Lời nói đầu
Nông nghiệp là ngành sản xuất hiện chiếm trên 23% GDP trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân Việt Nam. Đối với nhiều địa phương giá trị gia tăng của ngành nông nghiệp tạo ra chiếm trên 50% GDP tính theo lãnh thổ. Lực lượng lao động trong nông nghiệp ở nước ta chiếm trên 2/3 trong tổn số. Những con số đã nêu phần nào nói lên vai trò của ngành nông nghiệp. Vì vậy nông nghiệp nông thôn dược Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng. Nông nghiệp nông thôn là mặt trận kinh tế trọng yếu, là cơ sở để
70 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1203 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp về đầu tư và sử dụng vốn cho cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn Thái Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phát triển công nghiệp, dịch vụ, là thị trường rộng lớn của công nghiệp, nguồn cung cấp nguyên liệu, lao động cho công nghiệp và các nghành nghề khác.
Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của chiến lược phát triển kinh tế- xã hội Việt Nam từ trước đến nay là tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để bước vào thế kỷ XXI một cách thuận lợi. Đặc biệt trong lần Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X chúng ta đã đưa ra mục tiêu: Đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Nước ta với nền kinh tế kém phát triển, chủ yếu dựa vào nông nghiệp thì việc thực hiện mục tiêu đề ra là khó khăn nhưng không phải là không thực hiện được. Đó là trong nền kinh tế chúng ta cần phải có được các yếu tố nội sinh bởi vì các yếu tố này quyết định đến quá trình tăng trưởng kinh tế. Các yếu tố nội sinh trên được hình thành từ các loại hình đầu tư bổ trợ mà đặc biệt là đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Một hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển mạnh sẽ tạo cơ sở vật chất cho việc thực hiện đường lối, chính sách phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Chính phủ.
Thái Bình là một tỉnh đồng bằng ven biển châu thổ sông Hồng, có diện tích đất nông nghiệp lớn, địa hình bằng phẳng thuận lợi cho việc phát triển sản xuất nông nghiệp. Hơn nữa TháI Bình là tỉnh có truyền thống về sản xuất nông nghiệp, người dân nơI đây có kinh nghiệm về thâm canh lúa nước từ lâu đời. Vì vậy việc đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông thôn được Đảng bộ và các cơ quan, ban ngành của tỉnh hết sức coi trọng. Đặc biệt là đầu tư cho việc phát triển cơ sở hạ tầng trong nông nghiệp nông thôn. Tỉnh TháI Bình đã thực hiện hàng loạt các cơ chế chính sách để thu hút và nhằm sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên việc thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn của Tỉnh vẫn còn nhiều khó khăn và hạn chế do nhiều yếu tố tác động. Trong quá trình thực tập và nghiên cứu tài liệu tại “Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp Hà Nội” tôi đã quyết định chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp về đầu tư và sử dụng vốn cho cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn Thái Bình”. Đề tàI bao gồm 3 phần:
Chương I: Cơ sở lý luận về đầu tư vốn cho cơ sở hajk tầng kỹ thuật nông nghiệp nông thôn
Chương II: Thực trạng đầu tư và sử dụng vốn cho cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn TháI Bình
Chương III: Định hướng và giảI pháp thu hút, sử dụng hiệu quả vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông nghiệp nông thôn TháI Bình.
Được sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS Trần Quốc Khánh và các cán bộ Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp Hà Nội. Tuy nhiên, do thời gian, kinh nghiệm và trình độ có hạn bài viết không tránh khỏi thiếu sót về nội dung và phương pháp thể hiện. Vậy kính mong thày cô, các bạn đánh giá và góp ý để bản chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
nội dung
Chương I
CƠ sở lý luận về đầu tư vốn cho cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông nghiệp nông thôn
1. Khái niệm về đầu tư
Trong lĩnh vực sản xuất vật chất nói chung, hoạt động kinh tế bao giờ cũng gắn liền với việc sử dụng tiền vốn và các nguồn tài nguyên khác nhằm đem lại lợi ích kinh tế xã hội nhất định. Trong nền kinh tế quốc dân, phạm vi một địa phương, một vùng kinh tế, đầu tư là một lĩnh vực hoạt động để tạo ra hoặc đổi mới và duy trì hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật thuộc các ngành kinh tế quốc dân nhằm khai thác đầy đủ và hiệu quả các nguồn tài nguyên của đất nước.
Theo nghĩa chung nhất thì đầu tư được hiểu là sự bỏ ra, sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai.
2 Khái niệm, đặc điểm của đầu tư vốn cho phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật
2.1 Khái niệm
Như ta đã biết muốn tiến hành bất kỳ một hoạt động sản xuất nào, thì chúng ta phải có đầy đủ các yếu tố đầu vào hay còn gọi là tư liệu sản xuất. Nếu thiếu một trong các yếu tố đó thì quá trình sản xuất là không thể diễn ra được, các yếu tố đều được lượng hoá giá trị bằng tiền, tổng số tiền được , lượng hoá này người ta gọi là vốn. Như vậy, vốn là biểu hiện bằng tiền của tư liệu sản xuất của nghành, của doanh nghiệp, đơn vị kinh doanh ,...
Xuất phát từ đặc điểm kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội của nông thôn đó là : kết cấu hạ tầng được hình thành, được sử dụng vì mục đích phát triển kinh tế – xã hội ở nông thôn, giúp cho các hoạt động kinh tế – xã hội nhanh hơn. Kết cấu hạ tầng là công ttình mang tính chất công cộng vì vậy nó phục vụ tất cả mọi người. Trước đây, sự phát triển hạ tầng ở nông thôn được tiến hành trên quan hệ hiện vật, trực tiếp của kinh tế tự cung tự cấp, bằng các nguồn lực là sức lao động và nguồn vật liệu tại chỗ, dân còn tham gia tiến hành xây dựng hạ tầng cho mình. Sự xuất hiện của quan hệ tín dụng trong việc phát triển kết cấu hạ tầng thể hiện tính chất của sự phát triển, và có vai trò đáng kể trong việc cung cấp các nguồn lực tài chính để phát triển hạ tầng nông thôn. Các nguồn vốn đầu tư cho xây dựng hạ tầng ở nông thôn là khá đa dạng nó bao gồm nhiều nguồn khác nhau gộp lại. Các nguồn vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng gồm có : Công nợ do ngân sách cấp trên hỗ trợ, qũy hợp tác xã nông nghiệp, đi vay của ngân hàng, vay dân, nợ bên B, tiền cấp bán đất công ích, huy động các nguồn lực trong dân, quỹ hỗ trợ phát triển của các tổ chức trong nước cũng như của các tổ chức quốc tế.
2.2 Đặc điểm của vốn cho phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật
Để đầu tư vốn cho phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn mang lại hiệu quả kinh tế cao, cần phải hiểu rõ đặc điểm của vốn đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng. Do đặc điểm của kết cấu hạ tầng nên vốn, huy động vốn, cũng như hoạt động của vốn có đặc điểm riêng :
- Xuất phát từ đặc điểm của kết cấu hạ tầng, như tính hệ thống cao, tính tiên phong định hướng, tính xã hội, tính công cộng cao ... nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay thì đây là một lĩnh vực đầu tư đòi hỏi một lượng vốn rất lớn, và thời hạn dài. Kết cấu hạ tầng nông thôn thường là các công trình có thời hạn sử dụng dài, có thể dùng cho nhiều thế hệ, ví như : đường giao thông, hệ thống điện, hệ thống thuỷ lợi, có khối lượng xây dựng rất lớn và bản thân nó đòi hỏi nhiều công trình liên quan. Do đó kinh phí cho xây dựng, vận hành, sửa chữa, tu bổ, bảo dưỡng đòi hỏi vốn lớn và thời hạn hoàn vốn dài. Tuy nhiên lượng vốn trong nội bộ của nghành thì ít, hơn nữa sức thu hút từ nghành khác, lĩnh vực khác của nền kinh tế quốc dân là rất kém. Vì vậy, nguồn vốn đầu tư qua ngân sách, nguồn vốn tín dụng có ý nghĩa hết sức to lớn .
- Vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng có khả năng sinh lời thấp và có độ rủi ro cao, thời gian thu hồi vốn lâu. Thực tế cho thấy kết cấu hạ tầng là lĩnh vực mà sản phẩm của nó mang tính công ích mà giá cả của nó thường bị nhà nước điều tiết, khống chế : phạm vi tiêu dùng của nó rất rộng, chi phối nhiều hoạt động của nền kinh tế – xã hội. Do đó đây là lĩnh vực có khả năng sinh lời thấp, không có khả năng thu hồi vốn, hay nói cách khác là độ rủi ro cao
- Hiệu quả vốn đàu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật được thể hiện qua kết quả phục vụ của nó đối với các ngành, các lĩnh vực
Các công trình đầu tư trong lĩnh vực thuỷ lợi những năm trước đây, nhất là thời kỳ 1996 – 2000 và 2001 - 2005 đã cơ bản hệ thống thuỷ lợi. Nó góp phần nâng cao và ổn định năng suất cây trồng tạo điều kiện cho 11 năm liền tỉnh ta liên tiếp được mùa.
10 năm qua, bộ mặt của nông thôn ngày càng được đổi mới, các công trình hạ tầng cơ sở và nhà ở nhân dân ngày càng được khang trang, đường xá sạch sẽ hơn nhiều so với những năm trước đây.
Khu vực đô thị, thị xã, thị trấn đã có bước phát triển nhanh về cơ sở hạ tầng và công trình phúc lợi công cộng, vệ sinh nước sạch môi trường ngày càng được quan tâm.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được về đầu tư nói trên, tình hình đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn tại Thái Bình vẫn còn những vướng mắc, khó khăn còn tồn tại. Nó đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự nghiệp phát triển kinh tế tỉnh.
3. Các loại vốn và khả năng khai thác cho đầu tư kết cấu hạ tầng nông thôn
3.1. Vốn ngân sách nhà nước
Vốn ngân sách nhà nước là một nguồn vốn có vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế. Trước đây, khi còn cơ chế tập chung thì đây là nguồn vốn chiếm tỉ trọng lớn và giữ vai trò chủ đạo trong quá trình phát triển. Thậm chí có rất nhiều dự án và công trình nguồn vốn này chiếm toàn bộ. Bước sang nền kinh tế thị trường với sự đa dạng hoá các loại hình kinh tế, khuyến khích tất cả các cá nhân và tổ chức có tư cách pháp nhân tham gia vào quá trình đầu tư phát triển, làm cho nguồn vốn đầu tư ngày càng đa dạng hơn, nguồn vốn ngân sách theo xu hướng đó cũng ngày càng giảm đi so với cơ cấu tổng vốn đầu tư. Tuy nhiên, đối với đầu tư kết cấu hạ tầng nông thôn thì nguồn vốn ngân sách nhà nước vẫn chiếm vị trí quan trọng, là loại vốn mồi để thu hút các nguồn vốn đầu tư phát triển.
3.2 Vốn huy động từ các nguồn lực trong dân.
Đây là một giải pháp huy động nguồn vốn truyền thống được áp dụng trước thời kỳ đổi mới và đến nay vẫn được áp dụng. Nhìn tổng quát nguồn vốn huy động trong dân gồm ba loại lớn sau, a.mọi khoản đóng góp, dưới các hình thức khác nhau cho nông nghiệp bao gồm : thuế các loại, các loại phí, nghĩa vụ công dân, các khoản đóng góp vào các quỹ xã hội, b.ngoài các khoản đóng góp của dân do nhà nước thu, dân nông thôn còn đóng góp vào xây dựng hạ tầng ở nông thôn và cho một số hoạt động công cộng ở thôn xóm.c.đặc biệt ở một số nơi hợp tác xã tồn tại thì người dân phải đóng góp nhiều khoản cho hợp tác xã. có thể nói những khoản đóng góp mang lại tác động tích cực cho phát triển hạ tầng ở nông thôn, cho những hoạt động công cộng ở thôn xóm và của xã, cũng như góp công sức vào hình thành nền tài chính công của cả nước
Bảng 1:Tình hình đầu tư của huyện Hải Hậu
cho XD cơ sở hạ tầng
(Đơn vị :triệu đồng)
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1.Làm đường
-
266
481
10.347
11.322
8.476
2.trường học
415
345
626
4.114
3.833
2.500
3.Trạm xá
-
70
50
211
65
124
4.Điện
20
380
-
314
1.208
800
5.Nghĩa trang LS
-
-
413
750
1.500
1.800
6.Nhà trẻ
-
-
-
-
-
800
Tổng số
435
1.061
1.269
15.736
17.240
14.500
Xét tổng thể thì nguồn vốn huy động trong dân trong thời qua để phát triển hạ tầng nông thôn là nằm trong khuôn khổ nguồn lực tài chính của nền kinh tế và xã hội chậm phát triển.Đây là một nguồn vốn tại chỗ để xây dựng các cơ sở hạ tầng tại chỗ. Tuy nhiên, nguồn vốn này hiện nay giảm đi đáng kể trong đó chiếm 30% ở một đôi xã, đạt khoảng 50% tổng kinh phí đầu tư. Hơn thế nữa nguồn vốn này chỉ được huy động có hiệu quả đối với những xã có năng lực kinh tế của xã là trung bình hoặc khá, năng lực cộng đồng, năng lực quản lý của cấp xã là khá. Điều này đã được chứng minh qua thực tế một số huyện như Hải Hậu – Nam Định, với vốn đầu tư xây dựng thời kỳ 1992-1997 có tới 93,1% là vốn huy động từ các nguồn lực trong dân. thế nhưng nguồn vốn này chỉ chủ yếu đối với những công trình hạ tầng ở cấp độ thấp, quy mô nhỏ và kinh phí ít, xây dựng chủ yếu bằng lao động thủ công và vật liệu tại chỗ. Có thể nói, trong quá trình phát triển nông nghiệp nông thôn nước ta hiện nay thì nguồn vốn này cũng có một vai trò nhất định. Nhưng mặt khác, nguồn vốn này xuất phát từ các khoản đóng góp nên đã xuất hiện những mặt trái, mặt tiêu cực.
