Thực trạng và giải pháp trong phân tích giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến VN

Chương 1: Phương pháp tính giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp chế biến Việt Nam I. Tổng quan về Hệ thống tài khoản quốc gia (SNA), giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm 1. Về Hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) 1.1. Quá trình vận dụng vào Việt Nam Trong xu thế hoà nhập kinh tế khu vực và thế giới, việc giao lưu giữa các nước ngày càng mở rộng, không gian ngày càng rút ngắn lại do tiến bộ của vận tải, thông tin. Nhu cầu cấp thiết về thông tin ngày càng quan trọng trong l

doc109 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1389 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp trong phân tích giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến VN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĩnh vực quản lý tầm vĩ mô, cũng như trong hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Mặt khác, đường lối mở rộng quan hệ hợp tác với tất cả các nước của Đảng và Nhà nước đang tạo cơ sở khách quan cho các doanh nghiệp tiếp cận với thông tin công nghệ trên thế giới. Việc đổi mới từ nền kinh tế vận động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi hoạt động của các doanh nghiệp trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân phải có sự chuyển đổi mạnh mẽ. Đồng thời, việc đánh giá hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp cũng phải được tăng cường và đổi mới. Không thể chỉ dựa vào kế hoạch sản xuất đủ số lượng sản phẩm mà còn phải chú ý đến chất lượng, mẫu mã của từng loại sản phẩm. Có như vậy, nền kinh tế nước ta mới có thể hoà nhập được vào các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Để đạt được điều này, đòi hỏi phải có sự giúp đỡ của khoa học kỹ thuật nhất là công nghệ thông tin. Trong cơ chế thị trường ngày nay, yêu cầu thông tin nhanh, chính xác lại càng quan trọng đối với quản lý sản xuất kinh doanh ở tầm vĩ mô cũng như tầm vi mô. Thông tin thống kê có vai trò hết sức quan trọng đối với việc quản lý của doanh nghiệp và đánh giá tổng hợp hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Việc quyết định sự ra đời, phát triển hay phá sản của một doanh nghiệp cần phải có những thông tin thống kê đầy đủ, chính xác và khoa học. Thông tin thống kê được phản ánh qua các chỉ tiêu thống kê. Chỉ tiêu thống kê phản ánh lượng gắn với chất của các mặt, các tính chất cơ bản của hiện tượng số lớn trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể. Tính chất của các hiện tượng cá biệt được khái quát hoá trong chỉ tiêu thống kê. Như Lênin nói, các chỉ tiêu thống kê có thể giải thích bản chất và phản ánh các hiện tượng kinh tế xã hội, có ý nghĩa chứng minh sự phát triển của các hiện tượng đó”. Để thống kê được đúng các chỉ tiêu kinh tế, phục vụ đắc lực cho quản lý kinh tế trong cơ chế thị trường sôi động, ngành Thống kê đã căn cứ vào cơ sở lý luận của kinh tế học. Kinh tế học giải thích rõ phạm trù sản xuất, các hình thái sản phẩm, kết quả của quá trình sản xuất, quá trình vận động của sản phẩm từ sản xuất đến tiêu dùng... những khái niệm về thu nhập, phân phối, tích luỹ, tiêu dùng, những phạm trù đầu tư, hiệu quả kinh tế, hiệu quả đầu tư... đã được kinh tế học làm sáng tỏ. Trên cơ sở đó, thống kê mới tính toán các chỉ tiêu, phân tích các mối quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất xã hội đầy đủ, chính xác phục vụ kịp thời cho việc điều hành, quản lý đồng thời hoạch định các chính sách phát triển kinh tế xã hội trong tương lai phù hợp với khả năng của đất nước, thoả mãn nhu cầu trong quan hệ ngoại giao với bên ngoài. Nhìn chung, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ đều rất phức tạp bao gồm nhiều quá trình, nhiều giai đoạn mới có được sản phẩm hoàn chỉnh đem trao đổi trên thị trường. Vì vậy, để tổng hợp hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, cần xây dựng một hệ thống chỉ tiêu thống kê giúp cho việc thu thập thông tin dễ dàng có tính chính xác cao, phục vụ tốt các yêu cầu quản lý của doanh nghiệp, của các ngành kinh tế quốc dân và của Nhà nước. Hệ thống chỉ tiêu thống kê là tập hợp những chỉ tiêu thống kê, có thể phản ánh các mặt, các tính chất quan trọng các mối liên hệ cơ bản giữa các mặt tổng thể và mối liên hệ của tổng thể với các hiện tượng liên quan. Hệ thống chỉ tiêu thống kê kinh tế mỗi nước được xây dựng phù hợp với yêu cầu của lý thuyết hệ thống, yêu cầu của so sánh quốc tế, tính hiện đại và tính khả thi. Hệ thống chỉ tiêu thống kê có thể thay đổi bổ sung về mặt số lượng và cơ cấu cho phù hợp với yêu cầu quản lý và trình độ hạch toán ở mỗi thời kỳ. Từ sau những năm 20 đến năm 1992, trên thế giới có 2 hệ thống thông tin kinh tế - xã hội tổng hợp: Hệ thống bảng cân đối kinh tế quốc dân (MPS) và Hệ thống tài khoản quốc gia (SNA). Cả hai hệ thống thông tin kinh tế - xã hội tổng hợp trên có cùng mục đích phản ánh quá trình tái sản xuất xã hội của mỗi quốc gia. Trên cơ sở thu thập, xử lý và tổng hợp thông tin trên tầm vĩ mô để tính các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp nhằm phản ánh điều kiện sản xuất, kết quả sản xuất, quá trình phân phối thu nhập, mối quan hệ giữa các ngành kinh tế trong quá trình sản xuất và sử dụng cuối cùng kết quả sản xuất của nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, áp dụng hệ thống nào là phụ thuộc vào trình độ hạch toán ở quốc gia đó và tuỳ thuộc vào từng thời kỳ. ở Việt Nam từ 1954-1975, đất nước bị chia cắt làm 2 miền Bắc - Nam thuộc 2 chế độ chính trị khác nhau. Trình độ thống kê và phương pháp thống kê giữa 2 miền có sự khác nhau. ở miền Bắc, được sự giúp đỡ của các nước Xã hội chủ nghĩa trong đó chủ yếu là Liên Xô cho nên ngành thống kê trong giai đoạn này đã chịu ảnh hưởng của các nước trên. Cụ thể, ngành thống kê Việt Nam đã tiến hành tính các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp như: Sản phẩm xã hội, tiêu hao vật chất, thu nhập quốc dân, quỹ tiêu dùng, quỹ tích luỹ, xuất nhập khẩu hàng hoá... Trên cơ sở đó, lập bảng cân đối sản xuất và sử dụng sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân và một số bảng cân đối khác thuộc hệ thống MPS. ở miền Nam trong giai đoạn này, Viện Thống kê thuộc chính quyền Miền Nam tiến hành tính một số chỉ tiêu kinh tế quốc dân như: Tổng sản phẩm quốc gia (GNP), tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tiêu dùng cuối cùng, tích luỹ tài sản, xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ... theo SNA cho phạm vi cả miền Nam. Từ năm 1976-1988, đất nước thống nhất, ngành Thống kê đã tiến hành tính các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp và lập một số bảng cân đối thuộc MPS cho cả nước và cho tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Từ 1989-1992, ngành Thống kê được sự tài trợ của các cơ quan thống kê Liên hợp quốc tiến hành nghiên cứu và vận dụng SNA vào Việt Nam. Ngày 25/12/1992, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số: 183-TTg về việc Việt Nam chính thức áp dụng SNA và tính chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc nội trong phạm vi cả nước, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thay cho MPS và chỉ tiêu thu nhập quốc dân đã thực hiện trong thời gian trước đây. Sau một số năm thực hiện quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc vận dụng Hệ thống tài khoản quốc gia vào Việt Nam, ngành Thống kê đã tính toán được một số chỉ tiêu kinh tế tổng hợp như: Tổng sản phẩm quốc nội, tích luỹ tài sản, tiêu dùng cuối cùng, tổng thu nhập quốc gia (GNI), để dành và lập được một số tài khoản chủ yếu phục vụ yêu cầu quản lý ở tầm vĩ mô của Đảng và Nhà nước. Song, cơ sở số liệu ban đầu chưa đầy đủ, hệ thống hạch toán thống kê chưa cải tiến để phù hợp với nội dung các chỉ tiêu trong Hệ thống tài khoản quốc gia nên mức độ chính xác và đầy đủ của các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp còn hạn chế. Những kết quả đạt được cần phải hoàn thiện dần trong một số năm tới. Để khắc phục những nhược điểm trên, năm 1996-1998, Ngân hàng phát triển châu á (ADB) đã có dự án trợ giúp cho ngành thống kê hoàn thiện Hệ thống tài khoản quốc gia. Cơ quan ADB đã cử ngài Francisco T. Secretario, cố vấn trưởng cùng các chuyên gia có nhiều kinh nghiệm đến trực tiếp giúp Việt Nam xây dựng cơ sở dữ liệu, nhằm nâng cao độ tin cậy của chỉ tiêu GDP và hoàn thiện thêm một bước Hệ thống tài khoản quốc gia đang thực hiện ở Việt Nam. Đây cũng là một trong những đóng góp tích cực, to lớn có hiệu quả thiết thực của các tổ chức quốc tế để thúc đẩy công tác thống kê tài khoản quốc gia ở Việt Nam. Với sự giúp đỡ của chuyên gia ADB, các chuyên viên thống kê tài khoản quốc gia Việt Nam đã đưa ra những vấn đề cơ bản nhất của Hệ thống tài khoản quốc gia, xác định nội dung, phương pháp và nguồn thông tin để tính các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp trong Hệ thống tài khoản quốc gia do Thống kê Liên hợp quốc mới soạn thảo năm 1993 và được vận dụng một phần vào Việt Nam. Căn cứ vào chế độ kế toán hiện hành đang áp dụng cho các đơn vị sản xuất, kinh doanh của tất cả các lĩnh vực, kết quả báo cáo thống kê và điều tra thống kê... để giới thiệu cụ thể cơ sở thông tin phục vụ cho việc tính các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp và lập các tài khoản chủ yếu đang được thực hiện ở Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đã chính thức đưa Hệ thống tài khoản quốc gia vào sử dụng rộng rãi ở các doanh nghiệp, các ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, cần phải hiểu rõ hơn về SNA để tiện lợi cho việc quản lý cũng như cho việc hoạch định sản xuất kinh doanh trong những năm tiếp theo. 1.2. Bản chất của Hệ thống tài khoản quốc gia Hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) là hệ thống thống kê phản ánh tầm nhìn vĩ mô về kinh tế được phát triển trong nhiều thập kỷ. Là một hệ thống thống kê kinh tế, SNA có tính tổng hợp cao nhất, hầu hết các thông tin kinh tế nhằm mô tả quá trình sản xuất; quá trình tạo ra thu nhập, phân phối lần đầu và phân phối lại thu nhập; việc sử dụng thu nhập cho mục đích tiêu dùng, để dành và tích luỹ; các nguồn vốn huy động và hình thức vốn huy động (vốn tự có, vốn đóng góp, vốn đi vay ngân hàng, bán trái phiếu...) và cuối cùng SNA nhằm nắm được số tăng tài sản cố định, tài sản tài chính hàng năm, cũng như tổng tài sản cố định và tài sản tài chính cuối kỳ, để đánh giá được của cải hiện có của nền kinh tế cũng như của từng thành phần kinh tế và từng khu vực thể chế. Như vậy, có thể nhìn SNA dưới những góc độ sau: - Hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) là một hệ thống các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp có mối liên hệ mật thiết với nhau nhằm phản ánh các hoạt động kinh tế, kết quả kinh tế của một quốc gia trong khoảng thời gian cụ thể (thường là một năm). Hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) bao gồm những chỉ tiêu sử dụng để đo lường đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn bộ nền kinh tế nói chung và của ngành kinh tế nói riêng như: + Tổng giá trị sản xuất (GO) + Chi phí trung gian (IC) + Giá trị tăng thêm (VA) + Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) + Tổng thu nhập quốc gia (GNI) + Tổng thu nhập quốc gia sử dụng (NDI) + Tiết kiệm - để dành (S) + Tổng tích luỹ tài sản (GA) + Tích luỹ thuần + Tiêu dùng cuối cùng... - SNA là một hệ thống các tài khoản và bảng cân đối * Tài khoản sản xuất: Mục đích cơ bản của tài khoản sản xuất nhằm mô tả tổng kết kết quả sản xuất, kết quả sản xuất mới tăng và từng khoản chi phí trong quá trình sản xuất đó. Tài khoản sản xuất một mặt phản ánh kết cấu sử