MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, ở hầu hết các nước trên thế giới đều xảy ra tình trạng phân phối thu nhập bất bình đẳng, từ những nước đang phát triển và có tiềm năng phát triển như Malaysia, Trung Quốc, Nepan…Hay những nước phát triển nhất thế giới như Anh, Đức…thì tình trạng này là không thể tránh khỏi và ngày càng có xu hướng gia tăng. Ngay cả đối với Mỹ, đất nước được coi là phát triển nhất thế giới thì đối với nước này tình trạng bất bình đẳng thu nhập, phân hoá giàu nghèo cũng đang diễn ra
56 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 5307 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp trong tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một cách rất gay gắt. Nhưng cũng vẫn tồn tại một số nước vừa có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, lại vừa giảm thiểu được tình trạng bất bình đẳng thu nhập như Nhật Bản, Thuỵ Điển,…Vậy đối với Việt Nam thì sao, vấn đề tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam đang diễn ra theo chiều hướng nào?
Đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, trình độ dân trí thuộc loại thấp, tỷ lệ mù chữ chiếm đến trên 90%, nạn đói tràn lan. Thế nhưng bằng những chính sách đúng đắn Việt Nam đã khắc phục được những khó khăn đó và tiến lên. Trong những năm qua Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành tựu về tăng trưởng kinh tế. Nền kinh tế liên tục tăng trưởng cao, thu nhập người dân được cải thiện. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế với những chuyển biến tích cực từ nông nghiệp sang công nghiệp - dịch vụ, xuất nhập khẩu tăng, kim ngạch xuất nhập khẩu dần được cải thiện, mở rộng quan hệ ngoại thương với nước ngoài… Những thành tựu về tăng trưởng này đã góp phần tạo điều kiện giúp phân phối thu nhập được công bằng hơn, công cuộc xoá đói giảm nghèo được thực hiện tốt hơn. Tuy nhiên tăng trưởng kinh tế cao cũng đem lại những kết quả xấu cho vấn đề bất bình đẳng thu nhập, phân hoá giàu nghèo tăng lên, khoảng cách thu nhập doãng ra. Tại sao ở Việt Nam lại xảy ra tình trạng như vậy?
Để trả lời cho câu hỏi ở trên đề tài sẽ đi nghiên cứu những lý thuyết cơ bản về tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập, thực trạng tăng trưởng và phân phối thu nhập ở Việt Nam, những thành tựu, những mặt hạn chế, yếu kém, đi tìm hiểu nguyên nhân của nó. Gắn lý thuyết với những vấn đề thực tiễn ở Việt Nam, từ đó tìm ra giải pháp đúng đắn nhất cho vấn đề tăng trưởng và bất bình đẳng thu nhập nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế xoá đói giảm nghèo, nâng cao mức sống của người dân, giảm chênh lệch giàu nghèo đưa đất nước tiến lên, phát triển bền vững.
CHƯƠNG 1: Lý thuyết chung về tăng trưởng và bất bình đẳng thu nhập
1.1. Tăng trưởng kinh tế
1.1.1. Khái niệm về tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về quy mô sản lượng quốc gia hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người qua một thời gian nhất định.
Có thể nói bản chất của tăng trưởng kinh tế là sự đảm bảo sự gia tăng cả quy mô sản lượng và sản lượng bình quân đầu người.
1.1.2. Đo lường tăng trưởng kinh tế
Đo lường tốc độ tăng trưởng kinh tế ta sử dụng công thức sau:
Yt - Yt-1
Gt =
Yt-1
Trong đó: Gt là tốc độ tăng trưởng năm t
Yt là GDP (giá trị sản lượng) thực tế năm t tính theo giá năm cơ sở
Yt-1 là GDP (giá trị sản lượng) thực tế năm t-1 tính theo giá năm cơ sở
Ta cũng có thể đo lường tốc độ tăng trưởng kinh tế thông qua thu nhập bình quân đầu người
1.2. Phân phối thu nhập và cách đo lường phân phối thu nhâp
1.2.1. Khái niệm phân phối thu nhập và bất bình đẳng thu nhập
Phân phối thu nhập bình đẳng không có nghĩa là dù ai làm việc hay không, công việc khác nhau như thế nào thì thu nhập của họ đều như nhau, nếu như vậy sẽ khiến cho con người mất đi động lực học tập, lao động, nền kinh tế trở nên đình trệ. Ta nên hiểu phân phối thu nhập bình đẳng nghĩa là người lao động được đánh giá đúng mức với công sức mà họ đã phải bỏ ra, phân phối thu nhập bình đẳng xuất phát từ sự đánh giá đúng đắn về mức độ đóng góp của lao động cho xã hội, nhằm nâng cao mức sống của người dân, loại bỏ tình trạng không làm mà vẫn được hưởng lợi, lao động vất vả mà cuộc sống vẫn khó khăn thiếu thốn.
1.2.2. Nguyên nhân gây nên tình trạng bất bình đẳng thu nhập
Từ các nghiên cứu cho thấy có hai nguyên nhân chính gây nên sự khác biệt về thu nhập, đó là bất bình đẳng thu nhập do lao động và bất bình đẳng thu nhập từ tài sản. Ta sẽ đi sâu tìm hiểu về từng nguyên nhân.
Thứ nhất là bất bình đẳng thu nhập do lao động. Lao động khác nhau đem lại thu nhập khác nhau do những lý do chủ yếu sau đây:
Sự khác biệt mang tính đền bù là khoản chênh lệch về tiền lương phát sinh nhằm bù đắp cho các đặc điểm phi tiền tệ của các công việc khác nhau.
Vốn nhân lực là sự tích luỹ đầu tư trong mỗi con người, ví dụ như học vấn và kinh nghiệm làm việc. Các lao động với nhiều vốn nhân lực sẽ kiếm được nhiều tiền hơn những lao động với ít vốn nhân lực Thực tế có sự khác biệt mang tính đền bù giữa những lao động có trình độ học vấn và những lao động không có trình độ học vấn nhằm bù đắp cho chi phí của việc đi học.
Năng lực, nỗ lực và cơ hội có thể giúp lý giải cho sự khác biệt về thu nhập. Một số người này thông minh hơn và khỏe mạnh hơn những người khác và họ được trả lương theo năng lực tự nhiên của họ. Một số lao động làm việc vất vả hơn những người khác và họ được đền bù cho những cố gắng của họ. Cơ hội cũng đóng một vai trò nhất định, trong đó trình độ học vấn và kinh nghiệm của một cá nhân nào đó có thể trở nên vô nghĩa nếu sự thay đổi công nghệ làm cho công việc của cá nhân đó không cần nữa.
Quan điểm vốn nhân lực về trình độ học vấn cho rằng, những lao động với trình độ học vấn cao hơn được trả lương cao hơn bởi vì học vấn làm cho họ có năng suất cao hơn. Theo quan điểm vốn nhân lực về trình độ học vấn, một chính sách nhằm làm tăng trình độ học vấn của người lao động sẽ làm tăng tiền lương của họ. Theo quan điểm phát tín hiệu về học vấn, trình độ học vấn cao hơn không có ảnh hưởng gì đến năng suất hay tiền lương. Có bằng chứng cho thấy rằng học vấn không làm tăng năng suất và tiền lương, do vậy trình độ học vấn có thể chỉ là một tín hiệu phản ánh năng lực của người lao động. Những lợi ích đem lại từ việc đi học có lẽ là một sự kết hợp giữa các hiệu ứng phát tín hiệu và hiệu ứng tư bản con người.
Thứ hai là bất bình đẳng thu nhập từ tài sản. Nó xuất phát từ nguồn lực tự có của mỗi người, từ những tài sản mà họ đang nắm giữ, những tài sản này có được có thể là từ tiết kiệm tích lũy nên, có thể là do đầu tư, kinh doanh mà sinh lời hoặc đơn giản hơn là có được từ thừa kế tài sản. Tất cả những điều này tạo nên sự bất bình đẳng thu nhập gia tăng.
Ngoài ra, thu nhập có thể khác nhau do sự phân biệt đối xử. Sự phân biệt đối xử là việc tạo ra các cơ hội khác nhau cho các cá nhân tương tự nhau chỉ khác nhau về chủng tộc, sắc tộc, giới tính, tuổi tác hoặc các đặc điểm cá nhân khác.
1.2.3. Thước đo về bất bình đẳng thu nhập
Trên thế giới có nhiều phương pháp đo lường mức độ bất bình đẳng thu nhập, sau đây ta sẽ đi tìm hiểu về một số phương pháp đo lường
Thứ nhất là đường cong Loren và hệ số Gini
Đường cong Loren biểu thị mối quan hệ giữa các nhóm dân số và tỷ lệ thu nhập tương ứng của họ. Trục hoành biểu thị phần trăm cộng dồn của dân số và được sắp xếp theo thứ tự thu nhập tăng dần. Trục tung là tỷ lệ trong tổng thu nhập mà mỗi phần trăm trong số dân nhận được.
% thu nhập cộng dồn
100%
Đường cong Loren
A
B
100(%) Dân số cộng dồn (%)
Đường kẻ chéo (đường 450) trong hình cho thấy ở bất kỳ điểm nào trên đương này đều phản ánh tỷ lệ %
Hệ số Gini đo mức độ bất bình đẳng trong phân phối. Hệ số này được xác định như một tỷ số với giá trị nằm trong khoảng từ 0 tới 1, trong đó tử số là diện tích nằm giữa đường cong phân phối Lorenz và đường bình đẳng tuyệt đối (A), mẫu số là tổng diện tích nằm dưới đường bình đẳng tuyệt đối (A+B).