Điều đáng lưu ý là, trong khi kinh tế của dân nông thôn eo hẹp, năng lực chuyển đổi kinh tế của từng hộ quá thấp, một bộ phận lớn dân lâm vào cảnh khó khăn, trong đó một số nơi rơi vào bần cùng, người dân lại phải đóng góp quá nhiều làm giảm sức dân và gây khó khăn rất lớn cho người dân. Vì vậy. nguồn vốn này không còn là nguồn vốn chủ yếu, mang tính chủ đạo và quyết định, khả năng khai thác nguồn vốn này nói chung là không nhiều, tập chung xây dựng hạ tầng tại chỗ, như đường xá trong thôn xóm, giao thông nội đồng, nạo vét kênh mương, xây dựng lại hệ thống thuỷ nông và đồng ruộng cho phù hợp với sự phát triển mới của nông nghiệp hàng hoá, thâm canh và chuyên canh.
3.3 Nguồn vốn từ quỹ đất công ích.
Trong thực tế, đây là một nguồn vốn quan trọng hiện nay để phát triển hạ tầng nông thôn, nguồn vốn này được hình thành từ bán đất công ích . Số tiền bán đất công ích thu được đã trở thành một nguồn tài chính quan trọng cho xã đầu tư xây dựng hạ tầng, và có xã tiền bán đất chiếm từ 30 – 50% tổng kinh phí xây dựng hạ tầng trong xã, nhiều công trình lớn như làm đường điện, đường giao thông trong xã, xây dựng trường học, trụ sở, hội trường của uỷ ban xã, 100% kinh phí từ tiền bán đất. Nguồn vốn thu được từ bán đất công ích đã trở thành một nguồn vốn quan trọng, nếu không muốn nói là quyết định trong việc tạo ra nguồn tài chính công cho đầu tư phát triển hạ tầng. Nếu không có đất công ích, các xã vùng đồng bằng bắc bộ, khu bốn cũ và duyên hải miền trung đã khó khăn gấp bội trong cân đối ngân sách của xã, và không thể có được hệ tầng như đã thấy. Nói khác đi, thông qua hệ quan hệ thị trường, vốn từ quỹ đất công đã trở thành một nguồn lực tài chính quyết định đối với sự phát triển hạ tầng ở cấp xã. Nhờ nguồn vốn này mà chính quyền xã đã có nguồn tài chính để vận hành bộ máy của mình và thực hiện chức năng phát triển hạ tầng nông thôn. tuy nhiên có một thực tế, ở những vùng có quỹ đất công ích, thông qua cách sử dụng theo quy định của luật đất đai, đã không tạo ra được một nguồn lực tài chính công cho các xã cho xây dựng hạ tầng. Số tiền thu được từ việc cho thuê đất công vào sản xuất nông nghiệp như quy định của luật đất đai, trên thực tế các xã dùng vào việc chi tiêu cho các mục đích thường xuyên. nói cách khác, nguồn vốn này trên thực tế là chưa thể hiện được vai trò đặc biệt của mình đối với phát triển hạ tầng ở nông thôn thời gian vừa qua. Và câu hỏi đặt ra là. trong thời gian tới đóng góp của nguồn vốn này đối với hạ tầng nông thôn ở mức độ nào.
Thứ nhất xét về mặt pháp lý, việc bán đất công là trái với luật ruộng đất, là phạm pháp. về nguyên tắc việc bán đất như vậy là không thể chấp nhận được. Tuy nhiên cũng phải đặt ra một câu hỏi là : nếu không có nguồn vốn từ quỹ đất công thì tình hình cơ sở hạ tầng nông thôn sẽ ra sao? Đỉều rõ ràng sẽ là không có được một trạng thái phát triển hạ tầng ở cấp xã mà chúng ta thấy. Các xã sẽ lâm vào tình trạng khó khăn, không có nguồn vốn cần thiết để phát triển hạ tầng. Suy cho cùng, đây là một giải pháp đã có hiệu quả nhất định trong thời gian qua nhưng nó không phù hợp với nền kinh tế thị trường. Do vậy, khả năng khai thác nguồn vốn từ quỹ đất công là không nhiều.
Thứ hai, xét về quy mô của quỹ đất công ích. Quỹ đất ngày càng giảm đi do dân cư nông thôn tăng tuyệt đối còn khá cao kèm theo việc tách hộ còn khá mạnh. Sự gia tăng dân số và hình thành hộ mới đã tạo ra nhu cầu lớn về đất ở. Hơn nữa, thời gian qua cùng với quá trình đô thị hoá diễn ra mạnh và chuyển đổi kinh tế đã tạo ra một nhu cầu lớn về đất. Tất cả những vấn đề trên làm cho quỹ đất công giảm đi nhiều. Trong thời gian tới quỹ đất công ích dự trữ không còn nhiều nên nguồn từ đây cũng hạn chế.
Thứ ba, xét về sự phân bố quỹ đất công ích. Thực tế không phải địa phương nào cũng có quỹ đất công ích lớn. Dẫn đến kết quả nguồn vốn về quỹđất công ích có quy mô khác nhau. Chính vì vậy, nguồn vốn này đối với mỗi nơi có vị trí khác nhau trong phát triển hạ tầng nông thôn
3.4 Nguồn vốn từ hoạt động đầu tư kinh doanh.
Từ khi nước ta chuyển sang nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa. Kết cấu hạ tầng nông thôn, cụ thể là dịch vụ công cộng ở nông thôn cũng là một lĩnh vực đầu tư kinh doanh. Người đầu tư kinh doanh có thể là nhà nước, cũng có thể là nhà đầu tư tư nhân, kể cả nước ngoài, còn người được hưởng thụ hạ tầng công cộng và những dịch vụ là người dan nông thôn. Trong điều kiện hiện nay, nguồn vốn này có vai trò hết sức quan trọng, phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế – xã hộ vì dựa trên quan hệ mua bán. thật vậy, bằng cách mua hàng hoá và dịch vụ công cộng, người dân tránh được việc đóng góp ban đầu nặng nề. Mặt khác, việc trả tiền cho những hàng hoá và dịch vụ đó khiến cho người dân có ý thức, trách nhiệm trong việc sử dụng tiết kiệm hàng hoá và dịch vụ công cộng. Điều quyết định hơn, đặt lĩnh vực hạ tầng về hàng hoá và dịch vụ công cộng vào một quá trình vận hành trong tiến trình tái sản xuất thường xuyên các nguồn vốn, để nhờ đó, thường xuyên tái sản xuất mở rộng bản thân thị trường. Đây là điểm tiến bộ quy định phương thức thị trường. Trong khi đó với phương thức truyền thống, hạ tầng bị đặt trong một quá trình không có đời sống kinh tế, sau khi hạ tầng được xây dựng, nếu hư hỏng không có nguồn kinh phí để tu bổ, sữa chữa tái tạo lại.
Nguồn vốn này có vai trò vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, thực tế hiện nay nguồn vốn này chưa phổ biến đối với phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn. một số nơi đã có chủ tư nhân đầu tư làm hệ thống đường điện vào xóm. Nhưng bên cạnh đó còn có những hệ thống điện chắp vá, làm không đúng quy trình, kỹ thuật nên chất lượng rất kém, gây tổn thất điện lớn, không an toàn, có sự cố, và nhất là không phù hợp với yêu cầu phát triển sản xuất, phát triển kinh doanh. Có thực tế như vậy là do lĩnh vực đầu tư kết cấu hạ tầng nông thôn là chưa thực sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Những nhà đầu tư có khả năng kinh tế cũng như khả năng chuyên môn thì không muốn đầu tư vào lĩnh vực này do mức sinh lợi thấp. Thực tế hiện nay đầu tư vào lĩnh vực này chủ yếu là những nhà đầu tư có nguồn vốn không lớn cũng như khả năng về chuyên môn hạn chế. Chính vì vậy dẫn đến hiện trạng đầu tư như trên. Hơn thế nữa, nguồn vốn này chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực, những loại sản phẩm hàng hoá dịch vụ như điện, nước sạch, y tế, khám chữa bệnh, và ở một chừng mực nhất định là giáo dục...
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên. trong thời gian tới đây là một nguồn vốn sẽ giữ vai trò chủ chốt và quan trọng. chỉ có điều khả năng khai thác nguồn vốn này vẫn còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Vì vậy, để kết cấu hạ tầng nông thôn thực sự là một lĩnh vực hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, chúng ta cần có những chính sách, giải pháp để tạo động lực phát triển mới cho nông thôn, bằng cách nâng cao đời sống của người dân nông thôn từ đó nâng cao mức hưởng thụ các dịch vụ hàng hoá mà kết cấu hạ tầng mang lại.
3.5 Nguồn vốn tín dụng.
Trong thời gian vừa qua, nguồn vốn tín dụng đã xuất hiện khá phổ biến. đóng góp khá đắc lực vào phát triển hạ tầng ở nông thôn. Đây là một điểm đáng chú ý trong phát triển hạ tầng trong thời gian qua. Sự xuất hiện nguồn vốn này trong phát triển hạ tầng, thể hiện tích chất thị trường của sự phát triển và có một vai trò đáng kể trong việc cung cấp nguồn tài chính để phát triển hạ tầng ở nông thôn. Thực tế cho thấy ở tỉnh nam bộ nguồn vốn đi vay lên tới trên 10% tổng thu ngân sách, lớn hơn số tiền do ngân sách cấp trên hỗ trợ. ở một số huyện, nguồn đầu tư cho xây dựng hạ tầng nông thôn, lại dựa một phần lớn vào nguồn vốn đi vay. Có thể nói nguồn vốn tín dụng đã trở thành một cơ sở của việc phát triển hạ tầng trong thời gian qua ở nông thôn. tuy nhiên, nguồn vốn này trên thực tế là nguồn vốn vay dân và các chủ thể kinh tế khác với lãi suất khá cao, có khi tới 6% một tháng, hoặc vay qua một chủ thể có tính chất pháp nhân trong việc vay vốn ngân hàng. Đây là một nguồn vốn tạo ra gánh nặng tài chính cho xã.
Trong thực tế, nếu phát triển hạ tầng ở nông thôn qua nguồn vốn tín dụng thì những bê bối, bức xúc trong phát triển hạ tầng vừa qua sẽ được loại đi căn bản vì việc sử dụng nguồn vốn sẽ được giám sát, kiểm tra chặt chẽ của phía ngân hàng, các chủ thể sẽ sử dụng vốn một cách hợp lý, tiết kịêm, tránh được những sai phạm, thất thoát và tham nhũng của quan hệ vay mượn dân dã, vay ngân hàng qua một trung gian thứ hai và nhất là qua con đường chiếm dụng vốn. Mặt khác, việc sử dụng nguồn vốn sẽ giảm sự căng thẳng trong việc huy động các nguồn lực trong dân, do vậy giảm tối đa những khó khăn đối với nông dân, nhất là đối với nông dân nghèo. Hơn nữa, trong điều kiện nền kinh tế hiện nay. Nguồn vốn này là một trong những nguồn chủ yếu, đắc lực đối với việc phát triển hạ tầng nông thôn, là một nguồn vốn mới phù hợp với gian đoạn tiến sâu tiến sâu vào KTTT và đẩy mạnh quá trình CNH-HĐH.
Thực tế hiện nay, việc sử dụng nguồn vốn này để phát triển hạ tầng cũng nảy sinh những tiêu cực không nhỏ, gây bê bối và góp phần tạo ra những bức xúc ở nông thôn. Cụ thể lãi suất vốn vay còn khá cao, trong quan hệ vay mượn nảy sinh quan hệ lợi dụng nhau, có những móc ngoặc, ăn chia, gây thất thoát vốn, chất lượng công trình kém. Thiết nghĩ, để khai thác có hiệu quả khả năng nguồn vốn này trong thời gian tới phải có những điều kiện cho hạ tầng nông thôn phát triển đúng tầm quan trọng của nó, đồng thời cũng có những ưu đãi từ phía ngân hàng cho vốn vay xây dựng hạ tầng. Chẳng hạn với thời hạn 5 năm và mức lãi suất thấp từ 0,8-1%/ tháng . Đặc biệt phải coi phát triển hạ tầng như một lĩnh vực của hoạt động KT-XH của nền kinh tế.
3.6 Nguồn vốn từ các chủ thể kinh tế, xã hội khác.
Trong giai đoạn hiện nay, khi mà phương thức nhà nước và nhân dân cùng làm và giải pháp huy động nguồn lực trong dân còn tác dụng và còn phải vận dụng trên thực tế, khi sự phát triển hạ tầng nông thôn mặc dù được đặt trong một tổng thể, và trong một chương trình chung, vẫn còn là những công việc của địa phương, thì nguồn vốn này cũng đóng góp không nhỏ cho phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn. Trong thực tế, các loại doanh nghiệp, các loại chủ thể kinh tế hoạt động ở địa phương là những người hưởng thụ các loại hạ tầng và dịch vụ công cộng ở địa phương đó lớn hơn rất nhiều so với mức hưởng thụ của người dân bình thường. Bởi vì, việc sinh lời từ hoạt động kinh doanh không chỉ bắt nguồn từ bản thân hoạt động kinh doanh, mà còn phụ thuộc vào trình độ phát triển hạ tầng và dịch vụ công cộng. Do vậy, nguồn vốn này là hoàn toàn phù hợp với tiến trình phát triển kinht tế xã hội. Trong thời gian vừa qua, sự đóng góp của giới kinh doanh lớn, nhỏ có tác dụng khá lớn đối với sự phát triển hạ tầng. Thường nguồn vốn này hình thành thông qua hình thức đóng góp tự nguyện của các doanh nghiệp và cả qua cách thức vận động.tại xã Ya Khê, Krông Pak, Đaklak, nông trường cà phê trên địa bàn xã đã bỏ ra 800 triệu để xây dựng ngôi trường cấp II hai tầng, Các chủ hộ sản xuất cà phê giàu có đã tự nguyện góp vốn với mức cao từ 1-5 triệu đồng/ hộ vào làm đường xóm, một hộ kinh doanh vàng bạc đã góp 40 triệu đồng cho xã để xây dựng hạ tầng. ở Đồng Nai, giáo hội thiên chúa giáo là một thành viên tham gia tích cực vào phát triển hạ tầng ở địa phương. Cố nhiên nguồn vốn này không phải là nguồn vốn chính và cũng không phải là nguồn vốn phổ biến, vì đa số xã là thuần nông, các doanh nghiệp chưa hình thành, hoặc không nhiều. Vì vậy, khả năng khai thác nguồn vốn này trong thời gian tới chỉ tập chung vào những địa phương có kinh tế phát triển
3.7 Nguồn vốn hỗ trợ từ bên ngoài
Đối với phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn. nguồn vốn hỗ trợ bên ngoài chủ yếu là nguồn vốn ODA. Vốn vay ODA của nước ngoài là các khoản vốn vay có nhiều ưu đãi như lãi suất thấp, thời gian hoàn trả dài. Do đó, đây là khoản vốn mà các nước đang phát triển tập chung tìm mọi cách để thu hút và nước ta cũng vậy.
