Thực trạng và giải pháp trong hoạt động quản lý ngoại hối của ngân hàng nhà nước Việt Nam

Lời mở đầu Trong nền kinh tế mở hiện nay, khi mà quan hệ thương mại quốc tế ngày càng trở lên phát triển thì vấn đề thanh toán quốc tế cũng là một vấn đề rất được quan tâm. Vì việc xuất khẩu của nước này đi cùng với việc nhập khẩu của nước khác cho nên giữa hai quốc gia tham gia quan hệ thương mai phải có ít nhất một nước cần ngoại tệ để thanh toán. Nó có thể là đồng tiền của nước nhập khẩu hay của nước xuất khẩu hay là đồng tiền của nước thứ ba được quy định trong hợp đồng từ trước chứ trên th

doc18 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1744 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp trong hoạt động quản lý ngoại hối của ngân hàng nhà nước Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế giới ít có một quốc gia -nếu không muốn nói là hoàn toàn không có - có thể buộc các nước tham gia quan hệ thương mại với mình mà chỉ dùng bằng đồng tiền của mình. Do vậy, ngoại thương đòi hỏi các nước đều phải cần đến tiền nước ngoài và hình thành nên thị trường ngoaị hối. Tuy nhiên thị trường cung cầu luôn luôn biến động, nếu nhà nước không có chính sách quản lý sẽ dẫn đến tình trạng cung lớn hơn cầu,tỷ giá giảm, hay cầu lớn hơn cung làm cho tỷ giá tăng. Từ đó ảnh hưởng đến tình hình kinh tế ở mỗi quốc gia. Vì vậy, quản lý ngoại hối là một vấn đề quan trọng không thể thiếu được ở mỗi quốc gia. Với Việt nam, việc thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và nhà nước, từng bước chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mở cửa nền kinh tế quan hệ hợp tác song phương và đa phương với các nước trong khu vực và trên thế giowisthif vấn đề quản lý ngoại hối cũng trở nên quan trọng. Trước đây với việc nhà nước độc quyền về ngoại thương và ngoại hối thì vấn đề1 tỷ giá không được quan tâm. Nhưng từ khi nền kinh tế mở cửa thì ngoại hối và ngoại thương được nhà nước đặc biệt quan tâm, coi đây là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đén sự phát triển kinh tế của quốc gia. Vì vậy trong khuôn khổ của bài này, em xin đề cập đến một trong những vấn đè quan trọng về quản lý ngoại hối là:”những hoạt động quản lý ngoại hối của ngân hàng nhà nước Việt nam “ Trong bài còn nhiều thiếu sót em xin các thầy cô giáo chỉ bảo hướng dẫn cho em làm tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn. Sinh viên: Tống Thị Thu Hà. Lý luận chung. I, Ngoại hối. Trong một nền kinh tế mở, các chủ thể kinh tế (cá nhân, tổ chức ) trong nước tiến hành giao dịch với các nước chủ thể kinh tế nước ngoài dưới nhiều hình thức khác nhau: trao đổi hàng hoá, dịch vụ, đầu tư trực tiếp, gián tiếp, vay nợ viện trợ; chuyển tiền và thu nhập một chiều. . . Các giao dịch này làm phát sinh sự di chuyển của dòng ngoại hối ra vào nền kinh tế. Vậy ngoại hối là gì? Ngoại hối là tiền nước ngoài, vàng tiêu chuẩn quốc tế, các giấy tờ có giá,các công cụ thanh toán bằng tiền nước ngoài đóng vai trò là phương tiện thanh toán và hạch toán quốc tế, dự trữ của cải, được chấp nhận như đồng tiền quốc tế. Theo nghị định 63/1998/NDDDíCP ngày 17/8/1998 về quản lý ngoại hối thì ngoại hối là: _Tiền nước ngoài như: tiền kim loại, tiền giấy. _Công cụ thanh toán bằng tiền nước ngoài như : séc, thẻ thanh toán, hối phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các công cụ thanh toán khác _Các loại giấy tờ có giá bằng tiền nước ngoài như: trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá khác. _Quyền rút vốn đặc biệt, đồng tiền chung châu âu, các đồng tiền chung khác dùng trong thanh toán quốc tế và khu vực _ Vàng tiêu chuẩn quốc tế. _ Đồng tiền đang lưu hành của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam trong trường hợp chuyển vào và chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt nam hoặc được sử dụng làm công cụ trong thanh toán quốc tế. Như vạy, ngoại hối là phương tiện thiết yếu trong quan hệ kinh tế văn hoá. . . giữa các quốc gia với nhau. Nền kinh tế càng phát triển quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng thì không thể có một quốc gia nào phát triển một cách đơn độc, khép kín, mà đòi hỏi phải mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Trong quá trình quan hệ kinh tế sẽ có dòng ngoại hối ra vào nền kinh tế. Nếu nguồn ngoại hối chảy ra lớn hơn nguồn ngoại hối chảy vào thì các chủ thể kinh tế đang trong tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế. Ngược lại, nếu nguồn ngoại hối chảy ra nhỏ hơn nguồn ngoại hối chảy vào, khi đó nền kinh tế bắt đầu có sự tích luỹ ngoại hối. Trong cả hai trường hợp đều dẫn đến sự ảnh hưởng to lớn đến nền kinh tế trong nước. Vì vậy, nhà nước cần có biện pháp quản lý dòng tiền ra vào nền kinh tế thông qua các chính sách, biện pháp tác động vào quá trình xuất nhập khẩu ngoại hối và sử dụng ngoại hối theo những mục tiêu nhất định. Ngân hàng trung ương với tư cách là cơ quan duy nhất có nghiệp vụ phát hành tiền, xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ, lập và theo dõi cán cân thanh toán quốc tế; được Nhà nước giao nhiệm vụ là cơ quan quản lý và kiểm soát ngoại hối trên thị trường. Với nhiệm vụ như vậy, ngân hàng trung ương phải thực hiện các chức năng chủ yếu như: điều tiết tỷ giá nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia ;bảo tồn quỹ dự trữ ngoại hối Nhà nước; cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Để thực hiện chức năng này, ngân hàng trung ương phải có những biện pháp nhằm tập trung và thúc đẩy tập trung các nguồn ngoại hối vào ngân hàng trung ương để thông qua đó nhà nước sử dụng một cách hợp lý, có hiệu quả cho các nhu cầu phát triển ngoại hối và kinh tế. Đồng thời thông qua việc sử dụng chính sách ngoại hối như mua bán trên thị trường ngoại hối để can thiệp vào tỷ giá khi cần thiết nhằm ổn định giá trị của đồng tiền; đồng thợi thông qua đó nhằm bảo tồn giá trị thực của quỹ dự trữ ngoại hối nhà nước. Tránh tình trạng bị sáo mòn, thất thoát quỹ dự trữ ngoại hối của Nhà nước, đảm bảo độc lập chủ quyền về tiền tệ. Trong quan hệ thương mại quốc tế, cán cân thương mại quốc tế thể hiện quan hệ thu chi quốc tế của một nước với nước ngoài, phản ánh xu hướng về cung cầu ngoại tệ trong các giao dịch quốc tế nên nó tác đọng lớn đến tỷ giá hối đoái của đồng tiền. Khi cán cân thanh toán quốc tế bội thu, lượng ngoại tệ chảy vào trong nước tăng lên dẫn đến khả năng cung ứng ngoại tệ cao hơn nhu cầu. Trường hợp này tỷ giá vận động theo xu hướng giảm. Ngược lại khi cán cân thanh toán bội chi, tức là lượng ngoại tệ chảy ra khỏi đất nước tăng lên dẫn đến nhu cầu về ngoại tệ cao hơn khả năng cung ứng. Trường hợp này không có sự can thiệp của ngân hàng trung ương thì tỷ giá sẽ tăng hoặc giảm theo quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối. Vì vậy, tuỳ theo chính sách kinh tế của các quốc gia khác nhau mà các nước thực hiện các chính sách