Thực trạng và giải pháp xoá đói giảm nghèo ở huyện Như Thanh -Thanh Hoá

MỤC LỤC Trang DANH MỤC BẢNG BIỂU, TÀI LIỆU THAM KHẢO Trang Sơ đồ 1.1: Ảnh hưởng của nghèo đói đến đời sống xã hôi. 14 Bảng 1.2:Bảng tổng hợp hộ nghèo đói qua từ năm1997 đến năm 2002 24 Bảng 2.2: Tổng hợp hộ nghèo còn lại năm 2005 theo tiêu chí cũ 26 Bảng 3.2: Chỉ tiêu phân loại hộ nghèo theo tiêu chí mới áp dụng cho các địa phương trong nước.(Đơn vị : đồng). 28 Bảng 4.2:Tổng hợp hộ nghèo năm 2006 theo tiêu chí mới 29 Bảng 5.2 : Thống kê các hộ nghèo năm 2006 30 Bảng 6.2 : Cơ cấu h

doc72 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2252 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp xoá đói giảm nghèo ở huyện Như Thanh -Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộ nghèo phân theo loại hình kinh tế và đối tượng xã hội - năm 2005 32 Bảng 7.2: Cơ cấu tổng thu của nông hộ nghèo năm 2005 - theo ngành nghề 34 Bảng 8.2: Cơ cấu thu nhập của các nông hộ nghèo năm 2005 37 Bảng 9.2: Cơ cấu chi tiêu của các nông hộ nghèo (năm 2005) 40 Bảng 10.2 : Phân bố hộ nghèo theo đối tượng năm 2005. 42 Bảng 11.2 : Phân bố các hộ nghèo trong huyện năm 2005. 43 Bảng 12.2:Dự kiến kết quả đạt được trong năm 2007. 60 LỜI MỞ ĐẦU Đói nghèo là một vấn đề xã hội mang tính toàn cầu. Những năm gần đây, nhờ những chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã có những bước chuyển mình rất quan trọng. Đặc biệt là vào năm 2006 nước ta đã chính thức là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới WTO. Những nhân tố đó đã làm cho nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh, đại bộ phận đời sống nhân dân đã được nâng lên một cách rõ rệt. Song, một bộ phận không nhỏ dân cư đặc biệt là dân cư ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa... đang chịu cảnh nghèo đói, chưa đảm bảo được những điều kiện tối thiểu của cuộc sống như ăn, ở, mặc, đi lại... Chính vì vậy, sự phân hoá giàu nghèo ở nước ta ngày càng diễn ra mạnh mẽ. Nó không chỉ là mối quan tâm hàng đầu của những nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới, mà đối với nước ta khi nền kinh tế đang có sự chuyển mình thì vấn đề phân hoá giàu nghèo càng được chú trọng hàng đầu. Để có thể hoàn thành mục tiêu quốc gia là Xoá đói giảm nghèo thì thì trước tiên phải rút ngắn sự phân hoá giàu nghèo. Đây không chỉ là nhiệm vụ của bộ máy lãnh đạo mà còn là nhiệm vụ của toàn thể nhân dân. Phải phát huy truyền thống tinh hoa văn hoá người Việt trong nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo. Như Thanh - Thanh Hoá là một huyện miền núi thuộc tỉnh Thanh Hoá, huyện cũng có một nét chung đối với tất cả các địa phương khác đó là tình trạng nghèo đói vẫn còn tồn tại. Đời sống một bộ phận nhân dân vẫn đang rất khó khăn yếu kém. Điều này cũng là một tất yếu đối với một huyện miền núi mà nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp.Huyện mới được thành lập từ năm 1997 từ việc chia tách từ huyện Như Xuân. Do đó, công tác xoá đói giảm nghèo đặc biệt quan tâm nhất là từ năm 1997 đến nay. Xoá đói giảm nghèo là một trong những chính sách xã hội cơ bản hướng vào phát triển con người, nhất là người nghèo, tạo cơ hội cho họ tham gia vào quá trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, để cho người nghèo có cơ hội và điều kiện tiếp cận các dịch vụ xã hội phát triển sản xuất tự vươn lên thoát khỏi nghèo đói.Như Thanh - Thanh Hoá là một trong những huyện sớm triển khai thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo. Từ những năm 1999 Hội đồng nhân dân huyện đã có Nghị quyết số 2159/NĐ/HĐND ngày 21/10/1999 về một số biện pháp, chính sách thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo, Uỷ ban nhân dân huyện đã quyết định thành lập Ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo từ các huyện đến các xã, dành nhiều ngân sách đầu tư cơ sở hạ tầng xã nghèo, lập quỹ cho vay Xoá đói giảm nghèo , xây dựng các mô hình xoá đói giảm nghèo... Với lí do trên và qua tìm hiểu thực tế về các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác Xoá đói giảm nghèo ở huyện Như Thanh - Thanh Hoá. Kết hợp với việc nghiên cứu các số liệu về thu nhập, việc làm, đời sống vật chất, tinh thần của hộ nghèo nói riêng và của nhân dân trong huyện nói chung. Với tư cách là một sinh viên thực tập tại huyện em nhận thấy vấn đề nghèo đói của huyện là rất phổ biến, cần phải có những bước đi thật chính xác mới có thể khắc phục được. Chính vì vậy em đã chọn đề tài chuyên đề thực tập là: Thực trạng và giải pháp Xoá đói giảm nghèo ở huyện Như Thanh – Thanh Hoá. Do phạm vi nghiên cứu và thời gian tìm hiểu có hạn nên chuyên đề thực tập không thể tránh được những thiếu sót hạn chế. Em rất mong sự đóng góp ý kiến của giáo viên hướng dẫn thực tập tốt nghiệp và các chú các anh công tác tại phòng Nội vụ- Lao động Thương binh và Xã hội để chuyên đề của em được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn thực tập tốt nghiệp: PGS.TS. Trần Xuân Cầu , các chú, các anh đang công tác tại phòng Nội vụ- LĐTB&XH huyện Như Thanh - Thanh Hoá- đã hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Phần 1: Sự cần thiết phải xoá đói giảm nghèo. 1. Khái niệm. 1.1. Khái niệm nghèo, đói: 1.1.1. Theo quan niệm của Quốc tế. - Theo Uỷ ban kinh tế xã hội khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP): Nghèo đói là trạng thái môt bộ phận dân cư không được hưởng và thão mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của địa phương. Khái niệm nghèo đói có thể chia theo hai cách khác nhau: Nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. Nghèo tương đối là sự thõa mãn chưa đầy đủ nhu cầu cuộc sống của con người như: cơm ăn chưa ngon, quần áo chưa mặc đẹp, nhà ở chưa k hang trang... hay nói cách khác là có sự so sánh về thoã mãn các nhu cầu cuộc sống giữa người này với người khác, vùng này với vùng khác. Hộ nghèo tương đối không phải là đối tượng chủ yếu của chương trình. Để giải quyết nghèo tương đối có chương trình, giải pháp khác tác động đến như: Chương trình cho vay vốn giải quyết việc làm, phát triển kinh tế trang trại, cho vay của ngân hàng chính sách, ngân hàng Nông nghiệp. Trong những xã hội được gọi là thịnh vượng, nghèo được định nghĩa dựa vào hoàn cảnh xã hội của cá nhân. Nghèo tương đối có thể được xem như là việc cung cấp không đầy đủ các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những người thuộc về một số tầng lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của xã hội đó. Nghèo tương đối có thể là khách quan, tức là sự hiện hữu không phụ thuộc vào cảm nhận của những người trong cuộc. Người ta gọi là nghèo tương đối chủ quan khi những người trong cuộc cảm thấy nghèo không phụ thuộc vào sự xác định khách quan. Bên cạnh việc thiếu sự cung cấp vật chất (tương đối), việc thiếu thốn tài nguyên phi vật chất ngày càng có tầm quan trọng hơn. Việc nghèo đi về văn hóa-xã hội, thiếu tham gia vào cuộc sống xã hội do thiếu hụt tài chính một phần được các nhà xã hội học xem như là một thách thức xã hội nghiêm trọng. Nghèo tuyệt đối là sự không thoã mãn những nhu cầu tối thiểu của con người để duy trì cuộc sống như: Cơm ăn không đủ no, áo không đủ mặc, nhà cửa không bảo đảm chống được mưa nắng, thiên tai bão lũ...không so sánh với ai khác nhưng bản thân họ không đủ lượng calo cần thiết để duy trì cuộc sống. Hộ nghèo tuyệt đối là đối tượng chủ yếu của chương trình, mục tiêu xoá đói giảm nghèo phải tác động. Để xem xét mức độ nghèo đói chúng ta cần thước đo gọi là chuẩn nghèo. - Để có một cái nhìn tổng quan về các vấn đề của các nước đang phát triển, Ngân hàng thế giới, đã đưa ra khái niệm nghèo tuyệt đối. Định nghĩa khái niệm nghèo tuyệt đối như sau: "Nghèo ở mức độ tuyệt đối...là sống ở ranh giới ngoài