Thế nhưng một yêu cầu của nguồn vốn hỗ trợ phát triển ODA là phía bên nước hỗ trợ phải có nguồn vốn đối ứng để giải ngân. Điều này làm cho phía Việt Nam trong thời gian qua đã không khai thác có hiệu quả nguồn vốn này do khả năng huy động nguồn vốn đối ứng của ta còn thấp. Còn đối nguồn vốn vay ưu đãi do nguồn vốn này có lãi suất thấp và thời hạn vay tương đối dài nên dẫn đến sử dụng nguồn vốn này hết sức lãng phí, phát sinh những vấn đề tiêu cực như tham ô, vô trách nhiệm. Nguồn vốn ODA hiện nay có xu hưóng đang giảm và dự báo trong 10 năm tới sẽ giảm vì một số nước chủ nợ ODA lớn như Nhật, Đức, Pháp, Mĩ, đang phải đối phó với nhiều vấn đề KT-XH cấp bách về thâm hụt ngân sách, đồng đô la mất giá ...Đồng thời nguồn vốn ODA tuy là nguồn vốn có nhiều ưu đãi nhưng cũng là khoản vay đòi hỏi phải thanh toán đúng thời hạn, rất nghiêm ngặt, nhiều khi sử dụng không có hiệu quả dẫn đến khủng hoảng cho đất nước. Vì vậy, trong thời gian tới chúng ta cần có sự tính toán cân nhắc trong việc sử dụng nguồn vốn này, cần có đội ngũ cán bộ có năng lực quản lý thực sự để sử dụng nguồn vốn này. Hơn thế nữa phải ưu tiên nguồn vốn này cho những công trình trọng điểm như : hệ thống thuỷ lợi, hệ thống cầu cảng, hệ thống giao thông,...Và những vùng đặc biệt khó khăn mà không có khả năng xây dựng cơ sở hạ tầng bằng các nguồn vốn khác.
Từ sự phân tích các nguồn vốn nói trên ta thấy tất cả các nguồn vốn đều có vai trò hết sức quan trọng.tuy nhiên trong thời gían tới có khả năng tăng nhưng không nhiều. Do dó, nhân tố thị trường và nhà nước là những nhân tố mới và đặc biệt quan trọng của gian đoạn phát triển mới trong nông thôn nói chung và hạ tầng nói riêng. Chính sự năng động của các cấp, của cộng đồng trong việc hoạch định phương hướng, dự án phát triển hạ tầng, trong việc tìm kiếm các nguồn vốn và đầu tư phát triển hạ tầng là một nhân tố tích cực quyết định thành công của sự phát triển hạ tầng nông thôn vừa qua. Hơn thế nữa, cần phải xem xét thận trọng các nguồn vốn trong việc phát triển hạ tầng ở nông thôn bởi lẽ, việc sử dụng tổng lực các nguồn vốn và các quan hệ thị trường đã bắt đầu phát huy tác dụng làm cơ sở động lực thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất nói chung và của hạ tầng nông thôn nói riêng.
4. Sử dụng vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn.
Để sử dụng vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn ta tiến hành những bước công việc sau.
4.1 Xác định tổng vốn đầu tư
Như ta đã biết để tiến hành bất kỳ một hoạt động nào như hoạt động đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng chẳng hạn, vấn đề quan trọng là xác định tổng vốn đầu tư của dự án. tổng vốn đầu tư của dự án bao gồm: vốn cố định, vốn lưu động, lãi vay trong thời gian xây dựng nếu có.Đặc biệt dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn thường được thực hiện trong khoảng thời giai dài, có khi tới hàng chục năm nên các chi phí được dải ra trong nhiều năm, và chi phí ở mỗi năm thì không giống nhau. Hơn nữa kết cấu hạ tầng nông thôn sau khi được hoàn thành và đi vào sử dụng thì nó cũng cần những khoản kinh phí để tu bổ, sửa chữa, vận hành, sử dụng...Vì vậy để xác định tổng vốn đầu tư cho dự án, ta có thể lập bảng theo mẫu dưới đây.
4.2 Xác đinh cơ cấu loại vốn .
Nguồn vốn cho phát triển kết cấu hạ tầng là hết sức đa dạng. Việc xác định cơ cấu loại vốn một cách chính xác cho phép khai thác các loại vốn một cách có hiệu quả nhất. Sau đây là các bước để xác định :
a. Phương pháp xác định
Xác định cơ cấu nguồn vốn của dự án phát triển kết cấu hạ tầng là tính toán tỷ lệ số lượng từng nguồn vốn được huy động vào đầu tư của dự án. bao gồm: vốn ngân sách cấp ( cấp ban đầu và cấp bổ sung), vốn tự có (tự huy động...), vốn vay ( ngắn hạn,trung hạn và dài hạn, trong nước và nước ngoài ) và vốn khác ( viện trợ, quà tặng )
Các nguồn vốn này cũng được phân chia dưới dạng hịên vật hay tiền mặt.việc thiết lập bảng dự trù các nguồn vốn thường được lập cùng với bảng dự trù tổng vốn đầu tư, đôi khi cũng có thể lập bảng riêng.
b.Căn cứ xác định cơ cấu loại vốn
Như trên đã phân tích. Các địa phương do đặc điểm và điều kiện đặc thù khác nhau nên cơ cấu loại vốn khác nhau. Vì vậy để một dự án phát triển kết cấu hạ tầng có tính khả thi và thuyết phục được nhà đầu tư thì chúng ta phải căn cứ vào một số vấn đề sau. Ví dụ như năng lực kinh tế của địa phương, ta biết các nguồn vốn cho phát triển hạ tầng trong điều kiện hiện nay là có hạn, trong khi đó nhu cầu của các nguồn vốn là rất lớn. Địa phương nào cũng muốn có nhiều vốn để xây dựng hạ tầng, đặc biệt là các loại vốn như : ngân sách, vốn viện trợ,... Các địa phương không muốn phải đi vay, phải bán đất, huy động của dân để phát triển cơ sở hạ tầng, ngay cả khi họ có khả năng huy động các loại nguồn vốn này. Chính thực tế này yêu cầu khi lập dự án phải căn cứ vào năng lực tài chính của địa phương
Thứ nhất đối với những địa phương yếu kém trong phát triển kinh tế, đồng thời có cả sự yếu kém về năng lực công đồng, năng lực quản lý. Họ không có khả năng huy động các nguồn lực trong dân vào phát triển hạ tầng và nếu có thì không đáng kể. Trong những trường hợp như thế này, nhà nước cần có giải pháp phù hợp để hỗ trợ vốn cho họ tiến hành xây dựng, còn những đóng góp của họ có được chủ yếu để duy trì, bảo dưỡng, nâng cấp hạ tầng cũ.
Thứ hai những địa phương có năng lực kinh tế khá, cũng như năng lực cộng đồng và lãnh đạo mạnh, tiếp cận được với quan hệ thị trường, có một quỹ đất công có giá trị cao. Khi đó vốn cho phát triển hạ tầng chủ yếu là của địa phương như : vốn huy động trong dân, vốn vay, vốn từ bán đất công ích.
Thứ ba đối với vùng sâu, vùng xa đặc biệt khó khăn, người dân ở đó không có khả năng xây dựng cơ sở hạ tầng. Trong khi yêu cầu về cơ sở hạ tầng lại rất cần thiết để giảm bớt sự chênh lệch giữa các vùng, tạo điều kiện cho người dân cải thiện điều kiện sống, cũng như nằm trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Khi đó sẽ có những ưu tiên của nhà nước về đầu tư, vốn đầu tư từ ngân sách chiếm hầu như toàn bộ trong cơ cấu vốn đầu tư.
Tuy vậy trong thực tế xác định cơ cấu vốn ở nước ta hiện nay nảy sinh một số vấn đề. Việc xây dựng hạ tầng chưa thể hiện được sự chủ động, mang nặng tính ỷ lại vào nhà nước thông qua cơ chế xin cho, địa phương nào có mối quan hệ tốt sẽ có nhiều lợi thế trong việc hỗ trợ của nhà nước. Do vậy cơ cấu nguồn vốn hiện nay chưa thực sự phản ánh đúng năng lực tài chính của địa phương. Vấn đề đặt ra trong thời gian tới là phải nâng cao công tác thẩmđịnh dự án để khơi dậy nội lực của từng địa phương, nhà nước giữ vai trò định hướng sự phát triển.đây là một nguyên tắc hết sức cơ bản và cần thiết trong điều kiện hiện nay.
5. Quản lý nguồn vốn huy động.
5.1 Vốn đầu tư không hoàn trả.
Theo báo cáo tổng kết tại ĐH Đảng Bộ Tỉnh lần thứ X vừa qua (3/2006). Để quản lý nguồn vốn này nhiều địa phương đã thành lập quỹ đầu tư phát triển nông thôn.nội dung của quỹ như sau :
+Nguyên tắc hoạt động của quỹ đầu tư phát triển nông thôn :
- Quỹ có ban quản lý, có tài khoản tại kho bạc nhà nước, chịu sự quản lý trực tiếp của uỷ ban nhân dân và các c._.ơ quan tài chính nhà nước và chịu sự kiểm tra, thanh tra và kiểm toán của nhà nước.
- Hoạt động của quỹ không theo nguyên tắc hoạt động của quỹ ngân sách nhà nước. Quỹ cần mở sổ sách kế toán theo dõi riêng, quản lý tài chính chặt chẽ.
- Quỹ chỉ tiếp nhận các khoản đóng góp cho mục đích đầu tư không hoàn trả lại.
- Phân phối sử dụng quỹ dựa vào dự án, kế hoạch đã được thẩm tra trình HDND quýêt định theo phương thức cấp phát và tạm ứng.bộ phận quản lý quỹ phải có nghiệp vụ chuyên môn lập dự án, thẩm tra dự án, quản trị dự án, quản lý tài chính và một số yêu cầu chuyên môn khác về tín dụng, ngân hàng.
+Về tổ chức quỹ ; hiện nay quỹ đầu tư phát triển nông thôn được thành lập ở một số cấp hành chính như sau :
- Quỹ đầu tư phát triển nông thôn cấp tỉnh : quỹ này dùng để điều hoà nông thôn vùng, tiếp nhận nguồn vốn đầu tư từ ngân sách; một phần của 45% khoản thu thuế sử dụng đất;thu xổ số kiến thiết; số tiết kiệm của các tổ chức thuộc tỉnh quản lý; hỗ trợ các chương trình đầu tư nông thôn của trung ương cho tỉnh, đóng góp của ngân sách cấp huyện, cấp xã cho mức chi ngân sách bình quân dân số cao ở địa phương; vận động đóng góp 2-3% quỹ phúc lợi của các tổ chức kinh tế – xã hội; trích 20% các khoản phụ thu trên giá lệ phí, phí của tỉnh thu được. Quỹ phân phối sử dụng hỗ trợ cân đối quỹ đầu tư xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, xã nghèo có khó khăn;hỗ trợ 10 – 40% giá trị công trình đầu tư bằng vốn góp của huyện, xã; cho các xã vay đầu tư công trình công ích phát triển nguồn thu.
- Quỹ đầu tư xã: quỹ của chính quyền cơ sở ở nông thôn tiếp nhận nguồn đầu tư từ ngân sách xã; một phần của 45% số thu thuế sử dụng đất; các khoản huy động đóng góp của hội đồng nhân dân xã để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng theo quy định của điều 36 luật ngân sách nhà nước; các khoản phụ thu trên giá, phí, thuế do uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định thu vào đầu tư xã; khoản đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng do hội đồng nhân dân xã quyết định đối với các tổ chức cá nhân đến ở hoặc nhập hộ khẩu, hộ tịch trên địa bàn; hỗ trợ cân đối của quỹ đầu tư nông thôn tỉnh; quyên góp giúp các địa phương khác; hỗ trợ đầu tư của các nghành, đơn vị theo dự án; hỗ trợ của các cá nhân tổ chức ở nước ngoài trực tiếp cho quỹ ... Quỹ phân phối sử dụng cho:đầu tư mới, nâng cấp, sửa chữa các công trình: giao thông, trường học, trạm y tế, nhà trẻ, lớp mẫu giáo; các hệ thống cấp điện, nước sạch, thông tin, trụ sở làm việc, công trình văn hoá thể thao, chợ, đò, bến, bãi ... Do xã quản lý; hỗ trợ một phần công trình do thôn xóm huy động đóng góp xây dựng; đầu tư xây dựng các công trình dịch vụ công ích, phát triển nguồn thu; đóng góp công trình liên xã; chi hỗ trợ về khắc phục thiên tai, môi trường trong phạm vi hẹp của xã.
- Ban quản lý công trình liên xã: do huyện quản lý. Trong hệ thống phân cấp quản lý nhà nước, huyện là cấp chính quyền có tính chất trung gian không trực tiếp quản lý dân, chỉ quản lý các đơn vị hành chính nên việc tổ chức huy động đóng góp của dân là khó khăn, ít hiệu quả nên chỉ thành lập ban quản lý mỗi khi có xây dựng công trình liên xã bằng các nguồn của các xã; chi từ ngân sách huyện; hỗ trợ quỹ đầu tư phát triển nông thôn tỉnh.
Đối với những địa phương chưa lập quỹ đầu tư phát triển nông thôn thì nguồn vốn đóng góp sẽ do UBND các cấp quản lý cùng với cơ quan tài chính nhà nước.
5.2 Vốn vay đầu tư
Đây là nguồn vốn có sự hoàn trả lại. vì vậy nguồn vốn này không thể đưa vào quỹ đầu tư phát triển nông thôn được.Uỷ ban nhân dân các cấp là đại diện đứng ra vay vốn và có nghĩa vụ phải hoàn trả theo thời hạn quy định. Nguồn vốn này chịu sự quản lý trực tiếp của UBND các cấp và các cơ quan tài chính nhà nước cũng như chịu sự kiểm tra, thanh tra, kiểm toán của nhà nước để đảm bảo nguồn vốn này được sử dụng có hiệu quả nhất.
