Lời mở đầu
Như chúng ta đã biết trong những năm gần đây, số người Mĩ đi dưới lịch ra nước ngoài ít hơn là trong những năm đầu cho đến giữa của thập kỷ 80. Việc giảm sút đi dưới lịch ra nước ngoài xảy ra không phải vì người Mĩ mất sự ham thích đi phiêu lưu ở nước ngoài. Việc giảm sút này xảy ra vì đồng đô la Mĩ tính ra ngoại tệ bị giảm giá trị, điều này làm cho việc đi ra nước ngoài trở thành tốn kém hơn.
Giá cả của một đồng tiền tính ra một đồng tiền khác gọi là tỷ giá hối đoái. Nó tác động mạ
21 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1684 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp trong quản lý ngoại hối ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh đến nền kinh tế và cuộc sống hàng ngày của chúng ta bởi vì khi đô la Mĩ trở thành ít giá trị hơn trong tương quan với các đồng ngoại tệ, thì hàng hoá nước ngoài và đi dưới lịch nước ngoài trở thành đắt hơn. Khi đồng đô la tăng lên về giá trị, thì hàng hoá nước ngoài và đi dưới lịch nước ngoài trở thành rẻ hơn.
Trên đây là một minh chứng về sự biến động của tỷ giá. Có thể nói tỷ giá rát dễ biến động.chẳng hạn như: từ đầu năm 1980 đến năm 1985, đồng đô la mạnh lên và giá trị của nó tương quan với nhiều đồng tiền khác tăng lên rất nhanh - 100% đối với đồng bảng Anh, 90% đối với đồng mác Tây Đức, và 75% đối với đồng frăng Thuỵ Sĩ. Từ đầu năm 1985 đến cuối năm 1990 đồng đô la suy yếu đi và giảm đi về giá trị so với các đồng tiền khác - 50% đối với đồng yên Nhật, và 55% đối với đồng frăng Thuỵ Sĩ. Từ đó có thể kết luận rằng tỷ giá luôn luôn bién động từ ngày này qua ngày khác. Vì vậy cần phải có sự quản lý về tỷ giá.
Hơn thế nữa, hiện nay quan hệ thương mại ngày càng trở nên phát triển thì vấn đề thanh toán quốc tế cũng là một vấn đề rất được quan tâm. Vì việc xuất khẩu của nước này đi cùng với việc nhập khẩu của nước khác cho nên giữa hai quốc gia tham gia quan hệ thương mại phải có ít nhất một nước cần ngoại tệ để thanh toán. Nó có thể là đồng tiền của nước nhập khẩu hay đồng tiền của nước xuất khẩu hoặc đồng tiền của một nước thứ ba được quy định trước. Do vậy ngoại thương đồi hổi các nước đều phải cần đến tiền nước ngoài và hình thành nên thị trừơng ngoại hối . Và ở đây, tỷ giá luôn luôn biến động , có ảnh hưởng đến nền kinh tế của mỗi quốc gia. Ví vậy quản lý ngoại hối là một vấn đề không thể thiếu được ở mỗi quốc gia.
Với Việt nam, một đất nước còn nghèo nàn, lạc hậu; nền kinh tế thì chuyển từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa,thực hiện mở cửa nền kinh tế , quan hệ song phương và đa phương với các nước trong khu vực và trên thế giới tuy đã có bước chuyển mới song cũng còn gặp không ít khó khăn. Trong đó đặc biệt đồng Việt nam và giá trị tương quan của nó với nhiều đồng tiền khác như đô la, bảng Anh, mác Đức... còn kém nhiều. Vì vậy quản lý ngoại hối càng trở nên quan trọng. Với tư cách là một sinh viên của Học viện Ngân hàng, em xin được góp một phần nhỏ trong việc nghiên cứu về ngoại hối thông qua đề tài: " Quản lý ngoại hối ở Việt nam ".
Bài viết gồm các phần sau:
Lý luận chung
Kiến thức chung về ngoại hối.
Nội dung cơ bản về quản lý ngoại hối.
Thực trạng quản lý ngoại hối ở Việt nam.
Tình hình ngoại hối ở Việt nam.
Thực trạng quản lý ngoại hối ở Việt nam.
Một số biện pháp về quản lý ngoại hối.
Một số đề xuất.
KếT LUậN
Lý LUậN CHUNG
I. Kiến thức chung về ngoại hối.
Ngày nay, hầu hết các nước trên thế giới đều có quan hệ thương mại với nhau. Các chủ thể kinh tế nước này tiến hành giao dịch với các chủ thể kinh tế nước khác dứơi nhiều hình thức khác nhau : trao đổi hàng hoá, dịch vụ; đầu tư trực tiếp, gián tiếp; vay nợ; viện trợ; chuyển tiền và thu nhập một chiều...Các giao dịch này làm phát sinh sự di chuyển của dòng ngoại hối ra vào nền kinh tế .
1.Vậy ngoại hối là gì ?