dụng: sản phẩm sản xuất ra sử dụng cho nhu cầu sản xuất, tiêu dùng cuối cùng, tích luỹ tài sản, xuất nhập khẩu với bên ngoài; mặt khác phản ánh kết cấu về giá trị thông qua các yếu tố chi phí: chi phí trung gian, chi trả cho người sản xuất, chi nộp thuế sản xuất, khấu hao tài sản cố định, giá trị thặng dư... thông qua tài khoản sản xuất thể hiện nội dung các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp như: giá trị sản xuất, chi phí trung gian, giá trị tăng thêm, tiêu dùng cuối cùng, tích luỹ tài sản, xuất nhập khẩu và phương pháp tính các chỉ tiêu đó, đặc biệt là chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Qua đó, chúng ta xác định được các mối quan hệ tỷ lệ của nền kinh tế như: giữa sản xuất và tiêu dùng cuối cùng, giữa sản xuất và tích luỹ tài sản, giữa sản xuất trong nước và xuất nhập khẩu... * Tài khoản thu chi: phản ánh quá trình hình thành, phân phối và phân phối lại các khoản thu nhập và chi tiêu thu nhập đó giữa các thành viên của từng khu vực thể chế và toàn bộ nền kinh tế quốc dân trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Qua tài khoản thu chi, ta có thể tính được các chỉ tiêu: tổng thu nhập quốc gia (GNI), thu nhập quốc gia (NI), để dành của toàn bộ nền kinh tế và từng khu vực thể chế. * Tài khoản vốn tài chính: phản ánh tổng nguồn vốn cho tích luỹ tài sản và mua sắm thêm đất, tài nguyên, tài sản vô hình, gồm có: nguồn vốn do để dành từ nội bộ nền kinh tế và một phần do chuyển nhượng vốn dưới hình thức viện trợ, cho không, quà biếu phục vụ cho đầu tư phát triển sản xuất. * Tài khoản quan hệ kinh tế với nước ngoài: phản ánh quá trình trao đổi hàng hoá, dịch vụ với các nước trên thế giới, vay nợ, chuyển nhượng hiện hành và chuyển nhượng vốn, đầu tư trực tiếp hay gián tiếp, mua bán ngoại tệ, vàng và các chứng khoán... Tài khoản này phù hợp với yêu cầu quản lý của nền kinh tế mở, giúp cho việc xem xét các mối quan hệ kinh tế giữa trong nước với nước ngoài, thanh toán quốc tế. * Bảng cân đối liên ngành kinh tế quốc dân (IO): phản ánh quá trình sản xuất, phân phối kết quả sản xuất, sử dụng cuối cùng sản phẩm dịch vụ của nền kinh tế trong mối liên hệ giữa số lớn các ngành kinh tế, ngành sản phẩm. Bảng cân đối này vừa để mô tả chi tiết các mối quan hệ, vừa dùng để xem xét, kiểm tra các mối liên kết giữa các bảng cân đối trong hệ thống. Nó là một trong những cơ sở để xây dựng các mô hình kinh tế dưới dạng toán học và được xử lý bằng công cụ máy tính hiện đại. * Bảng tổng kết tài sản. 1.3. Tác dụng của Hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) Qua các tài khoản và bảng cân đối cho ta biết được sự tác động qua lại giữa các yếu tố trong quá trình sản xuất ra sản phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ. SNA đã dùng hệ thống bảng IO để mô tả việc sử dụng các sản phẩm vật chất và dịch vụ, lao động cũng như tài sản cố định trong quá trình sản xuất của từng hoạt động sản xuất, chẳng hạn muốn sản xuất ra một sản phẩm ta phải cần trực tiếp những loại sản phẩm gì và bao nhiêu? cũng như cần loại tài sản cố định nào? và số vốn là bao nhiêu? Bảng IO không những cho ta biết những chi phí trực tiếp mà cả chi phí gián tiếp trong vòng khép kín của sản xuất. - SNA bao gồm các chỉ tiêu có tính phổ biến. Các chỉ tiêu được thống nhất về nội dung, phạm vi và phương pháp tính và sử dụng thống nhất giữa các quốc gia nhằm đảm bảo yêu cầu so sánh quốc tế. Vận dụng hệ thống chỉ tiêu kinh tế tổng hợp theo SNA là cần thiết, khách quan có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quản lý điều hành ở tầm vĩ mô cũng như ở tầm vi mô, đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế đất nước trong cơ chế mới cũng như yêu cầu hoà nhập với công tác thống kê thế giới. Việc sử dụng các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp trong SNA để nghiên cứu các quan hệ giữa sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ, giữa quan hệ kinh tế trong nước với nước ngoài về hàng hoá, dịch vụ vốn có ý nghĩa rất quan trọng. Cụ thể: * Phân tích, đánh giá các mối quan hệ tỷ lệ quan trọng nhất, cơ bản nhất của nền kinh tế quốc dân. Một số tỷ lệ quan trọng như: tỷ lệ GDP tạo ra từ nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ; tỷ lệ tích luỹ trên GDP; tỷ lệ vốn đi vay trên tổng tích sản... * Phân tích cơ cấu nền kinh tế quốc dân theo ngành kinh tế, theo khu vực thể chế. * Phân tích chính sách tài chính quốc gia: để phân tích ta cần chia thu chi ngân sách thành thu chi thường xuyên và thu chi vốn. Việc mất cân đối trong thu chi thường xuyên là dấu hiệu báo động cho việc cần điều chỉnh lại ngân sách. Phân tích chính sách tài chính quốc gia đòi hỏi thông tin cặn kẽ về các nhu cầu chi tiêu từ ngân sách và các nguồn thu ngân sách. Những số liệu của SNA ở Việt Nam và ở nước khác cho phép ta đánh giá xem mức chi tiêu của Nhà nước Việt Nam là vừa phải hay quá lớn. * Phân tích tình hình vay mượn nước ngoài * Phân tích chính sách tiền tệ: Muốn phân tích lạm phát hoặc giảm phát có phải do chính sách tiền tệ thả nổi hoặc kiểm soát gây ra không, ta cần so sánh tốc độ tăng khối lượng tiền và tốc độ tăng GDP. Nếu tốc độ tăng tiền cao hơn tốc độ tăng GDP quá nhiều thì rõ ràng chính sách tiền tệ đã thả nổi. Chính sách tiền thả nổi có thể do nguyên nhân thiếu hụt ngân sách nhà nước, lãi suất danh nghĩa quá thấp so với tốc độ lạm phát khiến số cầu tiền tệ quá lớn, mức độ đầu tư của ngoại quốc quá lớn so với khả năng của nền kinh tế. * Giúp cho lãnh đạo các doanh nghiệp có căn cứ khoa học để quản lý có hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. * Là căn cứ để đánh giá, phân tích tình hình sử dụng yếu tố của quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp (lao động, vốn, vật tư, tài sản), đánh giá, phân tích tình hình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp (thông qua chỉ tiêu các giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm, lợi nhuận). * Là căn cứ để lập kế hoạch phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cả về quy mô và cơ cấu, giúp cho các nhà quản lý có những thông tin cần thiết làm căn cứ khoa học để xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh theo hình thức đã lựa chọn. * Thông qua việc phân tích và tính toán các chỉ tiêu trong hệ thống, chỉ ra những biến động và xu hướng phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp làm cơ sở cho việc lựa chọn các giải pháp nhằm củng cố và phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đạt hiệu quả kinh tế cao. * Giúp cho lãnh đạo cấp trên hiểu rõ hơn tình hình doanh nghiệp và phục vụ cho việc tính toán một số chỉ tiêu kinh tế xã hội theo Hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) trong phạm vi nền kinh tế quốc dân như: giá trị sản xuất, chi phí trung gian, tổng sản phẩm quốc nội, tổng sản phẩm quốc gia. * Căn cứ vào kết quả tính toán giá trị tăng thêm và thu nhập doanh nghiệp, cơ quan chức năng của Nhà nước thực hiện thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp. - Hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) cùng với bảng phân ngành kinh tế quốc dân do Uỷ ban thống kê Liên hợp quốc biên soạn mang tính chất nguyên tắc chung. Tuỳ điều kiện kinh tế và yêu cầu quản lý ở mỗi nước mà vận dụng cho phù hợp. Khi so sánh kinh tế giữa các nước thông qua các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp của SNA cần phải đảm bảo tính thống nhất theo những nguyên tắc chung. II. Phương pháp tính giá trị sản xuất (GO), giá trị tăng thêm (VA) nói chung 1. Tính giá trị sản xuất 1.1. Khái niệm: Tổng giá trị sản xuất là toàn bộ giá trị của sản phẩm do lao động trong các ngành của nền kinh tế quốc dân sáng tạo ra trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). 1.2. Nội dung kinh tế: Tổng giá trị sản xuất chỉ bao gồm giá trị sản xuất các hoạt động sản xuất xã hội được pháp luật của quốc gia đó thừa nhận là hữu ích và cho phép hoạt động. Như vậy giá trị sản phẩm là hàng giả hoặc sản phẩm không nằm trong danh mục sản phẩm sản xuất theo quy định và pháp luật của Nhà nước sẽ không nằm trong tổng giá trị của sản xuất. 1.3. Nguyên tắc tính: + Tính theo lãnh thổ kinh tế (theo đơn vị thường trú) + Tính theo thời điểm sản xuất + Tính theo giá trị trường + Tính toàn bộ giá trị sản phẩm có nghĩa là tính cả giá trị nguyên vật liệu của khách hàng. + Tính toàn bộ giá trị kết quả sản xuất. Theo nguyên tắc này cần tính vào giá trị sản xuất không chỉ thành phẩm mà cả nửa thành phẩm và sản phẩm dở dang. 1.4. Phương pháp tính tổng giá trị sản xuất của toàn bộ nền kinh tế quốc dân: Tổng giá trị sản xuất của toàn bộ nền kinh tế quốc dân = ồGOngành j 2. Tính giá trị tăng thêm 2.1. Chi phí trung gian (IC) 2.1.1. Khái niệm: Chi phí trung gian là toàn bộ chi phí sử dụng cho vào quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm của xí nghiệp của một ngành hoặc của toàn bộ nền kinh tế quốc dân trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). 2.1.2. Nội dung kinh tế: Chi phí trung gian bao gồm toàn bộ chi phí về sản phẩm vật chất và dịch vụ dùng cho sản xuất. + Chi phí sản phẩm vật chất bao gồm: - Nguyên vật liệu chính, phụ - Nhiên liệu (xăng, dầu, mỡ) - Điện, nước, khí đốt - Bán thành phẩm - Sửa chữa nhỏ nhà xưởng, máy móc - Thiệt hại TSCĐ trong định mức - Chi phí dịch vụ khác. - Chi phí công cụ sản xuất nhỏ, vật liệu rẻ tiền mau hỏng. + Chi phí dịch vụ gồm: - Cước phí vận tải, bưu điện - Chi phí tuyên truyền, quảng cáo - Công tác phí (không kể phụ cấp đi đường, lưu trú) - Chi phí đào tạo, tập huấn nghiệp vụ, chuyên gia - Chi phí bảo vệ, vệ sinh môi trường - Chi phòng cháy chữa cháy - Chi thường xuyên về y tế, văn hoá, thể dục thể thao - Chi tiếp khách - Phí dịch vụ trả ngân hàng, tín dụng, bảo hiểm - Chi dịch vụ pháp lý 2.1.3. Nguyên tắc tính: + Được tính theo lãnh thổ kinh tế (đơn vị thường trú) + Giá cả sản phẩm vật chất và dịch vụ tính vào chi phí trung gian thống nhất với giá cả khi tính kết quả sản xuất. + Chỉ được tính vào chi phí trung gian những chi phí thực tế dùng trong sản xuất + Không được tính vào chi phí trung gian những khoản chi phí dùng để mua sắm và sửa chữa lớn tài sản cố định. 2.1.4. Phương pháp tính: tuỳ thuộc vào điều kiện hạch toán và phương pháp thu thập số liệu mà áp dụng phương pháp tính IC cho phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng bộ phận. 2.2. Giá trị tăng thêm (VA) 2.2.1. Khái niệm: Giá trị tăng thêm của toàn bộ hoạt động kinh tế của một quốc gia là toàn bộ giá trị mới do lao động trong các ngành của nền kinh tế quốc dân sáng tạo ra trong một thời kỳ nhất định (thường là 1 năm) và khấu hao tài sản cố định. 2.2.2. Nội dung kinh tế: Giá trị tăng thêm bao gồm: Khấu hao tài sản cố định (C1), thù lao lao động (V), thặng dư sản xuất (M) của một ngành kinh tế (VA = C1 + V + M). 2.2.3. Nguyên tắc tính: + Tính theo đơn vị thường trú (chỉ tính vào giá trị tăng thêm kết quả sản xuất của các đơn vị thường trú) + Tính theo thời điểm sản xuất (kết quả sản xuất của thời kỳ nào được tính vào giá trị tăng thêm của thời kỳ đó) + Tính theo giá thị trường. 