cùng của tồn tại. Những người nghèo tuyệt đối là những người phải đấu tranh để sinh tồn trong các thiếu thốn tồi tệ và trong tình trạng bỏ bê và mất phẩm cách vượt quá sức tưởng tượng mang dấu ấn của cảnh ngộ may mắn của giới trí thức chúng ta." Ranh giới cho nạn nghèo tương đối dựa vào nhiều số liệu thống kê khác nhau cho một xã hội. Một con số cho ranh giới của nạn nghèo được dùng trong chính trị và công chúng là 50% hay 60% của thu nhập trung bình. Vì thế từ năm 2001 trong các nước thành viên của Liên minh Châu Âu những người được coi là nghèo khi có ít hơn 60% trị trung bình của thu nhập ròng tương đương. Lý luận của những người phê bình cho rằng con số này trên thực tế cho biết rất ít về chuẩn mực cuộc sống của con người. Những ai hiện tại có ít hơn 50% của thu nhập trung bình thì cũng vẫn có ít hơn 50% của trung bình khi tất cả các thu nhập đều tăng gấp 10 lần. Vì thế những người đó vẫn còn là nghèo tương đối. Và khi những người giàu bỏ đi hay mất tiền của thì sẽ giảm trung bình của thu nhập đi và vì thế làm giảm thiểu nghèo tương đối trong một nước. Ngược lại nghèo tương đối sẽ tăng lên khi một người không nghèo có thể tăng được thu nhập ngay cả khi những người có thu nhập khác vẫn không có thay đổi. Người ta còn phê bình là ranh giới nghèo trộn lẫn vấn đề nghèo với vấn đề phân bố thu nhập. Vì một sự phân chia rõ ràng giữa nghèo và giàu trên thực tế không có nên khái niệm ranh giới nguy cơ nghèo cũng hay được dùng cho ranh giới nghèo tương đối. Ngược với ranh giới nghèo tương đối, các phương án tính toán ranh giới nghèo tuyệt đối đã đứng vững. Các ranh giới nghèo tuyệt đối được tính toán một cách phức tạp bằng cách lập ra những giỏ hàng cần phải có để có thể tham gia vào cuộc sống xã hội. Các ranh giới nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối đều không có thể xác định được nếu như không có trị số tiêu chuẩn cho trước. Việc chọn lựa một con số phần trăm nhất định từ thu nhập trung bình và ngay cả việc xác định một giỏ hàng đều không thể nào có thể được giải thích bằng các giá trị tự do. Vì thế mà chúng được quyết định qua những quá trình chính trị. 1.1.2. Quan niệm đói nghèo của Việt Nam (Theo Chương trình Quốc gia Xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2001-2005 và phương hướng từ năm 2006-2010 của Thủ tướng Chính phủ năm 2000). - Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có khả năng thõa mãn một phần các nhu cầu cơ bản của con người và có mức sống ngang bằng với mức sống tối thiểu của cộng động xét trên mọi phương diện. - Đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống. - Xóa đói giảm nghèo là một chiến lược của Chính Phủ Việt Nam nhằm giải quyết vấn đề đói nghèo và phát triển kinh tế tại Việt Nam. Đói nghèo là vấn đề ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững, đồng thời là vấn đề xã hội nhạy cảm nhất. Không thể lãng quên nhóm cộng đồng yếu thế, ít cơ hội theo kịp tiến trình phát triển mà Chính phủ với việc cải cách, sửa đổi những khiếm khuyết của thể chế kinh tế để nhóm nghèo đói tự vươn lên xoá đói giảm nghèo. 1.1.3. Một số khái niệm liên quan. - Hộ nghèo: Là những hộ có thu nhập bình quân đầu người trong hộ dưới ngưỡng đói nghèo. Theo quyết định số 1143/2000/QĐ-LĐTBXH ngày 01/11/2000 của Bộ trưởng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, chuẩn nghèo giai đoạn 2001-2005 được quy định cho mức thu nhập bình quân đầu người trong hộ cho từng vùng như sau: + Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000 đồng/người/ tháng. + Vùng nông thôn đồng bằng: 100.000 đồng/người/tháng. + Vùng thành thị: 150.000 đồng/người/tháng. Những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người dưới mức quy định nêu trên được xác nhận là hộ nghèo. Chuẩn nghèo thay đổii theo thời gian chứ không cố định. Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế- xã hội, địa phương nào có đủ điều kiện sau đây có thể nâng chuẩn nghèo lên để phù hợp với thực tế của địa phương đó: + Thu nhập bình quân đầu người cao hơn thu nhập bình quân của cả nước. + Có tỷ lệ hộ nghèo thấp hơn tỷ lệ hộ nghèo trung bình của cả nước. + Tự cân đối được ngân sách và tự giải quyết được các chính sách đói nghèo theo chuẩn nâng lên. - Xã nghèo: Theo Quyết định số 587/2002/QĐ-LĐTBXH ngày 22/05/2002 của Bộ trưởng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội về việc ban hành tiêu chí xã nghèo giai đoạn 2001-2005. Quy định xã nghèo là xã có: + Tỷ lệ hộ nghèo từ 25% trở lên. + Chua đủ 3 trong 6 hạng mục cơ sở hạ tầng thiết yếu (Bao gồm đường giao thông, trường học, trạm y tế, điện sinh hoạt, nước sạch, chợ). Cụ thể là: Dưới 30% số hộ sử dụng nước sạch. Dưới 50% số hộ sử dụng điện sinh hoạt. Chưa có đường ô tô đến trung tâm xã hoặc ô tô không đi lại được cả năm. Số phòng học( Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo) chỉ đáp ứng được dưới 70% nhu cầu của học sinh hoặc phòng học tạm bợ bằng tranh tre, nứa, lá. Chưa có trạm y tế xã hoặc có nhưng là nhà tạm. Chưa có chợ hoặc chợ tạm bợ. - Hộ vượt nghèo hay hộ thoát nghèo: Là những hộ mà sau một qúa trình thực hiện chương trình Xoá đói giảm nghèo cuộc sống đã khá lên và mức thu nhập đã ở trên chuẩn mực nghèo đói. Hiện nay, ở một số địa phương có sử dụng khái niệm hộ thoát(hoặc vượt) đói và họ thoát nghèo. Hộ thoát nghèo đương nhiên không còn là hộ đói nghèo nữa. Trong khi đó, hộ thoát nghèo đói có thể đồng thời thoát hẳn nghèo(ở trên chuẩn nghèo), nhưng đa số trường hợp thoát đói(rất nghèo) nhưng vẫn ở trong tình trạng nghèo. - Số hộ nghèo giảm hay tăng trong một khoảng thời gian: Là hiếu số giữa tổng số hộ nghèo ở thời điểm đầu và cuối. Như vậy, giảm số hộ đói nghèo khác với khái niệm số hộ vượt nghèo và thoát nghèo. Số hộ thoát nghèo là số hộ ở đầu kỳ nhưng đến cuối kỳ vượt ra khỏi ngưỡng nghèo. Trong khi đó, số hộ nghèo giảm đi trong kỳ chỉ phản ánh đơn thuần chênh lệch về mặt số lượng hộ nghèo, chưa phản ánh thật chính xác kết quả của việc thực hiện chương trình. - Hộ tái nghèo: Là hộ vốn dĩ trước đây thuộc hộ nghèo và đã vượt nghèo nhưng do nguyên nhân nào đó lại rơi vào cảnh đói nghèo. Ý nghĩa của khái niệm này là phản ánh tính vững chắc hay tính bền vững của các giải pháp xoá đói giảm nghèo. Thực tế cho thấy, hầu hết các hộ tái nghèo chính là do gặp thiên tai bất khả kháng. - Hộ nghèo mới hay là hộ mới vào danh sách nghèo: Là những hộ ở đầu kì không thuộc danh sách đói nghèo nhưng đến cuối kỳ lại là hộ nghèo. Như vậy, hộ mới bước vào danh sách nghèo bao gồm những hôn như sau: Hộ nghèo chuyển tiếp từ nơi khác đến; hộ nghèo tách hộ; hộ trung bình khá vì một lý do nào đó lại trở thành hộ nghèo hoặc hộ tía nghèo. 1.1.4. Phương pháp xác định chuẩn nghèo đói và chuẩn mực nghèo đói giai đoạn 2001-2005 và 2006-2010. * Phương pháp xác định chuẩn nghèo đói: Có 3 căn cứ quan trọng để xác định chuẩn nghèo đói: - Căn cứ vào nhu cầu tối thiểu, nhu cầu này được lượng hoá bằng mức chi tiêu về lương thực,thực phẩm thiết yếu để duy trì cuộc sống với nhiệt lượng tiêu dùng từ 2.100-2.300 Kcal/người/ngày. - Căn cứ vào mức thu nhập bình quân đầu người/tháng. Trong đó đặc biệt quan tâm đến thu nhập bình quân đầu người/tháng của nhóm có thu nhập thấp(20 % số hộ). - Căn cứ vào nguồn lực thực tế của quốc gia, của từng địa phương đã được cụ thể hoá bằng mục tiêu chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo và chương trình của từng địa phương để thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo. Từ 3 căn cứ trên có thể cho thấy: + Xác định chuẩn nghèo đói phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện kinh tế xã hội, phong tục tập quán của từng quốc gia, từng địa phương, song trong đó có một phần yếu tố chủ quan của các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách. + Chuẩn nghèo phụ thuộc vào yếu tố khách quan trong đó có một phần yếu tố chủ quan. * Chuẩn mực nghèo đói giai đoạn 2001-2005 và 2006-2010: Giai đoạn 2001-2005 Nông thôn miền núi, hải đảo: thu nhập bình quân 80.000 đ/người/tháng, hay 960.000đồng/người/năm được coi là nghèo. Nông thôn đồng bằng: Thu nhập bình quân 100.000đồng/người/tháng, hay 1.200.000đồng/người/năm được coi là nghèo. Khu vực thành thị: Thu nhập bình quân 150.000đồng/người/tháng, hay 1.800.000đồng/người/năm được coi là nghèo. Giai đoạn 2006-2010: Chuẩn nghèo chỉ áp dụng cho 2 khu vực là: Khu vực Nông thôn: Thu nhập bình quân 200.000đồng/người/tháng, được coi là nghèo. Khu vực thành thị: Thu nhập bình quân 260.000đồng/người/tháng, được coi là nghèo. 