Ngoại hối là một khái niệm dùng để chỉ các phương tiện có giá trị được dùng để tiến hành thanh toán giữa các quốc gia. Tuỳ theo quan niệm của từng nước, khái niệm ngoại hối có thể không giống nhau, nhưng xét trên đại thể, ngoại hối cố thể bao gồm : tiền nước ngoài, vàng tiêu chuẩn quốc tế, các giấy tờ có giá, các công cụ thanh toán bằng tiền nước ngoài, đóng vai trò là phương tiện để mua, dự trữ của cải; phương tiện thanh toán và hạch toán quốc tế, được chấp nhận như đồng tiền quốc tế.
Theo nghị định 63/ 1998/NĐ-CP ngày 17/8/1998 về quản lý ngoại hối thì ngoại hối là:
- Tiền nước ngoài như tiền kim loại, tiền giấy.
- Công cụ thanh toán bằng tiền nước ngoài như: séc, thẻ thanh toán, hối phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi bưu điện và các công cụ thanh toán khác.
- Các loại giấy tờ có giá bằng tiền nước ngoài như: trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu,phiếu và các loại giấy tờ có giá khác.
- Quyền rút vốn đặc biệt, đồng tiền chung Châu âu, các đồng tiền chung khác dùng trong thanh toán quốc tế và khu vực.
- Vàng tiêu chuẩn quốc tế.
- Đồng tiền đang lưu hành của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam trong trường hợp chuyển vào và chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt nam hoặc được sử dụng làm công cụ trong thanh toán quốc tế.
2. Khái niệm thị trường ngoại hối.
Hầu hết các nước trên thế giới đều có đồng tiền của mình: Mĩ có đồng đô la, Pháp có đồng frăng, ấn Độ có đòng rupi, và Việt nam có đồng VND ...Buôn bán giữa các nước dẫn đến việc trao đổi các đồng tiền khác nhau, đồng này đổi lấy đồng kia. Việc mua bán tiền và tiền gửi ngân hàng ghi bằng những đồng tiền riêng biệt được tiến hành tại thị trường ngoại hối.
Thị trường ngoại hối không được thiết lập tại vị trí địa lý hữu hình nhất định, mà nó được định nghĩa như là bất cứ ở nơi đâu diễn ra việc mua
bán các đồng tiền khác nhau thì ở đó goị là thị trường ngoại hối.thị trường ngoại hối là thị trường có tính toàn cầu.
Các thành viên tham gia thị trường ngoại hối chủ yếu là các Ngân hàng Thương mại, các nhà môi giới ngoại hối, và các ngân hàng trung ương. Các nhóm tham gia thị trường này thị trường quan hệ với nhau liên tục thông qua điện thoại, mạng vi tính...
Chức năng của thị trường ngoại hối về cơ bản là kết quả kết quả phát triển tự nhiên của một trong các chức năng của ngân hàng thương mại, đó là: nhằm giúp các khách hàng thực hiện các giao dịch thương mại quốc tế.
3. Sự can thiệp vào ngoại hối của Ngân hàng trung ương.
Trong thực tế, để ảnh hưởng lên giá trị đối ngoại của nội tệ, các ngân hàng trung ương thường hành động trực tiếp trên thị trường ngoại hối. Ví dụ ngân hàng trung ương muốn nội tệ giảm giá, thì ngân hàng trung ương chỉ đơn giản bán nội tệ ra và mua ngoại tệ vào. Nếu ngân hàng trung ương can thiệp trên thị trường giao ngay, sẽ làm cho lượng tiền cung ứng lưu thông tăng lên một cách trực tiếp và ngay lập tức dẫn đén lạm phát, mà ngân hàng trung ương không hề muốn. Để hấp thụ lượng tiền cung ứng bổ sung này, ngân hàng trung ương có thể thực hiện theo hai cách: thứ nhất là bán chứng khoán trên thị trường mở, thứ hai là tiến hành giao dịch hoán đổi tiền tệ, trong đó ngân hàng trung ương bán USD giao ngay và sẽ mua lại theo hợp đồng kì hạn. Trong hai phương pháp này, ngân hàng trung ương đã hấp thụ được lượng tiền cung ứng bổ sung do hoạt động can thiệp lên thị trường ngoại hối, mà không gây áp lực lạm phát.
Ngân hàng trung ương có thể can thiệp trực tiếp trên thị trường ngoại hối bằng cá phương thức khác nhau, như sau:
- Trực tiếp với các ngân hàng
- Thông qua nhà môi giới.
- Thông qua các thị trường giao dịch tương lai.
- Thông qua các ngân hàng trung ương khác.