Thứ hai là phương pháp chỉ số Theil
Là số thống kê đo lường sự bất bình đẳng về kinh tế do nhà thống kê toán Henri Theil xây dựng. Công thức tính như sau:
Trong đó xi là thu nhập của người thứ i, x là thu nhập trung bình, N là số người. Số hạng đầu bên trong dấu ngoặc là tỷ trọng của thu nhập cá nhân đó so với thu nhập trung bình. Nếu tất cả mọi người đều có thu nhập như nhau (bằng thu nhập trung bình) thì khi đó chỉ số này sẽ bằng 0. Nếu một người có tất cả thu nhập thì khi đó chỉ số này bằng lnN
Một ưu điểm của chỉ số Theil là có thể phân rã được, theo nghĩa đó là tổng bình quân gia quyền của sự bất bình đẳng trong các nhóm.
Thứ ba, tỷ số giữa thu nhập tiêu dùng của 20% dân số giàu nhất và 20% dân số nghèo nhất của một nước
Tỷ số giữa thu nhập tiêu dùng của 20% dân số giàu nhất và 20% dân số nghèo nhất của một nước là tỷ số trong đó tử số là thu nhập/tiêu dùng trên đầu người của nhóm 20% người giàu nhất và mẫu số là thu nhập/tiêu dùng đầu người của nhóm người nghèo nhất. Cũng có thể thay số 20% bằng một con số phần trăm khác. Đây là một đại lượng được sử dụng rất phổ biến ở cả các nước phát triển và đang phát triển.
Hạn chế chính của thước đo xác định sự bất bình đẳng này là bỏ qua thu nhập/tiêu dùng của 60% dân số có mức thu nhập/tiêu dùng trung bình và nó cũng không tính đến sự phân bố thu nhập/tiêu dùng trong các nhóm người nghèo nhất và giàu nhất.
Thứ tư, tỷ trọng thu nhập/tiêu dùng của x% người nghèo nhất
Một điểm bất lợi của cả hệ số Gini và chỉ số Theil là chúng thay đổi khi phân phối thu nhập thay đổi, bất kể sự thay đổi đó xảy ra ở nhóm có thu nhập nào, nhóm có thu nhập cao nhất, trung bình hay thấp nhất (chúng thay đổi khi có bất kỳ sự chuyển giao thu nhập nào giữa hai cá nhân). Vì vậy chỉ tiêu đo lường tỷ trọng thu nhập của x% người nghèo nhất là một thước đo tốt hơn, nó sẽ không thay đổi cho dù các chính sách thay đổi
1.3. Lý thuyết về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng trong phân phối thu nhập
1.3.1. Lý thuyết học thuyết kinh tế cổ điển
Học thuyết kinh tế cổ điển với hai đại diện tiêu biểu là A.Smith và D.Ricardo đã đưa ra những lý luận ban đầu về phân phối thu nhập.
Cả A.Smith và D.Ricardor đều phân chia thu nhập thành ba loại đó là tiền lương, tiền công cho công nhân; lợi nhuận cho nhà tư bản và địa tô cho địa chủ
Tuy nhiên có sự khác biệt, A.Smith nhận ra rằng người công nhân chỉ là lao động làm thuê, tiền lương mà họ nhận được không phải toàn bộ giá trị sản phẩm lao động họ sản xuất ra mà chỉ là một bộ phận giá trị đó. Ông cho rằng cơ sở tiền lương là giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi sống người công nhân và gia đình họ, nếu tiền lương thấp hơn mức tối thiểu này thì đó sẽ là thảm hoạ cho sự tồn tại của dân tộc. Ông ủng hộ việc trả tiền lương cao vì tiền lương cao là nhân tố kích thích công nhân tăng năng suất lao động tạo điều kiện tăng tích luỹ tư bản và từ đó tạo khả năng tăng trưởng kinh tế.
D.Ricardor thì lại ủng hộ “quy luật sắt về tiền lương”, tiền lương cho người công nhân chỉ nên ở mức tối thiểu vừa đủ đáp ứng cho những nhu cầu sinh hoạt tối thiểu cần thiết. Ông ủng hộ việc nhà nước không can thiệp vào hoạt động của thị trường lao động, phê phán sự giúp đỡ đối với người nghèo. Ricardor còn đưa ra phương hướng về đầu tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm mục tiêu tăng trưởng. Trong nghiên cứu của mình, ông đưa ra hai vấn đề: một là, khu vực nông nghiệp có lợi nhuận biên giảm dần theo quy mô và tiến tới bằng 0 do quy mô sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng lên đòi hỏi phải sử dụng đất đai ngày càng xấu hơn, chi phí sản xuất ngày càng tăng với tỷ lệ lớn hơn mức tăng sản lượng đầu ra. Hai là, trong khi ruộng đất có xu hướng cạn kiệt thì lao động trong khu vực nông nghiệp vẫn tiếp tục tăng, dẫn đến hiện tượng dư thừa lao động trong nông nghiệp. Từ đó cần phải giảm dần cả về quy mô lẫn tỷ trọng đầu tư trong khu vực nông nghiệp, xây dựng và mở rộng khu vực công nghiệp, tăng tỷ trọng đầu tư cho công nghiệp để nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng. Khu vực này có nhiệm vụ giải quyết lao động thất nghiệp trá hình của khu vực nông nghiệp bằng cách chuyển bộ phận này sang khu vực của mình. Ricardor còn cho rằng do khu vực nông nghiệp dư thừa lao động vì vậy có thể lôi kéo lao động từ nông nghiệp sang mà không phải tăng lương cho bộ phận này. Khu vực công nghiệp sẽ có lợi nhuận biên tăng dần theo quy mô và sẽ kéo theo sự tăng trưởng kinh tế, đi cùng với nó là sự gia tăng bất bình đẳng thu nhập giữa nông nghiệp và công nghiệp. Thêm vào đó ông ủng hộ quy luật sắt về tiền lương, điều này sẽ dẫn đến tình trạng tăng trưởng đi đôi với bất bình đẳng tăng cao.
1.3.2. Lý thuyết của Mac
Xác định rõ các khái niệm về phân phối kết quả sản xuất và thu nhập, C.Mac đã chỉ ra rằng tổng sản phẩm xã hội trước hết phải bù đắp lại những tư liệu sản xuất đã tiêu dùng, phần giá trị mới tạo ra được phân phối theo những nguyên tắc sau:
Để xã hội có thể tồn tại, về lượng không thể phân phối cho tiêu dùng cá nhân vượt quá khối lượng thu nhập của xã hội
Trong mọi chế độ xã hội, phân phối thu nhập trước hết phải có vai trò đảm bảo tái sản xuất lại sức lao động của xã hội
Một bộ phận thu nhập phải được sử dụng để thực hiện tích luỹ mở rộng sản xuất.
Một bộ phận sản phẩm thặng dư chỉ đại biểu cho lao động mới được thêm vào, được dùng làm quỹ bảo hiểm… Đó là bộ phận của thu nhập không được dùng với tư cách là thu nhập và cũng không nhất thiết phải dùng làm tích luỹ
Theo C.Mac, phân phối thu nhập có hai hình thức đó là phân phối thu nhập quốc dân lần đầu và phân phối lại. Phân phối lần đầu trong xã hội tư bản chủ nghĩa được chia làm hai phần. Phần thứ nhất, người lao động nhận được tiền công. Phần thứ hai là thu nhập của nhà tư bản và địa chủ. Nếu như tiền công của công nhân chỉ đủ sống cho bản thân và cho gia đình họ thì phần thu nhập của nhà tư bản và địa chủ còn tích luỹ một phần để tái sản xuất mở rộng. Từ đó nhà tư bản mở rộng sản xuất, tăng lợi nhuận và ngày càng giàu lên còn người công nhân thì ngày càng nghèo đi. Mac đưa ra kết luận, trong chủ nghĩa tư bản, tài sản tập trung trong tay một số người giàu, còn đại bộ phận dân cư chỉ có sức lao động. Do vậy việc phân phối theo tài sản chính là làm tăng tính bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, đó là cách phân phối tạo nên tình trạng kẻ bóc lột và người bị bóc lột. Từ đó C.Mac đưa ra hình thức phân phối thu nhập là phân phối theo lao động và phân phối theo nhu cầu. Và ông cho rằng thực hiện cách phân phối này theo từng giai đoạn sẽ hướng tới một xã hội chủ nghĩa cộng sản và xoá bỏ được sự phân phối bất bình đẳng như trong chủ nghĩa tư bản, và sẽ đưa sản xuất lên một tầm cao mới.
1.3.3. Lý thuyết của Keynes
Keynes là một nhà kinh tế học người Anh, ông được coi là người mở đầu cho những lý thuyết về nền kinh tế có sự điều tiết của nhà nước, nổi tiếng với tác phẩm “Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ”. Trong tác phẩm này ông đã nêu ra những lý thuyết chung về thu nhập, tiêu dùng, tiết kiệm, tác động của những nhân tố này tới đầu tư, tín dụng như thế nào và cuối cùng là ảnh hưởng đến tăng trưởng ra sao.
Ông đã chỉ ra rằng thu nhập được chia thành hai phần một phần cho tiêu dùng và phần còn lại cho tiết kiệm, chính phần tiết kiệm này lại trở thành nguồn lực cho đầu tư trong tương lai.
Thu nhập=tiêu dùng+đầu tư, mà Tiết kiệm=thu nhập-tiêu dùng. Từ đó suy ra, đầu tư=tiết kiệm.