1.1.5. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo. - T ăng trưởng kinh tế có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia. Nó là điều kiện cần thiết đầu tiên để khác phục tình trạng nghèo đói, lạc hậu, để cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống cho dân cư. - Xoá đói giảm nghèo gắn với tăng trưởng kinh tế. Bất cứ quốc gia nào cũng phải lấy nền quan tọng nhất của nó là phát triển tăng trưởng kinnh tế để xoá đói giảm nghèo, chỉ có tăng trưởng kinh tế mới cho phép các quốc gia tích luỹ để đầu tư cho xoá đói giảm nghèo vì xoá đói giảm nghèo cần rất nhiều nguồn lực và trong nhiều năm. Mặt khác tăng trưởng kinh tế phải vì người nghèo, vùng nghèo thì mới lam fcho khoảng cách giầu nghèo một cách hợp lý với tiến trình phát triển của xã hội. Nếu tăng trưởng kinh tế không vì người nghèo thì chính nó lại làm cho kh oảng cách giầu nghèo tăng thêm và điều này không phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên trong phân bố ngân sáchchúng ta không được thiên lệch về một hướng nào. Nếu tăng trưởng kinh tế quá nhanh thì nguồn ngân sách cho xoá đói giảm nghèo sẽ ít và người nghèo không theo kịp tiến trình phát triển kinh tế và ngược lại nếu chú trọng và công tác xoá đói giảm nghèo mà không quan tâm đến tăng trưởng kinh tế thì càng làm cho người nghèo càng nghèo thêm. Vì vậy, xoá đói giảm nghèo là yếu tố cơ bản đảm bảo công bằng và tăng trưởng bền vững vào tăng trưởng kinh tế trên diện rộng được coi là một bộ phận quan trọngcủa chiến lược và là nhiệm vụ chung của xã hội và chính người nghèo. 1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước và địa phương về công tác xoá đói giảm nghèo. Xoá đói giảm nghèo được coi là sự nghiệp của toàn dân, là một chính sách xã hội cơ bản, là hướng ưu tiên trong toàn bộ chính sách kinh tế xã hội. Phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện xoá đói giảm nghèo bền vững, gắn xoá đòi giảm nghèo với các chương trình mục tiêu quốc gia và an sinh xã hội. Xác đinh rõ các vùng trọng điểm, các hoạt đọng ưu tiên để tập trung nguồn lực đầu tư có hiệu quả. Gắn xoá đói giảm nghèo cà giải quyết việc làm với thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Tạo cơ hội và điều kiện cho người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản. Phát huy nội lực chủ yếu , đồng thời tăng cường sự hợp tác quốc tế. Xoá đói giảm nghèo được Đảng và Nhà nước coi là chương trình mục tiêu Quốc gia. Đói nghèo là một vấn đề xã hội mang tính bức xúc của mỗi địa phương, của mỗi quốc gia và mang tính toàn cầu, là trở ngại lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của cả nước nói chung cũng như của huyện Như Thanh - Thanh Hoá nói riêng. Thấy rõ tầm quan trọng của công tác Xoá đói giảm nghèo nên ngay từ khi cách mạng mới thành công( Năm 1945) Đảng ta đã coi nhiệm vụ chống nạn đói là một trong 6 nhiệm vụ cấp bách, trải qua gần 60 năm xây dựng và phát triển, cho đến nay Xoá đói giảm nghèo đã trở thành mục tiêu Quốc gia cuả Đảng, Nhà nước và địa phương hưởng ứng, quan tâm hàng đầu. Xoá đói giảm nghèo là lĩnh vực mới với thời gian thực hiện chưa dài, nhưng lại là vấn đề xã hội mang tính cấp thiết và đã có nhiều chính sách, giải pháp nhằm giải quyết có hiệu quả vấn đề đói nghèo, thông qua việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể. 2. Các yếu tố ảnh hưởng đến đói nghèo. Đói nghèo do nguyên rất nhiều nguyên nhân gây ra, vì vạy cũng có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến đói nghèo. Trong đó phải kể đến một số yếu tố cơ bản có ảnh hưởng đến đói nghèo của huyện như sau: 2.1.Yếu tố khách quan. Yếu tố tự nhiên. Điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất nông nghiệp thuần tuý của huyện. Trong những năm gần đây sản xuất nông nghiệp luôn bị rơi vào tình cảnh mất mùa, có năm mất trắng ở một số xã đối với diện tích lúa nước (năm 2005). Đây không chỉ là do thiên nhiên ngày càng biến đổi phức tạp khó lường mà nó còn do một phần bàn tay con người gây ra. Việc thiếu ý thức trong bảo vệ rừng là một nguyên nhân điển hình gây ra nhiều lũ quét và lốc xoáy. Do tàn pha rừng và môi trường thiên nhiên nên tự nhiên không còn tuân theo quy luật vốn có của nó nữa. Chính việc này gây ra hiệu quả sản xuất nông nghiệp tụt giảm đáng kể. Không ai khác gánh chịu hậu quả này đó chính là người nông dân. Khi rơi vào cảnh mất mùa thì người nghèo lại càng nghèo hơn. Bên cạnh đó, ngoài sản xuất nông nghiệp họ rất khó chuyển đổi canh tác. Một phần là vì địa hình phức tạp, và một phần là do khí hậu hạn chế khả năng canh tác của họ. Chính vì vậy nghèo đói vẫn còn tồn tại và một phần là điều kiện tự nhiên gây nên. Yếu tố kinh tế- xã hội. Nền kinh tế non trẻ do việc huyện mới được thành lập không lâu, sự ổn định cần thiết của nó cũng chỉ mới là bước đầu. Để có thể tạo cơ hội cho người dân có nhiều việc làm hơn, có thu nhập cao hơn là từ nông nghiệp thuần tuý vẫn phải có thời gian. Chính vì vậy khó có thể tránh khỏi sự chênh lệch về kinh tế cũng như là thu nhập của ngưòi dân so với các địa phương khác. Thực tế cho thấy, khi kinh tế chưa thực sự ổn đinh, tác động của nó đến đời sống người dân là rất lơn. Nó không chỉ gây ra tình trạng thiếu việc, thiếu cơ sở vật chất… mà còn kìm hãm chính sự phát triển của con người. Như vậy, người dân rơi vào cảnh nghèo đói là một điều khó thể tránh khỏi. Hiện tượng này không chỉ xảy ra với huyện Như Thanh - Thanh Hoá mà còn xảy ra trên phạm vi tỉnh, cả nước và trên toàn thế giới. Dẫu sao đây cũng chỉ là tác động của nền kinh tế-xã hội đối với tình hình đói nghèo. Tương lai thì cũng chính nền kinh tế sẽ đặt bút xoá cho tình hình đói nghèo. Yếu tố chính trị. Thực tế công tác Xoá đói giảm nghèo ở huyện càn rất nhiều sự ủng hộ từ nhân dân trong huyện và của các địa phương khác. Tức là có sự thống nhất về mọi mặt giữa trong và ngoài. Tuy nhiên, huyện lại có thành phần dân cư đa dạng, việc thống nhất được quan điểm của họ không thể trong thời gian ngắn. Nhất là nền chính trị của huyện đang non trẻ, bộ máy lãnh đạo chưa thể trơn tru. Cũng chính thực tế đó mà công tác Xoá đói giảm nghèo tại huyện vãn còn rất nhiều khó khăn, làm cho đói nghèo vẫn còn tồn tại 2.2. Yếu tố chủ quan Do cơ chế, chính sách các cấp. Việc hoạch định ra những chính sách trên cơ sở chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước và của tỉnh để áp dụng vào giải quyết thực tế đói nghèo của huyện là không đơn giản. Đối với bất cứ một chính sách nào cũng có 2 mặt của nó. Vì vậy, trong qua trình thực hiện chương trình Xoá đói giảm nghèo, bản thân những chính sách của huyện có tác động ngược lại. Tức là gây ra tình trạng nghèo đói hơn, gây ra hoang mang cho người dân. Tuy nhiên đây cũng là thực tế hiếm hoi và thời gian tác động tiêu cực là không dài. Nhiều năm qua huyện luôn nỗ lực trong chương trình Quốc gia Xoá đói giảm nghèo và đã đạt được rất nhiều thành tích điển hình. Nhìn nhận từ thực tế cho ta thấy thực trạng đói nghèo ngày một giảm và đi tới kiểm soát được. Do bản