NHTW có thể can thiệp thị trường ngoại hối nhằm duy trì trật tự của thị trường hoặc can thiệp nhằm điều chỉnh hướng biến động của thị trường theo cách nhìn có lợi của NHTW. Đôi khi ngân hàng can thiệp đơn giản chỉ để kiểm nghiệm và thăm dò phản ứng của thị trường là như thế nào.Khối lượng can thiệp, thời điểm can thiệp, phương pháp can thiệp và trạng thái của thị trường là những yếu tố xác định tính hiệu quả trong hoạt động can thiệp của NHTW. Một điều quan trọng cần lưu ý rằng, hoạt động can thiệp của NHTW gây ảnh hưởng rất mạnh về mặt tâm lý đối với các thành viên tham gia thị trường. Do đó, NHTW cần suy xét kỹ càng để các hoạt động của mình trở nên hợp lý.
Với VIệt nam, Nhà nước giao cho NHTW thực hiện nhiệm vụ quản lý ngọai hối . Với tư cách là cơ quan duy nhất có nhiệm vụ phát hành tiền, xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ, lập và theo dõi cán cân thanh toán quốc tế, NHTW ddaax được giao nhiệm vụ quản lý Nhà nước và kiểm soát ngoại hối trên thị trường là phù hợp. Vấn đề này được đề cập trong pháp lệnh ngân hàng Nhà nước năm 1990 ( điều 30), luật NGân hàng Nhà nước năm 1997 ( điều 38 quy định : Nhà nước giao cho Ngân hàng Việt nam quản lý ngoại hối.
II. Nội dung cơ bản về quản lý ngoại hối .
1. Khái niệm quản lý ngoại hối.
Quản lý ngoại hối là việc nhà nước áp dụng các chính sách, biện pháp tác động vào quá trình nhập, xuất ngoại hối,( đặc biệt là ngoại tệ) và việc sử dụng ngoại hối theo những mục tiêu nhất định .
2. Mục đích quản lý ngoại hối.
2.1. Điều tiết tỷ giá thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Ngân hàng trung ương thực hiện các biện pháp nhằm tập trung, thúc đẩy tập trung các nguồn ngoại hối ( đặc biệt là ngoại tệ) vào ngân hàng trung ương để qua đó Nhà nước sử dụng một cách hợp lý, có hiệu quả cao cho các nhu cầu phát triển kinh tế và hoạt động đối ngoại. Đồng thời sử dụng chính sách ngoại hối như một công cụ có hiệu lực để thực hiện chính sách tiền tệ, thông qua mua bán ngoại hối trên thị trường để can thiệp vào tỷ giá khi cần thiết nhằm ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền, tác động vào lượng tiền cung ứng.
2.2. Bảo tồn quỹ dự trữ ngoại hối Nhà nước.
Là cơ quan quản lý tài sản quốc gia, Ngân hàng trung ương phải quản lý quỹ dự trữ ngoại hối Nhà nước nhưng không phải chỉ bảo quản và cất giữ mà còn biết sử dụng để phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế, luôn đảm bảo an toàn không đẻ bị ảnh hưởng rủi ro về tỷ giá ngoại tệ trên thị trường quốc tế. Vì vậy Ngân hàng trung ương cần phải mua, bán, chuyển đổi để phát triển quỹ, chống thất thoát, sói mòn quỹ dự trữ ngoại hối của Nhà nước , bảo vệ độc lập chủ quyền về tiền tệ.
2.3. Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.
Cán cân thanh toán quốc tế thể hiện quan hệ thu chi quốc tế của một nước với một nước ngoài. Cán cân thanh toán quốc tế phản ánh đầy đủ xu hướng cung và cầu ngoại tệ trong các giao dịch quốc tế nên nó tác động lớn đến tỷ giá hối đoái của đồng tiền.
Khi cán cân thanh toán quốc tế bội thu, lượng ngoại tệ chảy vào trong nước tăng lên dẫn đến khả năng cung ứng về ngoại tệ cao hơn nhu cầu, trường hợp nầy tỷ giá vận động theo xu hướng giảm và ngược lại. Như vậy nếu không có sự can thiệp của NHTW, tỷ giá sẽ tăng hoặc giảm theo quy luật cung cầu trên thị trường.
3. Cơ chế quản lý ngoại hối
3.1. Cơ chế tự do ngoại hối.
Thực hiện cơ chế tự do ngoại hối nghĩa là ngoại hối được tự do lưu thông trên thị trường, cân bằng ngoại hối do thị trướng quyết định mà không có sự can thiệp của Nhà nước, do vậy tỷ giá- giá cả ngoại hối sẽ phù hợp với sức mua của đồng tiền trên thị trường. Tỷ giá thả nổi dẫn đến lãi suất, vốn vào và ra do thị trường quyết định.
3.2. Cơ chế quản lý.
Hiện nay, hầu hết các nước đều áp dụng cơ chế có sự quản lý của Nhà nước, song tuỳ thuộc vào từng nước mà mức độ quản lý khác nhau.
Cơ chế Nhà nước thực hiện quản lý hoàn toàn.
Theo cơ chế này Nhà nước thực hiện độc quyền ngoại thương và ngoại hối.