Khi mức thu nhập thấp hơn mức tiêu dùng cần thiết thì tình trạng chi tiêu vượt quá thu nhập xuất hiện nhưng khi mức thu nhập tuyệt đối được nâng cao thì sẽ có khuynh hướng nới rộng sự chênh lệch giữa thu nhập và tiêu dùng; khi đạt được mức chi tiêu thoả đáng, người ta sẽ trích từ phần thu nhập tăng thêm cho tiêu dùng ít hơn và tiết kiệm nhiều hơn. Đó chính là khuynh hướng tiêu dùng giới hạn. Việc làm sẽ làm tăng thu nhập từ đó làm tăng tiêu dùng. Nhưng do khuynh hướng tiêu dùng giới hạn nên tiêu dùng sẽ tăng chậm hơn so với thu nhập còn tiết kiệm lại tăng nhanh. Điều này làm tiêu dùng bị giảm sút, nhu cầu sản phẩm giảm dẫn đến giảm việc làm, nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ.
Ông còn đưa ra mô hình số nhân đầu tư về mối quan hệ giữa gia tăng thu nhập và gia tăng đầu tư. Mỗi sự gia tăng của đầu tư đều kéo theo sự gia tăng của cầu bổ sung công nhân, cầu về tư liệu sản xuất, do vậy làm tăng cầu về tiêu dùng, tăng việc làm cho công nhân và làm cho thu nhập tăng lên. Như vậy việc tăng đầu tư sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và từ đó làm tăng thu nhập. Tăng thu nhập cũng sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế bởi tăng thu nhập sẽ làm tăng tiết kiệm, tăng đầu tư, từ đó tạo nên tăng trưởng kinh tế.
Quan điểm của Keynes là cần phải điều chỉnh để tăng đầu tư, kích thích tăng trưởng. Vì vậy chủ trương chính sách mà ông đưa ra là sử dụng thuế để điều tiết nền kinh tế. Ông cho rằng đối với người lao động thì cần phải tăng thuế để điều tiết bớt một phần tiết kiệm từ thu nhập của họ, đưa phần này vào ngân sách nhà nước để mở rộng đầu tư. Còn đối với nhà kinh doanh thì phải giảm thuế để nâng cao hiệu quả của tư bản, khuyến khích nhà kinh doanh tích cực đầu tư phát triển. Điều này đã tạo ra sự phân phối thu nhập bất bình đẳng gia tăng cùng với mức độ tăng trưởng cao.
1.3.4. Lý thuyết của trường phái “sau Keynes” và kinh tế vĩ mô hiện đại
1.3.4.1. Lý thuyết của trường phái “sau Keynes”
Vấn đề tăng trưởng và phân phối thu nhập dường như đã chiếm vị trí trung tâm trong các lý thuyết của trường phái “sau Keynes”. Các nhà kinh tế học thuộc trường phái này đã khẳng định nhịp độ tăng trưởng sản xuất phụ thuộc vào vấn đề phân phối thu nhập quốc dân, lượng thu nhập và lượng tiết kiệm, còn tổng lượng tiết kiệm là tổng số tiết kiệm từ tiền lương và lợi nhuận. Do “khuynh hướng tiết kiệm” giữa những người nhận tiền lương và những người nhận lợi nhuận là khác nhau nên sự thay đổi trong phân phối sẽ ảnh hưởng đến tổng lượng tiết kiệm. Thêm vào đó, phân phối thu nhập quốc dân còn là hàm số của tích lũy tư bản. Nhịp độ tích lũy tư bản xác định tỷ suất lợi nhuận và phần lợi nhuận trong thu nhập quốc dân. Phần tiền lương được xác định như là lượng còn lại của thu nhập quốc dân.
Tư tưởng đã xác lập mối quan hệ giữa phân phối thu nhập quốc dân và nhịp độ tăng trưởng của nó cũng như việc vạch rõ mối quan hệ giữa tiết kiệm và phân phối thu nhập trong các giai cấp xã hội, tạo khả năng gắn lý luận với thực tiễn phát triển kinh tế. N.Caldor đã chỉ rõ muốn nâng cao nhịp độ tăng trưởng thì cần phải phân phối lại thu nhập quốc dân theo hướng có lợi cho lợi nhuận.
Chủ trương chính sách mà trường phái này đưa ra đó là muốn nâng cao nhịp độ tăng trưởng thì cần phải phân phối lại thu nhập quốc dân theo hướng có lợi cho lợi nhuận. Họ cho rằng việc nâng cao tiền lương phu hợp với việc tăng năng suất lao động sẽ khắc phục được khó khăn trong vấn đề thực hiện và là sự kích thích quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Họ muốn kết hợp chính sách thu nhập với chính sách tăng trưởng kinh tế, kể cả việc xác định nhịp điệu và cơ cấu đầu tư
1.3.4.2. Lý thuyết của A.Lewis
Dựa vào luận điểm của Ricardo cho rằng lợi nhuận trong nông nghiệp có xu hướng giảm dần và tình trạng dư thừa lao động trong nông nghiệp, cần chuyển bớt lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp. Lewis cho rằng phải trả mức lương tương xứng để có thể lôi kéo lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp. Tuy nhiên mức tiền lương mà họ phải trả cho lượng lao động chuyển giao này là thấp hơn so với tiền lương họ phải trả cho công nhân trong ngành, vì vậy nhà tư bản công nghiệp sẽ có thêm một phần thặng dư, tích luỹ. Nền kinh tế sẽ ngày càng tăng trưởng nhanh nhờ sự tích luỹ và đầu tư của khu vực công nghiệp, và hiện tượng bất bình đẳng thu nhập giữa hai khu vực cũng tăng. Nhưng cũng không thể chuyển hết lao động từ nông nghiệp sang được, tình trạng thiếu hụt lao động xảy ra. Lao động trở nên đắt hơn, tiền công tăng lên, gây bất lợi cho khu vực công nghiệp. Trong trường hợp này để giảm sự bất lợi đối với khu vực công nghiệp cần phải đầu tư lại cả công nghiệp và nông nghiệp nhằm tăng năng suất lao động, giảm cầu về lao động trong công nghiệp. Khi đó việc rút lao động từ nông nghiệp ra sẽ không làm giảm tổng sản phẩm nông nghiệp, giá nông sản không tăng mà sức ép của việc tăng tiền công lao động khu vực công nghiệp giảm đi. Nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng dựa trên động lực phát triển của cả hai khu vực, bất bình đẳng giảm đi.
Dưới dạng tổng quát, mô hình cũng nhất trí với Kuznet về nhận xét cho rằng sự bất bình đẳng sẽ tăng lên lúc đầu và sau đó giảm bớt khi đã đạt được trình độ nhất định. Hơn nữa, A.Lewis đã chỉ ra rằng bất bình đẳng không chỉ là kết quả của tăng trưởng kinh tế mà còn là điều kiện cần thiết cho tăng trưởng kinh tế, các cố gắng để phân phối lại thu nhập một cách hấp tấp vội vã cũng làm mất đi động lực tăng trưởng kinh tế; bất bình đẳng là điều kiện để người giàu tăng tích luỹ, tăng đầu tư, từ đó kích thích tăng trưởng kinh tế, tạo thu nhập cao hơn.
1.3.4.3. Mô hình chữ U ngựơc của Simon Kuznet
Dựa vào số liệu của các nước có mức thu nhập giàu, nghèo khác nhau trong thời kỳ dài, Kuznet đã chỉ ra mối quan hệ giữa tổng sản phẩm quốc dân bình quân đầu người và sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập. Ông cho rằng mối quan hệ giữa tổng sản phẩm quốc dân bình quân đầu người và sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập có dạng chữ U ngược.
Hệ số Gini
GDP/người
Mô hình chữ U ngược đã chỉ ra sự bất công về thu nhập sẽ tăng lên từ nước có thu nhập thấp tới nước có thu nhập vừa và giảm từ nước có thu nhập vừa tới nước có thu nhập cao.
Theo Kuznet ở một nước nghèo, mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập thấp, thể hiện ở hệ số Gini khá nhỏ (hệ số Gini khoảng 0.2-0.3). Nhưng khi nền kinh tế tăng trưởng hơn, thu nhập tính theo đầu người tăng lên thì sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập cũng tăng lên và đạt cực đại ở mức trung bình của thu nhập. Sau đó mặc dù nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng, thu nhập bình quân đầu người tiếp tục tăng nhưng sự không công bằng trong phân phối thu nhập sẽ giảm dần cho đến khi thu nhập bình quân đầu người đạt đến mức đặc trưng của một nước công nghiệp phát triển.
Mặc dù mô hình chữ U ngược của Simon Kuznets cho đến nay vẫn còn đúng và được công nhận ở nhiều nước nhưng mô hình này mới chỉ ra được những nhận định từ việc quan sát nhịp độ tăng trưởng của các nước chứ chưa giải thích được nguyên nhân nào tạo ra sự thay đổi về mức độ bất bình đẳng trong quá trình phát triển và liệu có cách nào để hạn chế mức độ bất bình đằng trong quá trình phát triển không.
1.3.5. Lý thuyết của các nhà kinh tế học hiện đại
Trong những năm gần đây rất nhiều những lý thuyết kinh tế đã nghiên cứu tìm kiếm mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập. Các lý thuyết này được chia thành sáu dòng lý thuyết chính đó là: (1)lý thuyết kinh tế chính trị, (2)lý thuyết về thị trường vốn không hoàn hảo, (3)lý thuyết về hội nhập (4)lý thuyết về sự bất ổn chính trị-xã hội, (5)lý thuyết về vấn đề dân số, giáo dục, (6)lý thuyết về sự so sánh xã hội. Giờ chúng ta sẽ đi xem xét cụ thể từng dòng lý thuyết này.