2.2.4. Phương pháp tính: a) Phương pháp sản xuất Xác định giá trị tăng thêm theo phương pháp sản xuất là xác định trực tiếp từ người sản xuất qua các yếu tố chi phí và doanh thu đạt được trong kỳ nghiên cứu (thường là 1 năm). Giá trị tăng thêm = Giá trị sản xuất - Chi phí trung gian (GO=VA - IC) b) Phương pháp phân phối Giá trị tăng thêm = Thu nhập của người lao động + Thuế sản xuất và hàng hoá + Khấu hao tài sản cố định + Giá trị thặng dư = Tổng thu nhập lần đầu VA = ồTN1 của người lao động, hộ, các doanh nghiệp và nhà nước. Thu nhập lần đầu là thu nhập nhờ sản xuất mà có, bao gồm cả thu nhập nhân tố sản xuất. Thu nhập của người lao động gồm: - Tiền lương và các khoản có tính chất lương - Trả công lao động (bằng tiền và bằng hiện vật) trong kinh tế tập thể. - Trích bảo hiểm xã hội - Thu nhập khác (ăn trưa, ca ba, phụ cấp độc hại, phụ cấp đi đường, lưu trú trong công tác phí, phong bao hội nghị, trang bị bảo hộ lao động dùng trong sinh hoạt ngoài thời gian làm việc) - Thu nhập hỗn hợp trong kinh tế phụ và kinh tế cá thể. Thu nhập lần đầu của các đơn vị kinh tế (thặng dư sản xuất) gồm: - Lợi tức vốn sản xuất đóng góp - Lợi tức về thuê đất đai, vùng trời, vùng biển phục vụ sản xuất; - Lợi tức kinh doanh... - Khấu hao TSCĐ để lại doanh nghiệp - Trả lãi đi vay. Thu nhập lần đầu của Nhà nước gồm: - Thuế gián thu gồm: thuế sản xuất và hàng hoá gồm thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu, thuế sản xuất khác, thuế nhà đất, thuế tài nguyên, thuế vốn... - Khấu hao TSCĐ nộp ngân sách. III. Đặc điểm ngành công nghiệp chế biến ảnh hưởng đến cách tính giá trị sản xuất và giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp chế biến 1. Khái niệm và những đặc điểm của ngành công nghiệp chế biến 1.1. Khái niệm Ngành công nghiệp chế biến bao gồm các hoạt động làm thay đổi về mặt lý, hoá học của vật liệu hoặc thay đổi các thành phần kinh tế cấu thành của nó, để tạo ra sản phẩm mới và các hoạt động lắp ráp, gia công sản phẩm, cho dù các hoạt động đó được thực hiện bằng máy móc hay bằng thủ công trong nhà máy hay tại nhà của người lao động. Trong hệ thống tài khoản quốc gia (SNA), nền kinh tế được phân chia thành 17 ngành (hoạt động) cấp I thuộc 3 nhóm (khu vực) lớn khác nhau theo quy trình và hình thức hoạt động tự nhiên. ở Việt Nam dựa vào bảng phân loại tiêu chuẩn quốc tế các hoạt động kinh tế (ISIC) của hệ thống tài khoản quốc gia (SNA), ngày 27/10/1993 Chính phủ đã ra Nghị định số 75 CP ban hành hệ thống ngành kinh tế quốc dân gồm 20 ngành cấp I (lớn hơn ISIC 3 ngành). Nhóm I: gồm các ngành khai thác sản phẩm có từ tự nhiên: Cụ thể 3 ngành là nông - lâm nghiệp; thuỷ sản; công nghiệp khai thác. Nhóm II: gồm các ngành chế biến các sản phẩm khai thác từ nhóm I: Cụ thể 3 ngành là: công nghiệp chế biến, xây dựng, sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước. Nhóm III: gồm tất cả các ngành sản xuất ra sản phẩm dịch vụ (sản xuất và phi sản xuất) như là: ngành thương nghiệp, vận tải, kho bãi, thông tin liên lạc... Mỗi ngành cấp I lại chia thành các ngành cấp 2, ngành cấp 2 chia ra thành ngành cấp 3... Ngành công nghiệp chế biến là ngành tạo ra sản phẩm vật chất, thuộc nhóm ngành II (D) trong hệ thống các ngành cấp I - ngành công nghiệp của hệ thống ngành kinh tế quốc dân ở Việt Nam. Theo khái niệm trên, ngành công nghiệp chế biến bao trùm một phạm vi rất rộng. Nó gồm một số ngành cấp 2 như sau: D - Ngành công nghiệp chế biến 15 - Ngành công nghiệp sản xuất thực phẩm và đồ uống 16 - Ngành công nghiệp sản xuất thuốc lá, thuốc lào 17 - Ngành công nghiệp sản xuất sản phẩm dệt 18 - Ngành công nghiệp sản xuất trang phục 19 - Ngành công nghiệp sản xuất sản phẩm bằng da và giả da 20 - Ngành công nghiệp sản xuất gỗ và lâm sản 21 - Ngành công nghiệp sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy 22 - Ngành công nghiệp xuất bản, in 23 - Ngành công nghiệp sản xuất than cốc, dầu mỏ 24 - Ngành công nghiệp sản xuất hoá chất 26 - Ngành công nghiệp sản xuất sản phẩm phi kim loại 27 - Ngành công nghiệp sản xuất bằng kim loại 28 - Ngành công nghiệp sản xuất máy móc thiết bị 29 - Ngành công nghiệp sản xuất thiết bị văn phòng, máy tính 30 - Ngành công nghiệp sản xuất thiết bị điện, điện tử 31 - Ngành công nghiệp sản xuất radio, tivi 32 - Ngành công nghiệp sản xuất dụng cụ y tế chính xác 33 - Ngành công nghiệp sửa chữa xe có động cơ 34 - Ngành công nghiệp sửa chữa phương tiện vận tải khác 35 - Ngành công nghiệp sản xuất giường tủ, bàn ghế 36 - Ngành công nghiệp sản xuất sản phẩm tái chế. 1.2. Đặc điểm của ngành công nghiệp chế biến Nếu xét trên góc độ tổng hợp các mối quan hệ của con người trong hoạt động sản xuất, thì quá trình sản xuất là sự tổng hợp của hai mặt: mặt kỹ thuật của sản xuất và mặt kinh tế - xã hội của sản xuất. Trong lĩnh vực sản xuất vật chất của xã hội, do sự phân công lao động xã hội, nền kinh tế chia thành nhiều ngành kinh tế như nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp, xây dựng... Từ ý nghĩa đó, cần xem xét đặc trưng của sản xuất công nghiệp chế biến khác với sản xuất nông nghiệp trên cả hai mặt: kỹ thuật của sản xuất và mặt kinh tế - xã hội của sản xuất. * Các đặc trưng về mặt kỹ thuật - sản xuất của công nghiệp chế biến được thể hiện ở các khía cạnh sau: Đặc trưng về công nghệ sản xuất: trong công nghiệp chế biến, chủ yếu là các quá trình tác động trực tiếp bằng phương pháp cơ lý hoá của con người, làm thay đổi các đối tượng lao động thành các sản phẩm thích ứng với nhu cầu của con người; trong khi đó, sản xuất nông nghiệp bằng phương pháp sinh học là chủ yếu. Trong hoạt động lao động sản xuất nông nghiệp, các phương pháp cơ lý hoá, (làm đất, chăm sóc, thuỷ lợi...) chỉ là tác động tạo điều kiện môi trường sinh thái để phương pháp sinh học được thực hiện, làm biến đổi đối tượng lao động là cây trông, vật nuôi, hình thành và phát triển, tạo ra các sản phẩm thích ứng với nhu cầu con người. Nghiên cứu đặc trưng về công nghệ sản xuất có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tổ chức sản xuất và ứng dụng khoa học - công nghệ thích ứng với mỗi ngành. Trong công nghiệp chế biến ngày nay, phương pháp công nghệ sinh học cũng được ứng dụng ngày càng rộng rãi, đặc biệt là công nghiệp thực phẩm. Đặc trưng về sự biến đổi của các đối tượng lao động sau mỗi chu kỳ sản xuất: các đối tượng lao động của quá trình sản xuất công nghiệp chế biến sau mỗi chu kỳ sản xuất, được thay đổi hoàn toàn về chất từ công dụng cụ thể này chuyển sang các sản phẩm có công dụng cụ thể hoàn toàn khác. Hoặc mỗi loại nguyên liệu sau quá trình sản xuất có thể tạo ra nhiều loại sản phẩm có công dụng khác nhau. Trong khi đó, đối tượng lao động của sản xuất nông nghiệp bao gồm các động vật và thực vật sau quá trình sản xuất chỉ có sự thay đổi về lượng là chủ yếu. Nghiên cứu đặc trưng này của sản xuất công nghiệp chế biến có ý nghĩa thực tiến rất thiết thực trong việc tổ chức quá trình sản xuất và chế biến. Về công dụng kinh tế của sản phẩm: sản phẩm công nghiệp chế biến có khả năng đáp ứng nhiều loại nhu cầu ở các trình độ ngày càng cao của xã hội. * Đặc trưng kinh tế - xã hội của sản xuất Do các đặc điểm về mặt kỹ thuật của sản xuất nêu ở trên, trong quá trình phát triển, công nghiệp chế biến luôn luôn là ngành có điều kiện phát triển về mặt kỹ thuật tổ chức sản xuất; lực lượng sản xuất phát triển nhanh ở trình độ cao, nhờ đó mà quan hệ sản xuất có tính tiên tiến hơn. Với đặc điểm kỹ thuật của sản xuất, trong quá trình sản xuất, công nghiệp chế biến đào tạo ra được một đội ngũ lao động có tính tổ chức, tính kỷ luật cao, có tác phong lao động "công nghiệp". Đội ngũ lao động đó trong giai cấp công nhân luôn luôn là bộ phận tiên tiến trong cộng đồng dân cư của mỗi quốc gia. Cũng do đặc trưng kỹ thuật sản xuất về công nghệ và sự biến đổi của đối tượng lao động, trong công nghiệp chế biến cần thiết phải phân công lao động ngày càng sâu, tạo điều kiện, tiền đề phát triển nền sản xuất hàng hoá ở trình độ và tính chất cao hơn nông nghiệp. Nghiên cứu các đặc trưng về mặt kinh tế - xã hội của sản xuất công nghiệp chế biến có ý nghĩa thiết thực trong tổ chức sản xuất, trong việc phát huy vai trò chủ đạo của công nghiệp chế biến đối với các ngành kinh tế quốc dân của mỗi quốc gia. 2. Vai trò của ngành công nghiệp chế biến trong nền kinh tế quốc dân Trong quá trình phát triển nền kinh tế nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp chế biến một trong những ngành sản xuất vật chất luôn giữ một vai trò hết sức quan trọng, vai trò của nó được thể hiện trên các mặt sau: * Do đặc điểm của sản xuất công nghiệp, công nghiệp chế biến có những điều kiện để ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất. Nhờ đó lực lượng sản xuất trong công nghiệp chế biến phát triển nhanh hơn các ngành kinh tế khác. Do quy luật "quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất", trong công nghiệp chế biến có được hình thức quan hệ sản xuất tiên tiến. Sự phát triển về các hình thức quan hệ sản xuất, sự hoàn thiện nhanh về các mô hình tổ chức sản xuất đã làm cho công nghiệp chế biến có khả năng định hướng cho các ngành kinh tế khác tổ chức sản xuất đi lên nền sản xuất lớn theo "hình thức mẫu", theo "kiểu mẫu" của công nghiệp. * Trình độ._. phát triển của lực lượng sản xuất, trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, và trình độ hoàn thiện về tổ chức sản xuất, hình thành một đội ngũ lao động có tính tổ chức, tính kỷ luật, trí tuệ cao, cộng với tính đa dạng của hoạt động sản xuất. Công nghiệp chế biến là một trong những ngành đóng góp phần quan trọng vào việc tạo ra thu nhập quốc dân, tích luỹ vốn để phát triển nền kinh tế, từ đó công nghiệp chế biến có vai trò quan trọng góp phần vào giải quyết những nhiệm vụ có tính chiến lược của nền kinh tế - xã hội như: tạo việc làm cho lực lượng lao động, xoá bỏ sự cách biệt thành thị - nông thôn, giữa miền xuôi với miền núi... * Công nghiệp chế biến nông lâm hải sản làm tăng giá trị của nông sản thúc đẩy nông nghiệp phát triển. * Mục tiêu cuối cùng của nền sản xuất xã hội là tạo ra sản phẩm để thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con người. Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, công nghiệp chế biến là chế biến các loại nguyên liệu nguyên thuỷ được khai thác và sản xuất từ các loại tài nguyên khoáng sản, động thực vật thành các sản phẩm trung gian để sản xuất ra sản phẩm cuối cùng, nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần cho con người. * Sự phát triển của công nghiệp chế biến là một yếu tố có tính chất quyết định để thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình phát triển nền kinh tế lên nền sản xuất lớn, tuỳ theo trình độ phát triển của ngành công nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế, xuất phát từ những điều kiện và đặc điểm cụ thể của mỗi nước, mỗi thời kỳ cần phải xác định đúng đắn vị trí của công nghiệp chế biến trong nền kinh tế quốc dân, hình thành phương án cơ cấu công - nông nghiệp - dịch vụ và định hướng từ chuyển dịch cơ cấu đó một cách có hiệu quả. Đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng của việc tổ chức nền kinh tế, nhằm đạt được những mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. Công nghiệp chế biến sản xuất ra phần lớn hàng tiêu dùng phục vụ cho đời sống của dân cư và xuất khẩu. ở nước ta, cùng với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, tỷ trọng giá trị tăng thêm (VA) của ngành công nghiệp chế biến trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ngày càng tăng đáp ứng yêu cầu và mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Sự đóng góp của ngành công nghiệp chế biến vào tổng sản phẩm quốc nội được thể hiện trong bảng sau: Bảng A: Tỷ trọng VA của ngành công nghiệp chế biến trên GDP (theo giá so sánh năm 1994) Chỉ tiêu Năm GDP (Tỷ đồng) VACNCB (Tỷ đồng) Tỷ trọng VACNCB/GDP (%) 1991 139634 19552 14 1992 151782 22235 14,65 1993 164043 24353 14,85 1994 178534 26624 14,91 1995 195567 30231 15,46 1996 213833 34339 16,06 1997 231264 38743 16,75 1998 244595 42694 17,45 1999 256269 45888 17,91 2000 273582 52177 19,07 Qua số liệu bảng A cho thấy: cùng với sự tăng trưởng của GDP thì giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp chế biến cũng tăng lên và chiếm tỷ trọng ngày càng cao. Nếu như năm 1991 ngành công nghiệp chế biến chỉ đóng góp 14% trong tổng GDP thì đến năm 2000 đã lên 19,07%. Điều này chứng tỏ rằng ngành công nghiệp chế biến đã đóng góp một phần không nhỏ vào GDP của cả nước. Mặt khác tốc độ tăng VA của ngành công nghiệp chế biến cũng nhanh hơn tốc độ tăng GDP của cả nước được thể hiện ở bảng sau: Bảng B: Biến động GDP và VA của ngành công nghiệp chế biến (Đơn vị %) Chỉ tiêu Năm Tốc độ phát triển liên hoàn Tốc độ tăng GDP (Tỷ đồng) VACNCB (Tỷ đồng) GDP VACNCB 1991 - - - - 1992 108,6 113,7 8,6 13,7 1993 108,1 109,5 8,1 9,5 1994 108,8 109,3 8,8 9,3 1995 109,5 113,5 9,5 13,5 1996 109,3 113,6 9,3 13,6 1997 108,2 112,8 8,2 12,8 1998 105,8 110,2 5,8 10,2 1999 104,8 107,5 4,8 7,5 2000 106,8 113,7 6,8 13,7 Phân tích số liệu bảng B cho thấy: Trong thời kỳ 1991-2000 GDP cả nước hàng năm tăng, giảm không ổn định. Nếu như năm 1992 tăng 8,6%; năm 1995 tăng 9,5% thì đến năm 2000 chỉ tăng 6,8%. Tốc độ tăng trưởng GDP của cả nước có sự giảm sút như vậy là do nền kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực năm 1997, và chịu nhiều thiên tai xảy ra. Trong khi đó, tốc độ tăng VA của ngành công nghiệp chế biến có giảm nhưng vẫn chiếm một tỷ trọng đáng kể trong GDP của cả nước. Năm 1992 tăng 13,7% so với năm 1991; năm 1995 chỉ tăng 13,5%; năm 1999 giảm xuống còn 7,5%, nhưng đến năm 2000 lại tăng 13,7%. 