quản lý ngoại hối khác nhau. Hiện nay trên thế giới tồn tại 3 hình thức quản lý ngoại hối: Một là: Cơ chế quản lý ngoại hối: Thực hiện cơ chế này nghĩa là ngoại hối được tự do lưu thông trên thị trường, cân bằng ngoại hối do thị trường quyết định mà không có sự can thiệp của nhà nước. Do vậy; tỷ giá hay giá cả ngoại hối sẽ phù hợp với sức mua của đồng tiền trên thị trường. Tỷ giá này thả nổi dẫn đến lãi suất, vốn vào và ra do thị trường quyết định. Với việc thực hiện cơ chế này, nhà nước hoàn toàn không kiểm soát lãi suất, tỷ giá, vốn ra vào nền kinh tế . Chỉ một số nước phát triển thị trường hối đoái đã được quốc tế hoá mới có khả năng thực hiện cơ chế này. Còn hiện nay trên thế giới hầu hết các nước đều áp dụng cơ chế có sự quản lý của nhà nước, song tuỳ theo từng nước mà mức độ can thiệp của Nhà nước có sự khác nhau. Hai là: Cơ chế nhà nước tực hiện quản lý hoàn toàn: Theo cơ chế này n thực hiện độc quyền về ngoại thương và ngoại hối. Nhà nước áp dụng các biện pháp hành chính áp đặt tập trung tất cả ngoại hối vào tay mìmh. Tỷ giá do Nhà nước quy định mà tất cả các giao dịch ngoại hối phải chấp hành, các tổ chức tham gia hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nếu bị lỗ do tỷ giá thì sẽ được Nhà nước cấp bù, ngược lại nếu có lãi thì phải nộp cho ngân sách Nhà nước. Cơ chế này thích hợp với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Ba là cơ chế quản lý có sự diều tiết: Khác với cơ chế quản lỳ hoàn toàn, Nhà nước có thể áp đặtkhống chế được thị trường, ngăn chặn ảnh hưởng từ bên ngoài, chủ động khai thác được nguồn vốn bên trong. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường, cách quản lý này sẽ không phù hợp, cản trở và gây khó khăn cho nền kinh tế . Để khắc phục sự áp đặt, Nhà nước điều tiết nhưng cũng gắn với thị trường, mức độ kiểm soát của Nhà nước trong điều kiện nhất định để nhằm phát huy tính tích cực của thị trường, hạn chế nhược điểm do thị trường gây nên, tạo điều kiện cho kinh tế trong nước phát triển ổn định. Bằng công cụ tỷ giá, dự trữ ngoại hối và các yếu tố khác mà ngân hàng trung ương có thể chủ động điều chỉnh theo mục tiêu chính sách kinh tế vĩ mô. II, Nội dung cơ bản về quản lý ngoại hối _ Các quốc gia khác nhau đều có những nội dung về quản lý ngoại hối khác nhau. Nó phụ thuộc vào tình hình kinh tế chính trị xã hội của quốc gia đó, Tuy nhiên họ đều có một số chính sách chung và được thể hiện trên các nội dung cơ bản sau: Quy dịnh chung về quản lý ngoại hối bao gồm: _ Đối tượng chịu sự quản lý về ngoại hối là ai ? Là tổ chức cá nhân sống và làm việc trong nước hay ngoài nước, chịu sự quản lý như thế nào. _ Phạm vi điều chỉnh rộng hay hẹp, thể hiện ở những lĩnh vực, những mặt nào. _ Chủ thể quản lý là đơn vị nào? quản lý dưới hình thức nào. Hiện nay chủ thể quản lý thường là ngân hàng trung ương hay bộ tài chính do chính phủ giao cho. Chủ thể quản lý dưới hình thức tác động trực tiếp vào thị trường ngoại hối thông qua hoạt động mua bán ngoại hối vớ tư cách là người can thiệp, giám sát điều tiết đồng thời cũng là người mua bán cuối cùng. Trên thị trường hối đoái trong nước, ngân hàng trung ương là người mua bán cuối cùng và chỉ tiến hành mua bán với các ngân hàng thương mại tại hội sở trung ương của các ngân hàng thương mại mà không trực tiếp mua bán với các công ty kinh doanh xuất nhậpkhẩu. Tỷ giá hối đoái do ngân hàng trung ương công bố. Tại thị trường này ngân hàng trung