thân người nghèo. Đã có những dự án lớn, có những chương trình lớn nhằm đẩy lùi nạn nghèo đói, tuy nhiên không phải chỉ có vậy là sẽ hết nghèo, hết đói. Bản thân người nghèo đều có thể quyết định cuộc sống của họ. Tuy nhiên, trong thực tế do có tâm lý chủ quan, trông chờ vào cấp trên từ đó nảy sinh tâm lý ỷ lại. Họ thiếu quyết tâm thoát nghèo nên đói nghèo vẫn tồn tại trong cuộc sống của họ. Đói nghèo chỉ có thể xoá được khi có sự nỗ lực từ chính bản thân người nghèo. Trên đây chỉ là một số yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến vấn đề nghèo đói. Thực tế cho thấy nạn nghèo đói không thể giải quyết trong thời gian ngắn, chính vì vạy mà những yếu tố ảnh hưởng đến nó cũng sẽ thay đổi theo thực trạng nghèo đói của từng nơi. 3. Ảnh hưởng của đói nghèo đến đời sống xã hội. Vấn đề nghèo đói không chỉ gây ra những hậu quả cho bản thân người nghèo mà còn gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển chung của toàn xã hội. Ta có thể thấy được tác động của nghéo đói đến bản thân người nghèo và ảnh hưởng đến toàn xã hội thông qua sơ đồ sau: Sơ đồ 1.1: Ảnh hưởng của nghèo đói đến đời sống xã hôi. Nghèo đói dẫn đến Bệnh tật Gia tăng dân số Môi trường sống Suy dinh dưỡng Tệ nạn xã hội Thất học Nghèo đói Cản trở sự tăng trưởng kinh tế Kìm hãm sự phát triển con người Bất bình đẳng xã hội Phá huỷ môi trường ( Nguồn:Tài liệu tập huấn Cán bộ Xoá đói giảm nghèo cấp huyện và xã-2006) Như vậy, muốn kinh tế phát triển được thì phải giải quyết được vấn đề nghèo đói. Xoá đói giảm nghèo là một trong những chính sách xã hội cơ bản hướng vào phát triển con người, nhất là người nghèo, tạo cơ hội cho họ tham gia vào quá trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, để cho người nghèo có cơ hội và điều kiện tiếp cận các dịch vụ xã hội phát triển sản xuất tự vươn lên thoát khỏi nghèo đói. 4. Kinh nghiệm xoá đói giảm nghèo của các nước trên thế giới và của các địa phương trong nước. 4.1. Kinh nghiệm Xoá đói giảm nghèo của một số nước trên thế giới. - Kinh nghiệm Xoá đói giảm nghèo của nước Mỹ. Vào những năm 2000-2001 ở Mỹ có gần 20% dân số hay 44 triệu người nghèo. Nạn đói nghèo diễn ra hết sức phức tạp đã làm cho đời sống kinh tế- xã hội Mỹ thay đổi đáng kể. Thống kê qua từng năm con số những người có thu nhập dưới rang giới nghèo liên tiếp tăng(mỗi năm tăng đến 0,5%). Đây là dấu hiệu không tốt đối với nền kinh tế khổng lồ của Mỹ lúc này. Tuy nhiên cho đến năm 2005, ở Mỹ hiện tượng đói nghèo vẫn hoành hành nhưng đã được khống chế và dần đi vào ổn định. Theo số liệu từ bản báo cáo của Cục điều tra dân số tháng 8 năm 2005 thì ở Mỹ con số những người có thu nhập dưới ranh giới nghèo đã liên tục giảm mạnh qua các năm. Hiện nay chỉ có 10,7% dân số hay 37 triệu người nghèo và đã giảm đáng kể so với những năm trước đó (giảm 2% so với năm 2004). Một gia đình 4 người được coi là nghèo khi chỉ có thể chi tiêu ít hơn 19.310 đo la Mỹ trong một năm. Đối với những người độc thân thì ranh giới này ở vào khoảng 9.650 đô la. Như vậy thu nhập và chi tiêu của người dân đa số cao hơn rất nhiều so với mức chuẩn nghèo của quốc gia. Nhìn chung, bằng những giải pháp hiệu quả trong việc cơ cấu lại công tác tạo việc làm và chú trọng chủ yếu vào nguồn nhân lực thì Mỹ đã giảm đáng kể tình trạng nghèo đói tồn tại trong xã hội. Bước đầu đã cải thiện và đi tới xoá bỏ hẳn tình trạng đói nghèo của đất nước. Ngoài những bài học kinh nghiệm thu được từ công tác Xoá đói giảm nghèo của Mỹ chúng ta cũng cần nghiên cứu các bài học kinh nghiệm đắt giá của các nước khác trên thế giới như Đức, Áo… Những nước này không chỉ có dân cư đông đúc mà thành phần dân cư cũng rất phức tạp do chịu nhiều đợt sóng di cư khổng lồ trong những thập niên vừa qua. Tuy nhiên, việc Xoá đói giảm nghèo tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng quốc gia, những bài học đó chỉ là cơ sở để nghiên cứu, việc áp dụng được hay không còn phả xem xét rất nhiều ở từng khía cạnh và thời kỳ cụ thể của nước ta. 4.2. Kinh nghiệm Xoá đói giảm nghèo của một số địa phương trong nước. - Kinh nghiệm góp phần xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Đồng Nai : Đưa "những cái thiếu" về nông thôn, đến tận tay người nghèo.  Đồng Nai được xem là một trong những địa phương thành công nhất trong việc thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo. Bài học kinh nghiệm của tỉnh thì nhiều, nhưng dưới góc nhìn của Ban chỉ đạo xóa đói giảm nghèo Chính phủ, thì các chính sách "đem cái chữ đến cho người nghèo", "gắn chế biến nông sản với vùng nguyên liệu" và "đưa ngân hàng về cơ sở" của Đồng Nai là những nét nổi bật.  +)Dạy chữ, dạy nghề cho người nghèo  Trước khi triển khai thực hiện giải pháp nâng cao dân trí cho người nghèo, tỉnh đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị về xây dựng trường lớp ở nông thôn, các vùng khó khăn và tiến đến kiên cố hóa. Có cái nền vững chắc như vậy cùng với phong trào xã hội hóa giáo dục của tỉnh diễn ra mạnh mẽ đã tác động đến ý thức của người dân, đặc biệt là nông dân trong việc chăm lo cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Nhờ vậy, đến nay hầu hết các em tuổi từ 18 trở xuống đều có trình độ tốt nghiệp trung học cơ sở. Tỉnh cũng chủ trương bên cạnh với công tác dạy chữ cần quan tâm đến dạy nghề để giúp người dân có việc làm, thu nhập ổn định, thoát nghèo bền vững. Sở Lao động, thương binh và xã hội cùng ngành giáo dục - đào tạo đã tổ chức được nhiều trường, khóa, lớp đào tạo nghề ngay tại các doanh nghiệp, tại các xã vùng sâu, vùng xa để người dân nghèo, trình độ văn hóa chưa cao được học những ngành nghề phù hợp. Hiện nay, ngoài các trung tâm học tập cộng đồng có dạy nghề thì ở tất cả các huyện, thị xã trong tỉnh đều có nhiều trường, lớp dạy nghề trên các lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp. Tỉnh cũng tiến hành nhiều chương trình tài trợ, hỗ trợ dạy nghề và giới thiệu việc làm cho con em đồng bào dân tộc, gia đình chính sách, bộ đội xuất ngũ. Ước tính, bình quân mỗi năm có trên 1.000 học viên của tỉnh được đào tạo nghề miễn phí và giới thiệu việc làm có thu nhập ổn định. +) Đưa ngân hàng, nhà máy về với nông thôn  Chương trình cung ứng vốn cho người nghèo của Đồng Nai đã triển khai thực hiện từ năm 1994. Đặc biệt, năm 2003, ngân hàng chính sách xã hội ra đời thì mạng lưới của nó không chỉ dừng lại ở tỉnh, huyện mà còn mở nhiều điểm giao dịch tại các xã để tiếp cận dân. Một cách tiếp cận và mở rộng cho vay khác của ngân hàng chính sách hội là liên kết với các tổ chức đoàn thể, như: Hội liên hiệp phụ nữ, Hội nông dân, Đoàn thanh niên, Hội cựu chiến binh để mở ra những kênh chuyển tải vốn đến người vay nhanh chóng, kịp thời. Với cách làm này, Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh đã giải đáp được một phần bài toán "ngân hàng thừa tiền, nông dân thiếu vốn". Những bài học kinh nghiệm trên đây về công tác xóa đói giảm nghèo ở Đồng Nai chưa phải là tất cả nhưng cũng rất quan trọng đóng góp vào công cuộc xóa đói giảm nghèo trong tỉnh đạt kết quả tốt đẹp. - Kinh nghiệm Xoá đói giảm nghèo của huyện Nông Cống- Thanh hoá. Từ khi thực hiện chương trình mục tiêu Quốc gia về Xoá đói giảm nghèo, mỗi năm huyện đã giải quyết cho trên 15.000 lượt hộ nghèo được vay vốn sản xuất với tổng số tiền trên 60 tỷ đồng, quan tâm tổ chức thực hiện có hiệu quả các dự án vốn vay giải quyết việc làm, vốn tương trợ, hỗ trợ lẫn nhau của các tổ chức hội. Việc sử dụng vốn có hiệu qủa, đến nay hầu hết các hộ đã trả được nợ vay, số hộ nợ quá hạn không nhiều. Những hộ nghèo thiếu đất sản xuất được tập trung giải quyết để hộ nghèo có đất và tư liệu sản xuất.Tập huấn kiến thức sản xuất các loại cây trồng, con nuôi cho hơn 20.000 lượt người nghèo bằng nhiều hình thức như