Dòng lý thuyết kinh tế chính trị với các đại diện tiêu biểu là Bertola (1993), Perotti (1992), Alesina và Rodrik (1994), Persson và Tabellini (1994). Mô hình nhằm xây dựng mối quan hệ giữa các lý thuyết tăng trưởng kinh tế và các học thuyết kinh tế chính trị. Trong các xã hội dân chủ, mức độ đánh thuế được quyết định bởi cử tri trung bình. Thuế được đánh tương ứng tỷ lệ với thu nhập, và thuế mang tính luỹ tiến nói chung như thuế thu nhập nhằm phân phối lại thu nhập cho mọi người một cách công bằng hơn. Từ đó lợi ích mà người nghèo nhận được sẽ lớn hơn lợi ích mà người giàu nhận được. Vì vậy người nghèo sẽ thích đánh thuế luỹ tiến, mức thuế cao để phân phối lại nhiều hơn, hưởng lợi nhiều hơn. Từ sự bất bình đẳng thu nhập trong xã hội mà thu nhập của cử tri trung bình thấp hơn mức thu nhập trung bình, quy tắc đa số đưa ra quyết định về phân phối lại ở mức độ cao, điều này sẽ làm giảm đầu tư và nỗ lực lao động, từ đó tạo trở ngại cho tăng trưởng, làm cho tăng trưởng chậm hơn. Phương thức chuyển đổi từ xã hội dân chủ nguyên mẫu “một người, một phiếu bầu”, điều này có thể làm giảm mức độ bất bình đẳng thông qua phân phối lại. Kết luận được rút ra là bất bình đẳng đòi hỏi tái phân phối diễn ra mạnh mẽ nhưng đi cùng với nó sẽ là tăng trưởng thấp hơn.
Thị trường vốn không hoàn hảo, đại diện của dòng lý thuyết này là Sant-Paul và Verdier (1993), Galor và Zeira (1993), Aghion và Bolton (1997), Chiou (1998). Dòng lý thuyết này cơ bản dựa trên vai trò của người tham gia trong thị trường vốn không hoàn hảo. Trong xã hội không cho phép người có nhu cầu về vốn được tự do đi vay, sự bất bình đẳng dẫn đến mức độ tiếp cận giáo dục khác nhau. Tăng trưởng tăng bởi đầu tư vào vốn nhân lực tăng, tăng trưởng sẽ chậm nếu đầu tư vào vốn nhân lực ít. Phân phối lại làm tăng tổng đầu ra và tăng trưởng vì nó cho phép người nghèo đầu tư vào vốn nhân lực. Nếu thị trường vốn có khuynh hướng cải tạo phát triển kinh tế, tiếp đó những tác động từ thị trường vốn không hoàn hảo là quan trọng đối với người nghèo hơn là đối với người giàu. Theo đó, tác động có thể biết trước này của bất bình đẳng thu nhập đối với tăng trưởng kinh tế sẽ gây tầm ảnh hưởng đối với người nghèo lớn hơn đối với người giàu. Điều này nhấn mạnh rằng thị trường vốn không hoàn hảo thực sự phù hợp để giải thích mối quan hệ giữa tỷ lệ nghèo và tăng trưởng kinh tế. Trong khi bất bình đẳng cao hơn không phải luôn đưa đến kết cục lợi ích thu được từ tín dụng tăng lên của phần đa những người nghèo, tỷ lệ nghèo cao hơn nghĩa là có nhiều người phải chịu tín dụng bắt buộc hơn. Để lấy ví dụ, bất bình đẳng thu nhập trong nền kinh tế có thể cao hơn cho dù tất cả mọi người trong nền kinh tế đều có cuộc sống đầy đủ. Vì vậy, chúng ta nên chấp nhận mối quan hệ ngược chiều giữa tỷ lệ nghèo và tăng trưởng kinh tế.
Kết hợp kinh tế (Benabou, 1996), vấn đề này có tác động tới phân phối lại trong quá trình tăng trưởng. Ở đây ta sẽ thấy có hai hiệu ứng trái ngược nhau. Phân phối lại là tốt nếu như tiêu dùng công tài trợ nhiều hơn cho giáo dục với điều kiện thị trường vốn không hoàn hảo, và phân phối lại sẽ mang tác động tiêu cực nếu chỉ chuyển đổi thu nhập từ người giàu sang người nghèo vì điều này sẽ làm giảm ý muốn làm việc và đầu tư của người giàu.
Chính trị xã hội bất ổn định (Fay, 1993; Grossman và Kim, 1996; Benhabib và Rustichini, 1996; Alesina, 1996) lý thuyết này nhấn mạnh hậu quả của bất bình đẳng trong điều kiện bất ổn về chính trị, xã hội. Lý thuyết này cho thấy bất bình đẳng là yếu tố quyết định của sự mất ổn định chính trị-xã hội, bất bình đẳng gây ra tác động ngược chiều đối với tăng trưởng, hạn chế tăng trưởng thông qua việc làm giảm ý muốn đầu tư. Tất nhiên bất bình đẳng còn làm tăng mức độ trầm trọng, làm gia tăng xung đột và mâu thuẫn trong xã hội, tài sản luôn ở trong tình trạng ít an toàn nhất và tăng trưởng cũng giảm. Hơn thế nữa là tình trạng tội phạm gia tăng ở người nghèo, tình trạng tài nguyên bị phá huỷ, tương lai sẽ bị mất đi nguồn lực. Có thể thấy chính trị xã hội mất ổn định gây tác động xấu đến tăng trưởng của một quốc gia, làm tăng trưởng giảm sút; mà nguyên nhân chính của nó là do sự bất bình đẳng thu nhập gây nên.
Bắt nguồn từ vấn đề dân số hay giáo dục (Perotti, 1996), bất bình đẳng thu nhập tác động ngược chiều đối với tăng trưởng kinh tế, bất bình đẳng thu nhập tăng dẫn đến tăng trưởng giảm thông qua cách tiếp cận từ vấn đề dân số và giáo dục. Lựa chọn thông qua cải tiến chất lượng giáo dục, tỷ lệ sinh sản. Giáo dục có tác động tới thu nhập, những người có trình độ học vấn cao, mức lương của họ cũng cao hơn rất nhiều so với những lao động trình độ thấp. Trong khi các gia đình nghèo ít có cơ hội đầu tư cho con em mình đi học, tiếp cận với những dịch vụ tốt nhất thì tỷ lệ sinh trong chính những gia đình này lại rất cao, vì vậy mà tỷ lệ người nghèo lại càng tăng. Số lượng hộ nghèo tương đối cao và chính những hộ nghèo lại có tỷ lệ sinh cao, đầu tư cho giáo dục thấp điều này khiến cho tăng trưởng bị chậm lại, bất bình đẳng thu nhập tăng. Vì vậy tăng trưởng chỉ tăng nếu đầu tư vốn con người một cách thoả đáng.
So sánh xã hội, Kell(1998) được xây dựng dựa trên lý thuyết của Benabou (1996), trong lý thuyết này các cá nhân tạo nên sự so sánh xã hội. Lý thuyết này cơ bản là dựa trên những giả định từ những xem xét về tiêu dùng trung bình của những nhóm người được nghiên cứu. Trong một xã hội bất bình đẳng, những người nghèo bị lôi cuốn theo cách sống của tầng lớp thượng lưu và có xu hướng tiêu dùng nhiều hơn. Kết quả là đầu tư vốn nhân lực sẽ thấp và tăng trưởng kinh tế thấp. Như vậy từ nghiên cứu này rút ra kết luận bất bình đẳng thu nhập và nghèo đói sẽ làm tăng trưởng chậm lại thông qua những cơ cấu khác nhau. Việc sử dụng các chính sách riêng rẽ, điều này không thể biết trước được cơ cấu nào là vượt trội hơn.
1.3.6. Nhận xét chung về mối quan hệ giữa tăng trưởng và bất bình đẳng thu nhập.
Các lý thuyết, mô hình ở trên đã phần nào trả lời cho câu hỏi về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập. Tăng trưởng tác động đến bất bình đẳng thu nhập như thế nào, bất bình đẳng thu nhập hỗ trợ cho tăng trưởng ra sao,…Cuối cùng ta có thể rút ra được những nhận xét sau:
Thứ nhất, mối quan hệ giữa tăng trưởng và bất bình đẳng thu nhập có thể diễn ra theo nhiều chiều. Tăng trưởng kinh tế cao sẽ gây nên tình trạng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập cũng tăng cao. Tuy nhiên tăng trưởng kinh tế cao lại là điều kiện giúp giảm bớt bất bình đẳng thu nhập. Và ngược lại bất bình đẳng phân phối thu nhập là một nhân tố cần thiết cho quá trình tăng trưởng kinh tế, nó sẽ hỗ trợ cho kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao. Tuy nhiên nếu tình trạng bất bình đẳng kéo dài, có xu hướng gia tăng sẽ lại trở thành chướng ngại cho tăng trưởng.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập tác động tới nhau thông qua những kênh truyền dẫn sau:
Đầu tư, tiết kiệm; tỷ lệ đầu tư, tiết kiệm cao sẽ làm cho tăng trưởng cao, tuy nhiên để tăng tiết kiệm, tăng đầu tư thì bất bình đẳng thu nhập cũng phải tăng theo. Ở đây dường như có sự đánh đổi giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng thu nhập, muốn có tăng trưởng thì phải chấp nhận bất bình đẳng thu nhập. Nhưng đầu tư kích thích tăng trưởng kinh tế lại trở thành điều kiện giúp giảm thiểu bất bình đẳng thu nhập. Trong đầu tư, cơ cấu đầu tư cũng là một nhân tố quyết định. Việc chuyển dịch cơ cấu từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp, quá trình đô thị hoá tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế cao nhưng nó cũng gây ra tình trạng bất bình đẳng phân phối thu nhập giữa các vùng, các ngành. Và một vấn đề nữa gặp phải là nếu như đầu tư không đúng cách, cơ cấu đầu tư không hợp lý thì kinh tế sẽ tụt hậu, tăng trưởng thấp trong khi đó bất bình đẳng thu nhập lại tăng cao.