Nhà nước áp dụng các biện pháp hành chính áp đặt tập trung tất cả hoạt động ngoại hối vào tay mình. Tỷ giá do Nhà nước quy định mà tất cả các giao dịch ngoại hối phải chấp hành, các tổ chức tham gia hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nếu bị lỗ do tỷ giá thì sẽ được Nhà nước cấp bù, ngược lại nếu có lãi thì nộp cho ngân sách Nhà nước. Cơ chế này thích hợp với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
Cơ chế quản lý có điều tiết
Khác với cơ chế quản lý hoàn toàn, Nhà nước có thể là áp đặt khống chế được thị trường, ngăn chặn ảnh hưởng ừ bên ngoài, chủ động khai thác được nguồn vốn bên trong . Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường cách quản ý này sẽ không phù hợp, cản trở và gây ách tắc cho nền kinh tế.
Để khắc phục sự áp đặt, Nhà nước điều tiết nhưng cũng gắn với thị trường, mức độ kiểm soát của Nhà nước trong điều kiện nhất định để nhằm phát huy tính tích cực của thị trường, hạn chế được nhược điểm do thị trường gây nên, tạo điều kiện cho kinh tế trong nước phát triển ổn định.
4. Những quy định chung về quản lý ngoại hối ở Việt nam.
Theo nghị định của chính phủ số 63/1998/NĐ- CP ngày 17 tháng 8 năm 1998 về quản lý ngoại hối:
- Đối tượng chịu sự quản lý là tổ chức, cá nhân Việt nam trên lãnh thổ Việt nam và ở nước ngoài; tổ chức, cá nhân nước ngoài trên lãnh thổ Việt nam.
- Ngoại hối chỉ được phép lưu hành qua hệ thống ngân hàng, tổ chức và cá nhân được phép hoạt động ngoại hối.
- Hoạt động ngoại hối tại khu vực biên giới, khu chế xuất được thực hiện theo quy định riêng của Thủ tướng Chinh phủ
- Quản lý Nhà nước về ngoại hối:
+ Chính Phủ thống nhất quản lý Nhà nước về ngoại hối và hoạt động ngoại hối.
+ Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện việc quản lý Nhà nước về ngoại hối và hoạt động ngoại hối.
+ Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc chính phủ, uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm quản lý Nhà nước về ngoại hối và hoạt động ngoại hối trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình.
- áp dụng điều ước quốc tế, tập quán quốc tế và pháp luật nước ngoài trong hoạt động ngoại hối với nước ngoài.
+ Trong trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác với quy định của nghị định này, thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
+ Trong trường hợp pháp luật Việt nam không cấm, các bên tham gia hoạt động ngoại hối với nước ngoài có thể thoả thuận áp dụng tập quán quốc tế hoặc pháp luật nước ngoài, nếu không gây ra hậu quả làm làm thiệt hại đến lợi ích của Việt nam .
Có thể nói, ngân hàng trung ương đóng một vai trò quan trọng trong việc can thiệp vào thị trường ngoại hối. Một sự can thiệp hữu hiệu của NHTW, theo đó đồng tiền trong nước được bán để mua tài sản nước ngoài làm ; tăng dự trữ quốc tế, tăng cung tiền tệ, giảm giá trị đồng tiền trong nước.Mặt khác, việc can thiệp vô hiệu của NHTW có ít tác dụng đến tỷ giá.
Thực trạng quản lý ngoại hối ở Việt nam
I. Tình hình ngoại hối ở Việt nam.
Hoạt động kinh doanh ngoại hối là một hoạt động khá mới mẻ đối với các Ngân hàng Việt nam. Đặc biệt là khi nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối ở các Ngân hàng đã được phát triển, các Ngân hàng không chỉ tham gia vào thị trường hối đoái trong nước mà còn tham gia vào thị trừơng hối đoái quốc tế. Giao dịch ngoại hối bao gồm các giao dịch trên thị trường bán buôn các loại ngoại tệ. Đặc trưng cuả các giao dịch này tập trung vào bốn loại: giao dịch giao ngay, giao dịch kì hạn, giao dịch hoán đổi, giao dịch mua bán quyền lựa chọn . Giao dịch ngoại hối bao gồm hợp đồng chuyển đổi một loại tiền tệ này sang một loại tiền tệ khác theo tỷ giá đã thoả thuận.
Hoạt động kinh doanh ngoại hối có khả năng mang lại lợi nhuận lớn trong tổng thu nhập của ngân hàng. Đối với một số ngân hàng thì thu nhập từ hoạt động kinh doanh ngoại hối chiếm tới 25-35% tổng thu nhập. Ngoài ra hoạt động kinh doanh ngoại hối còn đáp ứng nhu cầu thanh toán một loại tiền nào đó khi ngân hàng có nhu cầu. Hơn nữa, hoạt động kinh doanh ngoại hối còn giúp Ngân hàng tự bảo vệ tài sản của họ khi đầu tư vào một loại tiền có tính ổn định cao hơn.
