các cơ chế chính sách đó đi vào cuộc sống và đem lại hiệu quả thiết thực, khâu tổ chức triển khai thực hiện các cơ chế chính sách đóng vai trò rất quan trọng. Hay nói cách khác, tình hình đầu tư đổi mới công nghệ hy vọng có những tiến bộ đáng kể nếu nhóm các chính sách trên được thực thi nghiêm túc và đồng bộ. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO - Đảng cộng sản Việt Nam (2001), văn kiện đại hội Đảng lần thứ IX của đảng cộng sản Việt Nam, NXB chính trị quốc gia. - Ban khoa giáo trung ương (2002), các văn bản của đảng và nhà nước về phát triển KH&CN 1981-2001, NXB chính trị quốc gia. - Bộ khoa học công nghệ và môi trường (2000), văn bản pháp luật mới về KHCNMT, NXB khoa học và kỹ thuật. - Lê Đăng Doanh (2003), đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ ở Việt Nam , NXB khoa học và kỹ thuật. - GS.TS. Vũ Thị Ngọc Phùng (2005), giáo trình kinh tế phát triển, NXB Lao động- xã hội - GVC. Trần Đại Đồng và TS. Lê Huy Đức (2003), giáo trình dự báo PT_KT, NXB thống kê Hà Nội. - Nguyễn Doanh Sơn và các tác giả (2003), báo cáo kết quả điều tra về thị trường khoa học và công nghệ báo cáo, PHI. - Viện NCQLKTTƯ (2005), báo cáo kết quả khảo sát về đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam. - Bộ khoa học cong nghệ và môi trường (2005), Luật sở hữu trí tuệ (văn bản luật). - Ts. Đinh Văn Ân (2001), đổi mới cơ chế quản lý hoạt động khoa học và công nghệ, Viện NCQLKTTƯ. - PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt (2004), Giáo trình kinh tế đầu tư), NXB Thống kê - TS. Nguyễn Văn Phúc (2002), Giáo trình đổi mới công nghệ, NXB thống kê - Võ Hùng Dũng, "tăng trưởng công nghiêp_ phân tích cơ cấu", tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 286, tháng 3/2002 - Hoàng Xuân Long, " so sánh chính sách về KH&CN đối với DNNN và DN ngoài quốc doanh", tạp chi nghiên cứu kinh tế, số288, tháng 5/2002. - Tây Quang," bộn bề chuyển giao ...", báo Đầu tư, số 26/12/2002. tr14 - T.S Nguyễn Đức Thọ, "thị trừơng KH&CN...", báo Đầu tư, số 13/12/2002. - Trang WEB: www.mpi.gov.vn_ Bộ KH&ĐT www.gso.gov.vn_ Tổng cục thống kê www.most.gov.vn_ Bộ KH&CN PHỤ LỤC I Bảng 1: Tỷ lệ doanh nghiệp nhận được sự hỗ trợ của nhà nước cho quá trình đổi mới công nghệ Loại hình hỗ trợ Tỷ lệ (%) Về thông tin 44 % Về tài chính từ NSNN 13 % Chính sách tín dụng 19 % Hỗ trợ từ các nguồn quỹ hỗ trợ phát triển 20 % Các hỗ trợ khác 10 % Nguồn: Báo cáo khảo sát về đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam - CIEM - 2005 Bảng 2: Đánh giá tác động của các văn bản pháp luật liên quan đến đổi mới công nghệ của doanh nghiệp Các văn bản pháp luật Điểm số Nghị định 45 - 198/ND - CP về chuyển giao công nghệ 3,7 Nghị định 63 CP quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp 3,5 Quyết định 1693/1999 QĐ - BKHCNMT về thẩm định hợp đồng chuyển giao công nghệ 3,2 Nghị định 119/1999/NĐ - CP về khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ 3,6 Nghị định 54/2000/NĐ - CP về bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh 3,4 Luật thuế giá trị gia tăng 3,3 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 3,3 Nguồn: Báo cáo kết quả khảo sát về đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam - CIEM – 2005 MỤC LỤC Bộ Kế hoạch và Đầu tư Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Viện NCQLKTTƯ Độc lập - tự do - hạnh phúc XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN THỰC TẬP Sinh viên : Bùi Anh Dũng Lớp : KTPT 44B Khoa : KH&PT Trường : Đại học Kinh tế quốc dân Đến thực tập tại ban Nghiên cứu khoa học quản lý kinh tế, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương từ ngày 04/01/2006 đến ngày 30/04/2006. Trong quá trình thực tập, sinh viên đã tìm hiểu chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, làm quen với công tác quản lý của sinh viên, giành nhiều thời gian thu thập tài liệu nghiên cứu. Trên cơ sở đó, sinh viên đã đề xuất và thực hiện đề tài “Hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy đầu tư đổi mới công nghệ ở Viêt Nam giai đoạn 2006-2010”. Trong suốt thời gian thực tập ở Viên NCQLKTTƯ, sinh viên đã chấp hành nghiêm chỉnh nội quy của cơ quan thực tập, có thái độ thực tập nghiên túc, chịu khó học hỏi kiến thức chuyên môn, kỹ năng làm việc để nâng cao kiến thức tích luỹ kinh nghiệm cho bản thân. Tóm lại sinh viên Bùi Anh Dũng đã hoàn thành tốt đợt thực tập tốt nghiệp tại ban Nghiên cứu khoa học quản lý, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương Xác nhận của cơ quan thực tâp ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29468.doc
Tài liệu liên quan