ương sử dụng một phần dự trữ đẻ bán cho các ngân hàng thương mại và mua ngoại tệ của các ngân hàng thương mại đưa vào dự trữ. Thông qua việc mua bán đó ngân hàng trung ương thực hiện cung ứng tiền tệ hoặc rút bớt tiền khỏi lưu thông. Trên cơ sở đó bình ổn tỷ giá hối đoái của đồng bản tệ. Đối với các nước phát triển thị trường hối đoái đã được quốc tế hoá thì tỷ giá được thả nổi và ngân hàng trung ương chỉ can thiệp vào khi thị trường có sự biến động lớn hay trong một số trường hợp đặc biệt cần thiết. Trên thị trường quốc tế, ngân hàng trung ương thực hiện việc mua bán nhằm bảo tồn và phát triển quỹ dự trữ ngoại hối thông qua việc ngân hàng trung ương tính toán gửi ngoại hối ở nước nào là có lợi mà có lợi mà vẫn đảm bảo an toàn, nghiên cứu lãi suất thực tế và xu hướng tăng lên của lãi suất để kinh doanh có lãi. Qua mua bán ngoại hối thực hiện kinh doanh chênh lệch giá để kiếm lời. _ Quy định về nội dung ngoại hối, người cư trú, người không cư trú, hoạt động ngoại hối. Theo quy định về nội dung ngoại hối: thì ngoại hối có thể là vàng, các công cụ thanh toán bằng tiền nước ngoài, các loại giấy tờ có giá bằng tiền nước ngoài, tiền nước ngoài. . . Người cư trú, người không cư trú là những tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh có nguồn thu chi bằng ngoại tệ, hoạt động và duy trì việc duy trì trên các tài khoản ngoại tệ mở tại các ngân hàng . . . Quy định về việc mở tài khoản, sử dụng ngoại tệ của người cư trú và người không cư trú ;quy định về các giao dịch vãng lai, giao dịch vốn Mỗi quốc gia khác nhau quy định về việc người cư trú, người không cư trú được phép mở sử dụng và giao dịch trong những tài khoản của mình là khác nhau. Điều này phụ thuộc vào mục tiêu kinh tế của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ kinh tế . Đối với nền kinh tế chưa phát triển thị trường ngoại hối chưa phát triển , cần ổn định giá trị đồng tiền trong nước, tranh thủ nguồn ngoại tệ bên ngoài đưa vào cho phát triển kinh tế thì họ thực hiện chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước, khuyến khích các chủ thể kinh tế mở và sử dụng tài khoản tiền ngoại tệ, đồng thời có chính sách hạn chế dòng ngoại tệ xuất ra nước ngoài. Cồn đối với các nước phát triển thì việc tự do hoá tài chính được đẩy mạnh, hàng rào di chuyển dòng vốn được tự do cùng với tự do hoá lãi suất nhằm kích thích cạnh tranh trong hệ thống tài chính. Từ đó tăng cường hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế . Như vạy, mõi quốc gia khác nhau có cách thức quản lý khác nhau, tuỳ thuộc vào chính sách kinh tế trong từng thời kỳ nhưng nhìn chung đều Phần II: Thực trạng quản lý ngoại hối ở Việt nam. I, Trước khi luật ngân hàng ra đời: Trong một thời gian dài, Nhà nước ban hành quy chế quản lý ngoại hối nhằm khai thác nguồn thu về ngoại hối, hạn chế ngoại hối ra nước ngoài. Nhà nước nắm độc quyền về ngoại thương và ngoại hối, Nhà nước trực tiếp can thiệp và xác định tỷ giá. Không hề quan tâm đén cung cầu thực tế trên thị trường, ban hành chế độ tỷ giá cố định và đa tỷ giá . Vì vậy, mọi nguồn thu chi ngoại tệ đều do Nhà nước định đoạt, Nhà nước trung ương hoàn toàn độc quyền về ngoại hối. Trong thời kỳ này, quản lý ngoại hối tập trung vào Nhà nước, chỉ có các doanh nghiệp quốc doanh mới được phép tham gia xuất nhập khẩu hàng hoá với tỷ giá cố định được kí kết trong các hiệp định song biên và đa biên giữa các chính phủ của các quốc gia với nhau