Đi liền với kinh doanh ngoại hối, chúng ta không thể không nhắc tới sự biến động của tỷ giá. Bởi vì sự biến động của nó có ảnh hưởng tới cả một nền kinh tế của một quốc gia có khi của cả một khu vực. Với Việt nam, tỷ giá cũng có những thay đổi, ở bài viết này em xin được trình bày diễn biến tỷ giá USD/VND thời gian qua, tức tính từ tháng 9 năm 2000 đến nay.
Có thể kết luận khái quát : bắt đầu từ tháng 9 năm 2000, tỷ giá USD/VND đã liên tục tăng cao, có ngày tăng lên đến 10 đồng. Nếu so với đầu năm 2000, đến nay tỷ giá USD/VND đã tăng (2-2.65%).
Trên các bản tin về giá ngoại tệ và giá vàng tgong nước trên các báo đài, chúng ta đều thấy giá USD tăng liên tục trong khi giá vàng trong nước lại có xu hướng giảm . Dưới đây là diễn biến và nguyên nhân của sự tăng giá USD trên thị trường ngoại tệ Việt nam.
Tính từ đầu năm đến cuối tháng 10 năm 2000, giá USD trên thị trường chính thức và trên thị trường tự do đều tăng liên tục, đặc biệt tốc độ tăng giá USD trong tháng 9, 10 đều cao hơn các tháng trước. Tính chung từ đầu năm đến cuối tháng 10/2000, tỷ giá USD/ VND đã tăng từ 2-2,65%; đây là tỷ lệ tăng khá cao trong khi đó giá vàng lại giảm liên tục.
Nguyên nhân nào làm cho USD tăng giá ?
- Nguyên nhân bên ngoài: Đồng USD tăng giá một cách khá chắc chắn trên thị trường quốc tế là một hiên tượng ai cũng có thể thấy được, điều này cũng có nghĩa là sự xuống giá của các đồng tiền còn lại.
Trong gần 10 năm liên tục, nền kinh tế Mĩ có sự phát triển ổn định và chưa có dấu hiệu chững lại, đây là thời hoàng kim thứ 2 của nền kinh tế Mỹ. Tuy nhiên , những hoạch định chính sách tài chính tiền tệ của Mỹ lại cho rằng đã đến lúc phải kìm hãm sự phát triển có phần hơi nóng của nền kinh tế , nên đã sử dụng công cụ lãi suất theo hướng điều chỉnh tăng lãi suất liên tục trong 2 năm trở lại đây. Hình như họ muốn thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ làm cho đồng USD lên giá không những ở thị trường Mĩ mà ở khắp các thị trường khác trên thế giới. Khả năng cạnh tranh và vị trí của đồng USD Mỹ nhờ đó ngày càng được khẳng định.
Với lãi suất Mĩ tăng cao, có tác dụng thu hút các nguồn vốn ngắn hạn bằng USD đổ vào Mỹ, khiến USD ngày càng có giá, cầu về USD trên bình diện quốc tế ngày càng tăng; vì vậy mà tỷ giá USD so với các đồng tiền khác đều tăng.
- Nguyên nhân bên trong :
+ Tình trạng mất cân đối giữa cung và cầu ngoại tệ.
+ Tình trạng cán cân vãng lai của Việt nam thiếu hụt liên tục qua các năm cũng làm cho nhu cầu ngoại tệ tăng lên.
+ Ngoài ra còn phải kể đến yếu tố tâm lý: nhiều đơn vị, tổ chức, cá nhân thấy giá USD trên thị trường tăng liên tục nên đều tìm cách găm giữ hoặc mua bán chui không qua sự kiểm soát, làm cho cung cầu ngoại tệ có phần mất cân đối giả tạo.
+ Trong điều kiện tỷ giá USD/VND tăng như hiện nay sẽ xảy ra tình trạng nhiều đơn vị, tổ chức cá nhân muốn mua USD vào để hi vọngkiếm lời do USD tăng giá hoặc ít nhất cũng hạn chế về rủi ro tỷ giá hối đoái, trong khi nhu cầu thực sự về USD chưa hẳn là đã cần thiết đối với họ. Điều này làm cho cung cầu ngoại tệ càng bị mất cân đối .
II. Thực trạng quản lý ngoại hối ở Việt nam.
1. Trước khi có luật Ngân hàng.
Trong một thời gian dài, với chế độ Nhà nước nắm độc quyền ngọai thương và ngoại hối, Nhà nước trực tiếp can thiệp và xác định tỷ giá, không hề quan tâm đến cung cầu của thị trường ngoại hối, thi hành chế độ tỷ giá cố định và đa tỷ giá. Mọi nguồn thu chi ngoại tệ đều do Nhà nước định đoạt, Nhà nước trung ương hoàn toàn độc quyền về ngoại hối.