Đầu tư cho giáo dục nâng cao trình độ học vấn, nhận thức, trình độ tay nghề cho người lao động. Đầu tư cho giáo dục phải chú ý nâng cao cả về số lượng và chất lượng, mở rộng quy mô giáo dục, đầu tư chiều sâu, tăng khả năng tiếp cận với công nghệ tiên tiến,._. ... để tạo nên một nguồn lực lao động lớn, chất lượng tốt, góp phần tạo nên một nền kinh tế phát triển. Từ đó thu nhập cũng được cải thiện, bất bình đẳng thu nhập giảm đi.
Kênh truyền dẫn tín dụng, người nghèo ít có khả năng được tiếp cận với tín dụng do những ràng buộc về điều kiện vay vốn. Họ ít có được cơ hội đầu tư cho sản xuất kinh doanh, đầu tư cho giáo dục để cải thiện cuộc sống. Có thể nói nếu những chính sách hỗ trợ về vay vốn tín dụng là hợp lý, thì thông qua nó ta có thể giúp cho người nghèo nguồn vốn đầu tư, từ đó tăng mức thu nhập của người nghèo, bất bình đẳng thu nhập giảm đi mà kinh tế lại có tăng trưởng cao hơn.
Kênh phân phối lại thông qua hệ thống thuế, trợ cấp. Chính phủ thực hiện các chính sách tái phân phối thu nhập qua việc đánh thuế luỹ tiến và các chương trình trợ cấp cho người nghèo. Những chính sách này giúp cho người nghèo được hưởng lợi nhiều hơn. Nhưng vấn đề nảy sinh ở đây là điều này sẽ làm giảm động lực làm việc của xã hội do người giàu làm việc tạo ra thu nhập cao nhưng lại bị đánh thuế cao, mất đi khoản lớn thu nhập còn người nghèo thì có tư tưởng ỷ lại vào trợ cấp từ đó tăng trưởng cũng sẽ giảm, thu nhập cho toàn xã hội và cho mỗi người cũng sẽ giảm theo. Có thể nói kênh truyền dẫn này có tác động hai chiều, vì vậy cần cẩn trọng trong việc sử dụng nó
Tóm lại, tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập tác động trực tiếp đến nhau, tăng trưởng cao giúp giảm bất bình đẳng thu nhập, bất bình đẳng thu nhập là điều kiện để có tăng trưởng cao,… Hai nhân tố này tác động tới nhau thông qua các kênh truyền dẫn đầu tư, tiết kiệm, giáo dục, tín dụng, phân phối lại thông qua thuế và trợ cấp. Các kênh truyền dẫn này sẽ quyết định tăng trưởng và bất bình đẳng thu nhập tác động tới nhau như thế nào. Vấn đề đặt ra là Nhà nước ta phải xác định kênh nào hữu ích, kênh nào cho tác động tiêu cực để đưa ra nhưng giải pháp nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã hội, giảm bất bình đẳng thu nhập.
CHƯƠNG 2: Thực trạng tăng trưởng và bất bình đẳng thu nhập của Việt Nam
2.1. Thực trạng tăng trưởng kinh tế
2.1.1. Thành tựu về tăng trưởng kinh tế
Sau hơn 20 năm thực hiện đổi mới, chuyển đổi cơ chế kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, tái cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế nhiều thành phần, thực hiện mở cửa nền kinh tế, mở rộng quan hệ hợp tác với nước ngoài,… Nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu tăng trưởng đáng kể. Sau đây là một số chỉ tiêu nổi bật đánh giá thành tựu đã đạt được của tăng trưởng.
- Về tốc độ tăng trưởng.
Từ khi đổi mới chính sách kinh tế (năm1986) đến nay nền kinh tế Việt Nam đã trải qua nhiều biến động tuy nhiên điều đáng nói ở đây là Việt Nam đã vượt qua tình trạng khó khăn và đạt được tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm liền.
Biểu đồ 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam 1986-2008
Nguồn: Niên giám thống kê
Giai đoạn1986-1990, đây là giai đoạn đầu của quá trình đổi mới, nền kinh tế gặp phải rất nhiều khó khăn, tốc độ tăng trưởng còn thấp, chỉ đạt mức 4.9%/năm. Tuy nhiên đây cũng là giai đoạn mở đầu cho sự thay đổi cơ cấu kinh tế, mở ra cho đất nước một giai đoạn mới với nhiều thành tựu.
Giai đoạn 1991-1995, với động lực của tăng trưởng kinh tế là công nghiệp. Tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn được cải thiện và ở mức cao, đạt tới đỉnh điểm là 9.5% (1995) mức tăng trưởng cao nhất đạt được từ trước tới giờ. Giai đoạn cũng đánh dấu những bước đầu tiên của chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Giai đoạn 1996-2000, khoảng thời gian tốc độ tăng trưởng kinh tế có chiều hướng đi xuống, do chịu ảnh hưởng cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, tốc độ tăng trưởng trung bình mỗi năm chỉ đạt 7%/năm giảm so với giai đoạn trước
Giai đoạn từ 2001 cho đến nay tăng trưởng kinh tế nước ta đã đạt được những bước tiến mới. Thời kỳ 2000-2007, sau khi cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ châu Á đã lắng xuống, cùng với các chương trình cải cách hướng vào cải tổ cơ cấu kinh tế, bao gồm thúc đẩy phát triển khu vực ngoài quốc doanh, huy động nguồn lực tiết kiệm trong dân cư… tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn này đạt tới 7.55%/năm. Năm 2008 mặc dù chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu nhưng tốc độ tăng GDP vẫn đạt 6.23%.
Tăng trưởng kinh tế cao, theo đó thu nhập bình quân đầu người cũng tăng. Nếu như năm 1995 thu nhập bình quân đầu người chỉ ở mức 289 USD/người/năm, thì năm 2005 đã tăng lên thành 639 USD/người/năm, năm 2007 là 835 USD/người/năm và đến năm 2008 đã là 1024 USD/người/năm. Mức thu nhập này đã đưa Việt Nam thoát khỏi ngưỡng thu nhập của các nước nghèo, kém phát triển, đời sống người dân được nâng cao.
- Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Cùng với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các ngành và trong nội bộ từng ngành. Tỉ trọng nông – lâm – ngư nghiệp trong GDP giảm từ 30.7% năm 1991 xuống còn 22.1% năm 2008, tỉ trọng công nghiệp tăng lên từ 25.6% lên 41.52% trong thời kỳ tương ứng. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo xu hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp dịch vụ trong tổng thu nhập quốc dân, giảm bớt tỷ trọng đóng góp của nông nghiệp.
Bảng1: Cơ cấu GDP theo ngành
1991
1995
2000
2005
2006
2008
Nông – lâm – ngư nghiệp
40.49
27.18
24.53
20.7
20.4
21.99
CN-xây dựng
23.79
28.76
36.73
40.8
41.52
39.91
DV
35.72
44.06
38.73
38.5
38.08
38.1
Nguồn: Tổng cục thống kê
Cơ cấu kinh tế đang dịch chuyển theo chiều hướng tích cực, trong khi quy mô các ngành kinh tế đều được mở rộng thì tỷ trọng giá trị nông – lâm – ngư nghiệp trong cơ cấu kinh tế giảm từ 40.49% vào năm 1991 xuống còn 20.4% vào năm 2008. Mặc dù tỷ trọng nông – lâm – ngư nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân có xu hướng giảm dần, nhưng khu vực kinh tế này vẫn giữ vai trò chủ đạo trong sự phát triển kinh tế của đất nước và có mức tăng trưởng ổn định trong nhiều năm liền. Cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp đang chuyển dịch theo hướng phát huy lợi thế về tài nguyên sinh học đa dạng, chuyển mạnh sang phát triển các loại cây con có giá trị kinh tế cao và có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Trình độ kỹ thuật của sản xuất được nâng cao rõ rệt, đầu tư cơ sở hạ tầng ở nông thôn được chú trọng. Đời sống vật chất và tinh thần của dân cư theo đó được cải thiện nhiều hơn.
Công nghiệp được phát triển với tốc độ cao và ngày càng thể hiện rõ hơn vai trò nòng cốt cho sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế. Cơ cấu công nghiệp được điều chỉnh theo hướng phát triển mạnh các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng đáp ứng nhu cầu trong nước và phục vụ xuất khẩu, phát triển có chọn lọc một số ngành công nghiệp nặng. Theo đó, các ngành công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản được phát triển mạnh. Công nghiệp nặng được phát triển tập trung hơn vào các ngành điện lực, sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí, hoá chất, khai thác khoáng sản… Cùng với quá trình đổi mới công nghệ và mở rộng quy mô của các doanh nghiệp hiện có, hàng loạt doanh nghiệp mới với trình độ kỹ thuật hiện đại đã làm thay đổi bộ mặt công nghiệp của đất nước.
Tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ trong GDP cũng có xu hướng tăng lên và ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế. Hoạt động dịch vụ với trình độ công nghệ ngày càng hiện đại phục vụ thiết thực yêu cầu của sản xuất, và đời sống nhân dân. Các loại hình dịch vụ được phát triển đa dạng, bên cạnh loại hình dịch vụ truyền thống, hàng loạt loại hình dịch vụ mới đã ra đời phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Cũng nhờ sự phát triển của các ngành công nghiệp mà các ngành thương mại – dịch vụ, giao thông vận tải cũng có điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn, tạo điều kiện cho các loại hình dịch vụ khác phát triển theo.