đi tham quan các mô hình tiên tiến, hội nghị hội thảo đầu bừo, chuyển giao khoa học kỹ thuật. Đã có hơn 10.000 hộ nghèo sử dụng giống mới, kỹ thuật canh tác mới trong chăn nuôi trồng trọt. Thực hiện chính sách trợ giá một số loại giống mới cho hộ nghèo như: Lúa vụ mùa là 5.000đ/kg, lúa vụ chiêm là 3.000đ/kg, Ngô vụ đông là 3.000đ/kg... Trợ giá, trợ cước cho các sản phẩm thếit yếu như : muối, dầu hoả, phân bón, giấy vở học sinh, than đá trong 5 năm là 3 tỷ đồng. Đã cấp 30.000 thẻ KCB cho người nghèo theo Quyết định 139 của Chính phủ. Hàng năm có trên 15.000 lượt người nghèo được KCB miễn giảm phí tại cơ sơ y tế cấ._.p huyện và gần 1000 lượt người được KCB miễn giảm phí ở các tuyến y tế cấp trên. Số trẻ em được đúng độ tuổi là 8.479 em = 95,4%. Trong thời gian qua huyện đã tiếp nhận hỗ trợ cho 535 hôộổn định dân cư thuộc diện di dân từ các huyện và tỉnh khác.Huyện đã tổ chức được 12 lớp tập huấn nâng cao năng lực Xoá đói giảm nghèo cho trưởng thôn với 450 học viên, hàng năm tập huấn cho cán bộ làm công tác Xoá đói giảm nghèo của 34 xã, thị trấn. Thực hiện cuộc vận động toàn dân hỗ trợ giúp đỡ hộ nghèo về nhà ở, trong 2 năm 2004-2005 đã hỗ trợ xây dựng được 1290 ngôi nhà cho hộ nghèo. Kết quả sau thời gian thực hiện mục tiêu giảm nghèo đã giảm được 18.08% hộ = 2.775 hộ thoát nghèo, nhưng cũng có 156 hộ thoát nghèo. Đến cuối năm 2005 còn 15% hộ nghèo = 2.630 hộ đạt 100% kế hoạch Có được kết quả trên là do có sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng- HĐND-UBND-MTTQ và các đoàn thể, sự nổ lực cố gắng của các ban chỉ đạo, tập thể, các nhân, các phòng, ban ngành, cơ quan đơn vị đã góp phần không nhỏ giảm tỷ lệ hộ nghèo theo đúng chỉ tiêu hàng năm đã đặt ra như: Xã Minh thọ, thị trấn Chuối, Xã Vạn Hoà, Xã Thăng long...Trong đó, những đơn vị tiêu biểu xuất sắc là Hội nông dân, Phòng nông nghiệp, Phong Nội vụ-LĐTB&XH và mốt số cơ quan đoàn thể khác. 5. Sự cần thiết phải xoá đói giảm nghèo ở huyện Như Thanh - Thanh Hoá. Nhìn nhận thực tế những tổn thất mà nghèo đói gây ra đối với Việt nam nói chung và địa phương nói riêng, chúng ta có thể khẳng định tầm quan trọng của công tác Xoá đói giảm nghèo.Một quy luật tất yếu đó là khi vấn đề nghèo đói được giải quyết thì đời sống của nhân dân nói riêng và nền kinh tế nói chung đều tăng lên. Nếu như không còn nghèo đói thì xã hội sẽ bền vững phát triển. Tỉnh Thanh hoá nói chung và huyện Như Thanh - Thanh Hoá nói riêng cũng không nằm ngoài quy luật đó. Nạn đói nghèo làm cho đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn.Thực tế cho thấy khi người dân không có đủ điều kiện tối thiểu cho cuộc sống thì đời sống hàng ngày của họ vô cùng khó khăn. Họ chỉ có một mục đích duy nhất là duy trì cuộc sống ngoài ra không có mục đích nào khác. Như vậy, họ không quan tâm đến đời sống kinh tế xã hội xung quanh thay đổi như thế nào. Điều đó gây ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát của nền kinh tế địa phương nói riêng và của huyện và tỉnh nói chung. Nghèo đói không chỉ là vấn đề cấp bách cần giải quyết của địa phương nói riêng mà nó còn là mục tiêu hàng đầu của đất nước ta. Trong suốt những thập kỷ qua, tình trạng nghèo đói kèo dài làm cho cuộc sống nhân dân gặp vô vàn khó khăn. Nó gây ra những tệ nạn xã hội, những thách thức đối với toàn thể xã hội, nó tác động xấu đến nhận thức của con người. Nhìn chung nó kìm hãm sự phát triển của con người về mọi mặt. Từ đó nó làm cho nền kinh tế xã hội càng trở nên trì truệ hơn. Chính vì vậy, Xoá đói giảm nghèo rất cần thiết và đòi hỏi phải duy trì trong suốt thời gian dài, không thể ngày một ngày hai. Xoá đói giảm nghèo là chương trình Quốc gia và được triển khai đến tất cả các địa phương trong nước. Mục đích lớn nhất của chương trình đó là giải quyết mọi vấn đề để đưa cuộc sống nhân dân lên bằng hoặc cao hơn mức sống trugn bình. Hiện nay chương trình đã thực hiện ở tất cả các xã, thị trấn trong huyện. Tuy nhiên, bước đầu của chương trình mới chỉ thu được kết quả là không còn xoá đói mà chỉ còn nhiệm vụ là giảm nghèo. Đây cũng có thể coi là thành công bước đầu của chương trình. Song không vì vậy mà sự cần thiết của nhiệm vụ giảm nghèo lại giảm đi. Nếu nghèo không giảm thì những hộ thuộc diện hộ nghèo rất có thể trở thành hộ đói, như vậy thì sự nỗ lực của cán bộ và nhân dân xem như đổ xuống sông xuống biển. Chính vì vậy, phải luôn thấy được sự cần thiết của công tác Xoá đói giảm nghèo. Nó không chỉ mang lại cho người nghèo một cuộc sống tốt đẹp hơn, bên cạnh đó nó có tác động tích cực đến mọi mặt của đời sống xã hội. Từ những phân tích trên ta có thể kết luận rằng công tác Xoá đói giảm nghèo rất quan trọng và thực sự cần thiết. Sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế cũng như toàn bộ đời sống của nhân dân trong huyện phụ thuộc vào hiệu quả của chương trình quốc gia Xoá đói giảm nghèo. Nhìn chung, trong những năm vừa qua đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện. Điều này càng làm cho vai trò của Xoá đói giảm nghèo trong huyện quan trọng hơn về mọi mặt. Phần 2: Đánh giá thực trạng đói nghèo ở huyện Như Thanh - tỉnh Thanh hoá giai đoạn 2001-2005. I. Đặc điểm của huyện Như Thanh - Thanh Hoá. 1. Đặc điểm tự nhiên. Như Thanh - Thanh Hoá là huyện miền núi, nằm ở phía tây nam của tỉnh Thanh Hoá. Được thành lập theo Nghị Định 72/CP, ngày 18/11/1996 của Chính Phủ. Huyện mới chính thức đi vào hoạt động theo đơn vị hành chính từ tháng 01 năm 1997. Toàn huyện có 16 xã và 1 thị trấn. Trong đó có 5 xã thuộc chương trình 135. Tổng diện tích tự nhiên của toàn huyện là 58.733,42 ha, trong đó đất nông nghiệp là 42.116,30 ha, đất phi nông nghiệp là 6.847,56 ha, còn lại là đất chưa sử dụng 9.769,56 ha. Dân số của huyện theo số liệu thống kê vào ngày 01/2006 là 85.227 người, trong đó có 40.669 người trong độ tuổi lao động. Với 4 dân tộc anh em là Kinh, Thái, Mường, Thổ. Như Thanh - Thanh Hoá còn có một số di tích lịch sử và khu du lịch sinh thái nổi tiếng như: Lò cao kháng chiến, chùa thờ bà Triệu Thị Trinh, vườn Quốc gia Bến En. Với điều kiên như vậy thì đời sống của nhân dân trong huyện chủ yếu dựa vào sản xuất Nông- Lâm nghiệp. Bên cạnh đó Huyện cũng đang tích cực tận dụng thế mạnh tự nhiên của mình để phát triển thêm nhiều ngành kinh tế khác tiềm năng như du lich, khu công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm... 2. Đặc điểm kinh tế. Gần 10 năm thành lập và phát triển, nền kinh tế của huyện tăng trưởng khá và tương đối toàn diện. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt 11,5% vượt 1,5%(Kế hoạch năm là 10%), thu nhập bình quân đầu người đạt 2,37 triệu đồng/năm, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo đúng hướng, các chương trình dự án thực hiện đã có những hiệu quả nhất định. Kết cấu hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế được tăng cường, một số mục đã vượt kế hoạch. Diện tích gieo trồng năm 1997 là 9.435 ha, năm 2004 là 12.423 ha, giá trị sản xuất tính theo đầu người đến năm 2004 là 339 kg/người/năm. Cơ cấu kinh tế nông- lâm, tiểu thủ công nghiệp, thương mại- dịch vụ đã có bước chuyển dịch cơ bản. Năm 1997 tỷ lệ tương ứng là 81,6%; 7,5%; 10,9%, đến năm 2004 là 74,2%; 11,4%, 14,4%. Trong đó sản xuất nông lâm chú trọng đưa giống lúa mới vào sản xuất chính, chuyển dịch và mở rộng vùng nguyên liệu mía : 2.978 ha phục vụ cho nhà máy mía đường Nông Cống. Gần 1.000 ha Dứa phục vụ cho nhà máy xuất khẩu nước dứa cô được xây dựng tại Như Thanh - Thanh Hoá. Trong chăn nuôi tiếp tục phát triển đầu tư con, cũng như số lượng xuất chuồng, lai tạo giống có chất lượng tốt, bước đầu đã đưa mô hình chăn nuôi lợn hướng nạc xuất khẩu ở một số xã với tổng đàn lợn là 134 con. Nét nổi bật trong sản xuất nông - lâm nghiệp là trang trại rừng, toàn huyện có 144 trang trại cấp tỉnh và gần 300 trang trại nhỏ khác. Hàng hoá xuất khẩu năm 1997 là 220.000 USD đến năm 2004 là 753.000 USD, chủ yếu là quặng Crôm và lạc vỏ. Kết cấu hạ tằn được đầu tư, trong 8 năm qua đã đầu tư được hơn 100 tỷ đồng, xây dựng 70 công trình phục vụ cho hoạt động quản lý Nhà nước và phát triển dân sinh kinh tế. Nâng cấp 25 km quốc lộ 45, tu sửa và cait tạo 81 đường liên xã, kiên cố hoá được 63,7 km kênh mương nội đồng, 100% công sở được xây dựng, kiên cố được 16 trạm hạ thế, 30km đường dây cao thế. Đến nay đã có 16/17 xã, thị trấn có điện lưới quốc gia, 17/17 xã, thị trấn có điện thoại. 