3. Hệ thống chỉ tiêu kinh tế tổng hợp trong ngành công nghiệp chế biến theo SNA Đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, ngành, thống kê thường sử dụng hệ thống chỉ tiêu theo quan điểm vi mô và vĩ mô. Trong hệ thống đó gồm 2 loại chỉ tiêu: chỉ tiêu vĩ mô và chỉ tiêu vi mô. Các chỉ tiêu theo quan điểm vĩ mô phản ánh một cách tổng hợp nhất kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (gọi là chỉ tiêu phục vụ quản lý kinh tế). Các chỉ tiêu theo quan điểm vi mô phản ánh sâu về từng mặt nào đó của kết quả sản xuất kinh doanh song mức độ tổng hợp còn hạn chế (gọi là chỉ tiêu phục vụ quản trị kinh doanh). 3.1. Các chỉ tiêu phục vụ quản lý kinh tế a) Tổng giá trị sản xuất (GO - Gross Output) Tổng giá trị sản xuất của ngành công nghiệp chế biến là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh toàn bộ giá trị sản xuất của khối lượng sản phẩm do các cơ sở sản xuất thuộc tất cả các thành phần kinh tế hoạt động trong ngành công nghiệp chế biến đạt được trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất của ngành công nghiệp chế biến phản ánh quy mô kết quả hoạt động sản xuất của ngành trong thời kỳ nghiên cứu. Nó bao gồm toàn bộ thành quả lao động hữu ích của doanh nghiệp sản xuất ra của cải vật chất và sản phẩm không vật chất. Chỉ tiêu giá trị sản xuất gồm: C1 + C2 + V + M Trong đó: C1: Khấu hao tài sản cố định C2: Giá trị nguyên vật liệu, chi phí vật chất khác, chi phí dịch vụ... V: Thu nhập của người lao động M: Lợi nhuận của doanh nghiệp. b) Chi phí trung gian (IC - Intermediate Cost) Chi phí trung gian của hoạt động công nghiệp chế biến là một bộ phận cấu thành của giá trị sản xuất bao gồm chi phí vật chất (nguyên vật liệu, nhiên liệu, động lực, chi phí vật chất khác trừ khấu hao tài sản cố định) chi phí dịch vụ được sử dụng để sản xuất ra sản phẩm của ngành công nghiệp chế biến trong kỳ bao gồm chi phí về tiền vé, tiền khách sạn, nhà trọ trong công tác phí, chi phí bưu điện, chi phí vận tải thuê ngoài, chi phí quảng cáo, cih phí dịch vụ pháp lý... Đối với đơn vị nhận gia công chế biến, chi phí trung gian bao gồm cả giá trị nguyên vật liệu của người đặt hàng đem gia công chế biến. Chi phí trung gian chính là phần C2 trong cấu thành giá trị của GO. c) Giá trị tăng thêm (VA - Value Added) Giá trị tăng thêm là một bộ phận của giá trị sản xuất, nó thể hiện phần kết quả lao động hữu ích do hoạt động sản xuất và dịch vụ của doanh nghiệp sáng tạo ra trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Nó chỉ bao gồm phần giá trị mới tạo ra trong thời kỳ nghiên cứu nên gọi là giá trị gia tăng hay giá trị tăng thêm. Về mặt giá trị chỉ tiêu này chính là C1 + V + M trong cấu thành giá trị của GO. Giá trị tăng thêm phản ánh tổng hợp toàn bộ thành quả của đơn vị trong một thời gian nhất định. Nó là cơ sở để doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng, cải thiện đời sống của người lao động, là cơ sở để tính thuế giá trị gia tăng, giá trị gia tăng còn là cơ sở để tính tổng sản phẩm quốc nội hoặc chỉ tiêu tổng thu nhập trong nước. d) Giá trị gia tăng thuần (NVA - Net Value Added) Giá trị gia tăng thuần là chỉ tiêu biểu hiện toàn bộ giá trị mới được sử dụng tạo ra trong năm của tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ của doanh nghiệp. Về mặt giá trị, giá trị gia tăng thuần (NVA) bao gồm V cộng với M. Đây là chỉ tiêu phản ánh kết quả tổng hợp nhất những cố gắng của doanh nghiệp trong quản lý và tổ chức sản xuất. Đối với mọi doanh nghiệp, điều kiện tiên quyết để tồn tại và phát triển là giá trị gia tăng thuần phải không ngừng tăng lên. Giá trị gia tăng thuần là nguồn gốc cho việc cải thiện mức sống cho người lao động. Một phần của nó đóng góp cho xã hội, phần còn lại được sử dụng cho việc mở rộng các quỹ của doanh nghiệp như quỹ mở rộng sản xuất, quỹ công ích... 3.2. Các chỉ tiêu phục vụ quản trị kinh doanh a) Tổng doanh thu bán hàng (Giá trị sản lượng hàng hoá tiêu thụ) Là tổng giá trị hàng hoá tiêu thụ của doanh nghiệp, bao gồm toàn bộ giá trị hàng hoá mà doanh nghiệp đã bán và thu được tiền trong kỳ báo cáo. b) Chỉ tiêu lợi nhuận Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh phần giá trị thặng dư, hoặc hiệu quả kinh tế mà doanh nghiệp thu được từ các hoạt động sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu được theo công thức chung: Lợi nhuận kinh doanh = Doanh thu kinh doanh - Chi phí kinh doanh Việc xây dựng và tính toán các chỉ tiêu trong hệ thống chỉ tiêu đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như của ngành công nghiệp chế biến có tác dụng vô cùng quan trọng đối với công tác quản lý của các doanh nghiệp, bộ, ngành và của Đảng, Nhà nước. Cụ thể: * Giúp cho lãnh đạo các doanh nghiệp có căn cứ khoa học để tổ chức và quản lý có hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. * Là căn cứ để đánh giá, phân tích tình hình sử dụng các yếu tố của quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp; đánh giá, phân tích tình hình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp (thông qua giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm, lợi nhuận của doanh nghiệp). * Là căn cứ để lập kế hoạch phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cả về quy mô và cơ cấu, giúp cho các nhà quản lý kinh tế có những thông tin cần thiết làm căn cứ khoa học để xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh theo hình thức đã lựa chọn. * Thông qua việc tính toán các chỉ tiêu trong hệ thống giúp cho việc tính toán một số chỉ tiêu kinh tế xã hội theo hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) trong phạm vi nền kinh tế quốc dân như giá trị sản xuất (GO), chi phí trung gian (IC), giá trị tăng thêm (VA), tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP). Như vậy hệ thống chỉ tiêu kinh tế tổng hợp của ngành công nghiệp chế biến không chỉ tạo cơ sở thông tin cho các nghiên cứu kinh tế và so sánh kinh tế giữa các ngành trong một quốc gia, mà còn giữa các nước trong cùng một khối kinh tế, trong cùng một tổ chức kinh tế hay khu vực địa lý và trên phạm vi toàn cầu. Trong các chỉ tiêu trên nếu xét theo quan điểm hệ thống chỉ tiêu vĩ mô thì chỉ tiêu GO, VA là quan trọng nhất, thông qua các chỉ tiêu này nó cho phép ta biết được sự đóng góp của ngành vào sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân. Nó cho ta biết được đơn vị này sản xuất tốt hay không từ đó giúp ta có quyết định nền phát triển hay không đối với đơn vị đó. IV. Đặc điểm Phương pháp tính giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến 1. Phạm vi ngành công nghiệp chế biến Ngành công nghiệp chế biến bao gồm các hoạt động làm thay đổi về mặt lý, hoá học của vật liệu hoặc thay đổi các thành phần cấu thành của nó để tạo ra những sản phẩm mới. Các hoạt động đó có thể được tiến hành bằng máy móc hoặc bằng thủ công, tiến hành trong nhà máy hoặc tại nhà của người lao động, người thợ. Ngoài ra ngành công nghiệp chế biến còn bao gồm các hoạt động như lắp ráp sản phẩm, gia công phần việc như: sơn mạ, đánh bóng, khắc... các sản phẩm. Hoạt động lắp ráp được coi là chế biến là những hoạt động sau khi lắp ráp làm thay đổi hình thái ban đầu của sản phẩm. Các hoạt động sau không thuộc ngành công nghiệp chế biến: Lắp ráp đường ray, xây cầu, nhà kho, thang máy và lắp ráp các thiết bị máy móc vào dây chuyền sản xuất. Hoạt động lắp ráp ở các đơn vị bán buôn, bán lẻ. Sửa chữa mô tô, ô tô, xe máy và các xe có động cơ khác gắn với việc bán phụ tùng là chính. Bảo dưỡng và sửa chữa vật phẩm tiêu dùng cá nhân và đồ dùng gia đình. 2. Đặc điểm tính giá trị sản xuất (GO), giá trị tăng thêm (VA) của ngành công nghiệp chế biến. 2.1. Cụ thể hoá các nguyên tắc tính GO, VA của ngành công nghiệp chế biến - Nguyên tắc 1: Nguyên tắc thường trú (tính theo lãnh thổ kinh tế) Phải tính đầy đủ kết quả sản xuất của các đơn vị, tổ chức và cá nhân thường trú của Việt Nam có hoạt động công nghiệp chế biến trong tất cả các ngành, các thành phần kinh tế. - Nguyên tắc 2: Tính theo thời điểm sản xuất Kết quả sản xuất của thời kỳ nào thì tính vào thời kỳ đó, không được đem kết quả sản xuất của thời kỳ này tính cho thời kỳ khác và ngược lại. Nghĩa là khi xác định giá trị sản xuất của ngành công nghiệp chế biến ngoài phần sản phẩm và công việc có tính chất công nghiệp hoàn thành và bán ra ngoài trong kỳ còn kể cả chênh lệch sản phẩm dở dang cuối kỳ trừ đầu kỳ, chênh lệch thành phẩm tồn kho, nửa thành phẩm. Tổng giá trị sản xuất và các chỉ tiêu khác của ngành công nghiệp chế biến được tính theo phương pháp công xưởng nghĩa là không được tính trùng giá trị sản xuất của các phân xưởng trong phạm vi một đơn vị sản xuất. - Nguyên tắc 3: Các chỉ tiêu GO, IC, VA của ngành công nghiệp chế biến được tính theo hai loại giá: + Giá thực tế: Giá của người sản xuất công nghiệp chế biến bán thực tế trên thị trường và trên sổ sách hạch toán của thời kỳ báo cáo. + Giá so sánh là giá thực tế của năm nào đó được chọn làm năm gốc để so sánh, nhằm phản ánh tốc độ và xu thế phát triển của các chỉ tiêu qua các thời kỳ khác nhau (hiện nay Việt Nam lấy năm 1994 làm năm gốc). - Nguyên tắc 4: Phản ánh toàn bộ giá trị của sản phẩm được sản xuất ra GO = (C1 + C2 + V + M) Trong đó: C1- Khấu hao tài sản cố định C2 - Chi phí trung gian V - Thu nhập của người lao động M - Lợi nhuận - Nguyên tắc 5: Bao gồm sản phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ nói chung. Theo nguyên tắc này cần tính vào giá trị sản xuất không chỉ thành phẩm mà cả nửa thành phẩm và sản phẩm dở dang. Không tính vào giá trị sản xuất (GO) của ngành công nghiệp chế biến giá trị của các sản phẩm sản xuất phụ (ngoài phần sản xuất chính) do giá trị này đã được tính và giá trị sản xuất của các ngành khác. Ngược lại những đơn vị sản xuất của ngành khác có hoạt động chế biến sản phẩm thì phải tính vào giá trị sản xuất của ngành công nghiệp chế biến. Chỉ được tính kết quả trực tiếp và có ích của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nghĩa là chỉ tính vào giá trị sản xuất những sản phẩm thoả mãn được những nhu cầu nhất định nào đó của con người. Không tính vào giá trị sản xuất số sản phẩm hỏng, mặc dù số sản phẩm hỏng này cũng đã làm hao phí một số nguyên vật liệu và nhân công. Song giá trị sử dụng của nó lại không thoả mãn được nhu cầu nhất định của con người, đó là phế phẩm. 2.2. Đặc điểm phương pháp tính các chỉ tiêu GO, IC, VA của ngành công nghiệp chế biến theo SNA 