Từ năm 1989 Nhà nước có chủ trương và giải pháp đổi mới đồng bộ trong quan hệ kinh tế đối ngoại và trong chính sách tỷ giá. Từ tháng 3/1989, nhà nước đã áp dụng chế độ tỷ giá được điều chỉnh thường xuyên gần sát với tỷ giá thị trường. Ngay sau đó, Ngân hàng Nhà nước VIệt nam, 2 trung tâm giao dịch hối đoái : một ở Thành phố Hồ Chí Minh, một ở Hà nội, để làm thí điểm cho việc tiến tới thành lập một thị trường hối đoái trong cả nước, đã thành lập và tổ chức hoạt động thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng.
Vào thời kì này, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quy chế quản lý ngoại hối nhằm khai thác nguồn thu về ngoại hối và hạn chế ngoại hối ra nước ngoài.Nếu như trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung thì quản lý ngoại hối được tập trung vào Nhà nước , chỉ có các doanh nghiệp quốc doanh mới được tham gia xuất khẩu hàng hoá do tỷ giá được ấn định dẫn đến hiện tượng thu bù chênh lệch ngoại thương. Còn sau khi thực hiện chuyển đổi nền kinh tế , thực hiện pháp lệnh Ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành các quy chế về quản lý ngoại hối. Nội dung của các quy chế này trên tinh thần khuyến khích ngoại hối vào và hạn chế ngoại hối ra nhằm khai thác mọi tiềm năng kinh tế trong nước và phát triển quan hệ kinh tế với nước ngoài vì lợi ích quốc gia .
2. Sau khi ban hành bộ luật Ngân hàng.
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt nam ra đời quy định rõ việc quản lý ngoại hối ở Việt nam tại điều 37, 38 theo các nội dung sau:
- Cấp, thu hồi giấy phép hoạt động ngoại hối.
- Tổ chức, điều hành thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng và thị trường ngoại hối trong nước.
- Kiểm kê, thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối, kiểm soát việc xuất, nhập ngoại hối.
- Kiểm soát hoạt động ngoại hối của các tổ chức tín dụng.
Theo đó, một loạt các văn bản pháp quy hiện hành về quản lý ngoại hối :
- Nghị định số 63/ 1998/ NĐ - CP của Chính phủ về quản lý ngoại hối.
- Nghị định số 164/ 1999/ NĐ - CP của Chính phủ về quản lý cán cân thanh toán quốc tế của Việt nam.
- Nghị định số 86/ 1999/ NĐ - CP của chính phủ về quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước .
- Quyết định số 93/ 2000/ QĐ- BTC của bộ trưởng bộ tài chính về việc ban hành quy chế điều hành quỹ ngoại tệ tập trung cuả Nhà nước .
Những quy định này nhằm điều chỉnh và cơ chế điều hành của ta trong thời gian trước cho phù hợp với tình hình thực tế của đất nước trong xu hướng phát triển chung của nền kinh tế thế giới không ngừng thay đổi và biến động
Đáp ứng nhu cầu và đòi hỏi của nền kinh tế thị trường.
Theo quy định tại nghị định số 63/1998/ NĐ- CP thì đối tượng được quyền mở tài khoản, sử dụng ngoại tệ trong nước là những tổ chức có nguồn thu chi ngoại tệ từ các giao dịch vãng lai, giao dịch vốn và các giao dịch khác hợp pháp, là những cá nhân có ngoại tệ từ nước ngoài chuyển qua Ngân hàng hoặc mang theo người khi nhập cảnh vào Việt nam và những thu chi ngoại tệ khác. Theo quy định tại điều 5, 6 thì những cá nhân có ngoại tệ được quyền cất giữ, mang theo người, được gửi tại Ngân hàng và sử dụng hoặc bán cho các tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối và bán đổi ngoại tệ trên cơ sở tự nguyện.
Theo quy định tại điều này thì hiện nay tại Việt nam, một khối lượng lớn ngoại hối đang trôi nổi trên thị trường và được sử dụng như một phương tiện thanh toán thay thế đồng Việt nam. Toàn bộ lượng ngoại hối này nằm ngoài tầm kiểm soát của hệ thống Ngân hàng, gây nên hiện tượng đô la hoá nền kinh tế trong những năm gần đây. Hiện nay không có số thống kê chính thức về lượng ngoại hối trôi nổi trên thị trường nhưng ước tính lên tới hàng tỷ USD. Nhiều doanh nghiệp khi không chính thức mua ngoại tệ từ Ngân hàng thương mại đã tiến hành mua ngoại tệ từ thị trường tự do để thực hiện thanh toán quốc tế. Đây là hiện tượng rất phổ biến trong những năm gần đây do một số nguyên nhân chủ yếu như sự chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi bằng đô la so với VND, sự ổn định sức mua của đồng Việt nam hay cơ chế và chính sách mua bán giữa đồng Việt nam và đồng đô la. Điều này ảnh hưởng đến mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định tỷ giá.