trong khối SEU mà không quan tâm đến yếu tố tác động lên thị trường như cung cầu ngoại tệ, yếu tố tác động đến tỷ giá, bản thân sự tồn tại của thị trường thua lỗ thu nhỏ hơn chi, do vậy nhà nước phải tiến hành bù lỗ. . . Sau khi thực hiện chuyển đổi nền kinh tế, thực hiện pháp lệnh ngân hàng, ngân hàng Nhà nước đã ban hành các quy chế về quản lý ngoại hối, Nội dung của các quy chế này trên tinh thần khuyến khích ngoại hối vào, hạn chế ngoại hối ra nhằm khai thác mọi tiềm năng kinh tế trong nước, phát triển quan hệ kinh tế với nước ngoài vì lợi ích quốc gia. Ngay từ đầu năm 1989, Nhà nước đã có chủ trương và giải pháp đổi mới đồng bộ trong quan hệ kinh tế đối ngoại và trong chính sách tỷ giá . Từ tháng 3/ 1999, Nhà nước đã áp dụng chế độ tỷ giá được điều chỉnh thường xuyên gần sát với tỷ giá thị trường. Ngay sau đó ngân hàng Nhà nước Việt nam mở hai trung tâm giao dịch hối đoái: một ở thành phố Hồ Chí Minh và một ở Hà Nội để làm thí điểm tiến tới việc thành lập một thị trường hối đoái trong cả nước. Bên cạnh đó, thực hiện chính sách thu hút ngoại tệ vào trong nước thông qua việc cho phép các tổ chức, cá nhân được pháp mở tài khoản bằng ngoại tệ và hưởng lãi tại các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ, cho phép các tổ chức, cá nhân có tài khoản ngoại tệ được phép mua bán, chuyển nhượng, thanh toán. . . Với việc thực thi chính sách như vậy, ngân hàng trung ương đã đạt kết quả tốt trong việc ổn định giá trị tiền tệ đồng thời với việc thu hút ngoại tệ đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế đất nước. Điều này được thể hiện qua việc các nguồn vốn ngoại tệ tăng lên qua các năm dáp ứng nhu cầu nhập khẩu của nền kinh tế hàng năm tăng lên: năm 1992:2,5tỉ USD; năm 1993:3,5tỉ USD; năm 1993\4: 5,3tỉ USD; năm 1995: 7,5tỉ USD... Từ đó tạo ra môi trường ổn dịnh cho các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư vào Việt nam. Đây cũng là luồng ngoại tệ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế của Việt nam. Tuy nhiên, bên cạnh những mục tiêu đã đạt được, nảy sinh mọt số tồn tại trong quản lý mua bán, thanh toán chuyển nhượng ngoại tệ của các tổ chức, cá nhân như việc năm 1991, tỷ giá trên thị trường tự do là:1USD=14500VND Trong khi tỷ giá do nhà nước công bố mới ở mức 1USD=7000VND. Điều này buộc ngân hàng Nhà nước phải có biện pháp can thiệp bằng cách bán vài chục triệu USD làm giảm cơn sốt này, tỷ giá tụt xuống chỉ còn dưới 10000VND/USD. Từ đó ngân hàng trung ương nhận thấy còn một số hạn chế trong quá trình thực hiện quy chế quản lý ngoại tệ ban hành năm 1998, các năm tiếp theo ngân hàng trung ương đã tham mưu cho chính phủ lần lượt ban hành các nghị quyêTư Sản điều chỉnh, tăng cường công tác quản lý ngoại tệ, từng bước thu hẹp việc sử dụng ngoại tệ trên lãnh thổ Việt nam , đảm bảo chủ quyền tiền tệ của ta. II, Sau khi ban hành bộ luật ngân hàng. Luật ngân hàng Nhà nước Viêtn nam ra đời đã quy định rõ việc quản lý ngoại hối ở Việt nam tại điều 37,38. Trong đó quy định rõ ngân hàng Nhà nước Việt nam là cơ quan quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước bao gồm: ngoại tệ tiền mặt và các giấy nhận nợ của nước ngoài bằng ngoại tệ, các chứng khoán nợ do chính phủ, ngân hàng nước ngoài hoặc ngân hàng quốc tế phát hành, bảo lãnh, vàng, các loại ngoại hối khác của Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước theo quy định của chính phủ nhằm mục tiêu chính sách tièen tệ quốc