3. Đặc điểm văn hoá, xã hội. Kinh tế phát triển là nhân tố phát triển văn hoá, giáo dục. Thực hiện Nghị Quyết Trung ương khóa XII và khoá XIII và các Nghị Quyết văn hoá, giáo dục các cấp. Năm 1997 huyện đã công nhận và hoàn thành phổ cập tiểu học chồn mù chữ. Đến nay, toàn huyện có 84 trường tiểu học, 912 lớp và 28.756 học sinh. Số trường lớp cơ bản đã được kiên cố hoá, số trường tranh tre nứa còn 3%, không có tìng trạng học ca 3. Có 9 xã hoàn thành phổ cập cơ bản và 3 trường đạt chuẩn quốc gia. Toàn huyện có 174 thôn bản, trong đó có 169 làng bản khai trương, xây dựng làng văn hoá. Đã có 25 làng được công nhận làng văn hoá cấp huyện, 3 làng được công nhận cấp tỉnh. Công tác chăm lo sức khoẻ cho nhân dân được chú trọng, cơ bản đã đẩy lùi được bệnh sốt rét, tỷ lê giường bệnh trên 1 vạn dân là 20, 10 trên 6 trạm xá cấp xã đã có bác sỹ, chất lượng khám, chữa bệnh được đảm bảo, làm tốt công tác y tế dự phòng , vệ sinh an toàn thực phẩm. Thực hiện tốt chương trình mở rộng, 85% gia đình gia đình được sử dụng nước sạch, số trẻ em suy dinh dưỡng còn 27%. Với kết quả trên, huyện nhà 4 năm liền được Chính phủ tặng cờ thi đua đơn vị dẫn đầu các huyện miền núi(1998-2001) và được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng nhì. Kế thừa và phát huy thành tựu kinh tế xã hội luôn giữ mức tăng trên 10%. Vì vậy đời sống của nhân dân trong huyện luôn được nâng cao, an ninh chính trị ngày càng được giữ vững. II. Đánh giá thực trạng đói nghèo ở huyện Như Thanh - Thanh Hoá. 1. Quy mô đói nghèo giai đoạn 2002-2006. 1.1. Giai đoạn 1997-2004. Đây là giai đoạn khó khăn nhất của chương trình xóa đói giảm nghèo. Lý do quan trọng nhất là việc huyện vùă được hình thành, bản chất của đời sống kinh tế xã hội chủ yếu dựa vào nông nghiệp là chính. Ta có thể thấy quy mô đói nghèo thông qua bảng tổng hợp hộ nghèo đói từ năm 1997 đến năm 2002. Bảng 1.2:Bảng tổng hợp hộ nghèo đói qua từ năm1997 đến năm 2002 Chỉ tiêu Đ/vị tính Các năm 1997 2000 2001 2002 2003 2004 Tổng số hộ toàn huyện Hộ 45.567 45.876 46.876 47.369 47.693 47.978 Tổng số hộ nghèo Hộ 1.156 1.000 936 876 786 650 Số hộ thoát nghèo Hộ 123 124 126 130 135 150 Tỷ lệ hộ nghèo % 17 15 13 10 9,28 8,01 (Nguồn số liệu thống kê Phòng Nội vụ-LĐTBXH năm 2002./) Qua bảng trên ta thấy rằng, số hộ nghèo từ năm 1997 đến năm 2002 có xu hướng giảm, đây cũng là xu hướng tất yếu của chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo. Ngay như tất cả các nước trên thế giới nói chung và Việt nam nói riêng khi bắt đầu thực hiện chính sách Xoá đói giảm nghèo thì số hộ nghèo qua các năm đều giảm.Nhìn vào bảng số liệu ta có thể phân tích tình hình nghèo đói của huyện qua các năm dựa vào tiêu chí tỷ lệ hộ nghèo trên cơ sở số hộ thoát nghèo. Năm 1997 tỷ lệ hộ nghèo là 17% và liên tục giảm qua các năm, đến năm 2001 là 9,28% và chỉ còn 8,01 % vào năm 2002. Song song với tỷ lệ hộ nghèo gảim thì số hộ thoát nghèo cũng giảm đáng kể, năm 1997 là 123 hộ và 135 hộ vào năm2001, đến năm 2002 đã tăng lên 150 hộ. Từ thực tế đó có thể khẳng định hiệu quả của công tác Xoá đói giảm nghèo trong những năm qua.Tuy nhiên tỷ lệ hộ nghèo vẫn chưa giảm một cách đáng kể vì vậy số hộ thoát nghèo qua các năm vẫn chưa tăng rõ rệt. Không thể phủ nhận nỗ lực của toàn thể nhân dân cũng như các cấp chính quyền trong huyện. Song vẫn có nhiều khe hở trong cách thức thực hiện Chương trình quốc gia Xoá đói giảm nghèo. Nếu những vấn đề này được khắc phục thì hiệu quả của công tác Xoá đói giảm nghèo còn thể hiện rõ nét hơn rất nhiều. Như chúng ta đã biết để phân loại hộ nghèo có thể phân loại theo 2 tiêu chí là tiêu chí cũ và tiêu chí mới. Chính vì vậy quy mô đói nghèo cũng chịu ảnh hưởng bởi việc phân loại theo tiêu chí. Phân loại hộ nghèo theo tiêu chí cũ thực hiện từ năm 2005 trở lại. Theo chuẩn cũ huyện có tỷ lệ hộ đói nghèo là 37% (vào năm 1997), hàng năm tỷ lệ hộ nghèo đói thay đổi cả về quy mô và số lượng. Cho đến năm 2005 trở lại thì các tiêu chí về xã nghèo, hộ nghèo được tính theo tiêu chí cũ. *Về hộ nghèo. - Năm 2000: toàn huyện có 14.625 hộ, trong đó có tới 4.982 hộ đói nghèo chiếm 34% tổng số hộ trong toàn huyện. - Bước vào năm đầu tiên thực hiện chương trình Quốc gia Xoá đói giảm nghèo (2001) của huyện, tỷ lệ hộ nghèo toàn huyện cao (33,08%) tương đương là 5.348 hộ. - Năm 2002: Toàn huyện có 16.960 hộ, trong đó có 4.570 hộ đói nghèo chiếm 29,37% tổng số hộ trong toàn huyện. - Năm 2003: Toàn huyện có 16.138 hộ , trong đó có 4.276 hộ đói nghèo chiếm 225.7% tổng số hộ trong toàn huyện. - Năm 2004: Toàn huyện có 16.161 hộ, trong đó có 3.520 hộ đói nghèo, chiếm 21.1% tổng số hộ trong toàn huyện. - Đến năm 2005, năm cuối cùng thực hiện công tác Xoá đói giảm nghèo giai đoạn (2001-2005) toàn huyện có 2.630 hộ nghèo chiếm 15% tổng số hộ trong toàn huyện. * Về xã nghèo. - Việc xác định xã nghèo được xác định dựa vào 2 nhóm chính đó là: Tỷ lệ hộ nghèo từ 25% trở lên và có 6 công trình hạ tầng thiết yếu (Điện, đường, trường, trạm, chợ, nước sạch sinh hoạt) ở dưới chuẩn. Như vậy tính đến năm 2001 toàn huyện có 5 xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 25% đến dưới 30%, 5 xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 30% đến dưới 40%, 7 xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 40% trở lên và đặc biệt trong đó có 1 xã có tỷ lệ hộ nghèo trên 60%. * Cơ sở hạ tầng thiết yếu: Theo báo cáo của một số ngành và địa phương, tính đến năm 2001: - Điện: Còn 2 xã chưa có trạm cấp điện đến trung tâm xã hoặc nguồn Diezen, chiếm 30,5%. - Đường giao thông đến trung tâm xã: còn 1 xã xe ô tô chưa đến được quanh năm, chiếm 9,16%. - Trường học: còn khoảng 236 phòng học tạm, tranh tre, và thiếu khoảng 120 phòng học. - Chợ hoặc trung tâm cụm xã: Còn 2 xã chưa có một trong 2 công trình trên, chiếm 48,09%. - Nước sạch dùng cho sinh hoạt nông thôn: có khoảng 34%-35% số người không được dùng nước sạch, ở vùng cao và vùng sâu tỷ lệ này còn thấp hơn. Ta có thể nhìn nhận rõ hơn qua bảng tổng hợp dưới đây. Bảng 2.2: Tổng hợp hộ nghèo còn lại năm 2005 theo tiêu chí cũ TT Đơn vị Tổng số hộ Hộ nghèo năm 2001 Hộ nghèo năm 2005 Ghi chú Số hộ Tỷ lệ% Số hộ Tỷ lệ% Thanh Kỳ 735 282 53,0 180 24,5 Thanh Tân 1.149 460 54,0 300 26,1 Yên Lạc 997 306 35,0 135 13,6 Xuân Thái 690 385 60,5 254 36,8 Xuân Thọ 412 194 54,0 107 26,2 Yên Thọ 1.938 523 28,4 220 11,3 Xuân Phúc 705 281 42,0 210 29,8 Phúc Đường 425 92 21,6 20 4,7 Hải Vân 810 176 12,0 20 2,5 Hải Long 747 152 14,5 40 5,4 Xuân Khang 1.183 452 37,5 190 16,1 Phú Nhuận 1.651 338 22,0 110 6,7 Mậu Lâm 1.614 507 32,0 280 17,4 Phượng Nghi 752 378 51,0 200 26,6 Xuân Du 1.410 430 33,1 216 15,3 Cán Khê 1.180 392 35,7 135 12,3 TT.B Sung 1.143 Chưa chia tách 13 1,1 Tổng cộng 17.541 5.348 33,08 2630 15,0% (Nguồn số liệu thống kê Phòng Nội vụ-LĐTBXH năm 2005./) Nhìn chung quy mô đói nghèo của các xã và thị trấn không đồng đều nhau. Năm 2001 xã có số hộ nghèo cao nhất là Xuân Thái (60%) và xã có tỷ lệ hộ nghèo thấp nhất là Hải Vân (12%). Đên năm 2005 xã Xuân Thái vẫn chưa thể thoát khỏi cảnh nghèo đói gay gắt và vẫn là xã