Tuy nhiên, theo quy định tại nghị định số 86/ 1999/ NĐ - CP thì Nhà nước đã lập ra hai quỹ : quỹ dự trữ ngoại hối và quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng nhằm mục đích can thiệp vào thị trường ngoại hối nhằm bình ổn tỷ giá, thực hiện các nghiệp vụ đầu tư ở nước ngoài và tạm ứng cho Ngân sách Nhà nước trong trường hợp đột xuất. Theo đó thì từ khi thành lập cho đến cuối năm 2000, tổng số ngoại tệ do Ngân hàng Nhà nước mua từ thị trường đạt khoảng 4 tỷ USD. Tổng số chi từ quỹ này khoảng 2 tỷ USD. Số dư đến cuối tháng 12 năm 2000 là 2 tỷ USD và một số ngoại tệ khác tương đương khoảng 350 triệu USD. Với việc thực hiện thu chi ngoại hối như vậy, Nhà nước đã từng bước quản lý hạn chế sự lên giá liên tục của ngoại tệ nên tỷ giá trong vòng 10 tháng đầu năm 2000 trên thị trường chỉ tăng từ 2- 2,65 %. Đây là một trong những thành công trong việc quản lý ngoại hối ở Việt nam trong thời gian qua .
Cùng với việc quản lý các giao dịch ngoại hối, Ngân hàng Nhà nước Việt nam còn tiến hành quản lý tỷ giá hối đoái. Trước tháng 2/1999, cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái ở Việt nam là cơ chế can thiệp trực tiếp bằng cách ấn định tỷ giá chính thức với biên độ giao dichj ở thời điểm tương có khi lên đến ± 10%. Từ tháng 2/1999, bằng 2 quyết định 64/1999/QĐ - NHNN7 và 65/1999/QĐ - NHNN7 ngày 25/2/1999, Ngân hàng Nhà nước đã bãi bỏ việc công ố tỷ giá chính thức nói trên và thay vào đó là công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng. Các Ngân hàng thương mại được phép xác định tỷ giá mua và tỷ giá bán đối với đô la Mỹ không vượt quá biên độ 0,1% so với tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước công bố hàng ngày. Có thể nói đây là một bước đổi mới rất quan trọng không những trong quan niệm, trong tư duy mà trong cả thực tiễn quản lý, với cơ chế này làm cho tỷ giá trên thị trường vận động một cách khách quan, phản ánh đúng hơn các quan hệ cung cầu về ngoại tệ trên thị trường đồng thời phù hợp với cơ chế điều hành tỷ giá của nhiều nước trên thế giới. Song song với việc thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá, Ngân hàng Nhà nước Việt nam đã có quyết định thay đổi cơ chế điều hành lãi suất: bãi bỏ cơ chế diều hành lãi suất trần, thay bằng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, ( QĐ số 211/ 2000/ QĐ- NHNN I ngày 2/8/2000 ). Theo đó các ngân hàng, các tổ chức tín dụng được quyền ấn định lãi suất cho vay đối với khách hàng nhưng không được vượt quá mức lãi suất cơ bản và biên độ được quy định trong từng thời kỳ. Trong đó cho vay bằng USD lấy SIBOR- lãi suất trên thị trường liên ngân hàng Singapore làm lãi suất cơ bản. Với việc thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá và lãi suất nói trên là hoàn toàn hợp lý và đúng hứơng, tạo một bước tiến mới có tính chất đột phá của Chính phủ và Ngân hàng trung ương để đưa hệ thống ngân hàng Nhà nước từng bước hội nhập quốc tế. Có thể thấy mô hình quản lý của Việt nam khác so với mô hình thuyết trên một số phương diện sau đây:
- Khi ngoại tệ được chuyển vào nền kinh tế thông qua hệ thống Ngân hàng thương mại, các tổ chức, cá nhân được nhận dòng ngoại tệ( không phải quy đổi ra tiền đồng ).
- Tổ chức, cá nhân được phép mở tài khoản ngoại tệ ở các Ngân hàng thương mại trong nước. Trên cơ sở đó, các ngân hàng thương mại được phép cấp tín dụng bằng ngoại tệ, do vậy tạo ra một thị trường tín dụng sử dụng song song ít nhất hai loại tiền tệ ( VND và USD ). Các ngân hàng thương mại cũng sử dụng nguồn tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ để thực hiện các nghiệp vụ đầu tư ở nước ngoài.
Trong những năm vừa qua, cán cân thanh toán quốc tế của Việt nam tương đối ổn định. Mặc dù cán cân vãng lai luôn thâm hụt, nhưng thặng dư cán cân vốn không những đủ để bù đắp thâm hụt vãng lai mà còn còn tạo thặng dư cho cán cân thanh toán tổng thể. Do vậy nếu theo lý thuyết thì không thể xảy ra tình trạng khan hiếm ngoại tệ trên thị trường, nhưng tình trạng căng thẳng về ngoại tệ vẫn diễn ra liên tục trong hai năm gần đây . Giá giao dịch ngoại tệ luôn ở mức sát trần do NHNN quy định. Xảy ra tình trạng này là do:
- Mặc dù lượng ngoại tệ là dồi dào, nhưng khi ở trong nền kinh tế lại bị chia cắt thành nhiều mảnh, không được tập trung điều hoà thông qua hệ thống Ngân hàng thương mại.