gia, đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế, bảo toàn dự trữ ngoại hối Nhà nước. Luật ngân hàng Nhà nước quy định rõ việc ngân hàng Nhà nước quản lý ngoại hối theo các nội dung sau: Cấp, thu hồi giấy phép hoạt động ngoại hối. Tổ chức điều hành thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường ngoại hối trong nước. Kiểm kê, thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối, kiểm soát việc xuất nhập ngoại hối. Kiểm soát hoạt dộng ngoại hối của các tổ chức tín dụng. Theo đó chính phủ và các cơ quan quản lý tài chính đã ban hành một loạt các văn bản pháp quy quy định về quản lý và dự trữ ngoại hối bao gồm: Nghị định số 63/1998/NĐ-CP của chính phủ về quản lý ngoại hối. Nghị định số 164/1999/NĐ-CP của chính phủ về quản lý cán cân thanh toán quốc tế của Việt nam Nghị định số 86/1999/NĐ-CP của chính phủ về quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước Quyết định số 93/ 2000/QĐ-BTC của bộ trưởng bộ tài chính về việc ban hành quy chế diều hành quỹ ngoại tẹ tập trung của Nhà nước . Những quy định này nhằm điều chỉnh chính sachs ngoại tệ và cơ chế điều hành trong thời gian trước cho phù hợp với tình hình thực tế của đất nước trong xu hướng phát triển chung của nền kinh tế thế giới không ngừng thay đổi và biến động, đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của hoạt động kinh tế thị trường. Theo quy định tại nghị định số 63/1998/NĐ-CP đối tượng được quyền mở tài khoản, sử dụng ngoại tệ ở trong nước là những tổ chức có nguồn thu chi ngoại tệ từ các giao dịch vãng lai, giao dịch vốn và các giao dịch khác hợp pháp. Là những cá nhân có ngoại tệ từ nước ngoài chuyển qua ngân hàng hoặc mang theo người khi nhập canhr vào Việt nam và những thu chi ngoại tệ khác. Theo quy định tại điều 5 và điều 6 thì những cá nhân có ngoại tệ được quyền cất giữ, mang theo người, được gửi tại ngân hàngvà sử dụng hoặc bán cho các tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối và bán đổi trên cơ sơ tự nguyện. Theo quy định của điều 7 của nghị định này thì hiên nay tại Việt nam, một khối lượng lớn ngoại hối đang trôi nổi trên thị trường và được sử dụng như một phương tiện thanh toán thay thế đồng Vệt nam. Toàn bộ lượng ngoại hối này nằm ngoài hệ kiểm soát của hệ thống ngân hàng, gây nên hiện tượng “đô la hoá’’nền kinh tế trong những năm gần đây. Hiện nay không có số thống kê chính thức về lượng ngoại hối trôi nổi trên thị trường nhưng ước tinhs lên tới hàng tỷ USD. Nhiều doanh nghiệp khi không chính thức mua được ngọai tệ từ ngân hàng thương mại đã tiến hành mua ngoại tệ từ thị trường tự do để thực hiện thanh toán quốc tế. Đây là hiện tượng rát phổ biến trong những năm gần đây do một số nguyên nhân chủ yếu như: sự chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi bằng đô la so với Việt nam đồng, sự ổn định sức mua của đồng tiền Việt nam hay cơ chế và chính sách mua bán giữa đồng Việt nam và đòng đô la. Điều này ảnh hưởng đến mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. Tuy nhiên theo quy định tại nghị định số86/1999/NĐ-CP thì nhà nước đã lập ra hai quỹ: quỹ dự trữ ngoại hối và quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng nhằm mục đích can thiệp vào thị trường ngoại hối nhằm bình ổn tỷ giá, thực hiện các nghiệp vụ đầu tư ở nước ngoài và tạm ứng cho ngân sách Nhà nước trong trường hợp đột xuất. Theo đó thì từ khi thành lập đến cuối năm 2000, tổng số ngoại tệ do ngân hàng