có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất (36,8%).Tuy nhiên với lợi thế mới được chia tách thì thị trấn Bến Sung có tỷ lệ nghèo thấp nhất và sau Thị trấn vẫn là Hải Vân. Ngoài những xã trên thì các xã khác vấn đề nghèo đói cũng diễn biến khá phức tạp. Tuy nhiên để có một cách nhìn tổng thể ta chỉ xoay quanh những xã trọng điểm. Có sự chênh lệch lớn về quy mô các hộ đói nghèo có thể kể đến một trong các nguyên nhân sau: đó là điều kiện tự nhiên khác biệt nhau, các xã vùng núi cao bao giờ cũng khó khăn hơn vì thực chất đời sống của người dân chủ yếu dựa vào nông nghiệp; Các xã nghèo đại bộ phận dân cư mới di chuyển đến, chưa quen vơí lối sống thuần nông, thuần tuý... và còn có rất nhiều nguyên nhân khác. Nhìn một cách tổng thể thì toàn huyện tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí cũ là tương đối cao năm 2001 là 33,08%(tương ứng với 5.348 hộ nghèo trên tổng số 17.541 hộ toàn huyện). Đến năm 2005 tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 15% (tương ứng với 2.630 hộ nghèo trên tổng số 17.541 hộ toàn huyện). Kết quả đem lại khá nhiều điều khả quan, tuy nhiên thực tế vẫn cho thấy huyện là một trong những huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao, quy mô các hộ nghèo lớn (Với tiêu chí phân loại cũ). 1.2. Giai đoạn 2005-2006. Việc phân loại hộ nghèo theo tiêu chí mới bắt đầu áp dụng vào giai đoạn 2006-2010. Như vậy để có thể thấy được tình trạng đói nghèo của huyện kể từ năm 2006 như thế nào và hiệu quả của chương trình xoá đói giảm nghèo có thực sự như thực tế hay không thì cần phân tích cả số liệu về hộ nghèo năm 2006. Phân loại hộ nghèo theo tiêu chí mới: Theo Quyết định số 143/200/QĐ-TTg và Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ thì phân loại hộ nghèo theo theo tiêu chí mới được căn cứ như sau và áp dụng theo các chỉ tiêu và chuẩn mức như bảng dưới đây. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào đặc điểm cụ thể của từng địa phương trong toàn quốc mà chuẩn nghèo mới có thể thay đổi. Bảng 3.2: Chỉ tiêu phân loại hộ nghèo theo tiêu chí mới áp dụng cho các địa phương trong nước.(Đơn vị : đồng). Chỉ tiêu 2000 2005 Trước năm 2000 Khu vực nông thôn miền núi và hải đảo 80.000 180.000 45.000 Khu vực nông thôn đồng bằng 100.000 220.000 70.000 Khu vực thành thị 150.000 260.000 100.000 Nguồn: Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 143/2000/QĐ-TTg và Quyết định 170/2005/QĐ-TTg. Qua bảng trên ta thấy rằng, mức thu nhập để xác định hộ nghèo tăng từ năm 2000 đến năm 2005 rất đáng kể. Việc tiêu chí phân loại dựa vào mức thu nhập tăng là do đời sống nhân dân tăng lên, mức lương tối thiểu tăng nhanh qua các năm. Chính vì vậy, trên cơ sở quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 143/2000/QĐ-TTg và Quyết định 170/2005/QĐ-TTg.Huyện Như Thanh - Thanh Hoá phân loại hộ nghèo theo tiêu chí mới được thống kê như bảng 3 dưới đây. Tuy nhiên việc phân loại này không có sự khác biệt về tính chất nghèo đói mà chỉ làm thay đổi quy mô, tỷ lệ hộ nghèo của toàn huyện cũng như của các xã và thị trần trong huyện. Điều này làm thay đổi quan niệm Xoá đói giảm nghèo trước đây. Việc phân loại hộ nghèo theo tiêu chí mới giúp ta nhận rõ thực trạng đói nghèo của huyện khi so sánh với các huyện khác trong nước. Bảng 4.2:Tổng hợp hộ nghèo năm 2006 theo tiêu chí mới TT Đơn vị Tổng số hộ Hộ nghèo năm 2005 Hộ nghèo năm 2006 Ghi chú Số hộ Tỷ lệ% Số hộ Tỷ lệ% Thanh Kỳ 768 180 24,5 539 70,2 Thanh Tân 1.244 300 26,1 714 57,4 Yên Lạc 998 135 13,6 606 60,7 Xuân Thái 680 254 36,8 483 71,0 Xuân Thọ 417 107 26,2 226 54,1 Yên Thọ 1.847 220 11,3 713 38,6 Xuân Phúc 717 210 29,8 542 75,6 Phúc Đường 406 20 4,7 97 23,9 Hải Vân 784 20 2,5 60 7,6 Hải Long 748 40 5,4 98 13,0 Xuân Khang 1.269 190 16,1 644 51,0 Phú Nhuận 1.630 110 6,7 658 40,3 Mậu Lâm 1.664 280 17,4 651 39,1 Phượng Nghi 838 200 26,6 606 72,3 Xuân Du 1.397 216 15,3 513 36,7 Cán Khê 1.104 135 12,3 584 52,9 TT.B Sung 1.171 13 1,1 79 6,7 Tổng cộng 17.682 2.630 15,0 7813 44,19 (Nguồn số liệu thống kê Phòng Nội vụ-LĐTBXH đầu năm 2007./) Nghiên cứu số liệu từ năm 2005 trở lại ta có thể thất rõ thực trạng đói nghèo của huyện Như Thanh - Thanh Hoá trong những năm qua. Mặc dù Tỉnh và huyện đã có rất nhiều giải pháp thực hiện Chương trình xoá đói giảm nghèo, tuy nhiên tình trạng nghèo đói vẫn tồn tại. Song không thể phủ nhận hiệu quả của chươgn trình xoá đói giảm nghèo và sự nỗ lực của toàn thể cán bộ và nhân dân trong huyện. Để thấy rõ được thực trạng đói nghèo của huyện và hiệu quả chương trình xoá đói giảm nghèo thực hiện trong những năm qua ta có thể phân tích số liệu về tình hình nghèo đói năm 2006. Từ năm 2005 đến năm 2006 việc thống kê các hộ nghèo theo tiêu chí mới của đầu năm luôn đi kèm theo kế hoạch giảm nghèo của huyện trong năm đó. Như vậy có thể thấy rõ hơn hiệu quả của công tác Xoá đói giảm nghèo thực tế của huyện. Bảng 5.2 : Thống kê các hộ nghèo năm 2006 TT Đơn vị Tổng số hộ Hộ nghèo đầu năm 2006 KH giảm nghèo năm 2006 Ghi chú Số hộ Tỷ lệ% Số hộ Tỷ lệ% Thanh Kỳ 768 539 70,2 50 6.5 Thanh Tân 1.244 714 57,4 70 5.6 Yên Lạc 998 606 60,7 78 7.8 Xuân Thái 680 483 71,0 40 5.8 Xuân Thọ 417 226 54,1 25 5.9 Yên Thọ 1.847 713 38,6 95 5.1 Xuân Phúc 717 542 75,6 55 7.6 Phúc Đường 406 97 23,9 20 4.9 Hải Vân 784 60 7,6 12 1.5 Hải Long 748 98 13,0 13 1.7 Xuân Khang 1.269 644 50,7 80 6.3 Phú Nhuận 1.630 658 40,3 100 6.1 Mậu Lâm 1.664 651 39,1 78 4.7 Phượng Nghi 838 606 72,3 50 5.9 Xuân Du 1.397 513 36,7 80 5.7 Cán Khê 1.104 584 52,9 60 5.4 TT.B Sung 1.171 79 6,7 13 1.1 Tổng cộng 17.682 7.813 44,19 919 5.2 (Nguồn số liệu thống kê Phòng Nội vụ-LĐTBXH năm 2006./) Dựa vào bảng 3 và bảng 4 ở trên ta thấy rằng khi áp dụng cách phân loại hộ nghèo theo tiêu chí mới thì tỷ lệ hộ nghèo rất cao. Điều này cũng phản ánh đúng thực tế. Vì khi phân loại theo tiêu chí mới về các hộ và xã nghèo đòi hỏi cao hơn về mọi mặt so với tiêu chí cũ. Chính lí do đó làm cho tỷ lệ hộ nghèo cao hơn ở năm 2006 so với các năm trước đó. Năm 2006 là năm đầu tiên thực hiện chương trình giảm nghèo theo tiêu chí mới(giai đoạn 2006-2010), tỷ lệ hộ nghèo toàn huyện cao (44,19%). Trong khi đó điều kiện về cơ sở hạ tầng còn thiếu và chưa đồng bộ ở hầu hết các địa phương. Bên cạnh đó ngành nghề phụ chưa phát triển, trình độ dân trí còn thấp, đại bộ phận người nghèo chưa có ý thức tự vươn lên thoát nghèo. Không chỉ do phân loại hộ nghèo theo tiêu chí mới làm cho tỷ lệ họ nghèo tăng lên, có thể nói một trong những lý do quan trọng nhất làm cho quy mô đói nghèo năm 2006 tăng cao đó là ảnh hưởng nặng nề của cơn bão số 7 tháng 12/2005. Thiệt hại do bão gây ra không chỉ về tái sản mà còn cả về con người đã làm cho hộ nghèo lại càng nghèo hơn. Họ rơi vào cảnh thiếu đói triền miên, gây ảnh hưởng xấu đến đời sống kinh tế xã hội. Tuy nhiên, sau đó huyện đã có những chính sách cứu đói và hỗ trợ về mọi mặt để nhân dân ổn định đời sống, vì vậy mà kê hoạch giảm nghèo năm 2006 là tương đối hợp lý. Nếu năm 2006 đạt được như kế hoạch thì quy mô đói nghèo sẽ gairm đáng kể. Và vì vậy hiệu quả bước đầu của giai đoạn 2006-2010 của chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo là một tiền đề quan trọng cho cả giai đoạn. Huyện được chia tách từ năm 1997, khi mới được chia tách huyện có 34% hộ nghèo và 1,66% hộ chính sách. Xác định được thực tế đó hàng năm kê hoạch giảm nghèo của Huyện Uỷ và Uỷ ban nhân dân đều hướng mục tiêu là giảm từ 3-4%/năm. Đây là một thách thức tuy nhiên nó cũng là động lực thúc đẩy công tác Xoá đói giảm nghèo của huyện. 