6. Quản lý sử dụng vốn.
Để sử dụng vốn một cách có hiệu quả thì công tác quản lý sử dụng có vai trò hết sức quan trọng. Trong lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng ở nước ta hiện nay, chủ thể đứng ra quản lý vốn là ban quản lý công trình. Đây là một tổ chức do UBND tổ chức, trong đó trưởng ban quản lý thường là chủ tịch xã, huyện, tỉnh,... tương ứng với kết cấu hạ tầng ở cấp xã, huyện, tỉnh... Các thành viên là một số trưởng ban, ngành, uỷ viên thường trực và uỷ viên tài chính. Nhiệm vụ chính của uỷ ban này là:
Lập dự toán chi phí cho dự án, bao gồm lập kế hoạch nguồn lực, xác định số lượng từng nguồn lực cần thiết để thực hiện dự án, ước lượng các chi phí của từng nguồn lực để hoàn thành các hoạt động của dự án, phân bổ các chi phí chung đã được ước lượng cho từng hoạt động.
Tổ chức cấp phát vốn phải bám sát tiến độ thi công và nghiệm thu hạng mục, tuân thủ nghiêm ngặt thủ tục cấp phát, thanh toán, ngăn ngừa sử dụng vốn không đúng mục đích, thanh toán không kịp thời, cấp vượt vốn không thu hồi được; tổ chức nghiệm thu toàn công trình được tổng hợp từ các biên bản nghiệm thu từng hạng mục của công trình. Việc thanh toán toàn bộ công trình căn cứ vào dự toán được duyệt, biên bản của hội đồng nghiệm thu, quyết toán công trình được duyệt.
Có thể nói trong giai đoạn vừa qua, hạ tầng nông thôn đang trong quá trình chuyển đổi sang phương thức thị trường và do nhà nước ( cấp xã ) thực hiện. Tuy nhiên trong công tác quản lý sử dụng vốn chưa hình thành quan hệ tài chính và toàn bộ sự tuần hoàn vốn lại chưa hình thành. Điều quan trọng ở đây là chưa xác định chủ đầu tư, chủ sở hữu và khi đi vào sử dụng, chưa xác định phương thức cung cấp dịch vụ công cộng trên quan hệ thị trường. Vì vậy, việc quản lý vốn đầu tư trong lĩnh vực hạ tầng ở nông thôn vừa qua đã được thực hiện với khuôn mẫu của phương thức phát triênr hạ tầng cộng đồng. Sự không thích ứng này là một trong nguồn gốc căn bản gây bê bối trong quản lý tài chính của lĩnh vực phát triển hạ tầng ở nông thôn vừa qua. Vì vậy trong thời gian tới chúng ta cần phải nâng cao năng lực quản lý của các cấp và nhất là chính quyền cấp xã - đây là cơ sở bảo đảm cho sự phát triển bền vững nông thôn nói chung, và cho phát triển hạ tầng gian đoạn mới.
7. Sự cần thiết phải đầu tư và sử dụng vốn cho phát triển hạ tầng kỹ thuật phục vụ nông nghiệp nông thôn
7.1 Sự cần thiết phải phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông nghiệp nông thôn
Đối với nước ta, nông nghiệp là một ngành chiếm tỷ trọng lao động và giá trị sản lượng lớn. Kinh tế nông thôn ở nước ta chủ yếu là kinh tế nông nghiệp song là một nền nông nghiệp lạc hậu, phần lớn các hoạt động sản xuất (từ làm đất cho đến gieo cấy, chăm sóc, thu hoạch được tiến hành bằng lao động thủ công, năng suất lao động thấp. Cơ cấu kinh tế của nông thôn chưa có khả năng thay đổi căn bản cũng như việc thu hút và giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động trong khu vực này chưa có chuyển biến đáng kể. Mặt khác, lao động trong nông thôn nước ta hiện nay có đến gần 80% chưa được đào tạo nghề nghiệp, một bộ phận không nhỏ trong số họ đặc biệt là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa nạn mù chữ còn nhiều…
Từ những thực tại nói trên, vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn nức ta là một đòi hỏi cấp bách. Mặt khác, trong số chín mặt hàng chủ lực xuất khẩu của Việt Nam là: dầu thô, gạo, dệt may, giày dép, thuỷ sản, cà phê, hạt điều, cao su, than đá và tơ tằm thì sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu đã chiếm tới 5 mặt hàng, trong đó gạo chiếm tỷ lệ xuất khẩu lớn. Điều này đã chứng tỏ vị trí của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Do đó, muốn thực hiện việc kiến thiết nông thôn chúng ta phải xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn. Bởi vì cơ sở hạ tầng là bước khởi động, nó tạo điều kiện cho cuộc sống vật chất, tinh thần ở nông thôn được nâng cao, tạo đà cho các doanh nghiệp, các hộ kinh tế gia đình đầu tư phát triển nông nghiệp, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm thành hàng hoá, phục vụ trao đổi và xuất khẩu. Có thể nói cơ sở hạ tầng nông thôn là nhân tố quan trọng quyết định sự tăng trưởng của ngành nông nghiệp và biến đổi kinh tế vùng nông thôn. Vậy vấn đề đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn là chiến lược quan trọng, cần thiết, bức xúc trong giai đoạn hiện nay.
7.2 Sự cần thiết phải đầu tư và sử dụng vốn cho cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông nghiệp nông thôn
Như đã phân tích ở trên, cơ sở hạ tầng đóng vai trò đặc biệt trong sự nghiệp CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn nói riêng và sự nghiệp CNH- HĐH cả nước nói chung. Tuy nhiên có được cơ sở hạ tầng và làm sao để nó phát huy hiệu qủa thì lại không phải là dễ dàng. Đầu tư là yếu tố quan trọng có khả năng thúc đẩy nền kinh té phát triển chính vì vậy nhu cầu đầu tư trong từng vùng, từng ngành càng trở nên cần thiết hơn và trở thành một nhu cầu cấp bách nhất thiết phải được đáp ứng để phát triển ngành, phát triển vùng.
Thực tế hiện nay, vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn còn bị hạn chế, nguồn vốn huy động để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là cơ sở hạ tầng nông thôn còn gặp nhiều khó khăn. Thực trạng cơ sở hạ tầng nông thôn Việt Nam còn yếu kém, nghèo nàn lạc hậu, không có kinh phí để xây dựng mới và bảo dưỡng tu sửa, cơ sở hạ tầng phát triển không đồng đều giữa các vùng.
Với thực trạng trên, để thực hiện CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn thì việc cung ứng vốn cho việc phát triển nông nghiệp nói chung và cho cơ sở hạ tầng nông thôn nói riêng là vấn đề hàng đầu. Lượng vốn cung ứng này rất lớn nên chúng ta không chỉ trông chờ vào ngân sách Nhà nước mà cần phải có chính sách và giải pháp để tăng cường huy động mọi nguồn vốn của mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. Nguồn huy động vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng nông thôn chủ yếu từ các nguồn sau: Vốn ngân sách Nhà nước (bao gồm cả vốn ngân sách Trung ương và vốn ngân sách địa phương); vốn dân cư, vốn tín dụng vay Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, vốn nước ngoài. Trong đó vốn Ngân sách Nhà nước là cơ bản, vốn góp của hộ nông dân bao gồm cả tiền tài, vật lực là quan trọng.
Chương II
thực trạng đầu tư và sử dụng vốn cho cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông nghiệp nông thôn tháI bình
I. Khái quát về tình hình phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Thái Bình
1. Vị trí tỉnh Thái Bình
Thái Bình là một tỉnh đồng bằng ven biển châu thổ sông Hồng, có toạ độ địa lý là: 20o17 đến 22o44 độ vĩ bắc và 106o06 đến 106o39 kinh độ đông. Phía Đông giáp vịnh Bắc bộ, phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Nam Định và Hà Nam, phía Bắc giáp tỉnh Hải Dương, Hưng Yên và thành phố Hải Phòng. Từ Tây sang Đông dài 54 km, từ Bắc xuống Nam dài 49 km. Thái Bình ở trong vùng ảnh hưởng trực tiếp của tam giác tăng trưởng: Hà Nội - Hải Phòng - Hạ Long và được bao bọc bởi hệ thống sông biển khép kín, có 5 cửa sông lớn (Văn úc, Diêm Điền, Ba Lạt, Trà Lý, Lân) có các sông lớn của miền Bắc như: Sông Hồng 67 km, Sông Luộc 53 km, Sông Hoá 35 km, và phía Đông tiếp giáp vịnh Bắc bộ với chiều dài bờ biển trên 49 km (Thái Thuỵ 21.5 km, Tiền Hải 27.7 km) và tổng số chiều dài đê sông, đê biển là 366 km.
Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, bức xạ mặt trời lớn, tạo nên nhiệt độ cao. Nhiệt độ trung bình trong năm là 23 - 24oC, nhiệt độ thấp nhất ở 4oC và cao nhất tới 38 - 39oC. Số giờ nắng trong năm từ 1600 - 1800 giờ. Lượng mưa trung bình hàng năm 1500 - 1900 mm, cao nhất là 2528 mm thấp nhất là 1173mm. Có trận mưa trong vòng 1 - 2 ngày từ 300 - 500 mm nên công tác phòng chống bão lụt được các cấp các ngành trong tỉnh hết sức quan tâm chỉ đạo.
2. Địa hình và đất đai
Thái Bình có 105.5 ngàn ha đất nông - lâm nghiệp, thuỷ sản trong đó: diện tích đất nông nghiệp 96.382 ha chiếm 62.67% so với tổng diện tích đất tự nhiên, diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản 6.652 ha và diện tích đất lâm nghiệp 2259 ha.
Thái Bình có điều kiện thuận lợi là đất đai màu mỡ, bằng phẳng dễ canh tác và hàng năm được phù sa Sông Hồng bồi đắp. Song cũng có mặt khó khăn do chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa nên hàng năm Thái Bình vẫn gặp nhiều khó khăn do thiên tai, bão lụt gây ra làm thiệt hại về mùa màng, của cải, công trình kiến trúc và thậm chí cả con người.
Tuy diện tích hẹp và mật độ dân cư đông đúc nhưng đồng ruộng Thái Bình phì nhiêu, xóm làng nối tiếp, giao thông liên lạc thuận tiện, nông dân có truyền thống và kỹ thuật thâm canh lúa nước từ lâu đời và cũng có nhiều làng nghề thủ công nổi tiếng. Từ xa xưa và đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Thái Bình được coi là “kho người, vựa lúa”. Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay, Thái Bình là một tỉnh trọng điểm về sản xuất lương thực của cả nước.
3. Dân số và lao động
Xuất phát từ một tỉnh kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, mật độ dân cư đông đúc, bình quân ruộng đất cho một nhân khẩu nông nghiệp thấp nhất so với nhiều tỉnh vùng đồng bằng Sông Hồng, việc đảm bảo đời sống cho toàn dân trong tỉnh và có tích luỹ là một bài toán khó cho các cấp lãnh đạo. Thời gian qua, với sự nỗ lực cố gắng, đồng lòng, nhìn chung tình hình kinh tế xã hội của tỉnh đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Tình hình lao động việc làm và đời sống của nhân dân: Kết quả điều tra dân số 1/4/2004 cho thấy số người từ 13 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành KTQD chiếm 69% và số ngươì không có việc làm hoặc thiếu việc chiếm 5,93%. Thời gian qua giải quyết việc làm đối với người lao động đã được các cấp các ngành trong tỉnh quan tâm đúng mức với các biện pháp như đầu tư xây dựng thêm các cả sản xuất dịch vụ, chuyển dân đi xây dựng các vùng kinh tế mới ngoài tỉnh, xuất khẩu lao động, cho các hộ vay vốn đầu tư sản xuất, mở rộng ngành nghề...Những chính sách và biện pháp trên đã góp phần giải quyết việc làm và từng bước nâng cao đời sống của nhân dân.
4. Tình hình kinh tế xã hội tỉnh Thái Bình 1991 - 2005.
Cơ cấu kinh tế và tình hình phát triển các ngành các lĩnh vực chủ yếu. Từ năm 1991 - 2005 là thời kỳ tiếp tục phát huy hiệu quả của công cuộc đổi mới được khởi xướng từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. cơ sở vật chất của nền kinh tế của tỉnh được tăng cường và ngày càng hoàn thiện, nền kinh tế đã đạt tốc độ tăng trưởng tương đối cao. Giá trị tổng sản phẩm trong tỉnh năm 2004 gấp hơn 2 lần năm 1998, bình quân hàng năm tăng 7%. Tuy nhiên, trong giai đoạn này thì thời kỳ 1998 - 2002 có kết quả đạt được cao nhất, bình quân hàng năm tăng10,25%, trong đó sc nông nghiệp tăng 5,8%, công nghiệp xây dựng tăng 21%, các ngành dịch vụ tăng 22,8%.m Thời kỳ 2002 - 2006 với nhiệm vụ trọng tâm là thực hiện định hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá nhưng lại có nhiều khó khăn mới xuât hiện như cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính trong khu vực, thị trường tiêu thụ sản phẩm bị thu hẹp, sự mất ổn định ở nông thôn kéo dài... Tình hình trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Tốc độ tăng trưởng kinh tế thời kỳ này chỉ đạt 4,5% hàng năm, trong đó sản xuất nông nghiệp tăng 2,6%, công nghiệp xây dựng tăng 3,3%, và khu vực dịch vụ tăng 9,4%
Như vậy mặc dù có những khó khăn xuất hiện trong những năm gần đây, nhưng nền kinh tế của tỉnh vẫn tăng trưởng liên tục dù mức độ có khác nhau giữa các thời kỳ, giữa các ngành nghề...
- Sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản: Tổng giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ sản năm 2004 đạt 3.893 tỷ đồng (giá so sánh năm 1996) tăng 52,1%so với năm 1996. Giá trị tổng sản phẩm GDP của khu vực này dự kiến đạt 2.677 tỷ đồng so với năm 1996 tăng 51,49%, bình quân mỗi năm tăng 4,2%. Cả hai ngành trồng trọt và chăn nuôi đều có sự tăng trưởng khá (bình quân mỗi năm sản phẩm trồng trọt tăng 3,8%, chăn nuôi tăng 5,25%). Sự chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp sau 10 năm (1996 - 2005) cho thấy tỷ trọng sản phẩm trồng trọt trong GDP của nông nghiệp từ 85,17% năm 1996 giảm xuống còn 83,84% năm 2005 và sản phẩm chăn nuôi từ 12,56% năm 1996tăng lên 14,24% năm 2005. Tuy nhiên từ năm 1996 đén nay tốc độ tăng trưởng của khu vực này đạt thấp hơn thời kỳ 1991 -1995; Tổng sản phẩm ngành nông nghiệp, thuỷ sản năm 2004 so với năm 1999 tăng 14,25%, bình quân mỗi năm tăng 2,7%. Nhìn chung sau 10 năm, đến nay nông nghiệp của tỉnh Thái Bình đã có bước tiến khá dài, trong đó nổi bật nhất là kết quả thực hiện chương trình an ninh lương thực và chăn nuôi các đàn gia súc gia cầm và nuôi trồng đánh bắt thuỷ sản.
- Sản xuất công nghiệp : Đã được tổ chức và sắp xếp lại sản xuất, tăng cường đầu tư mua sắm thiết bị và đổi mới công nghệ ở một số ngành nghề đồng thời tích cực tìm kiếm thị trường tiêu thụ đã tạo cho sản xuất công nghiệp thời kỳ 1991 - 1995 phát triển khá mạnh mẽ. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 1995 đạt 960 tỷ đồng tăng 134% so với năm 1990, bình quân hàng năm tăng 18,75%, giá trị tăng thêm năm 1995 đạt 302 tỷ đồng tăng 94.2% so với năm 1990 bình quân hàng năm tăng 14,2%. Thời kỳ 1996 - 2000, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, thị trường tiêu thụ sản phẩm bị thu hẹp, nhiều cơ sở phải dừng sản xuất hoặc sản xuất cầm chừng, tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp thời kỳ này chậm hơn so vớt các thời kỳ trước. Giá trị sản xuất năm 2004 đạt 1.403 tỷ đồng tăng 46,14% so với năm 1999, bình quân hàng năm tăng 8%. Giá trị tăng thêm năm 2000 đạt 429 tỷ đồng tăng 44,4% bình quân mỗi năm tăng 7,3%. Nhìn chung cả thời kỳ từ 1996 – 2004. Giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm tăng 13%. Giá trị tăng thêm năm 2004 gấp 2,8% lần năm 1996, bình quân hàng năm tăng 9,8%. Như vậy, sản xuất công nghiệp của tinh Thái Bình trong 10 năm qua đã có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, nhất là các năm 1991 - 1995. Những năm tiếp theo có một số khó khăn nảy sinh như việc áp dụng thiết bị công nghệ, khả năng đầu tư vốn và sức cạnh tranh trên thị trường còn hạn chế, tốc độ tăng chậm lại nhưng vẫn giữ được sự tăng trưởng liên tục.
- Tổng mức đầu tư xây dựng cơ bản toàn xã hội 10 năm (1996 - 2004)thực hiện được 6.513 tỷ đồng, trong đó khối lượng vốn đầu tư năm 2000 dự kiến thực hiện trên 961 tỷ đồng gấp 2,1 lần năm 1991 và 1,4 lần năm 1995. Riêng vốn đầu tư thời kỳ 1999 - 2004 đạt 3.589 tỷ đồng tăng 28% so với thời kỳ 1991 -1995. Như vậy, xét trong cả thời kỳ 1996 - 2004, tổng số vốn đầu tư khá lớn và tăng liên tục, bình quân hàng năm tăng 8,6%.
- Các ngành Giao thông vận tải - Bưu điện trong những năm vừa qua cũng được đầu tư khá lớn và phát triển nhanh.
- Công tác xuất nhập khẩu từ năm 1996 đến nay dã có nhiều chuyển biến đáng kể, các mặt hàng và thị trường xuất khẩu đã ổn định hơn. Tổng giá trị hàng xuất khẩu năm 2000 đạt 35 triệu 566 nghìn USD tăng 17 triệu 432 nghìn USD so với năm 1995. Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm (1999 - 2004) đạt 136,2 triệu USD. Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của tỉnh hiện nay là gạo tẻ, lợn sữa, hàng mây tre đan, gang tay da, ...
Tổng giá trị hàng nhập khẩu 5 năm qua dự kiến đạt 141,2 triệu USD, trong đó năm 2000 nhập khẩu khoảng 32,6 triệu USD. Những mặt hàng chủ yếu nhập khẩu là thép , bông, men sản xuất gạch, nguyên liệu may mặc,...
- Hoạt động tài chính ngân hàng đã đảm bảo được cân đối thu chi phục vụ tốt cho các mặt công tác của tỉnh.
- Các hoạt động văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục thể thao đều có bước phát triển. Công tác giáo dục đã được chú trọng đầu tư, tăng cường cơ sở vật chất cho công tác giảng dạy và học tập. Đến nay cả tỉnh Thái Bình đã có 295 trường mẫu giáo và 608 trường phổ thông các cấp, lực lượng giáo viên và học sinh cũng tăng lên khá nhiều, chất lượng giảng dạy được nâng lên đáng kể. Công tác y tế, chăm sóc sức khoẻ và kế hoạch hoá gia đình đã có nhiều tiến bộ. Các cơ sở vật chất của ngành y tế từ xã đến các trung tâm y tế đều được nâng cấp. Cán bộ ngành y tế cũng tăng lên đáng kể. Có 98,9% số trẻ em dưới 4 tuổi được tiêm chủng đủ loại vác xin, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn 33,6%. Các năm qua những bệnh dịch xảy ra đều được dập tắt kịp thời.Công tác khám chữa bệnh có nhiều tiến bộ, việc quản lý bảo hiểm y tế được chặt chẽ đã giảm bớt khó khăn cho người bệnh.
Sự phát triển kinh tế xã hội trong những năm qua mà tỉnh Thái Bình dã đạt được là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố: Bên cạnh sự chỉ đạo, hướng dẫn của UBND tỉnh, ý thức người dân còn có sự đóng góp quan trọng của nguồn vốn ngân sách, các nguồn hỗ trợ chính thức (ODA), xuất nhập khẩu ...
Tuy nhiên ngoài những nét chung, sự phát triển kinh tế xã hội vẫn mang những đặc điểm của một tỉnh mà sản xuất nông nghiệp giữ vai trò chủ yếu (56%), điểm xuất phát của sản xuất công nghiệp và dịch vụ rất thấp. Sản xuất nông nghiệp trong những năm qua phát triển ổn định và đat được mục tiêu phấn đấu của tỉnh, nhưng nhìn chung vẫn chưa có những đột phá quan trọng và mới đạt được mục tiêu số lượng bảo đảm an toàn về lương thực nhưng hiệu quả kinh tế chưa cao. Sản phẩm nông nghiệp tiêu thụ ở dạng thô là chủ yếu. Trồng trọt và chăn nuôi vẫn còn mất cân đối. sản xuất công nghiệp và dịch vụ tuy có tốc độ phát triển cao nhưng chưa ổn định. Giá trị hàng hoá xuất khẩu bình quân đầu người mới đạt 19,7 USD dạt thấp hơn tiềm năng hiện có...
Để giải quyết vấn đề trên, tỉnh Thái Bình cần phải có một chính sách đầu tư thoả đáng, hợp lý. Nguồn vốn dùng để đầu tư ngoài nguồn ngân sách ra còn có thể khai thác từ nguồn hỗ trợ phát triển chính thức ODA của các Chính phủ nước ngoài, tổ chức quốc tế, tổ chức phi Chính phủ (NGO), huy động nguồn vốn từ dân.
II. Thực trạng đầu tư và sử dụng vốn cho cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông nghiệp nông thôn tỉnh Thái Bình những năm vừa qua
1. Tình hình đầu tư nói chung tại tỉnh Thái Bình.
Trong những năm vừa qua, với những chính sách đầu tư được cụ thể hoá, chi tiết hoá và được phân cấp nhỏ quản lý, do vậy mà vai trò về quản lý, huy động vốn của tỉnh Thái Bình nói riêng và 61 tỉnh thành trong cả nước nói chung được nâng cao. Đối với tỉnh Thái Bình, tỉnh đã thực hiện đúng đắn và nghiêm túc các chính sách của Chính phủ về huy động và sử dụng các nguồn vốn đã được huy động. Tỉnh đã cụ thể hoá các chính sách và áp dụng chi tiết sao cho phù hợp với những điều kiện, những hoàn cảnh của tỉnh đặc biệt là những chính sách khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực như nông - lâm - ngư nghiệp, thuỷ sản ... Đó là những chính sách miễn giảm thuế, giá cả, tín dụng, tiêu thụ... nhằm ngày càng thu hút được nhiều nguồn vốn với số lượng vốn hơn nữa đầu tư trong tỉnh. Tỉnh đã giao nhiệm vụ và chỉ đạo sát sao cho Sở Kế hoạch và Đầu tư thực hiện tốt kế hoạch thu hút và sử dụng vốn đầu tư, thực hiện các nhiệm vụ như thẩm định, lập kế hoạch, quản lý dự án... Một vấn đề quan trọng nữa là các thủ tục hành chính liên quan đến đầu tư, xin thành lập doanh nghiệp , đăng ký kinh doanh, đã được Tỉnh chỉ đạo nhanh chóng, nghiêm túc và đúng quy định. Đồng thời, giảm bớt các thủ tục hành chính rườm rà không cần thiết gây nản lòng cho chủ đầu tư. Nhờ vậy, trong những năm qua tỉnh Thái Bình đã thu hút được nhiều nguồn vốn với số lượng đáng kể (vốn ngân sách, vốn tín dụng, vốn đầu tư từ dân, đặc biệt là vốn đầu tư cuả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh...). Cụ thể các nguồn vốn được thể hiện ở bảng sau.
Bảng 2:Thực hiện vốn đầu tư XDCB toàn xã hội địa bàn tỉnh Thái Bình.
(Theo giá hiện hành)
Đơn vị tính: Triệu đồng.
2001
2002
2003
2004
2005
Tổng số vốn
681912
670646
679003
566727
705882
A.Các đơn vị do địa phương quản lý
671412
627519
645500
514218
628021
I. Khu vực trong nước
Chia theo nguồn vốn
1. Vốn ngân sách Nhà nước
98791
53867
52504
56348
96239
Trong đó: Nsách TW trợ cấp
61565
30000
58858
2. Vốn tín dụng ưu đãi
16100
27108
12407
25884
28826
3. Vốn đầu tư của các d.nghiệp ngoài q.doanh
47965
21035
115968
29855
30726
4. Vốn đ.tư XDCB của dân
400000
397000
400000
350000
390000
5. Các nguồn vốn khác
108556
125509
64621
52131
82230
II. Khu vực vốn đầu tư nước ngoài
B. Các đơn vị TW trên lãnh thổ địa phương
10500
46127
33503
52509
77861
Vốn ngân sách Nhà nước
10500
45649
33503
52509
69861
(Ghi chú: Riêng vốn đầu tư XDCB của dân là số liệu suy rộng từ điều tra mẫu. Niên giám thống kê 1999 - 2005 Cục thống kê Thái Bình)
Bảng 3: Cơ cấu vốn đầu tư XDCB toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Thái Bình .
Đơn vị: %
2001
2002
2003
2004
2005
Tổng số vốn
100,00
100,00
100,00
100,00
100,00
A.Các đơn vị do đ.phương quản lý
98.46
93.57
95.06
90.73
88.97
I. Khu vực trong nước
Chia theo nguồn vốn
1. Vốn nsách Nhà nước
14.49
8.00
7.70
9.90
13.63
Trong đó: Nsách TW trợ cấp
9.00
-
-
5.30
8.30
2. Vốn tín dụng ưu đãi
2.26
4.04
1.82
4.57
4.08
3.Vốn đầu tư các D.N ngoài q.doanh
7.03
3.14
17.08
5.27
4.35
4. Vốn đ.tư XDCB của dân
58.66
59.19
58.91
61.76
55.25
5. Các nguồn vốn khác
15.92
18.71
9.52
9.20
11.65
II. Khu vực vốn đầu tư nước ngoài
B.Các đơn vị TW trên địa phương
1.54
6.88
4.93
9.26
11.03
Vốn ngân sách Nhà nước
1.54
6.81
4.93
9.26
9.90
Theo bảng 2 chúng ta thấy tổng số vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Thái Bình giảm mạnh trong năm 2004 (giảm 112.276 triệu đồng so với năm 2003) nhưng được phục hồi vào năm 2005 (tăng 139.155 triệu đồng so với năm 2004). Cũng theo bảng này, vốn đầu tư các đơn vị do điạ phương quản lý bị giảm mạnh trong năm 2004 và được phục hồi vào năm 2005, cụ thể là năm 2004 giảm 131.282 triệu đồng so với năm 2003 và năm 2005 tăng 113.803 triệu đồng so với năm 2004. Vốn đầu tư các đơn vị TW trên lãnh thổ địa phương năm 2003 giảm đáng kể và được tăng dần năm kế tiếp. Các điều này xảy ra là do vốn đầu tư của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm mạnh, đồng thời vốn đầu tư XDCB của dân và các nguồn vốn khác cũng giảm. Cụ thể nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh năm 2003 giảm 86.113 triệu đồng so với năm 2004... Như chúng ta đã biết, nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế ở châu á trong thời gian qua, đã gây nên sự mất ổn định kinh tế trong khu vực và nước ta cũng không tránh khỏi tầm bị ảnh hưởng làm tâm lý chung của người dân Thái Bình không dám tiếp tục bỏ tiền ra đầu tư và chủ yếu tích luỹ tiền. Do vậy, lượng vốn đầu tư bị giảm đáng kể. Hiện nay cuộc khủng hoảng đã qua, nền kinh tế châu á đang được phục hồi, chúng ta cần có những biện pháp hợp lý nhằm thu hút nhiều hơn nữa các nguồn vốn đầu tư vào mọi lĩnh vực nhằm đưa nền kinh tế của tỉnh phát triển góp phần thúc đẩy nền kinh tế đất nước. Tỷ trọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của dân so với tổng vốn đầu tư là rất lớn. Năm 1998 là 61,76% tăng 2,85% so với năm 1997 nhưng lai giảm mạnh 6,51% so với năm 1999. Điều đó chứng tỏ tiềm lực nguồn vốn trong dân rất mạnh mẽ, vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để dân tích cực, mạnh dạn hơn nữa trong việc bỏ vốn ra để đầu tư. Vốn ngân sách Nhà nước cũng là một trong những nguồn cơ bản, quan trọng. Mặc dù giảm đáng kể trong năm 2002 và 2003 nhưng cũng dần lấy lại tỷ trọng so với tổng vốn đầu tư chứng tỏ sự quan tâm của Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Một điều cần thấy rõ là tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài là không có. Do đó, cần có biện pháp để thu hút nguồn vốn này.Bên cạnh đó, để nền kinh tế của tỉnh ngày càng phát triển, một mặt phải tăng tỷ trọng đầu tư từ ngân sách; mặt khác, quan trọng hơn cần phải có những chính sách cụ thể nhằm khai thác,thu hút ngày càng lớn các nguồn vốn thu hút từ dân và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cố gắng tạo nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài. Tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất có thể có để giúp các chủ đầu tư an tâm trong việc bỏ vốn ra đầu tư. Đặc biệt trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp và thuỷ sản. Tỉnh phải chủ trương làm nổi bật những ưu thế của các lĩnh vực này, để các chủ đầu tư thấy được khi đầu tư, đồng vốn của họ được đảm bảo và có lãi. Làm như vậy, chắc chắn nền kinh tế tỉnh sẽ phát triển đồng đều và bền vững.