Nhà nước mua từ thị trường đạt khoảng 4 tỷ USD. Tổng số chi từ quỹ này khoảng 2 tỷ USD. Số dư đến cuối tháng 12/2000 là 2 tỷ USD và một số ngoại tệ khác tương đương khoảng 350 triệu USD. Với việc thực hiện thu chi ngoại hối như vậy, Nhà nước đã từng bước quản lý tỷ giá , hạn chế sự lên giá liên tục của tỷ giá trong vòng 10 tháng đầu năm 2000 nên tỷ giá trên thị trường chỉ tăng từ 2- 2.65%. Đây là một trong những thành công trong biện pháp quản lý ngoại hối ở Việt nam trong thời gian qua Cùng với việc quản lý các giao dịch bằng ngoại hối, NHNN Việt Nam còn tiến hành quản lý tỷ giá hối đoái. Trước tháng 2/1999 , cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái ở Việt Nam là cơ chế can thiệp trực tiếp bằng cách ấn định tỷ giá chính thức với biên độ giao dịch ở thời điểm tương ứng có khi lên đến ± 10%. Từ tháng 2/1999 , bằng hai quyết định 64/1999/QĐ-NHNN7 và 65/ 1999/ QĐ-NHNN 7 ngày 25/2/1999 NHNN đã bãi bỏ việc công bố tỷ giá chính thức nói trên và thay vào đó là công bố tỷ giá giao dịch thực tế bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do NHNN công bố hàng ngày. Có thể nói đây là bước đổi mới rất quan trọng không những trong quan niệm, trong tư duy mà trong thực tiễn quản lý,với cơ chế này làm cho tỷ giá trên thị trường vận động một cách kh-ách quan , phản ánh đúng hơn các quan hệ cung cầu về ngoại tệ trên thị trường, đồng thời phù hợp với cơ chế điều hành tỷ giá của nhiều nước trên thế giới. Song song với việc thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá, NHNN Việt Nam cũng đã có quyết định thay đổi cơ chế điều hành lãi suất: Bãi bỏ cơ chế điều hành lãi suất trần, thay bằng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản (QĐ số 241/ 2000/QĐ- NHNN 1 ngày 2/8/2000 ). Theo đó các ngân hàng, các tổ chức tín dụng được quyền ấn định lãi suất cho vay đối với khách hàng nhưng không được vược quá mức lãi suất cơ bản và biên độ quy định trong từng thời kỳ. Trong đó, cho vay bằng USD lấy SIBOR - lãi suất trên thị trường liên ngân hàng Singapore - làm lãi suất cơ bản. Với việc thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá và lãi suất nói trên là hoàn toàn phù hợp và đúng hứơng tạo ra một bước tiến mới có tính chất đột phá của chính phủ và NHTW để đưa hệ thống NHVN từng bước hội nhập quốc tế . Trên thế giới , trong những năm qua, giá USD không ngừng tăng cao , tại thị trường Việt Nam thì giá của USD trên cả thị trường chính thức và phi chính thức đều tăng . Nguyên nhân của sự tang giá USD là do trong thời gian qua nền kinh tế Mỹ liên tục phát triển ổn định và chưa có dấu hiệu chững lại đồng thời Mỹ thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt làm cho giá USD trên thị trường Mỹ tăng cao. Điều này ảnh hưởng đến các thị trường khác trên thế giới trong đó có Việt Nam . Tuy nhiên với sự tăng giá USD trên thị trường thế giới và khu vực thì sự tăng tỷ giá USD/ VND ở Việt Nam là rất thấp tức là đồng tiền Việt Nam được đánh giá cao. Điều này ảnh hưởng đến việc cạnh tranh trong xuất nhập khẩu của Việt Nam . Về lý thuyết , nếu Việt Nam không chủ động điều chỉnh tỷ giá thì hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam bị chững lại, khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới bị giảm sút. Vì vậy , ngân hàng nhà nước đã điều chỉnh tăng tỷ giá nhằm hỗ trợ đúng hướng cho việc xuất khẩu của Việt nam.Kết quả trong năm 2000,giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đạt 