- Về đóng góp của các thành phần kinh tế
Từ Đại hội VI (1986), Đảng ta đề ra đường lối đổi mới toàn diện trong đó có đổi mới kinh tế, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Nhờ đó, tiềm năng của xã hội được khai thác, phát huy được nội lực của đất nước và huy động được nguồn lực từ bên ngoài một cách tốt nhất. Từ đó đến nay đất nước đã có những chuyển biến tích cực và khởi sắc.
Bảng 2: cơ cấu thành phần kinh tế trong GDP của Việt Nam
tỷ trọng trong GDP
tốc độ tăng trưởng
Kinh tế nhà nước
Kinh tế ngoài nhà nước
Kinh tế có vốn FDI
Kinh tế nhà nước
Kinh tế ngoài nhà nước
Kinh tế có vốn FDI
1991
31.07
68.93
0
6.63
5.29
0
1995
40.18
53.52
6.3
9.42
8.98
14.98
2000
38.52
48.2
13.27
7.72
5.04
11.44
2005
39.0
46.7
15.5
8.56
7.23
10.23
Nguồn: Tổng cục thống kê
Cơ cấu thành phần kinh tế có sự chuyển biến khá rõ nét. Có thể nói tăng trưởng kinh tế cao trong những năm qua là nhờ sự đóng góp rất lớn của khu vực kinh tế ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Mở rộng các cơ sở sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân, khuyến khích đầu tư trong nước của khu vực tư nhân, đẩy mạnh phát triển kinh tế hộ gia đình, đưa ra những chính sách, văn bản pháp lý hỗ trợ việc đẩy mạnh sản xuất kinh doanh…khiến cho quy mô sản xuất khu vực kinh tế ngoài nhà nước ngày càng được mở rộng và đóng góp nhiều hơn cho tăng trưởng.
Việc triển khai thực hiện các dự án có vốn đầu tư nước ngoài tiếp nhận được một số kỹ thuật, công nghệ tiên tiến trong một số ngành kinh tế như thông tin viễn thông, thăm dò dầu khí, sản xuất phụ tùng, lắp ráp xe máy, hoá chất, trồng trọt theo công nghệ tiên tiến, công nghệ chế biến thực phẩm… tiếp nhận kinh nghiệm, phương pháp quản lý kinh doanh góp phần quan trọng trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong GDP dần tăng lên.
- Về cơ cấu lao động
Kết quả của việc chuyển dịch cơ cấu hoạt động sản xuất nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ cũng làm cho cơ cấu lao động dịch chuyển theo. Lao động trong nông nghiệp giảm từ 73.02% từ những năm 90 xuống còn 71.25% vào năm 95, tiếp tục giảm xuống còn 65.09% vào năm 2000 và chỉ còn 56.8% vào năm 2005, thay vào đó là sự tăng lên của lao động tham gia vào các ngành công nghiệp và dịch vụ. Cơ cấu lao động nước ta đã có những bước chuyển biến tích cực.
Bảng 3: Cơ cấu lao động Việt Nam phân theo nhóm ngành kinh tế
1990
1995
2000
2005
NN
73.02
71.25
65.09
56.8
CN
11.24
11.36
13.11
17.9
DV
15.74
17.38
21.8
25.3
Nguồn: Tổng cục thống kê
Có thể thấy cơ cấu lao động chia theo ngành kinh tế đã có những chuyển biến tích cực, lao động dần chuyển từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ. Cơ cấu lao động (NN-CN-DV) chia theo ngành kinh tế giữa các vùng cũng có sự chuyển biến tích cực. Mặc dù vậy trong số các vùng, Đông Nam bộ vẫn là vùng có cơ cấu lao động tiến bộ nhất (27.8%, 30.9%, 41.3%), lạc hậu nhất là vùng Tây bắc (84.9%, 5.2%%, 9.9%) và Tây Nguyên (72.9%, 8.1%, 19%)
Chia theo loại hình kinh tế, nhờ những chính sách khuyến khích phát triển kinh tế nhiều thành phần, phát triển khu vực kinh tế tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo nên sự dịch chuyển lao động theo thành phần kinh tế. Cho đến năm 2005 cả nước có 4413 nghìn người làm việc ở khu vực Nhà nước, chiếm 10.2%, 38355.7 nghìn người làm việc ở khu vực ngoài Nhà nước, chiếm 88.2% còn lại là số người làm việc ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Có thể thấy cơ cấu lao động chia theo thành phần kinh tế đã có sự chuyển dịch từ khu vực kinh tế Nhà nước sang khu vực kinh tế ngoài nhà nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
- Về đầu tư
Cho đến năm 2008, vốn đầu tư toàn xã hội theo giá thực tế ước tính đạt 673.3 nghìn tỷ đồng, bằng 43.1% GDP và tăng 22.2% so với năm 2007. Khu vực nhà nước có vốn đầu tư là 28.9% và giảm 11.4%, khu vực ngoài nhà nước là 263 nghìn tỷ đồng chiếm 41.3% và tăng 42.7%, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 189.9 nghìn tỷ đồng chiếm 29.8%và tăng 46.9% (so với năm 2007). Có thể thấy vốn đầu tư giữ một vai trò quan trọng trong kết quả tăng trưởng kinh tế của nước ta trong những năm vừa qua.
Bảng 4: Cơ cấu vốn đầu tư phân theo thành phần kinh tế
tổng số
Kinh tế nhà nước
Kinh tế ngoài nhà nước
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
Tỷ đồng
%
Tỷ đồng
%
Tỷ đồng
%
Tỷ đồng
%
1995
72447
100
30447
42
20000
27.6
22000
30.4
2000
151183
100
89417
59.1
34594
22.9
27172
18
2005
343135
100
161635
47.1
130398
38
51102
14.9
2006
404712
100
185102
45.7
154006
38.1
65604
16.2
2007
532093
100
197989
37.2
204705
38.5
129399
24.3
2008
637376
100
184435
28.9
263081
41.3
189960
29.8
Nguồn: Tổng cục thống kê
Cơ cấu vốn đầu tư đã có sự dịch chuyển đáng kể. Đầu tư cho khu vực kinh tế nhà nước có xu hướng giảm dần từ 42% năm 1995 xuống còn 28.6% năm 2008, thay vào đó là đầu tư cho khu vực kinh tế ngoài nhà nước tăng lên hơn 40% trong năm 2008 và giữ một vị trí quan trọng trong cơ cấu vốn đầu tư.
Nhờ Đảng và nhà nước ta tạo điều kiện thông thoáng, khuyến khích đầu tư nước ngoài vào những lĩnh vực ưu tiên, sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại nhằm phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; ưu tiên đầu tư vào địa bàn miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, kinh tế tăng trưởng khá ; thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục tăng và đạt kết quả cao. Nếu tính nguồn vốn đăng ký thì năm 2008 đã thu hút được nguồn vốn lên tới 64 tỷ USD, gấp 3 lần so với năm 2007. Vốn đầu tư nước ngoài thực hiện đạt 11.5 tỷ USD, tăng 43.2% so với năm 2007. Mặc dù khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đang đóng góp ngày càng tăng vào tăng trưởng và kết quả đầu tư đã tạo ra giá trị gia tăng cao hơn, nhưng đầu tư của khu vực này vẫn tập trung trong một số ngành dựa vào khai thác tài nguyên như dầu khí và một số ngành tập trung vốn, được bảo hộ cao như lắp ráp ô tô, xe máy, sản xuất thép, xi măng.
- Về xuất nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện cho Việt Nam phát triển, mở rộng mối quan hệ hợp tác quốc tế, tăng kim ngạch xuất nhập khẩu.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu thời kỳ 1991-1995 là 39.88 USD Nhưng hai năm 1996-1997 đã là 38.55 tỷ USD. Và cho đến năm 2008 đã nhanh chóng tăng lên 136.6 tỷ USD, gấp 3.5 lần so với thời kỳ năm 1996-1997.
Biểu đồ 2: Kim ngạch xuất nhập khẩu ở Việt Nam
Nguồn: Tổng cục thống kê
Năm 2000 kim ngạch ngoại thương chỉ đạt 30 tỉ USD trong đó xuất khẩu đạt 14.4 tỉ USD, kim ngạch nhập khẩu là 15.6 tỷ USD thì đến năm 2006 chỉ tiêu này đã tăng lên đến 80 tỉ USD trong đó xuất khẩu đạt 39.6 tỉ USD, năm 2007 là 106.7 tỷ USD trong đó xuất khẩu đạt 45.4 tỷ USD, năm 2008 là 136.6 tỷ, xuất khẩu đạt 58.2 tỷ, nhập khẩu là 78.4 tỷ.
Do tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu nhanh hơn tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu nên tỷ lệ nhập siêu giảm xuống. Mặt hàng xuất khẩu đa dạng và chất lượng hàng xuất khẩu được chú ý nâng cao theo yêu cầu của từng thị trường xuất khẩu. Chất lượng hàng xuất khẩu đã nâng lên đáng kể, bước đầu tạo ra sức cạnh tranh sức cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường thế giới đồng thời gây tác động tích cực tới chất lượng sản phẩm sản xuất trong nước. Ngoài các mặt hàng như gạo, cà phê, thuỷ sản vốn là những mặt hàng xuất khẩu chủ đạo, Việt Nam đã xuất khẩu các mặt hàng về may mặc, giày dép, một số mặt hàng điện tử, đồ gia dụng…Và ngày càng cố gắng hơn để đáp ứng được nhu cầu của các nước trên thế giới.
Xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực ngoài nhà nước đã có mức tăng trưởng nhanh và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu.
Mở rộng quan hệ quốc tế giúp Việt Nam thu hút được khoản vốn đầu tư nước ngoài lớn lên tới 16 tỉ USD chiếm 20% GDP (năm 2007), tạo nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế, phát triển ngành nghề, tạo công ăn việc làm cho người dân. Từ đó góp phần cải thiện thu nhập của người dân.