Như vậy, giai đoạn qua là giai đoạn có bước phát triển mới của kinh tế xã hội tỉnh Thái Bình. Nền kinh tế vẫn tiếp tục tăng trưởng theo nhịp độ chung của cả nước. Tình hình xã hội ở nông thôn đã từng bước được ổn định và chuyển biến nâng cao.
Trên đây là tổng quan về tình hình nguồn vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua, để thấy rõ về tình hình đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn, chúng ta phải nghiên cứu cụ thể cơ cấu nguồn vốn đầu tư và tình hình đầu tư cho lĩnh vực này.
2. Tình hình huy động vốn cho đàu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn
Theo báo cáo tổng cục thống kê năm 2005 xác định lại lượng vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn Thái Bình thì thực trạng như sau: “Tổng lượng vốn đầu tư theo sổ sách kế toán là 517.654 tỷ đồng, theo kiểm kê xác định lại là 527.256 tỷ đồng; với 187.091 tỷ đồng chiếm 35% giá trị vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng tỉnh , gấp 1,43 lần vốn đầu tư cho sản xuất chung .Theo báo cáo trong dự thảo xin vốn đầu tư .Tỉnh Thái Bình thì chiếm dụng 1/2 cho đầu tư đường xá phần còn lại là đầu tư mới và nâng cấp hệ thống điện và thuỷ lợi, hệ số vốn vay và vốn chiếm dụng so với vốn sở hữu là 1/8 lần; tổng số vốn được đầu tư cho Thái Bình năm 2005 là 353.410 tỷ đồng, với 2/3 vốn nhà nước cấp, tăng gấp 2 lần so với năm 2004”.
Trong năm vừa qua để tạo hành lang pháp lí cho các chủ đầu tư khi muốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng tỉnh ( hay nói cách khác đây là giai đoạn mở rộng thu hút vốn đầu tư đẩy mạnh phát triển kinh tế toàn tỉnh). Với kinh nghiệm sau 4 năm tiến hành thí điểm đầu tư cho cơ sở hạ tầng tỉnh trước nhu cầu về vốn của các huyện ,xã trong tỉnh Thái Bình, ngày 7/5/2002 Chính phủ đã chủ trương mở rộng các chính sách đầu tư bằng Nghị định 42/CP với những qui định rõ ràng. Sau hơn 2 năm thực hiện tính đến tháng 6/2004 cả nước đã tiến hành đầu tư vốn cho tỉnh. Việc triển khai thực hiện Nghị định 42/CP vẫn còn khá nhiều vướng mắc bất cập như phương pháp xác định số vốn phải đầu tư, chế độ ưu đãi cho từng tỉnh và mức sống người lao động sau trong tỉnh..., đây chính là những rào cản bước đàu làm chậm tiến trình đầu tư vốn cho cơ sở hạ tầng cho một tỉnh có thế mạnh về nông nghiệp như Thái Bình
3. Cơ cấu vốn đầu tư và tình hình sử dụng của vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ nông nghiệp nông thôn
3.1 Tình hình sử dụng vốn
Các nguồn vốn khác như ODA, vốn đầu tư qua Bộ (ADB) ngày càng tăng: có dự án giống lúa chất lượng cao, dự án chế biến gạo xuất khẩu Đan Mạch, dự án PAM, EU, UNFA, dự án (ADB) thuỷ lợi, cầu Tân Đệ, nâng cấp đường 10 vốn vay Nhật Bản...
Đáng chú ý là nguồn vốn của dân đóng góp xây dựng các cơ sở hạ tầng nông thôn bị giảm sút do tình hình nông thôn mất ổn định, tiền thu từ nguồn bán đất ngày càng quản lý chặt chẽ, kkhông rầm rộ như những năm trước đây.
Theo số liệu phòn._.khác.
Sở Kế hoạch và Đầu tư Thái Bình cần phải cụ thể hoá phương châm phát huy nội lực trong huy động vốn đầu tư cho nông nghiệp nông thôn trên cơ sở đa dạng hoá, khai thác sử dụng có quy hoạch, có hiệu quả mọi tiềm năng, thế mạnh sẵn có: lao động dồi dào, giao thông vận tải... Bên cạnh đó, cần hết sức tôn trọng nguyên tắc “lấy ngắn nuôi dài”: bảo toàn tái tạo và tăng trưởng giá trị vốn bằng tiền dưới dạng vốn tài chính, vốn tín dụng, vốn sử dụng đất, vốn góp lao động, vốn cổ phần...
Thứ hai, tỉnh và Sở Kế hoạch và Đầu tư Thái Bình cần tạo mọi điều kiện thuận lợi thực hiện chính sách đầu tư cho nông nghiệp nông thôn. Để triển khai chính sách đầu tư cho nông nghiệp nông thôn cần kiện toàn chính sách tài chính tiền tệ với khâu then chốt là các ưu đãi cho khu vực nông nghiệp, nông thôn về thuế, lãi suất tín dụngvà phân bố vốn ngân sách.Tỉnh cần thực hiện chính sách bảo hộ xuất khẩu, chính sách tiêu thụ hàng nông sản, chính sách đất đai, chính sách thương mại đúng đắn, hợp lý... là những cấu thành hết sức quan trọng góp phần tháo gỡ ách tắc “đầu vào - đầu ra” trong lưu thông hàng nông sản, thiết lập môi trường căn bản thu hút vốn đầu tư vào nông nghiệp nông thôn của tỉnh.
1.2 Chính sách đầu tư bằng nguồn ngân sách Nhà nước cho nông nghiệp nông thôn tỉnh Thái Bình trong thời gian tới.
Vốn ngân sách Nhà nước đang rất eo hẹp và khả năng trong những năm tới là không lớn. Do vậy, cần có cơ chế và chính sách để tận dụng và khai thác triệt để các nguồn thu trên địa bàn để khả năng phân bổ ngân sách cho đầu tư phát triển. Trước mắt cần thực hiện tốt các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí, thu phạt... giải pháp chủ yếu là tăng cường các biện pháp nghiệp vụ của cơ quan hành thu, tạo cơ chế quản lý phối hợp đồng bộ hoạt động gỡa cơ quan thu với các cơ quan quản lý Nhà nước; giáo dục tính tự giác của nhân dân; tăng cường các biện pháp hành chính. Mục tiêu trước mắt là chống thất thu và tăng thu ngân sách, tạo điều kiện nguồn vốn ngân sách để đầu tư vào các lĩnh vực cần thiết trong đó có nông nghiệp nông thôn.
1.3 Giải pháp tín dụng.
Nguồn vốn đầu tư từ tín dụng có vai trò không nhỏ trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. Do vậy ngày càng tăng cường nguồn vốn này có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển. Để nguồn vốn này phat huy có hiệu quả cần phải thực hiện theo các giải pháp sau:
* Về nhận thức cần làm rõ cho các cấp, các ngành và nông dân trong tỉnh thấy rõ hơn tín dụng là kênh vốn chủ yếu cho nông dân để phát triển kinh tế xã hội .
* Dự báo nhu cầu vốn tín dụng Nhà nước cho hộ nông dân trong tỉnh thời gian tới (2001 - 2005).
* Nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức tín dụng Nhà nước cho nông dân (ngân hàng đầu tư và phát triển nông nghiệp , quỹ quốc gia giải quyết việc làm... ).
* Tăng cường nhu cầu thực sự về vốn của các hộ nông dân (hay nói cách khác là kích cầu vốn tín dụng đối với các hộ nông dân). Để thực hiện được biện pháp này cần:
- Thực hiện hiện quy hoạch chi tiết, hình thành các dự án phát triển kinh tế xã hội cho từng xã, từng huyện, thị trấn trong tỉnh.
- Tập trung thực hiện các giải pháp để giúp nông dân giảm thiểu rủi ro, an toàn trong sản xuất và kinh doanh tiêu thụ để giúp người dân tự tin, mạnh dạn hơn trong đầu tư.
* Đào tạo nông dân hỗ trợ họ trở thành những người chủ thực sự có khả năng vay vốn, tiêu hoá vốn và có ý thức trả nợ.
Về nội dung cần thực hiện những vấn đề sau:
- Hình thành các chương trình bồi dưỡng cho các chủ hộ theo từng nhóm hộ như giàu, nghèo; ngành nghề kinh tế; độ tuổi của chủ hộ...
- Đa dạng hoá hình thức đào tạo, nhấn mạnh giải pháp dạy nghề.
- Tổ chức tuyên truyền, toạ đàm để nâng cao ý thức về quyền lợi và nghĩa vụ trong việc vay vốn của Nhà nước.
* Tăng cường hiệu lực của Nhà nước và tỉnh đối với việc quản lý vốn của Nhà nước cho nông dân vay.
- Có hướng dẫn thống nhất về xử lý tình trạng nợ quá hạn giữa các văn bản pháp luật của Nhà nước và các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội trên từng địa bàn.
- Tăng cường quản lý Nhà nước để giảm thiểu tối đa rủi ro trong kinh doanh (cả sản xuất và tiêu thụ cho hộ nông dân) góp phần giảm rủi ro tín dụng, tạo cầu ổn định về vốn vay của nông dân.
* Cần mở rộng tín dụng nông thôn cả về nguồn vốn, phạm vi và hình thức hoạt động, cho nông dân vay vốn ưu đãi hay vay vốn với lãi suất bằng 0, thủ tục đơn giản, linh hoạt về mức vay, thủ tục vay, biện pháp thế chấp, tín chấp và phương thức cho vay (cho vay tổ chức hay thông qua tổ chức, đại diện). Cho vay tín dụng bằng hiện vật hay bán hàng (vật tư, phân bón, thuốc trừ sâu, giống...) cho nông dân vay theo phương thức trả chậm, trả góp.
* Cần có chính sách vầ giải pháp nâng cao tỷ lệ cho vay trung và dài hạn, phù hợp với chu kỳ đầu tư, thu hồi vốn và chu kỳ sinh trưởng của cây trồng và vật nuôi.
* Có quy chế hoạt động và hỗ trợ tài chính với các hiệp hội ngành nghề trong làng, xã, thôn xóm, khôi phục lại các quỹ hỗ trợ lẫn nhau ở nông thôn và cần đầu tư trực tiếp và hỗ trợ tín dụng thông qua các chương trình kinh tế và dự án như chương trình xoá đói giảm nghèo, nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, thanh toán bệnh xã hội, dân số và kế hoạch hoá gia đình, phòng chống HIV/AIDS, chương trình quốc gia về thể thao. Các chính sách cần triển khai ở đây là phát triển thành phần kinh tế, chính sách đất đai ((giao đất, đồn điền, trang trại), thuế thị trường và giá cả.
Ngoài ra còn tranh thủ các nguồn vốn thuộc chương trình của Nhà nước: vốn hỗ trợ giải quyết việc làm, vốn vay từ quỹ xoá đói giảm nghèo, vốn ODA và các chương trình khác.
1.4 Huy động vốn từ trong dân và các doanh nghiệp .
Cùng với các nguồn vốn khác, vốn đầu tư từ nội lực nông thôn, từ các doanh nghiệp nông thôn có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác đầu tư cho nông nghiệp nông thôn. Trong nhiều năm qua, các làng xã đã xây dựng, tu bổ nhiều công trình hạ tầng (đường xá, cầu cống...), góp phần đáng kể vào việc nâng cao đời sống phục vụ người dân. Theo số liệu thống kê ước tính mở rộng theo điều tra mẫu của Tổng cục thống kê thì nguồn vốn trong dân là khá lớn, chiếm 55.25% tổng số vốn đầu tư XDCB trên toàn địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, việc đầu tư trên mới chỉ là bước đầu, quy mô vừa và nhỏ, nguồn lực trong nông thôn chưa được kkhai thác nhiều và có hiệu quả. Để huy động được và nâng cao hiệu quả đt với nguồn vốn này cần bổ sung, hoàn thiện và thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô (thuế tiêu thụ chế biến, đất đai, tín dụng, giá cả...). Từ đó nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn, các hộ nông dân có vốn, có kinh nghiệm quản lý tự đầu tư hoặc liên kết, liên doanh, tạo các hình thức kinh tế hỗn hợp, có hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp, chế biến nông lâm, thuỷ sản, dịch vụ ở nông thôn, đồng thời cũng khuyến khích tiếp tục đầu tư vào cơ sở hạ tầng nông thôn, cụ thể như sau:
* Cần huy động vốn trong dân để đầu tư xây dựng bảo dưỡng cơ sở hạ tầng nông thôn. Dùng cơ chế hỗ trợ một phần ngân sách để thấy có lợi trong việc bỏ vốn đầu tư xây dựng đường làng, ngõ xóm cho hoàn thiện thêm. Đối với các dự án đầu tư cho thuỷ lợi, kiên cố hoá kênh mương, ngoài phần huy động đóng góp tự nguyện (cả bằng tiền và sức lao động), có thể khuyến khích người dân cho Nhà nước vay để đầu tư trở lại cho hệ thống thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp .
Ngoài ra, cần mở rộng cơ chế huy động đóng góp của dân chúng cho sự phát triển các hoạt động y tế, giáo dục, bảo đảm sức khoẻ, tri thức cơ bản cho người dân.
*Cần khuyến khích dân đầu tư vào sản xuất kinh doanh trên các lĩnh vực: sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là chế biến nông lâm, thuỷ sản và dịch vụ nông thôn.Đồng thời phải có những chính sách ưu tiên cho các doanh nghiệp, hộ nông dân kinh doanh trên các lĩnh vực này, từ đó sẽ khuyến khích họ thực hiện quá trình tái đầu tư, mở rộng sản xuất đổi mới trang thiết bị... Xây dựng quy chế hoạt động và hỗ trợ tài chính đối với các hiệp hội, ngành nghề trong nông thôn. áp dụng chính sách ưu đãi về thuế, giá thuế đất vầ các hình thức hỗ trợ khác để khuyến khích phát triển chế biến nông sản tại chỗ, phát triển các làng, ngành nghề truyền thống, trang trại. Thực hiện giảm thuế, cho phép nộp chậm tiền thuế đất đối với kinh tế hợp tác xã, thúc đẩy phát triển các hình thức hợp tác xã giữa các doanh nghiệp và hộ gia đình, có chính sách ưu đãi các doanh nghiệp và hộ gia đình, các hợp tác xã mới thành lập. Tôn vinh ưu đãi những tập thể , cá nhân có công đầu tư phát triển ngành nghề, phát triển thị trường, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho tỉnh.
*Cần đẩy nhanh lộ trình cổ phần hoá doanh nghiệp .
Để huy động tốt nguồn vốn trong dân và các vốn đầu tư dài hạn, con đường rộng mở nhất là đẩy nhanh lộ trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước. Cổ phần hoá sẽ huy động được nguồn vốn trong mọi tầng lớp dân cư, mọi thành phần kinh tế xã hội và nâng cao hiệu quả sử dụng nó. Bằng việc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp do thành phố quản lý, theo đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu, sẽ huy động được nguồn vốn lớn còn trong dân để đưa vào sản xuất kinh doanh. Vì thế càng đẩy nhanh được lộ trình cổ phần hoá càng sớm huy động được nguồn vốn ổn định và dài hạn doanh nghiệp lại hoàn toàn chủ động trong việc sử dụng.
Với chính sách hiện nay, việc bán cổ phần sẽ được thực hiện rộng rãi trong xã hội. Tuy nhiên, trên tình hình thực tế tại Thái Bình thì việc tiến hành cổ phần hoá còn gặp nhiều khó khăn do người dân chưa hiểu rõ và chưa thực sự tin vào hiệu quả của hình thức đầu tư này. Nhất là tư tưởng của nhiều người dân Thái Bình nói riêng và vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng nói chung là đều không có ý thức kinh doanh, làm chỉ cần để đủ ăn... Do đó việc tiến hành thông báo cổ dộng như thế nào để có khả năng và hấp dẫn người mua, nhằm thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi do để dành, tiết kiệm được trong dân chúng đầu tư trực tiếp vào phát triển sản xuất. Để làm được điều này, cần tiến hành nghiên cứu cải tiến việc phát hành cổ phiếu, tín phiếu, trái phiếu sao cho thuận tiện trong việc mua bán, vay mượn và chuyển nhượng nhằm góp phần phát triển thị trường chứng khoán .
* Xây dựng hệ thống thông tin doanh nghiệp đến tận cơ sở để nắm chắc tình hình hoạt động của doanh nghiệp và cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin về cơ chế, về thị trường một cách nhanh chóng. Đặc biệt nắm được lộ trình hội nhập của nước ta với các tổ chức quốc tế (ASEAN,APEC, ASEM, WTO, hiệp định thương mại Việt - Mỹ...) để chuẩn bị cho mình thế chủ động trong quá trình hội nhập, nhằm đẩy mạnh được sản xuất kinh doanh tránh được thua thiệt trong hội nhập.
Thực hiện được những điều đó, chắc chắn sẽ tạo được niềm tin trong dân và các doanh nghiệp , từ đó sẽ khuyến khích được họ đầu tư ngày càng nhiêu hơn, góp phần tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Tạo điều kiện cho tỉnh Thái Bình phát triển mạnh mẽ, xứng đáng là trọng điểm về sản xuất lương thực của cả nước.
1.5 Huy động nguồn vốn từ nước ngoài.
Đầu tư nước ngoài đã trở thành bộ phận quan trọng của hoạt động đầu tư toàn xã hội. Tuy nhiên do những hạn chế của nông nghiệp, nông thôn nên số lượng các dự án và vốn đầu tư vào khu vực này còn rất ít. Do vậy, tỉnh và Sở Kế hoạch và Đầu tư Thái Bình nên thực hiện mạnh mẽ chủ trương thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp để bổ sung thêm nguồn vốn trong nước. Để làm được điều này cần thực hiện các công việc:
* Về chính sách cần có sự ưu tiên đối với các dự án đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn so với các dự án khác, quan trọng nhất là chính sách thuế, ruộng đất, xuất nhập khẩu, thủ tục duyệt và cấp giấy phép đầu tư...
* Tiến hành nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội (giao thông, điện nước, thuỷ lợi ...) là vấn đề giải phóng mặt bằng, cân đối ngoại tệ, bố trí vốn đối ứng...Đồng thời, tỉnh và Sở Kế hoạch và Đầu tư cần thực hiện các giải pháp tăng cường khả năng tu hút và sử dụng các nguồn vốn vay và tài trợ quốc tế. Những giải pháp đó là :
- Xây dựng một chiến lược và những chương trình thu hút, sử dụng vốn vay và tài trợ quốc tế dài hạn và toàn diện để xây dựng tỉnh theo hướng hiện đại và văn minh, đồng thời tăng cường công tác kế hoạch nguồn vốn ODA.
- Hoàn thiện các quy định về quản lý và sử dụng các nguồn vốn vay và tài trợ quốc tế, đồng thời đổi mới hệ thống quản lý các dự án sử dụng nguồn ODA trên địa bàn tỉnh.
- Nâng cao chất lượng công tác chuẩn bị và lập các dự án sử dụng các nguồn vốn vay và tài trợ quốc tế. Đặc biệt coi trọng và nâng cao chất lượng thẩm định dự án, quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan lập dự án và thẩm định dự án.
- Tăng cường và cải thiện công tác theo dõi và đánh giá các dự án ODA, gắn kết quả và hiệu quả quản lý dự án với cán bộ dự án cụ thể.
- Nâng cao trình độ và năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ quản lý trực tiếp làm công tác quản lý các nguồn vốn vay và tài trợ quốc tế.
- Cải thiện hơn nữa mối quan hệ giữa nhà tài trợ và phía tiếp nhận theo hướng nâng cao tính cộng đồng trách nhiệm, đồng thời coi trọng việc nâng cao tốc độ giải ngân của dự án.
1.6 Tuyên truyền phổ biến kiến thức về đầu tư.
Trong mấy năm trở lại đây với chính sách mở cửa và vận dụng nền kinh tế thị trường, thì vấn đề thuật ngữ “đầu tư” được quan tâm. Cùng vớí việc luật đầu tư ra đời vào năm 1989 và qua nhiều lần sửa đổi, một hệ thống văn bản dưới luật được ban hành. Nhìn chung nhiều người chỉ hình dung qua về đầu tư, điều đó cũng xảy ra ở các doanh nghiệp nhỏ, chính vì vậy để hoạt động đầu tư đúng nghĩa của nó đi theo đúng quy trình, thủ tục cần có công tác tuyên truyền, phổ biến giảng giải, hướng dẫn về luật cũng như các văn bản dưới luật liên quan đến đầu tư.
Ngoài ra, cần hướng dẫn các chủ đầu tư những kiến thức về lập dự án, tính toán hiệu quả các công việc đầu tư, lập trung tâm tư vấn các vấn đề liên quan đến đầu tư.
1.7 ổn định và hoàn thiện môi trường đầu tư.
Đây là một nhân tố quan trọng trong việc tạo lập lòng tin cho chủ đầu tư. Khi đã có lòng tin, chủ đầu tư có thể yên tâm đầu tư vào các lĩnh vựcphù hợp nhất, đem lại lợi ích kinh tế cao nhất. Để ổn định và hoàn thiện môi trường đầu tư, điều đầu tiên là ổn định chính trị, đảm bảo an ninh kinh tế, tránh xảy ra chiến tranh, điều này góp phần tích cực vào việc đảm bảo an toàn cho đồng vốn khi chủ đầu tư bỏ ra. Tiếp đến là giảm thiểu các thủ tục hành chính sao cho phù hợp, tránh những phiền hà trong công việc xin giấy phép đầu tư cũng như những thủ tục khác để chủ đầu tư không nản lòng khi chuẩn bị đầu tư.
Điều cuối cùng, như đã nói ở các phần trên là cần có những cơ chế và chính sách ưu đãi khuyến khích đầu tư thích hợp như: ưu đãi về thuế, lãi suất vay vốn, thời hạn vay vốn, trợ giá, xây dựng cơ sở hạ tầng ...
Khi ổn định và hoàn thiện môi trường đầu tư, chúng ta sẽ thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư vào nông nghiệp nông thôn với số lượng vốn lớn. Điều đó sẽ góp phần lớn trong việc phát triển nông nghiệp nông thôn tỉnh Thái Bình,đồng thời thúc đẩy nền kinh tế của tỉnh ngày càng phát triển nhanh và bền vững.
1.8. Đào tạo đội ngũ cán bộ có kiến thức tốt về đầu tư.
Đầu tư là một lĩnh vực vô cùng rộng lớn, nó bao gồm nhiều kiến thức về những lĩnh vực như lập dự án, thị trường vốn, đấu thầu, thẩm định dự án, luật đầu tư và các kiến thức về đầu tư nước ngoài. Mà những lĩnh vực này lại được vận dụng thường xuyên trong công việc của Sở Kế hoạch và Đầu tư. Nó phù hợp với chức năng và nhiệm vụ được giao của Sở Kế hoạch và Đầu tư. Do vậy, để thực hiện tốt các công việc được giao và có những quyết định đúng đắn, chính xác về đầu tư đối với mục tiêu đề ra của Nhà nước và tỉnh thì Sở Kế hoạch và Đầu tư phải có kế hoạch rõ ràng, tiêu chuẩn cần thiết khi lựa chọn, tiếp nhận cán bộ vào làm việc tại Sở, đồng thời phải thường xuyên cử cán bộ đi học hoặc mở các lớp đào tạo, tập huấn kiến thức đầu tư cho cán bộ công nhân viên. Tạo điều kiện cho cán bộ công nhân viên tiếp cận kịp thời với những thay đổi thường xuyên của nền kinh tế. Vì sự thay đổi này tác động trực tiếp đến quá trình đầu tư, nó quyết định trẹc tiếp đến số lượng nguồn vốn, vốn, hiệu quả đầu tư vào nông nghiệp nông thôn nói riêng và tỉnh Thái Bình nói chung.
Khi có những kiến thức cần thiết này, cán bộ công nhân viên của Sở có thể hướng dẫn cụ thể cho chủ đầu tư, cho các cơ sở sản xuất kinh doanh về các lĩnh vực cần đầu tư, quá trình lập dự án và một số kiến thức khác tạo điều kiện cho quá trình đầu tư được diễn ra nhanh chóng và đem lại hiệu quả kinh tế cao.
1.9. Cung cấp rộng rãi và đầy đủ thông tin định hướng để người đầu tư lựa chọn.
Chúng ta đều biết rằng trong những năm qua mọi người dân đều có thể tự do quyết định đầu tư, song trên thực tế nhiều người có tiền, muốn đầu tư phát triển sản xuất nhưng không biết đầu tư vào đâu hoặc chỉ đầu tư mang tính chất tức thời. Nguyên nhân cơ bản đầu tiên phải tính đến là sự thiếu vắng thông tin về thị trường và định hướng của Nhà nước. Các doanh nghiệp , công ty, tập đoàn lớn có thể tự mình nghiên cứu, dự đoán thị trường trong nước và quốc tế để quyết định lựa chọn hướng đầu tư phát triển. Trái lai các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp gia đình không đủ trình độ, khả năng và điều kiện để nghiên cứu dự báo thị trường, nghiên cứu cơ hội đầu tư để chọn lựa. Chính vì vậy, vai trò của Nhà nước là phải chỉ ra cho khu vực này hướng đầu tư kinh doanh, nhu cầu hiện tại và xu hướng phát triển trong tương lai, đồng thời có cơ chế hỗ trợ đầu tư về vốn ban đầu, về khoa học kỹ thuật, thiết bị và công nghệ, nhất là phải có cơ chế bảo hộ với sản phẩm nước ngoài hoặc với các doanh nghiệp trong nước trên địa bàn có khả năng cạnh tranh.
2. Các giải pháp nhằm sử dụng hiệu quả vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng.
Để các nguồn vốn phát huy tác dụng tối đa phục vụ mục đích của các chủ đầu tư , cần có các biện pháp sau:
2. 1. Chỉ đạo quản lý và giám sát thực hiện.
* Tỉnh và Sở Kế hoạch và Đầu tư cần nghiên cứu đổi mới về tổ chức và đảm bảo quản lý thống nhất, nghiêm minh các nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội trong nông nghiệp nông thôn nhằm tránh việc các tổ chức quản lý chồng chéo gây lộn xộn, dễ phát sinh tiêu cực.
Đặc biệt là trong quản lý vốn ngân sách Nhà nước. Đặc điểm của nguồn vốn này là cấp phát theo kế hoạch, không phải trả lãi suất, không phải hoàn lại vốn. Các dự án đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn chủ yếu là các dự án có thời gian thu hồi vốn lâu hoặc là không thu hồi được vốn (như đắp đê chống lũ, xây đê...) tỷ suất lợi nhuận mà chủ đầu tư có thể xác định và thu hồi được là rất thấp. Nhưng các dự án này rất quan trọng đối với sinh hoạt và sản xuất của các hộ nông dân, chính vì vậy mà Nhà nước là người đầu tư chính trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, trong điều kiện ngân sách tỉnh còn eo hẹp, để tránh tình trạng thất thoát lãng phí vốn đầu tư cần phải tính toán lợi ích kinh tế xã hội của dự án một cách kỹ lưỡng, phải xác định được dự án nào nên ưu tiên đầu tư, tránh tình trạng đầu tư dàn trải thiếu dứt điểm, thời gian hoàn thành lâu gây lãng phí nguồn vốn, kém hiệu quả.