- Mặc dù chức năng của quỹ dự trữ ngoại hối là để bù đắp thâm hụt nhưng do mức dự trữ quá mỏng nên Ngân hàng Nhà nước không có điều kiện thực hiện nghiệp vụ này.
Trên đây là một số điều về thực trạng quản lý ngoại hối ở Việt nam. Từ đó có những biện pháp như sau :
Một số biện pháp về quản lý ngoại hối :
Để đánh giá về chính sách quản lý ngoại hối của Việt nam ta trong thời gian qua cần phải nhìn nhận vấn đề ngoại tệ một cách tổng thể trong quá trình phát triển chung của đất nước. Với cơ chế quản lý ngoại hối trong thời gian qua đã đạt được những kết quả khả quan mang lại nguồn vốn dồi dào cho dất nước, đáp ứng nhu cầu thu chi ngoại tệ của nền kinh tế ngày càng cao, từng bước làm giảm dần mức thiếu hụt trong cán cân thanh toán...
Tuy vậy nhưng vẫn còn tồn tại tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán. Vì vậy Nhà nước cần phải có các biện pháp nhằm giảm tình trạng này như sau:
- Tiếp tục thực hiện các biện pháp khuyến khích xuất khẩu, tập trung thu hút các nguồn chuyển giao vãng lai một chiều, đầu tư nước ngoài để làm tăng tổng nguồn thu ngoại tệ của quốc gia, góp phần duy trì cán cân vãng lai và thặng dư cán cân thanh toán tổng thể.
- Thắt chặt quản lý ngoại hối, hạn chế tối đa các giao dịch được phép thanh toán bằng ngoại tệ trôi nổi trên thị trường vào hệ thống ngân hàng, thực hiện thật sự nghiêm túc phương châm: “ chỉ tiêu dùng đồng việt nam trên lãnh thổ Việt nam ” . Có biện pháp ngăn chặn hiện tượng đô la hoá nền kinh tế, trước mắt là hạn chế dần việc nhận tiền gửi bằng ngoại tệ. Trên cơ sở đó, Ngân hàng Nhà nước thực hiện nhiệm vụ mua ngoại hối từ thị trường ngoại tệ liên ngân hàng nhằm từng bước nâng dự trữ ngoại hối Nhà nước tới và vượt mức an toàn tối thiểu.
- Dự trữ ngoại hối Nhà nước phải được sử dụng theo đúng mục đích. Trong trường hợp cần tạm ứng cho Ngân sách Nhà nước thì phải được hoàn trả bằng ngoại tệ hoặc bằng lượng VND tương ứng nhằm đảm bảo cân đối giữa ngoại tệ dự trữ và khoản VND phát hành ra lưu thông.
- Thống nhất quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước vào một đầu mối là Ngân hàng Nhà nước . Các nguồn thu và chi ngoại tệ của Ngân sách Nhà nước được Ngân hàng Nhà nước đảm bảo cân đối.
Một số đề xuất
Về cơ bản, việc thanh toán một giao dịch ngoại hối đòi hỏi phải có sự chi ra một đồng tiền và thu về một đồng tiền khác. Khi không có một cơ chế thanh toán đảm bảo cho việc chuyển giao vô điều kiện và không huỷ ngang giữa hai đồng tiền thì có thể gặp rủi ro, một bên tham gia vào giao dịch ngoại hối có thể chi ra đồng tiền đã bàn nhưng không nhận được ồng tiền đã mua. Rủi ro mất vốn trong thanh toán này được gọi là rủi ro trong thanh toán ngoại hối.
Vì vậy , cần:
- Hiểu quá trình thanh toán: Nhà quản lý cấp cao phải thúc đẩy sự hiểu biết tường tận về quá trình thanh toán ở tất cả những cấp ra quyết định.
- Hiểu rõ về rủi trong thanh toán ngoại hối.
- Xem xét lại và nâng cao các mối quan hệ Ngân hàng đại lý.
- Hoàn thành quá trình đối chiếu càng sớm càng tốt.
- Theo dõi những khoản mua tiền tệ không nhận được, thiết lập và thực hiện các thủ tục xử lý tiếp theo.
- Thiết lập các thoả thuận bù trừ và khả năng hoạt động để bù trừ các khoản thanh toán.
- Buộc những nhà quản lý rủi ro phải có trách nhiệm đối với việc theo dõi va kiểm soát rủi ro thanh toán.
- Đặt ra những giới hạn thận trọng cho mức rủi ro thanh toán ngoại hối.
- Chuẩn bị cho những trường hợp xảy ra khủng hoảng.
Kết luận
Trên đây là một số vấn đề về quản lý ngoại hối ở Việt nam. Chúng ta có thể thấy ngoại hối đóng vai trò quan trọng đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường ngày nay. Việt nam - một đất nước còn nghèo nàn, lạc hậu, muốn cho nước ta phát._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34561.doc