2.1.2. Những mặt hạn chế của tăng trưởng kinh tế
Mặc dù tăng trưởng Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận nhưng trong đó không phải là không có những thiếu sót đáng lưu tâm.
- Chất lượng tăng trưởng còn thấp.
Nước ta trong thời gian qua mặc dù đã có nhiều biến chuyển tích cực xong nó vẫn là quá chậm để có thể rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt trong năm 2008 nền kinh tế nước ta đã phải chống đỡ với một cơn khủng hoảng kinh tế mới, lạm phát tăng cao, nền kinh tế có dấu hiệu giảm sút trong năm 2009, điều này chứng tỏ kinh tế Việt Nam vẫn còn nhiều yếu điểm, dễ rơi vào khủng hoảng, suy thoái.
Kinh tế tăng trưởng chủ yếu là theo chiều rộng, chủ yếu nhờ vào sự đóng góp của nguồn nhân lực rồi dào và từ nguồn vốn, yếu tố công nghệ còn chiếm một tỷ trọng thấp trong tăng trưởng kinh tế.
Bảng 5: Đóng góp của các yếu tố đầu vào trong tăng trưởng GDP theo tỷ lệ %
thời kỳ
1993-1997
1998-2002
2003-2006
Vốn
69.3
57.4
52.73
Lao động
15.9
20.0
19.07
TFP
14.8
22.6
28.2
Nguồn: Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương và Thời báo kinh tế Việt Nam
Mặc dù chất lượng tăng trưởng đã được cải thiện, mức độ đóng góp của yếu tố tổng hợp TFP trong GDP đã tăng lên từ 14.8% (thời kỳ 1993-1997) lên 28.2% (thời kỳ 2003-2006), tuy nhiên tăng trưởng do yếu tố vốn và lao động vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn, chiếm tới gần 3/4 tỷ trọng đóng góp vào tăng trưởng GDP. So sánh với các nước trong khu vực thì tỷ lệ đóng góp của TFP vào tăng trưởng hàng năm của Việt Nam còn thấp hơn rất nhiều, như Thái Lan tỷ lệ này là 35%, của Philippin là 41%, của Indonesia là 43%.
Thu nhập bình quân đầu người của nước ta đã được cải thiện nhiều nhưng nó vẫn ở mức thấp, thấp hơn nhiều so với các nước trên thế giới. Mức lương tối thiểu năm 2008 mới chỉ ở mức 540.000 đồng/tháng. Bên cạnh đó nền kinh tế liên tục gặp những khó khăn và thách thức lớn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới và do tự chính bản thân nền kinh tế trong năm 2008 và 2009 đã khiến cho đời sống nhân dân trở nên bấp bênh, đặc biệt là đối với tầng lớp dân nghèo.
- Chất lượng đầu tư còn thấp.
Hệ số ICOR của năm 2007 vẫn còn cao, lên tới 4.9. Điều này chứng tỏ chất lượng đầu tư, sử dụng vốn còn thấp, chưa hiệu quả, vẫn gây lãng phí nguồn lực. Tiền tiết kiệm trong dân chưa được huy động hết mức, vẫn còn xảy ra tình trạng người muốn đầu tư sản xuất kinh doanh thì thiếu vốn còn người có vốn thì lại để trong tình trạng đóng băng.
- Tăng trưởng cao nhưng sức cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu.
Khả năng cạnh tranh của hầu hết các sản phẩm hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế giới còn yếu. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đặt Việt Nam trước nhiều thách thức. Trong khi năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước vẫn còn thấp, chất lượng hàng hoá còn kém thì lại phải liên tục đáp ứng nhu cầu ngày càng cao từ phía thị trường thế giới và phải cạnh tranh với sản phẩm hàng hoá của nước ngoài với chất lượng tốt đang xâm nhập vào thị trường nội địa.
2.2. Thực trạng bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam
- Về hệ số Gini.
Mặc dù kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ cao, thu nhập bình quân đầu người đã được cải thiện nhưng cùng với tốc độ tăng trưởng cao là sự gia tăng bất bình đẳng. Đầu tiên ta sẽ đi xem xét sự thay đổi hệ số Gini của Việt Nam trong những năm gần đây.
Bảng 6: Hệ số Gini của Việt Nam
Năm
1993
1994
1995
2002
2004
2006
Hệ số Gini
0.34
0.35
0.357
0.37
0.423
0.36
Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam
Có thể thấy tăng trưởng kinh tế cao nhưng đi cùng với nó là sự gia tăng về hệ số Gini. Hệ số Gini của cả nước luôn ở mức cao, biểu hiện tình trạng bất bình đẳng thu nhập ở nước ta là khá lớn.
- Chênh lệch thu nhập các nhóm giàu nghèo
Biểu đồ 3: Mức độ gia tăng hệ số chênh lệch thu nhập giữa nhóm giàu nhất và nhóm nghèo nhất ở Việt Nam.
Nguồn: Tổng cục thống kê
Thu nhập giữa các nhóm dân cư cũng phát sinh tình trạng chênh lệch. Nếu phân chia dân cư theo mức thu nhập thành 5 nhóm, mỗi nhóm chiếm 20% dân số đất nước theo mức thu nhập bình quân đầu người. Hệ số chênh lệch giàu nghèo ở nước ta qua các năm có xu hướng tăng dần, và đang ở mức đáng lo ngại năm 1990 hệ số này là 4.1 lần, năm 1996 tăng lên 7.3 lần và đến năm 2006 đã là 8.4 lần.
Dựa vào những chỉ tiêu trên ta có thể thấy tình trạng bất bình đẳng phân phối thu nhập nước ta ngày càng gia tăng và trở nên nghiêm trọng. Đây là một vấn đề vô cùng bức xúc và cần có biện pháp tháo gỡ để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế, giảm bất bình đẳng thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội.
2.3. Đánh giá mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam
2.3.1. Tăng trưởng kinh tế góp phần giảm bất bình đẳng thu nhập
- Gảm tỷ lệ nghèo đói
Xoá đói giảm nghèo được coi là một trong những thành công lớn nhất của quá trình phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam.
Bảng 7: Tỷ lệ nghèo của Việt Nam theo ngưỡng “1USD/ngày và 2USD/ngày”
Năm
chi tiêu bình quân đầu người(USDPPP/tháng)
tỷ lệ dân số sống dưới mức
1USD/ngày(PPP)%
2USD/ngày(PPP)%
1990
41.7
50.8
87.0
2000
71.3
15.2
63.5
2004
85.5
10.6
53.4
Nguồn: www. Worldbank. Org.vn
Sự gia tăng thu nhập bình quân đầu người đã giúp cho khoản chi tiêu của người dân được đảm bảo nhiều hơn, và tăng lên đáng kể, góp phần giảm mạnh tỷ lệ dân số sống dưới mức nghèo khổ. Tỷ lệ dân số sống dưới mức 1USD/ngày và dưới mức 2USD/ngày đã giảm từ 50.8% và 87.0% trong năm 1990 xuống còn 10.6% và 53.4% năm 2004.
Trong những năm qua tăng trưởng kinh tế cũng đã góp phần làm giảm tỷ lệ nghèo đói. Nếu như tỷ lệ dân số sống dưới mức nghèo khổ (1USD/ngày) năm 1993 là 58% thì đến năm 2006 giảm xuống còn 16% , 34 triệu người thoát khỏi cảnh nghèo, tỷ lệ người nghèo giảm đi rõ rệt.
Biểu đồ 4: Tỷ lệ nghèo chung của cả nước
Nguồn: Tổng cục thống kê.
Nhờ có tăng trưởng kinh tế cao, hàng năm, số tiền đóng góp, hỗ trợ người nghèo từ ngân sách nhà nước và từ đóng góp của các cá nhân, xí nghiệp là khá lớn. Nhờ vậy tỷ lệ người dân nghèo được hỗ trợ vốn để phát triển sản xuất, thoát khỏi cảnh nghèo ngày càng tăng, người nghèo được hỗ trợ, có thể tự lo liệu cho cuộc sống của họ, đời sống dần được cải thiện, tỷ lệ người nghèo giảm đi rõ rệt.
Giảm nghèo cả ở khu vực thành thị lẫn nông thôn, khu vực thành thị, tỉ lệ người nghèo giảm xuống còn 4%, khu vực nông thôn nếu năm 1993 2/3 dân số nông thôn được coi là nghèo thì đến năm 2006 chỉ còn 1/5.
- Giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển các ngành nghề đã giúp giải quyết được một lượng lớn lao động thất nghiệp, tỷ lệ thất nghiệp giảm đáng kể. Kể từ năm 2006 đến nay, cả nước đã tạo việc làm cho 4.7 triệu người, năm 2008 là 1.35 triệu người, tỷ lệ thất nghiệp giảm đi rõ rệt nhờ những chính sách tạo việc làm cho người lao động như cho các doanh nghiệp, xí nghiệp kinh doanh vay vốn mở rộng sản xuất, tạo việc làm cho người lao động, chính sách xuất khẩu lao động, chính sách đào tạo nghề, nâng cao trình độ tay nghề, trình độ kĩ thuật cho người lao động, tăng cơ hội tìm kiếm việc làm cho họ…
Chính sách xuất khẩu lao động bình quân mỗi năm đưa được 83 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài (chiếm 5% số lao động được giải quyết việc làm của cả nước). Đến nay có khoảng 500 nghìn lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài, hàng năm gửi về nước khoảng 1.6-2 tỷ USD. Chất lượng lao động xuất khẩu được cải thiện.
Biểu đồ 5: Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động khu vực thành thị.