2.2.1. Đặc điểm phương pháp tính cho toàn ngành công nghiệp chế biến Giá trị sản xuất (GO), chi phí trung gian (IC), giá trị tăng thêm (VA) cho toàn ngành công nghiệp chế biến được tính bằng cách tổng hợp tất cả các chỉ tiêu GO, IC, VA của toàn bộ các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế có hoạt động chế biến và giá trị sản phẩm chế biến do các ngành khác làm. 2.2.2. Đặc điểm phương pháp tính cho các thành phần kinh tế trong ngành công nghiệp chế biến a) Nội dung giá trị sản xuất của ngành công nghiệp chế biến bao gồm: - Giá trị thành phẩm sản xuất bằng nguyên vật liệu của đơn vị sản xuất. - Giá trị chế biến sản phẩm sản xuất bằng nguyên vật liệu của người đặt hàng đem đến. - Giá trị nguyên vật liệu của người đặt hàng đem gia công chế biến - Giá trị công việc có tính chất công nghiệp làm cho bên ngoài. - Chênh lệch giá trị cuối kỳ trừ (-) đầu kỳ của nửa thành phẩm tồn kho, hàng gửi đi bán, sản phẩm dở dang, công cụ, mô hình tự chế và các chi phí dở dang khác. - Giá trị các sản phẩm tự chế tự dùng theo quy định đặc biệt - Doanh thu bán phế liệu phế phẩm thu hồi - Doanh thu cho thuê thiết bị máy móc sản xuất công nghiệp và các tài sản cố định khác không kể đất. b) Phương pháp tính và nguồn thông tin * Đối với kinh tế nhà nước, kinh tế hỗn hợp và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Giá trị sản xuất bao gồm: + Doanh thu thuần cộng (+) thuế doanh thu, thuế xuất khẩu phải nộp + Doanh thu tiêu thụ sản phẩm sản xuất chính. + Doanh thu tiêu thụ sản phẩm sản xuất phụ (trường hợp giá trị doanh thu nhỏ không tách ra được để đưa về các ngành phù hợp). + Doanh thu bán phế liệu, phế phẩm thu hồi + Giá trị công việc có tính chất công nghiệp làm cho bên ngoài: Là việc thực hiện một giai đoạn rất ngắn trong quá trình chế biến sản phẩm, làm tăng giá trị sử dụng của sản phẩm như mạ kền, đánh bóng, sơn... Đối với công việc có tính chất công nghiệp chỉ tính vào tổng giá trị sản xuất phần hoàn thành cho bên ngoài và cho các bộ phận không phải công nghiệp trong đơn vị. Còn phần phục vụ cho việc chế biến sản phẩm của đơn vị thì không tính vì nó chỉ là quá trình tiếp tục sản xuất thành phẩm, giá trị của nó đã thể hiện trong giá trị thành phẩm rồi. Như vậy giá trị công việc có tính chất công nghiệp chỉ bao gồm giá trị chế biến công việc đó và giá trị nguyên vật liệu đã hao phí trong quá trình chế biến và sửa chữa (không kể nguyên vật liệu của đơn vị hay của người đặt hàng), không gồm giá trị của bản thân đối tượng chế biến hoặc sửa chữa vì nó không phải là sản phẩm của đơn vị mình sản xuất ra. + Chênh lệch giá trị cuối kỳ trừ (-) đầu kỳ nửa thành phẩm, sản phẩm dở dang, công cụ và mô hình tự chế và các sản phẩm dở dang còn lại khác. Trong quá trình sản xuất của một đơn vị thì thường được tiến hành một cách liên tục, điều đó có nghĩa là sản phẩm còn lại của thời kỳ này sẽ được tiếp tục chế biến trong thời kỳ sau. Kết quả sản xuất của thời kỳ này còn bao gồm cả một số kết quả của thời kỳ trước chuyển sang. Theo nguyên tắc tính tổng giá trị sản xuất, kết quả của thời kỳ nào tính vào thời kỳ đó nên sản phẩm làm ở thời kỳ trước đã tính vào tổng giá trị sản xuất của thời kỳ trước rồi. Chính vì vậy, để tránh tình trạng tính trùng kết quả sản xuất của thời kỳ này qua các thời kỳ khác ta phải loại trừ phần sản phẩm của thời kỳ trước. + Chênh lệch cuối kỳ trừ (-) đầu kỳ giá trị hàng gửi đi bán chưa thu được tiền Chỉ tiêu này bao gồm tất cả những sản phẩm mà cơ sở đã sản xuất ra và đã sẵn sàng để bán vào thời điểm cuối năm kể cả những thành phẩm đang được giữ tại các đơn vị khác mà cơ sở đã cung cấp nguyên vật liệu và thuê họ chế biến. Về nguyên tắc nên tính theo giá thị trường nếu không tiện thì tính theo giá ghi trong sổ sách. + Giá trị sản phẩm tự chế tự dùng theo quy định đặc biệt Theo quy định hiện nay bột giấy dùng để sản xuất do chính doanh nghiệp đó sản xuất ra là giá trị sản phẩm tự chế tự dùng. + Doanh thu cho thuê thiết bị, máy móc có người điều hành của sản xuất công nghiệp chế biến và các tài sản khác không kể đất. Nguồn thông tin: Để tính được giá trị sản xuất cho các thành phần kinh tế trên ta phải dựa vào các nguồn thông tin sau: - Dựa vào bảng cân đối tài sản và bảng báo cáo kết quả kinh doanh trong hệ thống biểu báo cáo quyết toán năm để tổng hợp. - Mục doanh thu tiêu thụ sản phẩm lấy ở bảng báo cáo kết quả kinh doanh hoặc lấy ở số phát sinh bên có tài khoản 511 "Doanh thu". - Chênh lệch thành phẩm tồn kho lấy ở bảng cân đối tài sản hay lấy số dư nợ cuối kỳ và đầu kỳ của tài khoản 155 "Thành phẩm". - Chệnh lệch sản phẩm dở dang, nửa thành phẩm, mô hình tự chế căn cứ vào số dư nợ cuối kỳ và đầu kỳ của tài khoản tập hợp chi phí sản xuất 154 "Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang" hay lấy ở bảng cân đối tài sản. - Chênh lệch giá trị hàng gửi bán chưa thu được tiền căn cứ vào số dư nợ đầu kỳ và cuối kỳ của tài khoản 157 "Hàng gửi bán". - Doanh thu bán phế liệu, phế phẩm, doanh thu tiêu thụ sản phẩm sản xuất phụ không đưa về ngành phù hợp, doanh thu cho thuê phương tiện vận tải, doanh thu khác... lấy ở biểu báo cáo kết quả kinh doanh. * Đối với các thành phần kinh tế tư nhân, tập thể và cá thể Các thành phần kinh tế này thường có những đặc điểm: Số lượng đơn vị cơ sở sản xuất rất lớn, phân tán rộng, đa phần là trình độ kỹ thuật thủ công. Vì vậy, đối với các đơn vị có đủ nguồn thông tin như đơn vị kinh tế nhà nước thì tính giá trị sản xuất như phương pháp đã nêu ở trên. Đối với các đơn vị sản xuất thuộc thành phần kinh tế tư nhân, tập thể và cá thể không có bảng báo cáo quyết toán năm, quy ước tính giá trị sản xuất theo giá thực tế bằng (=) doanh thu của hoạt động sản xuất sản phẩm công nghiệp chế biến và công việc có tính chất công nghiệp của đơn vị. 2.2.3. Phương pháp tính chi phí trung gian (IC) Ngoài những nguyên tắc đã nêu ở phần II, khi tính chi phí trung gian còn tuân theo một số nguyên tắc sau: + Những sản phẩm vật chất và dịch vụ được tính vào chi phí trung gian phải là chi phí cho sản xuất, được hạch toán vào giá thành sản phẩm. Đối với thành phần kinh tế tư nhân, cá thể, hộ gia đình, quá trình hoạt động sản xuất thường gắn liền với quá trình tiêu dùng sinh hoạt. Nhiều khoản chi tiêu không thể phân biệt chính xác bao nhiêu cho sản xuất, bao nhiêu cho tiêu dùng cuối cùng. Vì vậy, phải tiến hành điều tra để tính toán chính xác, đầy đủ chi phí trung gian cho hoạt động sản xuất của thành phần kinh tế này. + Không tính vào chi phí trung gian chi phí mua sắm và khấu hao tài sản cố định thực hiện trong năm. + Những hao hụt, tổn thất nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất kinh doanh được tính vào chi phí trung gian đối với phần trong định mức, còn phần ngoài định mức thì tính vào giảm tích luỹ tài sản. a) Nội dung Chi phí trung gian cho ngành công nghiệp chế biến gồm 2 phần: + Chi phí vật chất, bao gồm: - Nguyên vật liệu chính, phụ mua ngoài - Chi phí nhiên liệu mua ngoài - Năng lượng mua ngoài như điện, năng lượng nguyên tử tiêu dùng cho sản xuất - Giá trị nguyên liệu của người đặt hàng đem gia công chế biến. + Chi phí vật chất khác: - Chi phí dịch vụ mua ngoài bao gồm những loại dịch vụ sau: dịch vụ vận tải, bưu điện, đào tạo, vệ sinh, tuyên truyền quảng cáo, phòng cháy chữa cháy, phí kiểm toán, chi thuê bản quyền phát minh sáng chế, bảo hiểm nhà nước, bảo vệ an ninh... - Chi phí khác bằng tiền bao gồm rất nhiều loại như văn phòng phẩm, dụng cụ y tế, bảo hộ lao động dùng trong sản xuất, tiền vé tàu xe, tiền thuê khách sạn, nhà hàng... b) Phương pháp tính và nguồn thông tin * Phương pháp tính +Đối với đơn vị không xác định được trực tiếp chi phí trung gian thì: CPTG = GTSX - GTTT (IC = GO - VA) Muốn tính được chi phí trung gian theo phương pháp này thì phải tính được giá trị tăng thêm theo phương pháp phân phối (theo luồng thu nhập). Do đó phương pháp này chỉ áp dụng được đối với các thành phần kinh tế có hạch toán kinh tế độc lập như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân. Thông qua điều tra để từ đó tính giá trị tăng thêm theo luồng thu nhập. - Đối với đơn vị xác định được chi phí trung gian trực tiếp + Đối với thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế hỗn hợp và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Muốn tính được chi phí trung gian cho các thành phần kinh tế trên ta phải dựa vào biểu báo cáo "Chi phí sản xuất theo yếu tố" và giá trị nguyên vật liệu đặt hàng của người đem gia công chế biến. Chi phí trung gian của ngành công nghiệp chế biến bao gồm: Những hao phí vật chất mua ngoài đã được sử dụng cho quá trình sản xuất trong kỳ như: - Nguyên vật liệu chính, phụ mua ngoài gồm nguyên vật liệu chính, phụ, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ nhỏ không phải là tài sản cố định đã tiêu dùng vào sản xuất cấu thành nên sản phẩm. Trường hợp doanh nghiệp có gia công sản phẩm cho khách hàng thì cộng thêm giá trị nguyên vật liệu của khách hàng đưa đến gia công. - Vật liệu phụ như hoá chất và các phụ trợ khác, vật liệu bao bì để đóng gói, các dụng cụ sử dụng khác kể cả bộ phận phụ tùng để sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị nếu tuổi thọ của nó trên 1 năm. - Chi phí nhiên liệu mưa ngoài như năng lượng mua ngoài như điện, năng lượng nguyên tử... dùng cho sản xuất. Đối với nguyên vật liệu chính thì ta cần phrai phân biệt được phần nào thuộc chi phí trung gian (IC), phần nào thuộc giá trị tăng thêm (VA) vì khi mua nguyên vật liệu còn bao gồm cả chi phí bốc vác của công nhân viên. Theo quy định hiện nay có yếu tố thuộc 100% chi phí trung gian hoặc giá trị tăng thêm cụ thể là: Chi phí nguyên vật liệu gồm giá mua, cước phí vận chuyển đến địa điểm của doanh nghiệp, các khoản hoa hồng cho người mua hàng, thuế, lệ phí, thuế nhập khẩu (nếu có) và các khoản lệ phí khác đã chi trả ngay sau đó nhưng loại trừ các khoản giảm giá được phép khi mua hàng 100% thuộc chi phí trung gian. Chi phí tiền công bốc vác của cán bộ, công nhân viên, người làm thuê của doanh nghiệp thì cần tách khoản này ra và đưa vào chỉ tiêu thu nhập của người sản xuất. - Chi phí sản phẩm vật chất khác như bảo hộ lao động, dụng cụ y tế dùng trong sản xuất. Chi phí dịch vụ mua ngoài bao gồm: - Phí vận tải - Phí bưu điện - Phí quảng cáo, tuyên truyền khuyến mãi - Văn hoá, thể dục thể thao - Phí nghiên cứu khoa học - Phí bảo vệ an ninh - Chi phòng cháy, chữa cháy - Dịch vụ pháp lý - Chi thuê bản quyền phát minh sáng chế, chi thuê phương tiện máy móc nhà cửa. - Phí kiểm toán, phí dịch vụ ngân hàng... Các dịch vụ này phần lớn tính vào chi phí trung gian riêng chỉ tiêu (chi mua bảo hiểm an toàn nhà máy thiết bị) được tính vào chỉ tiêu giá trị thặng dư của ngàng công nghiệp chế biến. - Chi phí bằng tiền khác tính vào chi phí trung gian gồm chi phí vật chất và dịch vụ gián tiếp phục vụ sản xuất kinh doanh như văn phòng phẩm, điện nước và những chi phí thường xuyên dùng trong quản lý, chi phí tiếp khách, bồi thường, nộp phạt, chi phí trả cho các khoản lệ phí (không kể tiền lưu trú và phụ cấp đi đường), chi phí hội nghị khách hàng, sơ kết, tổng kết... + Đối với thành phần kinh tế tập thể, tư nhân và cá thể Số lượng cơ sở sản xuất ngoài quốc doanh rất lớn, song đặc điểm sản xuất của đối tượng này thường là thủ công, quy mô nhỏ, mức cho phí vật chất và chi phí dịch vụ phục vụ sản xuất khác đối với các thành phần kinh tế nhà nước, tính tự nguyện cung cấp thông tin còn hạn chế. Vì vậy để tính được chi phí trung gian cho thành phần kinh tế này thì ta phải tiến hành điều tra. Một cuộc điều tra nên khoảng từ 5-10% cơ sở, khi chọn mẫu phải đảm bảo tính đại diện của ngành công nghiệp chế biến. Do đó: - Đối với những đơn vị có báo cáo "Chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố" thì việc tính chi phí trung gian giống như thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế hỗn hợp và doanh nghiệp có vốn đầu từ nước ngoài. - Đối với những đơn vị không có báo cáo quyết toán năm (biểu chi phí sản xuất, kết quả hoạt động kinh doanh và các tài liệu điều tra bổ sung về chi phí sản xuất) có thể dùng tỷ lệ % chi phí trung gian trong giá trị sản xuất của hoạt động công nghiệp chế biến cùng ngành hàng kinh doanh có báo cáo quyết toán năm để tính. Trường hợp không thể tổ chức điều tra mẫu thường xuyên được thì dùng tỷ lệ chi phí trung gian so với giá trị sản xuất ở tài liệu điều tra ở tài khoản quốc gia năm 1997 của Tổng cục thống kê để tính. Nguồn thông tin Để tính được chỉ tiêu chi phí trung gian thì số liệu tính toán được lấy từ biểu chi phí sản xuất theo yếu tố. 2.2.4. Phương pháp tính giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp chế biến a) Nội dung Giá trị tăng thêm trong ngành công nghiệp chế biến bao gồm các yếu tố sau: + Thu nhập của người lao động gồm: - Tiền lương (tiền công lao động) là toàn bộ số tiền phải thanh toán cho người sản xuất gần với số lượng, chất lượng lao động của họ, cùng với các khoản tiền thưởng, phụ cấp, trợ cấp theo lương. - Trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn - Các khoản thu nhập khác của người lao động như tiền ăn trưa, ăn ca, quà biếu, tiền lưu trú... + Thuế sản xuất bao gồm: - Thuế giá trị gia tăng phải nộp - Thuế và các khoản lệ phí phải nộp khác như thuế vốn, thuế đất... + Khấu hao tào sản cố định Khấu hao tài sản cố định là phần được dịch chuyển vào giá trị sản phẩm sản xuất ra trong kỳ, yếu tố này gồm giá trị hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình của những tài sản cố định trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất như máy móc, thiết bị, nhà xưởng sản xuất, các công trình vật kiến trúc, hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất như các thiết bị phục vụ quá trình nghiên cứu, các công trình phúc lợi phục vụ văn hoá,.. + Giá trị thặng dư bao gồm: - Lợi tức thuần thực hiện là lợi nhuận phát sinh trước thuế lợi tức của các hoạt động kinh doanh công nghiệp chế biến, hoạt động tài chính trong doanh nghiệp và lợi tức bất thường khác. - Lãi trả tiền vay ngân hàng sau khi đã trừ phần dịch vụ phí đã tính vào chi phí trung gian. - Các khoản nộp cấp trên - Chi mua bảo hiểm nhà nước (bảo hiểm nhà máy, thiết bị phương tiện, phương tiện...) - Giá trị thặng dư khác trong chi phí bằng tiền khác. b) Phương pháp tính và nguồn thông tin * Đối với thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế hỗn hợp và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Thành phần kinh tế này có những đặc điểm như sau: Quy mô sản xuất của doanh nghiệp thường lớn, nhiệm vụ sản xuất tương đối ổn định. Trình độ hạch toán cao, có tính pháp chế, hạch toán đầy đủ, đảm bảo tính liên tục của số liệu hạch toán. ý thức chấp hành pháp chế kế toán, thống kê nghiêm túc. + Phương pháp sản xuất Công thức chung: Giá trị tăng thêm = Giá trị sản xuất - Chi phí trung gian VA = GO - IC Phương pháp này có ưu điểm là đơn giản, do sử dụng trực tiếp chỉ tiêu GO, IC để tính. Tuy nhiên nó cũng có nhược điểm là độ chính xác của VA lại phụ thuộc vào độ chính xác khi tính chỉ tiêu GO, IC. Nếu hạch toán chi phí sản xuất không được chi tiết, không đầy đủ thì tất yếu việc tính IC sẽ không được chính xác cho nên việc tính chỉ tiêu VA cũng không được chính xác. Mặt khác, tính bằng phương pháp sản xuất còn có nhiều hạn chế nếu ta muốn chi tiết ra các yếu tố của giá trị tăng thêm thì ta phải sử dụng phương pháp khác để tính đó là phương pháp phân phối. + Phương pháp phân phối Phương pháp phân phối là phương pháp tính từ các yếu tố của giá trị tăng thêm trên cơ sở hạch toán chi tiết các khoản mục của từng yếu tố như tiền lương, bảo hiểm, lợi nhuận, thuế... Giá trị tăng thêm bao gồm các yếu tố sau: Tính yếu tố thu nhập của người lao động Thu nhập của người lao động là các khoản thu của người lao động nhận được ._.n động tương đối tích cực. Tức là tốc độ phát triển thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên nhưng quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo mặc dù có giảm xuống còn ngoài quốc doanh đang ngày càng tăng lên. Bảng 12: Giá trị sản xuất và mức độ biến động của tốc độ phát triển giá trị sản xuất ngành công nghiệp chế biến phân theo thành phần kinh tế (theo giá cố định năm 1994). Năm QD NQD ĐTNN IGO DIGO IGO DIGO IGO DIGO 1991 - - - - - - 1992 113,5 - 106,9 - 137,2 - 1993 114,9 1,4 108,2 1,3 113,8 -23,4 1994 115,0 1 111,2 3 112,7 -1,1 1995 105,0 -10 123,9 12,5 136,8 24,1 1996 110,8 5,8 111,4 -1,25 126,6 -10,2 1997 109,9 -0,9 109,4 -2 128,9 2,3 1998 107,5 -2,4 107,2 -2 127,9 -1 1999 105,1 -2,4 111,6 4,4 120,4 -7,5 2000 112,2 7,1 118,3 6,7 125,2 4,8 Tổng BQ 110,4 112,0 125,5 3. Phân tích ảnh hưởng của các nhân tố đến kết quả sản xuất công nghiệp chế biến Việt Nam Ngày nay, sự phát triển kinh tế thế giới đã đạt đến mức biên giới quốc gia chỉ còn ý nghĩa về hành chính, sự giao lưu kinh tế đã liên kết các quốc gia có chế độ chính trị khác nhau thành một thị trường thống nhất. Bối cảnh quốc tế và khu vực đã mở ra cho ta nhiều thuận lợi để phát triển quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xu hướng phát triển khoa học công nghệ thế giới đã giúp công nghiệp chế biến nước ta tiếp cận nhanh vào kỹ thuật mới. Những thành công bước đầu trong những năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng đã tạo tiền đề chính trị và xã hội, vật chất và tinh thần cũng như tích luỹ thêm được kinh nghiệm quản lý điều hành kinh tế vĩ mô và vi mô. Chính sách kinh tế đúng đắn, cùng với nội lực sẵn có sẽ tạo tiền đề cho quá trình phát triển nhanh của công nghiệp chế biến. Với các nguồn tài nguyên có sẵn thì dân số vào nguồn lao động là một động lực phát triển cực kỳ quan trọng, quyết định tất cả co sự phát triển kinh tế - xã hội. Những thiếu hụt trong nhân tố con người càng quan trọng bao nhiêu thì sự yếu kém trong nhân tố con người càng gây hậu quả tiêu cực bấy nhiêu. Nếu không khắc phục sự yếu kém này thì nền kinh tế sẽ không tránh khỏi bị rơi vào tình trạng trì trệ nhưng bù đắp được những thiếu hụt về nhân tố con người không thể ngày một ngày hai được mà phải trong thời gian dài. Trong 10 năm (1991-2000), ngành công nghiệp chế biến đã tạo ra rất nhiều việc làm cho lao động. Lao động trong công nghiệp chế biến ngày càng tăng lên về số lượng cũng như chất lượng. áp dụng phương pháp chỉ số để phân tích biến động của giá trị sản xuất qua 2 thời kỳ 1998-2000 từ đó thấy được nhân tố nào là nhân tố quyết định đến sự tăng hoặc giảm của giá trị sản xuất công nghiệp chế biến. Từ nguồn số liệu có được ở bảng 1, bảng 2 và số liệu về lao động trong ngành công nghiệp chế biến phân theo thành phần kinh tế trong 2 năm 1998 và 2000 ta có bảng tính toán một số chỉ tiêu phục vụ cho phân tích biến động giá trị sản xuất theo giá hiện hành và giá so sánh do ảnh hưởng của lao động, năng suất lao động và kết cấu lao động như sau: Bảng - tTheo giá hiện hành Ta có kết quả tính hệ thống chỉ số như sau: 1,57 = 1,47 x 1,07 98676 = 86907 + 11769 Giá trị sản xuất công nghiệp chế biến theo giá hiện hành năm 2000 so với năm 1998 tăng từ 172414 tỷ đồng lên 271090 tỷ đồng tức tăng 57% hay 98676 tỷ đồng là do ảnh hưởng của 2 nhân tố: + Do năng suất lao động bình quân toàn ngành tăng 47% làm cho giá trị sản xuất công nghiệp chế biến theo giá hiện hành tăng 86907 tỷ đồng. + Do tổng lao động toàn ngành công nghiệp chế biến tăng 7% làm cho giá trị sản xuất của ngành tăng 11769 tỷ đồng. Cả hai nhân tố đều ảnh hưởng tốt đến giá trị sản xuất nhưng năng suất lao động bình quân toàn ngành là nhân tố cơ bản làm cho giá trị sản xuất tăng lên. - Theo giá cố định Theo số liệu bảng trên ta có kết quả tính toán hệ thống chỉ số như sau: Số tương đối: 1,28 = 1,19 x 1,08 Số tuyệt đối: 34424 = 25009 + 9415 Giá trị sản xuất công nghiệp chế biến theo giá cố định năm 2000 so với năm 1998 tăng từ 121188 tỷ đồng lên 155612 tỷ đồng tức tăng 28% hay 34424 tỷ đồng là do ảnh hưởng của 2 nhân tố: + Do năng suất lao động bình quân toàn ngành tăng 19% làm cho giá trị sản xuất công nghiệp chế biến theo giá cố định tăng lên 25009 tỷ đồng. + Do tổng số lao động toàn ngành công nghiệp chế biến tăng lên 8% làm cho giá trị sản xuất công nghiệp chế biến tăng lên 9415 tỷ đồng. Cả 2 nhân tố đều có ảnh hưởng tốt đối với giá trị sản xuất công nghiệp chế biến trong đó năng suất lao động bình quân là nhân tố chủ yếu làm tăng giá trị sản xuất công nghiệp chế biến. * Phân tích ảnh hưởng của năng suất lao động cá biệt, kết cấu lao động và tổng số lao động tới giá trị sản xuất ngành công nghiệp chế biến. - Theo giá hiện hành IGO = IW X IdT X IồT Trong đó: Từ số liệu tính toán được ta thay vào công thức trên ta có kết quả tính toán hệ thống chỉ số: Số tương đối: 1,57 = 1,5 x 0,98 x 1,07 Số tuyệt đối: 98676 = (0,081-0,054)3348790 + (0,054-0,055)3348790 + (3348790-3129711)0,055 98676 = 89975 - 3349 + 12049 Giá trị sản xuất công nghiệp chế biến theo giá hiện hành năm 2000 so với năm 1998 tăng từ 172488,7 tỷ đồng lên 271077 tỷ đồng tức tăng 57% hay 98676 tỷ đồng là do ảnh hưởng của 3 nhân tố: Thứ nhất: do năng suất lao động cá biệt của các thành phần kinh tế tăng 50% làm cho giá trị sản xuất công nghiệp chế biến theo giá hiện hành tăng 89975 tỷ đồng. Thứ hai: do kết cấu lao động của các thành phần kinh tế thay đổi làm cho giá trị sản xuất công nghiệp chế biến giảm 3349 tỷ đồng. Thứ ba: do tổng số lao động bình quân toàn ngành công nghiệp chế biến tăng 7% làm cho giá trị sản xuất công nghiệp chế biến theo giá hiện hành tăng 12049 tỷ đồng. Cả 3 nhân tố đều có ảnh hưởng tốt đến giá trị sản xuất trong đó năng suất lao động cá biệt là nhân tố chủ yếu làm tăng giá trị sản xuất ngành công nghiệp chế biến. - Theo giá cố định IGO = IW X IdT X IồT Trong đó: Từ đó ta có: Số tương đối: 1,28 = 1,24 x 0,97 x 1,07 Số tuyệt đối: 34424 = 29230 + 3348 + 8544 Giá trị sản xuất công nghiệp chế biến theo giá cố định năm 2000 so với năm 1998 tăng từ 120665.5 tỷ đồng lên 157173.2 tỷ đồng tức là tăng 28% hay 34424 tỷ đồng là do ảnh hưởng của 3 nhân tố: Thứ nhất: Do năng suất lao động cá biệt của các thành phần kinh tế tăng lên 24% làm cho giá trị sản xuất công nghiệp chế biến theo giá cố định tăng 29230 tỷ đồng. Đây là nhân tố có ảnh hưởng tốt đến giá trị sản xuất. Thứ hai: do kết cấu lao động của các thành phần kinh tế thay đổi làm cho giá trị sản xuất công nghiệp chế biến theo giá cố định giảm 3349 tỷ đồng. Thứ ba: do tổng số lao động toàn ngành công nghiệp chế biến tăng lên 7% làm cho giá trị sản xuất công nghiệp chế biến tăng lên 8544 tỷ đồng. Cả 3 nhân tố đều có ảnh hưởng tốt đến giá trị sản xuất và nhân tố năng suất lao động bình quân toàn ngành là nhân tố chủ yếu là tăng giá trị sản xuất của ngành. Qua các mô hình phân tích giá trị sản xuất ta thấy yếu tố năng suất lao động có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng sản xuất công nghiệp chế biến. Tuy nhiên năng suất lao động của ngành công nghiệp chế biến còn thấp, vì vậy để sản xuất công nghiệp chế biến tiếp tục tăng trưởng với nhịp độ cao và ổn định đòi hỏi phải có chính sách đầu tư đúng đắn và nâng cao chất lượng lao động trong công nghiệp. Yếu tố năng suất lao động là yếu tố chất lượng quyết định cơ bản đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân nói chung và ngành công nghiệp chế biến nói riêng. IV. Phân tích giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến 1. Phân tích qui mô giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến 1.1. Phân tích qui mô giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến theo giá hiện hành a) Xu hướng biến động Từ bảng số liệu trên ta thấy giá trị tăng thêm công nghiệp chế biến tăng qua các năm và các mức độ tăng tương đối đều nhau. Qua tính toán biểu hiện hàm xu thế sau: Điều đó chứng tỏ nếu không ảnh hưởng của các nhân tố ngẫu nhiên thì giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến tiến triển theo một xu hướng nhất định là cứ thời gian tăng thêm 1 năm thì giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến tăng thêm được 7932,5 tỷ đồng. b) Mức độ biến động: Từ dãy số VA tính được các mức độ biến động tại bảng sau: Như vậy, sau một thời gian kéo dài từ 1991-1996 ngành công nghiệp chế biến Việt Nam tăng trưởng với tốc độ cao. Cụ thể: Năm 1992 so với năm 1991 đạt 169,3%; năm 1995 so với năm 1994 đạt 128,9% thì năm 1997 so với năm 1996 đạt 125,2%, đến năm 1998 so với năm 1997 là 119,7%; năm 1999 so với năm 1998 chỉ còn 114,3%. Đến năm 2000 so với năm 1999 đạt 115,8%, có tăng hơn so với năm 1999 so với năm 1998 nhưng không đáng kể, con số đó tuy rất nhỏ nhưng đó là điều đáng chú ý đối với ngành công nghiệp chế biến Việt Nam. Với tốc độ phát triển giá trị tăng thêm của ngành đạt được như vậy tương ứng với tốc độ phát triển của các năm như sau: Giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến năm 1992 tăng so với năm 1991 là 69,3% tương đương tăng 6964 tỷ đồng; năm 1993 tăng so với năm 1992 là 25% tương đương tăng 4260 tỷ đồng; năm 1994 tăng so với năm 1993 là 25,1% tương ứng tăng 5349 tỷ đồng; năm 1995 tăng so với năm 1994 là 28,9% tương ứng tăng 7694 tỷ đồng; năm 1996 tăng so với năm 1995 là 20,3% tương ứng tăng 6973 tỷ đồng; thì đến năm 1997 tăng so với năm 1996 là 25,2% tương đương tăng 10409 tỷ đồng; năm 1998 tăng so với năm 1997 là 19,7% tương ứng tăng 10206 tỷ đồng; năm 1999 tăng so với năm 1998 là 14,3% hay tăng 8861 tỷ đồng, đây là năm có tốc độ tăng thấp nhất trong kỳ, đến năm 2000 so với năm 1999 tăng lên 15,8% tương ứng tăng 11212 tỷ đồng, đến đây bắt đầu có xu hướng tăng lên và dần ổn định. 1.2. Phân tích qui mô giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến theo giá cố định năm 1994. Tương tự như khi phân tích giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến theo giá hiện hành, khi ta phân tích giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến theo giá cố định thì trước hết ta phải tính giá trị sản xuất và chi phí trung gian của ngành công nghiệp chế biến theo giá cố định năm 1994, như vậy ta có: VACĐ = GOCĐ - ICCĐ a) Xu hướng biến động Giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến (theo giá cố định năm 1994) tăng qua các năm theo một xu hướng nhất định, biểu hiện điều đó qua hàm xu thế sau: Nghĩa là khi loại bỏ yếu tố ngẫu nhiên thì thời gian tăng thêm một năm thì giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến tăng lên 3511,2 tỷ đồng. b) Các mức độ biến động Từ những số liệu của biểu ta có nhận xét về tình hình phát triển của công nghiệp chế biến Việt Nam như sau: (Bỏ qua yếu tố về giá ta chỉ phân tích giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp chế biến ảnh hưởng do yếu tố thời gian). Sau một thời gian kéo dài từ 1991-1996 công nghiệp chế biến Việt Nam tăng với tốc độ cao. Cụ thể như sau: Năm 1992 tăng so với năm 1993 là 13,7& tương ứng với 2683 tỷ đồng và năm 1994 so với năm 1993 tăng 9,3 tương đương với 2271 tỷ đồng; nhưng đến năm 1997 ngành công nghiệp chế biến Việt Nam có chiều hướng tăng chậm lại và càng thể hiện rõ ở năm 1998 và năm 1999. Nhưng đến năm 2000 ngành công nghiệp chế biến đã bắt đầu đi vào ổn định và tăng trưởng trở lại với tốc độ cao. 2. Phân tích cơ cấu (tỷ trọng) giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến. a) Xu thế biến động Qua số liệu về tỷ trọng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến trong GDP ta thấy tỷ trọng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến so với GDP tăng qua các năm theo một xu hướng tăng lên là cùng tăng qua các năm vì vậy để biểu hiện xu hướng biến động của tỷ trọng này so với GDP ta sử dụng hàm xu thế sau: Hàm xu thế có dạng: Qua hàm xu thế ta thấy bỏ qua các yếu tố ngẫu nhiên khi thời gian tăng lên một năm thì tỷ trọng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến tăng lên 0,53%. b) Các mức độ biến động Bảng 15: Tỷ trọng VA/GDP ngành công nghiệp chế biến (theo giá hiện hành) Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 VA/GDP 13,1 15,39 15,17 14,91 14,99 15,18 16,48 17,15 17,69 18,46 Dd(%) - 2,29 -0,22 -0,26 0,08 0,19 1,3 0,67 0,54 0,77 Trong khu vực này do chính sách đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tỷ trọng đầu tư cho công nghiệp chế biến tăng lên làm cho cơ cấu VA/GDP công nghiệp chế biến ngày một cao kể từ năm 1995-2000. Điển hình năm 1995 đạt 14,99% và tăng so với năm 1994 là 0,08% và tăng dần qua các năm, đến năm 2000 tăng lên 18,46% trong tổng số. 3. Phân tích tốc độ phát triển của công nghiệp chế biến a) Xu hướng biến động Để nghiên cứu xu hướng biến động của giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến (theo giá cố định năm 1994) từ đó có xu hướng biến động của tốc độ phát triển giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến khi loại bỏ yếu tố ngẫu nhiên. b) Các mức độ biến động Bảng 16: Giá trị tăng thêm và các mức độ biến động của tốc độ phát triển giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến (theo giá cố định năm 1994). Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 VA 19552 22235 24353 26624 30231 34339 38743 42694 45888 52177 Iy - 113,7 109,5 109,3 113,5 113,6 112,9 110,2 107,5 113,7 DIy - - -4,2 -0,2 4,2 0,1 -0,7 -2,7 -2,7 6,2 Qua bảng số liệu ta thấy tốc độ phát triển của ngành công nghiệp chế biến theo một xu hướng nhất định. Cụ thể từ 1991 đến 1996 tốc độ phát triển tăng dần theo các năm, đến năm 1997 có xu hướng giảm dần và ổn định vào năm 2000. Dựa vào bảng số liệu ta thấy tốc độ phát triển năm 1992 là 113,7% tăng lên 13,7% so với năm 1991 và tăng giảm không đều qua các năm, đến năm 1996 đạt 113,6% tăng 13,6% so với năm 1995. Đến năm 1997 tốc độ phát triển giảm xuống còn 112,9% tăng 12,9% so với năm 1996; năm 1999 tốc độ phát triển giảm xuống còn 107,5 % tăng 7,5% so với năm 1998 và đến năm 2000 đạt 113,7% gần bằng với năm 1991 tăng 13,7% so với năm 1999. Đó là dấu hiệu đáng mừng của ngành công nghiệp chế biến. Kiến nghị và giải pháp Hiện nay việc tính toán và phân tích các chỉ tiêu giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp chế biến theo SNA phụ thuộc vào chế độ hạch toán, hệ thống chứng từ và quan niệm của các đơn vị sản xuất kinh doanh về nội dung và giới hạn tài khoản... Chính vì thế ở nước ta, tuy đã có quyết định áp dụng SNA, song đến nay nhiều đơn vị cơ sở vẫn chưa triển khai được. Nhiều đơn vị (các doanh nghiệp, hợp tác xã...) vẫn sử dụng hệ thống chỉ tiêu theo MPS, đồng thời có tính toán một số chỉ tiêu mới theo SNA nhưng hoàn toàn mang tính hình thức, mức độ tin cậy còn hạn chế. Do đó, tính và phân tích các chỉ tiêu giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp chế biến gặp nhiều khó khăn do số liệu ở các đơn vị cơ sở đưa lên có độ chính xác không cao. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng đã tính được một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó giúp cho các cấp lãnh đạo phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: đánh giá, phân tích tình hình sử dụng các yếu tố của quá trình tái sản xuất; đánh giá, phân tích tình hình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Thông qua những chỉ tiêu mà doanh nghiệp cũng như các đơn vị thống kê tính giúp cho các cấp lãnh đạo có những thay đổi tích cực làm tăng hoạt động đem lại lợi ích kinh tế lớn hơn và giảm các hoạt động đem lại ít lợi ích. Để đạt được kết quả đó, ngành thống kê đã xây dựng phương pháp tính các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp quan trọng cho từng thành phần kinh tế và một hệ thống chỉ tiêu khác tạo thuận lợi cho người quản lý trong việc kiểm soát các báo cáo hoạt động của cơ sở, của ngành tạo ra sự thống nhất về tính toán trong ngành công nghiệp chế biến trên phạm vi cả nước, làm cơ sở cho sự so sánh hiệu quả kinh tế giữa các thành phần kinh tế có hoạt động chế biến với các ngành khác trong nền kinh tế. Nền kinh tế thị trường với sự song song tồn tại của nhiều thành phần kinh tế, được nhà nước khuyến khích tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh nên hoạt động của các đơn vị kinh tế rất đa dạng. Cũng như các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân, ngành công nghiệp chế biến không chỉ đơn thuần là hoạt động chế biến sản phẩm mà bên cạnh đó còn có những hoạt động sản xuất kinh doanh khác. Theo nguyên tắc tính giá trị sản xuất thì các hoạt động sản xuất phụ không thuộc ngành công nghiệp chế biến phải được tách riêng để đưa về ngành tương ứng. Theo quy định của Tổng cục thống kê các hoạt động sản xuất phụ không thuộc phạm vi ngành công nghiệp chế biến mà có doanh thu nhỏ hơn 15% tổng doanh thu sản xuất chính thì tính vào tổng doanh thu sản xuất chính, trường hợp doanh thu sản xuất phụ lớn hơn 15% tổng doanh thu sản xuất chính thì phải bóc tách để đưa về ngành tương ứng. Tuy nhiên, trong thực tế các đơn vị thường không tiến hành bóc tách các sản phẩm phụ để đưa về ngành tương ứng mà để hết vào tổng doanh thu sản xuất chính của đơn vị. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc tính giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp chế biến có nhiều sai sót. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thường phát sinh nhiều chi phí mà trong phương pháp tính các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp thường không đề cập hết được. Bên cạnh những chi phí sản xuất chính, còn nhiều khoản chi phí phát sinh khác thì doanh nghiệp thường đưa tất cả vào yếu tố chi phí khác bằng tiền, trong yếu tố chi phí khác bằng tiền bao gồm cả chi phí trung gian và giá trị tăng thêm. Muốn tính được chính xác chỉ tiêu chi phí trung gian, phải tiến hành bóc tách các chỉ tiêu trong yếu tố chi phí khác bằng tiền để đưa về chỉ tiêu chi phí trung gian, giá trị tăng thêm. Trong thực tế, việc bóc tách này ít khi được thực hiện ở các đơn vị cơ sở vì nó gây phiền hà và không đem lại lợi ích kinh tế. Việc bóc tách này thường được thực hiện ở cơ quan thống kê qua hệ số bóc tách trong sách "Những hệ số cơ bản của hệ thống tài khoản quốc gia năm 1997". Để có thể bóc tách một cách chính xác thì Tổng cục thống kê nên điều tra mỗi năm một lần để có được hệ số bóc tách của từng năm. Nhưng trong thực tế, do điều kiện kinh phí hạn chế nên Tổng cục thống kê thường từ 3-5 năm mới điều tra một lần nên khi bóc tách các chỉ tiêu trong yếu tố chi phí khác bằng tiên dựa vào hệ số này là có độ chính xác không cao. Để tính được các chỉ tiêu giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm của các doanh nghiệp, thường dựa vào bảng báo cáo kết quả kinh doanh, bảng cân đối kế toán, biểu chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố. Song các báo cáo quyết toán của đơn vị còn thiếu chính xác do cả yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan. Mặt khác các chỉ tiêu trong báo cáo quyết toán thường không chi tiết cho từng khoản mục, để tính được chi phí trung gian, giá trị tăng thêm một cách tương đối chính xác thì phải dựa vào hệ số bóc tách hay xuống cơ sở điều tra một cách trực tiếp. Song kinh phí dùng cho các cuộc điều tra lại hạn hẹp, số mẫu điều tra thường nhỏ không đảm bảo độ tin cậy. Mặt khác khi điều tra thường dùng phương pháp hỏi đáp, hồi tưởng để ghi lại nên mức độ chính xác có phần hạn chế. Trên đây là những khó khăn trong quá trình tính toán các chỉ tiêu giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp chế biến. Những khó khăn này là do một số nguyên nhân chủ quan và khách quan sau: - Việc tính toán các chỉ tiêu giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm phải dựa trên cơ sở báo cáo quyết toán của các đơn vị cơ sở, nhưng báo cáo của các đơn vị thường không đầy đủ và kém chính xác. - Do kinh phí hạn chế cho các cuộc điều tra định kỳ để kiểm tra độ tin cậy của số liệu báo cáo. Số mẫu điều tra thường nhỏ không đủ đảm bảo tính đại diện dẫn đến kết quả thu được có độ tin cậy chưa cao. Bên cạnh những khó khăn thì cũng có những điều kiện thuận lợi trong việc tính toán và phân tích các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp chế biến. ở các đơn vị cơ sở, các cấp lãnh đạo đã phần nào thấy được vai trò quan trọng của việc tính các chỉ tiêu giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm của doanh nghiệp một cách đầy đủ và chính xác. Thông qua các chỉ tiêu này giúp các cấp lãnh đạo phân tích được hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cả về quy mô và cơ cấu, giúp cho các nhà quản lý có những thông tin cần thiết làm căn cứ khoa học để xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh theo hình thức đã lựa chọn. Chính vì nhận thấy được tầm quan trọng của nó, các doanh nghiệp đã tạo điều kiện kinh phí cho bộ phận thống kê tạo điều kiện cho việc thu thập xử lý thông tin để tính các chỉ tiêu giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm cho doanh nghiệp của mình. Khi các doanh nghiệp đã có số liệu về giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm của doanh nghiệp thì việc tính chỉ tiêu kinh tế tổng hợp giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp chế biến sẽ gặp nhiều thuận lợi. Phương pháp tính các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp cho thành phần kinh tế tư nhân, tập thể, cá thể trong ngành công nghiệp chế biến, việc tính toán diễn ra ở các cơ quan thống kê. Do đó việc thu thập thông tin phải thông qua các cuộc điều tra thống kê định kỳ mà kinh phí dùng cho các cuộc điều tra hạn hẹp. Do vậy số mẫu điều tra thường nhỏ không đảm bảo độ tin cậy, mặt khác số liệu điều tra hầu như không hạch toán chi tiết. Trong các cuộc điều tra này thường sử dụng phương pháp hỏi đáp, hồi tưởng để ghi lại nên mức độ chính xác có phần hạn chế. Cũng có trường hợp cơ quan thống kê phải dùng hệ số bóc tách chung để tính. Trên cơ sở phân tích những ưu, nhược điểm trong quá trình tính các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm cho các thành phần kinh tế của ngành công nghiệp chế biến, ở đây em xin đưa ra một số kiến nghị về phương pháp tính và phân tích các chỉ tiêu này. - Đổi mới hệ thống tổ chức thông tin, chế độ hạch toán cơ sở phù hợp với yêu cầu của việc áp dụng hệ thống tài khoản quốc gia cho từng đơn vị cơ sở cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trên cơ sở đó để thực hiện chế độ thuế giá trị gia tăng, đồng thời cung cấp thông tin để tính giá trị tăng thêm cho toàn ngành công nghiệp chế biến. Tổ chức hệ thống thông tin chủ yếu theo kênh thống kê nhà nước là đúng, song tổ chức thông tin để tính giá trị sản xuất, chi phí trung gian, giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp chế biến có đặc thù riêng vì chủ yếu dựa vào hệ thống thông tin kế toán, tài vụ như: bảng cân đối kế toán, bảng báo cáo về kết quả kinh doanh, báo cáo về chi phí sản xuất... Vì vậy cần tổ chức thông tin theo đơn vị chủ quản là phù hợp. Trong điều kiện khả năng xử lý thông tin bằng máy vi tính hiện nay, thông tin của các trung tâm xử lý theo một chương trình thống nhất. Nguồn thông tin trong các báo cáo thống kê định kỳ tại cơ sở phải đầy đủ, chính xác, biểu chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố nên chi tiết hơn. Để đảm bảo số liệu của các đơn vị cơ sở gửi lên có độ chính xác cao, nhà nước nên quy định báo cáo thống kê định kỳ của các doanh nghiệp phải thông qua một cơ quan kiểm toán. Đối với các đơn vị sản xuất không có báo cáo thống kê định kỳ thì phải tiến hành điều tra, lập dàn mẫu. Nếu điều kiện kinh phí cho phép thì Tổng cục thống kê nên điều tra mỗi năm một lần, khi điều kiện kinh phí hạn hẹp, Tổng cục cũng nên điều tra từ 3-5 năm một lần. Tuy nhiên ngành thống kê nên xây dựng một trung tâm về điều tra thống kê, tránh việc các ngành, các ban đều tham gia điều tra tạo nên sự chồng chéo mà hiệu quả không cao. Gắn liền các cuộc điều tra thống kê với thống kê thuế vụ, thống kê hải quan để nâng cao chất lượng số liệu của sản xuất tư nhân, cá thể, hộ gia đình. - Về phương pháp tính: Khi tính giá trị sản xuất theo phương pháp công xưởng lấy xí nghiệp làm đơn vị tính toán, trong trường hợp tổ chức sản xuất thay đổi sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất. Khi tổ chức sản xuất được liên hiệp lại, dây chuyền sản xuất khép kín thì tổng giá trị sản xuất sẽ là thấp nhất vì giá trị nguyên vật liệu chỉ tính có một lần. Ngược lại khi tổ chức sản xuất theo chuyên môn hoá càng sâu thì giá trị nguyên vật liệu chu chuyển qua từng xí nghiệp bị tính trùng nhiều lần, do đó giá trị sản xuất sẽ tăng lên. Vậy ta nên tính theo phương pháp ngành để tránh sự trùng lặp trên. Khi tính giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp chế biến nên dùng phương pháp sản xuất vì nếu tính theo phương pháp phân phối thì các yếu tố của chỉ tiêu này không được các xí nghiệp hạch toán đầy đủ và chính xác. Trong khi đó các yếu tố của chỉ tiêu giá trị sản xuất và chi phí trung gian lại được hạch toán đầy đủ hơn. Thêm vào đó khi muốn tính chỉ tiêu giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến theo giá so sánh dùng phương pháp sản xuất sẽ thuận lợi hơn vì nó được tổng hợp từ nhiều yếu tố cấu thành nên, hơn nữa nó sẽ đảm bảo độ chính xác. - Về công tác thống kê tại doanh nghiệp: Ngành thống kê nên kết hợp với trường đại học kinh tế quốc dân, đặc biệt là Khoa Thống kê mở các khoá đào tạo, đào tạo lại để củng cố và nâng cao kiến thức thống kê cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Mặt khác, đào tạo, nâng cao trình độ tin học, ngoại ngữ cho cán bộ, công nhân viên giúp cho họ thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. - Về tuyên truyền công tác thống kê: Hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) mới phổ biến cho các ngành kế toán còn các ngành khác hầu như không được quan tâm. Để nâng cao chất lượng tính toán và phân tích các chỉ tiêu giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm các nhà quản lý đặc biệt là Tổng cục thống kê cần phải phối hợp với các cơ quan tuyên truyền, tổ chức các cuộc hội thảo, nói chuyện, phổ biến tầm quan trọng của SNA trong nền ít quốc dân. - Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu thống kê công nghiệp chế biến và các phương pháp phân tích. Đây là công việc rất quan trọng hiện nay, bởi vì muốn phân tích một cách toàn diện và sâu sắc tình hình sản xuất công nghiệp chế biến thì cần phải có hệ thống chỉ tiêu thống kê công nghiệp chế biến đầy đủ, hoàn chỉnh và kèm theo đó là phải có các phương pháp phân tích thích hợp đối với từng chỉ tiêu. Chỉ tiêu giá trị tăng thêm là một trong những chỉ tiêu rất quan trọng, phản ánh hiệu quả tổng hợp của sản xuất. Nhưng thực tế hiện nay vẫn chưa tính cụ thể hoặc nếu có thì cũng không thường xuyên chỉ tiêu này trong các báo cáo định kỳ. Như vậy sẽ rất khó khăn để có thể đánh giá một cách chính xác hiệu quả sản xuất công nghiệp chế biến khi không có chỉ tiêu này. Vì vậy thiết nghĩ nên tính chỉ tiêu này trong các báo cáo hàng năm; ngoài ra cũng nên tính toán một số chỉ tiêu khác như giá trị xuất nhập khẩu của ngành công nghiệp chế biến, năng suất lao động của ngành công nghiệp chế biến... Hiện nay, việc áp dụng hệ thống tài khoản quốc gia ngày càng được hoàn thiện, nâng cao chất lượng tính toán các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp. Muốn tính được chính xác các chỉ tiêu giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp chế biến, vấn đề quan trọng nhất là các doanh nghiệp phải thực hiện báo cáo quyết toán chính xác và số chỉ tiêu trong báo cáo chi tiết hơn. Để thực hiện tốt công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì ngành công nghiệp nói chung và đặc biệt ngành công nghiệp chế biến nói riêng cần phải: - Phát triển nhanh các ngành công nghiệp có khả năng phát huy lợi thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu, như chế biến nông, lâm, thuỷ sản, may mặc, da - giầy, điện tử - tin học, một số sản phẩm cơ khí và hàng tiêu dùng... - Phát triển mạnh các ngành công nghiệp công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, viễn thông, điện tử, tự động hoá. Chú trọng phát triển công nghiệp sản xuất phần mền tin học thành ngành kinh tế có tốc độ tăng trưởng vượt trội. - Quy hoạch phân bố hợp lý công nghiệp chế biến trên cả nước. Phát triển có hiệu quả các khu chế xuất, khu công nghiệp, xây dựng một số khu công nghệ cao, hình thành các cụm công nghiệp lớn và khu kinh tế mở. - Phát triển rộng khắp các cơ sở sản xuất công nghiệp chế biến nhỏ và vừa với ngành nghề đa dạng. Đổi mới, nâng cấp công nghệ trong các cơ sở hiện có để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả. Sử dụng phù hợp các công nghệ có khả năng thu hút nhiều lao động. Phát triển nhiều hình thức liên kết giữa các doanh nghiệp nhỏ, vừa và lớn, giữa sản xuất nguyên vật liệu với chế biến, tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở đảm bảo hài hoà về lợi ích. Tăng tỷ lệ nội địa hoá trong công nghiệp chế biến gia công, lắp ráp. Tăng cường công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm, bảo hộ sở hữu công nghiệp... Kết luận Trong xu thế phát triển toàn cầu hoá hiện nay, chỉ có phát triển công nghiệp là con đường duy nhất giúp nước ta tiến kịp xu thế của thời đại, hội nhập với thế giới và khu vực. Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước còn gặp nhiều khó khăn, để đạt được mục tiêu là đến năm 2020 nước ta trở thành một nước công nghiệp, đòi hỏi sự nỗ lực của các cấp, các ngành mà đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến, ngành chiếm tỷ trọng cao trong ngành công nghiệp nói chung và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Hơn nữa không thể không chú trọng phát triển ngành thống kê - ngành đóng vai trò không thể thiếu và việc áp dụng hệ thống tài khoản quốc gia vào việc tính toán và phân tích cũng như dự đoán về kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế góp phần vào việc phát triển ngành công nghiệp chế biến nói riêng và phát triển ngành công nghiệp nói chung cũng như phát triển toàn bộ nền kinh tế nước ta. Trên cơ sở kiến thức lý luận chung học được tại trường Đại học Kinh tế quốc dân, lý thuyết chuyên ngành riêng ở Khoa Thống kê - trường Kinh tế quốc dân và qua thời gian thực tập tại Vụ Hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) - Tổng cục thống kê, em đã hoàn thành chuyên đề thực tập này, tuy nhiên với khả năng có hạn nên chắc chắn rằng chuyên đề không thoát khỏi những thiếu sót, rất mong sự đóng góp ý kiến và nhận xét để có thể nâng cao được kiến thức cũng như sự hiểu biết hơn về đề tài cũng như về các lĩnh vực khác. Cuối cùng em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành nhất đến sự giúp đỡ và hướng dẫn nhiệt tình của PGS.TS. Phan Công Nghĩa - Chủ nhiệm khoa Thống kê - Trường đại học Kinh tế quốc dân; chú Trịnh Quang Vượng - phòng Tổng hợp và phân tích và các bác, các cô chú, các anh chị trong Vụ Hệ thống tài khoản quốc gia - Tổng cục thống kê đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi để em hoàn thành được chuyên đề này. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29147.doc
Tài liệu liên quan