2. Cơ cấu đói nghèo phân theo các tiêu chí. Có nhiều hình thức và phương pháp để đáng giá thực trạng cơ cấu đói nghèo của huyện.Tuỳ thuộc vào quy mô các hộ nghèo khác nhau mà việc hình thành nên các cơ cấu hộ nghèo cũng đa dạng và khác biệt nhau. Thực tế cho thấy có các loại cơ cấu đói nghèo cơ bản như sau: 2.1.Cơ cấu hộ nghèo phân theo loại hình kinh tế và đối tượng xã hội: Cơ cấu hộ nghèo phân theo loại hình kinh tế có nghĩa là xem xét trong các loại hình kinh tế tỷ lệ hộ nghèo cao thấp như thế nào. Và nhờ việc phân tích này người ta đánh giá được chất lượng của các loại hình kinh tế nói đang tồn tại trong nề kinh tế của địa phương. Cơ cấu hộ nghèo phân theo đối tượng xã hội thì đa dạng và khó đánh giá hơn phân loại theo loại hình kinh tế. Cơ cấu hộ nghèo hộ nghoè phân theo đối tượng xã hội tức là xem xét xem trong các đối tượng xã hội của huyện tỷ lệ hộ nghèo cao thấp như thế nào, qua đó thấy được những đối tượng nào cần phải có những biện pháp can thiệp ngay về tình trạng nghèo đói. Để thấy được hộ nghèo thực chất trong cơ cấu chung của nền kinh tế huyện và trong các thành phần xã hội ta có thể phân tích thống kê sau: Bảng 6.2 : Cơ cấu hộ nghèo phân theo loại hình kinh tế và đối tượng xã hội - năm 2005 Chỉ tiêu Tổng số Tổng hộ nghèo ở huyện 2.630 100% 1.Phân theo loại hình kinh tế Hộ thuần nông Hộ nông kiêm ngành nghề Hộ nuôi trồng thủy sản Hộ ngành nghề, dịch vụ Hộ khác 1.653 237 76 256 452 58,38 11,63 4,07 10,42 15,50 2. Phân theo đối tượng xã hội Hộ gia đình chính sách, NCC Hộ gia đình dân tộc Hộ già cả, neo đơn Hộ đối tượng khác 244 4.366 438 2.862 3,1 55,9 6,2 34,8 (Nguồn: Số liệu điều tra tháng12/ 2005-Sở LĐTBXH) Qua bảng số liệu trên ta thấy được cơ cấu đói nghèo của huyện khi nhìn nhận dưới góc độ phân chia hộ nghèo theo loại hình kinh tế xã hội và theo đối tượng xã hội. Khi phân tích cơ cấu hộ nghèo phân theo loại hình kinh tế ta thấy rằng, đối với những hộ thuần nông tỷ lệ hộ nghèo rất cao (58,38%). Đây cũng là tất yếu vì nông nghiệp thuần tuý ở vùng núi không có được hiệu quả cao. Người dân chủ yếu dựa vào nông nghiệp trong khi để có được một vụ mùa bội thu, đủ để trang trải cuộc sống hàng ngày quả là không đơn giản. Thực tế cho thấy, các hộ thuần nông có khối lượng công việc khá vất vả tuy nhiên giá thành nông sản lại quá rẻ mạt. Sản phẩm họ làm ra không thể có giá trị bằng của các hộ nông kiêm ngành nghề. Các hộ nông kiêm ngành nghề, ngoài những nông sản mà họ sản xuất ra để phục vụ cuộc sống hàng ngày họ còn có thêm những sản phẩm như hàng thủ công, hàng gia công… Đây là nguyên nhân khiến cho hộ nông kiêm ngành nghề có tỷ lệ hộ nghèo thấp hơn hẳn các hộ thuần nông (11,63%). Nhìn chung, các loạ hình kinh tế như: nuôi trồng thuỷ sản; hộ ngành nghề dịch vụ có tỷ lệ hộ nghèo thấp hơn các hộ làm nông nghiệp và trong tương lai họ có cơ hội giảm nghèo nhanh hơn. Có thể thấy rõ đối với các hộ nuôi trồng thuỷ sản thì tỷ lệ hộ nghèo chỉ có 4,07%; các hộ ngành nghề dịch vụ là 10,42%. Nguyên nhân làm cho tỷ lệ hộ nghèo oqr các nhóm này thấp là do sản phẩm họ làm ra được thị trường chấp nhận với giá hợp lý, có thể đủ cho sinh hoạt hàng ngày và còn tạo ra sự tích luỹ. Chỉ có các hộ thuộc nhóm ngành nghề không ổn định có tỷ lệ hộ nghèo tương đối cao 15,50%, điều này là do họ không có sự ổn định trogn công việc. Họ có thể có công việc những chỉ là tạm bợ và thời gian để tìm việc không có giới hạn. Khi nhìn nhận cơ cấu hộ nghèo phân theo đối tượng xã hội ta cũng thấy được thực trạng tương tự. Đối với các hộ dân tộc việc tỷ lệ hộ nghèo cao là đièu không thể tránh khỏi(55,9%). Họ thiếu về mọi mặt, từ điểm xuất phát về văn hoá, kinh nghiệm cũng như là đièu kiện sản xuất kinh doanh. Đối với các hộ gia đình chính sách, Hộ già cả, neo đơn người có công do có được mức trợ cấp thường xuyên từ phía Nhà nước nên khía cạnh nào đấy cũng giúp họ ổn định đời sống hơn, do vậy tỷ lệ hộ nghèo chỉ là (3,1%) và (6,2%). Tỷ lệ hộ nghèo như vậy vẫn cao tuy nhiên có thể chấp nhận được so với mặt bằng chung của toàn huyện. Tuy nhiên, với các hộ khác thì lại có sự khác biệt. Nhóm này có tỷ lệ hộ nghèo cao(34,8%). Điều này là do đa số họ là những người nông dân, việc trang trải cuộc sống là tương đối khó khăn do thu nhập thấp. Qua phân tích bảng trên ta thấy rắng cơ cấu phân loại hộ nghèo theo loại hình kinh tế và đối tượng xã hội phản ánh rất đúng thực tế. Tuy nhiên để có thể căn cứ vào bảng cơ cấu này để áp dụng các biện pháp Xoá đói giảm nghèo cũng cần cân nhắc vì các hộ cùng nhóm không sống cùng một khu mà họ rải rác trên khắp địa bàn huyện. 2.2. Cơ cấu tổng thu của nông hộ nghèo theo ngành nghề. Thu nhập của người nghèo luôn được đặt lên hàng đầu trong quan tâm của Đảng, Nhà nước cũng như địa phương. Chính vì vậy, tổng thu của hộ nghèo tại các vùng trong huyện không những cho thấy được sự chênh lệch thu nhập giữa các vùng mà nó còn phản ánh chính xác thực trạng đói nghèo của huyện. Bảng 6 thống kê chi tiết thu nhập của các hộ nghèo. Bảng 7.2: Cơ cấu tổng thu của nông hộ nghèo năm 2005 - theo ngành nghề (Tính bình quân trên hộ) ĐVT: 1000 đồng Chỉ tiêu Vùng Đồng bằng Vùng miền núi Vùng cao Bình quân Giá trị % Giá trị % Giá trị % Giá trị % Tổng thu bình quân/hộ 11.278 100 10.471 100 9.621 100 10.456 100 1.Sản xuất nông nghiệp - Trồng trọt - Chăn nuôi 9.890 7.457 2.433 87,7 75,4 24,6 8.241 6.032 2.209 78,7 73,2 26,8 4.762 3.290 1.472 49,5 69,1 30,9 7.631 5.593 2.038 72,9 73,3 26,7 2. Sản xuất lâm nghiệp 0 0 356 3,4 358 5,6 298 2,9 3. Ngành nghề, dịch vụ 428 3,8 303 2,9 452 4,7 394 3,8 4. Từ hoạt động khác 960 8,5 1.205 11,5 2.029 19,2 1.337 12,8 (Nguồn: Số liệu điều tra tháng12/ 2005-Sở LĐTBXH) Qua bảng trên ta thấy, thu nhập của các hộ khá đa dạng và sự chênh lệch giữa các khoản thu là rõ ràng. Do sự khác nhau về địa lý cũng như là điều kiện kinh tế xã hội nên giữa vùng đồng bằng, vùng núi,vùng sâu cũng có sự khác biệt về thu nhập của các hộ. Thực tế việc phân ra thành vùng núi và vùng cao, vùng sâu là không rõ ràng. Vì ở huyện chỉ có 2 xã được công nhân là xã vùng cao. Tuy nhiên 2 xã này đều có quy mô rộng và dân số đông nên cơ cấu thu nhập được phản ánh trên biểu đồ cơ cấu khá rõ nét. Đối với các xã thuộc vùng đồng bằng, thu nhập nình quân/năm là 11.278.000 đ , với các xã vùng núi là 10.471.000đ và đối với các xã thuộc vùng cao là 10.456.000đ. Có sự chênh lệch về thu nhập bình quân/ năm của các vùng chủ yếu là do điều kiện kinh tế xã hội và trình độ dân trí. Ở các xã vùng đồng bằng thì thuận lợi hơn rất nhiều về môi trường sản xuất kinh doanh, thị trấn của huyện là trung tâm của khu vực đồng bằng. Khu vực này có thế mạnh là sản xuất nông nghiệp (thu nhập là 9.890.000đ tương ứng với 87,7%) và các ngành nghề khác như công nhân viên chức, doanh nghiệp tư nhân(thu nhập là 960.000đ tương ứng với 8,5%)…. Bên cạnh đó ngành kinh doanh dịch vụ tuy mới mẻ nhưng cũng đem lại cho người dân thu nhập tương đối ổn định (thu nhập là 428.000đ tương ứng với 3,5%). Khu vực miền núi tuy mức thu nhập thấp hơn tuy nhiên cũng đảm bảo phần lớn đời sống nhân dân. Ở vùng miền núi và vùng cao mặc dù kém hơn về nông nghiệp nhưng họ có thêm thu nhập từ hoạt động lâm nghiệp. Cơ cấu thu nhập nói chung không chênh lệch nhau nhiều giữa các ngành. Vùng núi nông nghiệp là 8.241.000đ (tương ứng 78,7%), lâm nghiệp là 356.000(tương ứng là 3.4%), từ ngành nghề dịch vụ là 301.000đ(tương ứng 2,9%), từ hoạt động khác là 1.250.000đ(tương ứng 11,5%). Đối với vùng cao thu nhập từ sản xuất nông nghiệp là 4.762.000đ (tương ứng 49,5%), từ lâm nghiệp là 358.000đ (tương ứng 5,6%), từ ngành nghề dịch vụ là 452.000đ (tương ứng 4,7%) và từ các ngành nghề khác là 2.029.000đ (tương ứng 19,2%). Có thể thấy rằng ở các xã thuộc vùng cao thu nhập từ nông nghiệp thấp là do cây trồng chủ yếu là cây ngắn ngày năng suất thấp. Tuy nhiên thu nhập từ các ngành nghề khác lại khá cao, điều này là._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5473.doc
Tài liệu liên quan