Để công bằng và có hiệu quả, các dự án sử dụng vốn ngân sách có số vốn đầu tư từ triệu trở lên phải tiến hành đấu thầu theo quy định của Chính phủ. Việc đấu thầu phải tuân thủ nghiêm chỉnh theo quy chế đấu tháàu. Trong quá trình thi công phải cử các cán bộ có kinh nghiệm, có trình độ và phẩm chất đạo đức tốt, giám sát thi công và nghiệm thu bảo đảm chất lượng, tiến độ thi công của công trình đúng như trong hợp đồng.
* Trong chỉ đạo cần tránh tư tưởng nóng vội, phải chuẩn bị thực hiện đầu tư một cách kỹ lưỡng để có nhiều phương án mà lựa chọn giải pháp tối ưu, khi làm cần thiết phải có bước đi rõ ràng, có những vấn đề cần được làm thử. Đồng thời, trong chỉ đạo phải tạo được sự nhất trí cao trong lãnh đảotên cơ sở nghị quyết của Thị uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân. Mọi vấn đề đưa ra phải được sự chuẩn bị chu đáo và phải được thảo luận kỹ.
* Trong quá trình giám sát, Tỉnh cần cử các cán bộ có kinh nghiệm, phẩm chất đạo đức tốt để thường xuyên kiểm tra giám sát việc thực hiện các chỉ tiêu theo kế hoạch, qua đó phát hiện và bổ sung kịp thời những sai sót lệch lạc trong quá trình thực hiện.
2.2. Đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn
Trong điều kiện hiện nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học, cũng như nhu cầu sử dụng con người ngày càng cao. Do vậy, đầu tư trong nông nghiệp nông thôn cần phải đổi mới cơ cấu đầu tư theo hướng giảm đầu tư bề rộng (khai hoang, tăng vụ, phát triển đàn con gia súc, trồng rừng - quảng canh...) tăng đầu tư chiều sâu (thâm canh, khoa học kỹ thuật, chất lượng nông sản... ) và công nghiệp chế biến, bảo quản lương thực thực phẩm, giảm đầu tư cho quốc doanh kém hiệu quả, tăng đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. Ưu tiên vùng sản xuất hàng hoá xuất khẩu, kinh tế hộ, phát triển nghành nghề, dịch vụ và thị trường nông thôn. Sở nông nghiệp và nông thôn cần hoàn thành sớm việc lập các dự án phát triển ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá :
- Tiến hành đầu tư xây dựng vùng chuyên canh lúa gạo xuất khẩu: xây dựng các cơ sở xay xát chế biến gạo với chất lượng cao kết hợp với việc đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất, đổi mới cơ cấu giống lúa nhằm phục vụ theo yêu cầu thị trường xuất khẩu.
Đầu tư xây dựng các vùng trồng hoa và cây cảnh đem lại giá trị kinh tế cao. Một số làng xã, hộ gia đình đã thực hiện tốt mô hình này.
Tăng cường xây dựng các nhà máy chế biến nông sản phẩm, dần từng bước đưa công suất chế biến thịt đông lạnh xuất khẩu đạt 5000 tấn/năm; chế biến hải sản xuất khẩu trong 5 năm đưa sản lượng đạt 5000 - 6000tấn/năm
- Phát triển chăn nuôi, nhất là chăn nuôi lợn theo hướng tăng cường “nạc hoá”, cùng với nó là tiến hành xây dựng đầu tư cho xí nghiệp đông lạnh thay đổi công nghệ nhằm phục vụ xuất khẩu lợn sữa, đem lại giá trị xuất khẩu cao.
- Thực hiện mạnh mẽ chương trình nuôi trồng thuỷ hải sản, gắn liền với xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng và giải quyết các vấn đề xã hội ở nông thôn vùng biển.
Ưu tiên phát triển mạnh mẽ kinh tế biển: Nuôi trồng, khai thác, đánh bắt, chế biến... Tập trung nuôi trồng hải sản ven biển phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng mô hình thâm canh, khai thác hết diện tích bãi bồi ven biển, chuyển một phần diện tích nhiễm mặn, đất làm muối hiệu quả thấp sang làm đầm nuôi trồng thuỷ hải sản có giá trị kinh tế cao, tạo đà từng bước xuất khẩu thuỷ, hải sản đông lạnh... Đặc biệt là dự án phát triển đầm nuôi tôm ở vùng cửa sông ven biển theo hướng bán thâm canh và thâm canh, hạn chế nuôi quảng canh.
Trong đầu tư cho thuỷ lợi, cần chuyển trọng tâm sang khai thác, nâng cấp các công trình đã có, hoàn chỉnh hệ thống kênh mương để tăng nhanh hiệu quả tưới tiêu.
Đổi mới phương pháp đầu tư theo hướng tập trung cho các công trình trọng điểm, vùng trọng điểm sản xuất nông sản hàng hoá có chất lượng cao, tỷ trọng hàng hoá lớn, tránh dàn đều. Tăng nguồn vốn cho vay dài hạn đến hộ nông dân, giảm lãi suất cho vay đối với những cây con, để đầu tư phát triển những vùng nghèo, vùng có nhiều khó khăn để thực hiện chủ trương “xoá đói, giảm nghèo”.
2.3. Ưu tiên đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông thôn có trọng điểm
Cơ sở hạ tầng là điều kiện vật chất quan trọng có tính quyết định đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn cũng như sự chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp. Do vậy, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn là vô cùng quan trọng, nó có tác dụng kép: không chỉ là động lực để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn mà còn kéo theo sự gia tăng manh và đầu tư nông nghiệp,nông thôn. Khi đầu tư vào cơ sở hạ tầng, phải xác định cả lợi ích trước mắt cũng như lợi ích lâu dài. Khi các công trình (trạm giống, cơ sở chế biến, giao thông, thuỷ lợi, điện, nước...) phát huy tác dụng nó sẽ góp phần to lớn trong việc sử dụng vốn đầu tư. Nó có tính chất quyết định đối với việc sử dụng hiệu quả vốn đầu tư khi đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất trong nông nghiệp. Nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi để đồng vốn được sinh lời nhanh và chắc chắn. Từ đó sẽ nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần cho người dân, góp phần quan trọng vào sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Nhận thức rõ được điều này, tỉnh và Sở Kế hoạch và Đầu tư đã triển khai đầu tư cho một số công trình trọng điểm để tạo điều kiện cho phát triển nông nghiệp nói riêng và các ngành kinh tế nói chung:
Sớm hoàn thành xây dựng cầu Tân Đệ, cầu Vô hối, ttập trung nâng cấp đường 10, quốc lộ 39A, 39B,223 và đường đi Đồng châu.
Cải tạo và nâng cấp mạng lưới đường dây, trạm biến áp, từng bước hoàn chỉnh đảm bảo cấp đủ điện cho phát triển kinh tế đời sống xã hội; xây dựng hệ thống chiếu điện chiếu sáng ở một số thị trấn.
Tiếp tục thực hiện chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, phấn đấu trên 58% dân số nông thôn được dùng nước sạch.Thực hiện dự án cung cấp nước sạch và xử lý nước thải ở Thị xã và một số thị trấn...Tập trung hoàn thành một số công trình thuỷ lợi như:Hệ thống trạm bơm thống nhất, cống Lân 1, cống Đồng cống, nạo vét sông Kiên Giang...
Ngoài ra, trong 5 năm, tỉnh sẽ có kế hoạch đầu tư vào các lĩnh vực sau:
Trạm trại quốc doanh nhà nước
Công trình thuỷ lợi
Nuôi trồng thuỷ sản
Bến cá Diêm Điền và cửa Lân
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng
Xây dựng cơ sở hạ tầng vùng kinh tế mới
Nước sạch nông thôn.
Với tổng số vốn là 779.800 triệu đồng.
2.4. Mở rộng thị trường tiêu thụ.
Để sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư, một trong những giải pháp khá quan trọng là mở rộng thị trường tiêu thụ. Nhân tố này góp phần quan trọng vào việc lưu thông hàng hoá, tăng nhanh vòng quay của vốn, giúp cho đồng vốn đem lại hiệu quả cao, lợi nhuận lớn. Trong những năm tới cần có kế hoạch để mở rộng thị trường tiêu thụ như sau:
- Để phát triển thị trường tiêu thụ nông sản, ngoài biện pháp tự nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm để chiếm lĩnh thị trường tại chỗ, ngoài ra cần chú ý khai thác thị trường vùng lân cận, từng bước tìm kiếm thị trường nước nhoài thông qua xuất khẩu tại chỗ, xuất khẩu qua biên giới.
- Để tạo thị trường ổn định thúc đẩy sản xuất, trước mắt cần nâng cấp đổi mới công nghệ cho xí nghiệp đông lạnh Thái Bình để giữ thị trường và có giá trị xuất khẩu thịt lợn cao.
- Có kế hoạch đào tạo cho người sản xuất về thị trường, tiếp thị, quảng cáo và các nội dung liên quan khác.
2.5 Biện pháp sử dụng hiệu quả vốn đầu tư từ tín dụng.
Vốn do ngân hàng đầu tư bằng con đường tín dụng - một nguồn vốn không nhỏ, không thể thiếu và cũng không kém phần quan trọng trong các nguồn vốn cho kinh tế phát triển. Vấn đề là làm sao đầu tư vốn phục vụ kinh tế nông nghiệp và nông thôn phát triển toàn diện theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà vẫn đảm bảo kinh doanh của ngành có hiệu quả. Muốn vậy phải thực hiện theo các bước sau:
- Phải xác định những loại hình của kinh tế nông nghiệp và nông thôn mà ngân hàng có thể đầu tư bằng con đường tín dụng. Phải khẳng định răng kinh tế nông nghiệp và nông thôn phát triển đa dạng phong phú và theo nhiều chiều hướng khác n1hau.
- Xác định đối tượng, phạm vi đầu tư vốn bằng con đường tín dụng. Đây là vấn đề cốt lõi để đảm bảo đồng vốn được sử dụng đúng mục đích, phát huy được hiệu quả kinh tế. Đó là những chi phí cho ngành trồng trọt, chăn nuôi như cây, con giống, chi phí phân bón, thức ăn, thuốc phòng trừ dịch bệnh, chi phí cho cải tạo đồng ruộng, xây dựng công trình thuỷ lợi, xây dựng chuồng trại, mua sắm, sửa chữa phương tiện máy móc, phương tiện vận tải... Đó là nguyên vật liệu, chi phí nhân công cho gia công chế biến nông lâm sản, sản xuất vật liệu, cơ khí. Đó là hàng hoá dịch vụ sản xuất và dịch vụ tiêu dùng của nhân dân.
- Với những đối tượng này có thể đầu tư qua một tổ chức kinh tế như quốc doanh, hợp tác xã hoặc đầu tư qua hộ nông dân sản xuất, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn... Thông qua hai kênh là ngân hàng thương mại và ngân hàng phục vụ người nghèo với thời gian ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn tuỳ theo đối tượng cụ thể.
Kết luận
Nông nghiệp nông thôn là một lĩnh vực có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế của tỉnh Thái Bình - một tỉnh ven biển đồng bằng châu thổ sông Hồng. Vì vậy, phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn là rất cần thiết, là chiến lược đúng đắn, hợp lý trong quá trình phát triển kinh tế. Để phát triển nông nghiệp, Thái Bình cần phải có sự đầu tư thoả đáng cho cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn. Trong thời gian qua, ngành nông nghiệp nông thôn Thái Bình cũng đã nhận được quan tâm đáng kể và đạt được một số kết quả, thành tựu nhất định đặc biệt là việc đầu tư cho cơ sở hạ tầng nông thôn. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là làm sao đẩy nhanh quá trình đầu tư và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đó để nó phát huy tác dụng cho nền kinh tế. Do đó, việc giải quyết các vấn đề này cũng như các giải pháp đã nêu là vô cùng quan trọng. Nếu thực hiện được như vậy, nguồn vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn sẽ được giải quyết và được sử dụng có hiệu quả cao, tạo điều kiện thuận lợi cho nông nghiệp nông thôn tỉnh Thái Bình ngày càng phát triển, đồng thời góp phần to lớn vào sự phát triển và ổn định nền kinh tế tỉnh, làm cho nền kinh tế tế tỉnh vững chắc, đời sống nhân dân được nâng cao.
Tài liệu tham khảo
Báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Quốc hội khoá X ngày 18 tháng 03 năm 2006.
báo cáo tổng kết đại hội đảng bộ lần thứ X tỉnh Thái Bình 2006
Niên giám Thống kê 1998- 2000.
Nguyễn Điền: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở các nước Châu á và Việt Nam, nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 1997.
PGS.TS Trần Văn Chử - Kinh tế học phát triển - Nhà xuất bản chính trị quốc gia 1999.
Báo đầu tư: năm 1998, 1999, 2000.
Nguyễn Ngọc Mai: Giáo trình Kinh tế Đầu tư - Nhà xuất bản giáo dục.1998
Niên giám thống kê 1990 - 1999 . Cục thống kê Thái Bình
Nghị quyết của bộ chính trị về một số vấn đề phát triển nông nghiệp nông thôn - Nhà xuất bản chính trị quốc gia. 1998
Đầu tư trong nông nghiệp thực trạng và triển vọng (Nguyễn Sinh Cúc - Nguyễn Văn Tiêm: Học viện chính trị quốc gia).
11. Báo cáo kế hoạch thực hiện đầu tư (1996 - 2000) và phương hướng đầu tư (2001 - 2005)-Phòng Đầu tư và XDCB Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình.
12. Tạp chí tài chính số 8/2003
13. Giáo trình kinh tế phát triển nông thôn-PSG TS Vũ Đình Thắng, GVC Hoàng Văn Định
14. Giáo trình Kinh tế phát triển.
Và một số tài liệu khác
mục lục
Lời nói đầu 1
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5243.doc