Nguồn: Tổng cục thống kê
Nhờ có tăng trưởng kinh tế cao, sự phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp, sự mở rộng của dịch vụ, đa dạng hoá các ngành nghề trong nông nghiệp đã tạo thêm nhiều chỗ làm mới và tăng thêm việc làm cho người lao động, bình quân hàng năm giải quyết việc làm cho 1.2-1.4 triệu người, tỷ lệ thất nghiệp cả ở thành thị và nông thôn có xu hướng giảm đi.
- Cải thiện đời sống dân cư: điện, nước sinh hoạt, đầu tư cơ sở hạ tầng
Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới đã đạt được những thành tựu đáng kể, tốc độ tăng trưởng cao và khá ổn định, thu nhập bình quân đầu người đã vượt khỏi ngưỡng của các nước đang phát triển có mức thu nhập thấp, tiến tới là một nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình.
Tăng trưởng kinh tế cao, từ đó mức sống hộ gia đình được cải thiện đáng kể. Chi tiêu của các hộ gia đình cũng tăng lên theo các năm, chi tiêu của các hộ gia đình năm 2002 tăng 21.3% so với năm 1999, tăng trung bình 8.6%/năm. Năm 2004 chi tiêu của các hộ gia đình tăng 35.1% so với năm 2002, và tốc độ tăng chi tiêu của năm 2006 so với năm 2004 là 28.8%. Đây là tốc độ tăng khá, và lại trở thành một trong những nguyên nhân góp phần làm kinh tế tăng trưởng cao trong những năm gần đây.
Trong cơ cấu chi tiêu; phần chi cho ăn uống giảm từ 63% năm 1999 xuống còn 56.7% năm 2001-2002, chi cho mua xắm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng từ 3.8% lên 8%, chi cho y tế tăng từ 4.6% lên 5.7%, cho giáo dục tăng từ 4.6% lên 6.2%, chi cho đi lại và bưu điện tăng từ 6.7% lên 10%. Và cho đến năm 2006 chi cho ăn uống chỉ còn chiếm 47.5%, chi cho mua xắm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng lên 9.2%, chi cho y tế, giáo dục cũng tăng lên. Điều này chứng tỏ mức sống của người dân đã được cải thiện, chi tiêu không chỉ là chăm lo cho nhu cầu ăn uống đơn thuần mà còn chăm lo đến sức khoẻ và các nhu cầu sinh hoạt khác.
Số hộ có nhà kiên cố đạt 17.2%, bán kiên cố là 58.3%, nhà tạm, nhà khác là 24.6%. Năm 2006 tỷ lệ hộ có nhà kiên cố tăng lên 23.7%, bán kiên cố là 60.3%, nhà tạm, nhà khác chỉ còn lại 16%. Hộ có đồ dùng lâu bền đạt 96.9%, rất nhiều hộ có đồ dùng có giá trị như ô tô, xe máy…
Các điều kiện cơ sở hạ tầng - điện, nước sạch và vệ sinh- đều đã được cải thiện một cách đáng kể. Nếu trong năm 1993, chỉ có 48% tổng số dân được sử dụng điện làm nguồn chiếu sáng chính tỉ lệ này tăng gần gấp đôi vào năm 2004, 94%. Tỉ lệ dân số được sử dụng nước sạch tăng lên 3 lần so với cùng thời kỳ, tăng từ 26% năm 1994 lên 88% năm 2004. Trong lĩnh vực vệ sinh tình hình cũng được cải thiện một cách tích cực: tỉ lệ dân số có hố xí hợp vệ sinh tăng từ 10% năm 1993 lên 32% năm 2004.
Bảng 8: Một số chỉ tiêu phi thu nhập của người dân (1993 – 2004)
Các chỉ tiêu phi thu nhập
1993
1998
2002
2004
Cơ sở hạ tầng
% dân số nông thôn có trung tâm y tế công cộng
93
97
% dân số được sử dụng nước sạch
26.2
40.6
48.5
58.58
% dấn số có nhà vệ sinh đạt tiêu chuẩn vệ sinh
10.4
17
25.3
31.8
% dân số sử dụng điện là nguồn thắp sáng chính
49
78
87
93
Tỉ lệ sở hữu các mặt hàng tiêu dùng có giá trị
% Hộ gia đình có đài
40
47
25.56
19.48
% Hộ gia đình có tivi
22.19
55.71
67.89
78.05
% Hộ gia đình có xe đạp
64.83
72.88
68.66
69.52
% Hộ gia đình có điện thoại
-
6.93
13.43
21.32
% Hộ gia đình có xe máy
10.67
20.31
40.36
45.04
Nguồn: TCTK, Điều tra mức sống dân cư 1993 đến 2004
Số liệu về sở hữu của các hộ gia đình đối với các mặt hàng tiêu dùng lâu bền như đài, tivi, xe đạp, xe máy v.v…. cũng khẳng định thêm về những cải thiện quan trọng trong mức sống của người dân. Nếu tỉ lệ các hộ gia đình sở hữu các loại đài giảm từ 40% trong năm 1993 xuống còn 19% năm 2004, thì con số về sở hữu vô tuyến truyền hình trong các hộ gia đình lại tăng đáng kể, từ 22% năm 1993 lên đến 78% năm 2004 hay nói một cách khác tăng lên 3,5 lần. Sở hữu xe máy cũng gia tăng rõ rệt và từ một mặt hàng xa xỉ mà cứ 10 gia đình mới có 1 chiếc trong năm 1993, xe máy đã trở thành mặt hàng bình dân có mặt trong 45% các hộ gia đình vào năm 2004. Nếu trong năm 1998, chỉ có 7% các hộ gia đình có điện thoại, thì sáu năm sau, năm 2004, cứ 5 gia đình thì có 1 gia đình có điện thoại. Những con số này một lần nữa khẳng định rằng tăng trưởng kinh tế cao góp phần cải thiện đời sống của người dân.
- Cải thiện phúc lợi xã hội và dịch vụ công
Phúc lợi xã hội cho người nghèo được cải thiện, rất nhiều hộ nghèo được hưởng lợi từ các chương trình hỗ trợ, ưu đãi của chính phủ như chương trình ưu đãi tín dụng cho người nghèo, chương trình miễn giảm học phí cho người nghèo, dân tộc thiểu số, v.v…
Bảng 9: Tỷ lệ hộ nghèo theo bình chọn của địa phương được hưởng lợi từ các dự án chính sách của chương trình 135 và chương trình 143 năm 2006 chia theo thành thị, nông thôn và vùng
Tỷ lệ hộ được hưởng lợi
Tổng số chia theo nguồn lợi
Tín dụng ưu đãi cho người nghèo
Miễn giảm chi phí khám chữa bệnh
Miễn giảm học phí cho người nghèo
Dạy nghề cho người nghèo
Cấp đất cho dân tộc thiểu số
Khuyến nông
Giúp đỡ nhà ở, đất ở cho người nghèo
Nước sạch cho người nghèo
Cả nước
90.2
39.5
80.9
49.5
4.1
3.9
18.3
10.8
9.6
Thành thị - Nông thôn
Thành thị
89.9
40.6
76.6
40.9
2.9
1.8
6.8
7.9
5.7
Nông thôn
90.3
39.3
81.5
50.6
4.2
4.2
19.8
11.2
10.1
Chia theo vùng
ĐBSH
84.9
29.7
75.5
33.3
3.5
1.8
8.1
6.1
2.3
Đông Bắc
89.2
46.9
77.1
51.6
2.0
3.5
33.9
10.1
11.5
Tây Bắc
91.6
37.3
83.9
62.4
2.1
6.2
41.4
16.9
26.9
Bắc Trung bộ
90.4
45.0
80.7
51.8
5.9
4.4
23.1
8.3
7.6
Duyên hải NTB
92.6
30.3
87.5
45.9
3.9
6.7
17.8
12.5
11.7
Tây Nguyên
95.8
39.1
90.6
69.0
2.4
7.2
16.3
12.9
12.7
Đông Nam bộ
89.0
47.4
74.1
42.7
4.2
3.9
9.4
8.6
8.7
ĐBSCL
91.6
35.5
82.1
50.9
4.9
2.0
7.6
15.9
10.5
Nguồn:Tổng cục thống kê
Có thể thấy nhờ có tăng trưởng kinh tế cao mà phúc lợi xã hội đã được cải thiện đáng kể, tỷ lệ người nghèo nhận được hỗ trợ từ các chương trình ưu đãi của chính phủ là những con số đáng kể. Các chính sách hỗ trợ được phân bổ nhiều hơn cho khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa. Tỷ lệ người dân nghèo ở khu vực miền núi, khu vực còn khó khăn, chậm phát triển nhận được hỗ trợ từ chính phủ ngày càng tăng.
Ngoài những chính sách hỗ trợ trên, vấn đề tăng trưởng kinh tế góp phần làm giảm bất bình đẳng thu nhập còn được thể hiện ở các chỉ tiêu sau:
- Đầu tư cho giáo dục
Nhờ có tăng trưởng kinh tế cao mà đầu tư cho giáo dục rất được quan tâm. Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục tăng liên tục, trung bình đạt 15,8% so với tổng chi giai đoạn 1996-2000 và đạt 18,25% tổng chi ngân sách giai đoạn 2001-2005, trong đó khoảng 70% là chi thường xuyên ( 2001-2005). Giai đoạn 1996-2000, vốn đầu tư cho giáo dục đã thực hiện là 15,4 nghìn tỉ đồng, trong đó vốn ngân sách chiếm 54,4%. Ngoài ra, Chính phủ cũng thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển giáo dục năm 2001-2005 huy động từ nhiều nguồn vốn khác nhau, trong đó khoảng 30% từ Ngân sách Nhà nước. Để tăng vốn đầu tư cho giáo dục, Ch._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26310.doc