14 tỷ USD, tăng 11,3% so với kế hoạch. Với việc điều chỉnh tỷ giá USD/VND một cách hợp lý, không những cải thiện cán cân thương mại àm còn cải thiện cán cân vốn -nhất là từ khi khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực làm cho cán cân vốn giảm sút-đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài vào Việt nam tuy so với những năm 1995,1996 thì có phần giảm sút song so với những năm gần đây thì quả là có một sự tăng trưởng đáng kể. Trong năm 2000, tổng số vốn các dự án đầu tư trực tiếp (FDI) vào Việt nam đạt 2tỷ USD. Còn nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) đạt được cả năm ước tính vào khoảng 1,69 tỷ USD., tăng so với những năm trước. Tóm lại,việc điều hành, quản lý ngoại hối trong thời gian qua tạo ra được những thúc đẩy to lớn trong sự tăng trưởng kinh tế góp phần ổn định kinh tế - xã hội, nhất là sau cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực. Phần 3: Một số kiến nghị Để đánh giá về chính sách quản lý ngoại hối của Việt nam ta trong thời gian qua cần phải nhìn nhận vấn đề ngoại tệ một cách tổng thể trong quá trình phát triển chung của đất nước. Với cơ chế quản lý ngoại hối trong thời gian qua đã đạt được những kết quả khả quan mang lại nguoòn vốn dồi dào cho đất nước,đáp ứng nhu cầu thu chi ngoại tệ của nền kinh tế ngày càng cao, từng bước làm giảm dần mức thiếu hụt trong cán cân thanh toán, tăng dự trữ quốc gia. Điều này đã chứng minh được những chính sách và biện pháp quản lý ngoại hối của nước ta trong thoừi gian qua là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tế của đất nước. Tuy nhiên, với chính sách quản lý hiện nay còn tồn tại tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán. Vì vậy nhà nước cần phải có chính sách quản lý phù hợp nhằm giảm tình trạng căng thẳng như: _ Tiếp tục thực hiện các biện pháp khuyến khích xuất khẩu, tập trung thu hút các nguồn chuyển giao vãng lai một chiều, đầu tư nước ngoài để làm tăng tổng nguồn thu ngoại tệ của quốc gia, góp phần duy trì cân bằng cán cân vãng lai và thặng dư cán cân thanh toán tổng thể, giảm thiểu thiếu hụt trong cán cân thương mại. _ Thắt chặt quản lý ngoại hối, hạn chế đến mức tối đa các giao dịch được phép thanh toán bằng ngoại tệ nhằm thu hút ngoại tệ trôi nổi trên thị trường vào hệ thống ngân hàng. Thực hiện thực sự nghiêm túc phương châm:chỉ tiêu dùng đồng tiền Việt nam trên lãnh thổ Việt nam.Có biện pháp ngăn chặn hiện tượng đô la hoá nền kinh tế; trước mắt là hạn chế dần việc nhận tiền gửi bằng ngoại tệ. Trên cơ sở đó, NHNN thực hiện nghiệp vụ mua ngoại hối từ thị trường ngoại tệ liên ngân hàng nhằm từng bước nâng cao dự trữ Nhà nước phục vụ cho công tác quản lý ngoại hối. _ Thống nhất quản lý ngoại hối vào một đầu mối, tránh tình trạng NHNN thực hiện chính sách tiền tệ trong khi bộ tài chính lại quản lý quỹ dự trữ ngoại hối Nhà nước. Điều này gây nên hiện tượng công cụ ngoại hối của chính sách tiền tệ phát huy kém hiệu quả. Mục lục Lời mở đầu Phần I: Lý luận chung I. Ngọai hối 1, Khái niệm 2, Mục đích quản lý ngoại hối 3, Các cơ chế quản lý ngoại hối II. Nội dung cơ bản về quản lý ngoại hối 1, Quy định chung 2, Quy định về việc mở tài khoản và sử dụng ngoại tệ Phần II:Thực trạng quản lý ngoại hối ở Việt nam Trước khi luật ngân hàng ra đời Sau khi ban hành bộ luật ngân hàng ra đời Phần III: Một số kiến nghị ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34553.doc
Tài liệu liên quan