Thực trạng và giải pháp tiêu thụ nông sản hiện nay ở Việt Nam

Lời nói đầu Chúng ta đang sống trong một xã hội mới với những tư tưởng mới khác xa với thời xa xưa. Mọi thứ thay đổi từng ngày từng giờ, mọi thứ đều hoạt động và không có gì đứng yên cả. Đặc biệt là hoạt động kinh tế trong cơ chế thị trường hiện nay, đây là lĩnh vực sôi nổi, cạnh tranh quyết liệt, ai cũng muốn chiến thắng trên con đường tranh đua đến với lợi nhuận. Lợi nhuận là mục tiêu, là động lực và là kết quả của hoạt động sản suất kinh doanh của các doanh nghiệp tham gia thị trường. Doanh

doc42 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1704 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp tiêu thụ nông sản hiện nay ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp nào sản suất và kinh doanh được hàng hóa mà thị trường chấp nhận, sản phẩm được tiêu thụ thì doanh nghiệp đó sẽ tồn tại và phát triển. Điều đó không phải bất kỳ doanh nghiệp nào cũng có thể làm được. Nhất là hiện nay khi mà trên thị trường “trăm người bán vạn, người mua”. Hàng hóa dịch vụ không còn khan hiếm nữa, nó đủ dư thừa tương đối. Điều đó buộc các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau để sản suất kinh doanh được sản phẩm mà thị trường chấp nhận, tức là hàng hóa của mình sản suất kinh doanh phải được lưu thông phải được khách hàng chấp nhận. Điều đó có nghĩa là hàng hóa đó phải được tiêu thụ. Có làm được như vậy doanh nghiệp mới thu hồi được chi phí đã bỏ ra, doanh thu được trả bằng tiền và lợi nhuận sẽ dương. Điều này có nghĩa rằng nếu sản phẩm được tiêu thụ thì quy trình sản suất kinh doanh có thể quay vòng, doanh nghiệp sẽ tiếp tục tồn tại và phát triển. Như vậy tiêu thụ sản phẩm là khâu không thể thiếu trong chu kỳ sản suất kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt trong cơ chế thị trường hiện nay thì điều này càng có ý nghĩa, nó quyết định sự sống còn của mỗi sản phẩm sản suất để bán. Không nằm ngoài ý nghĩa đó thị trường sản phẩm nông sản đang là nỗi lo lắng của không ít người. Khác các mặt hàng khác, nông sản là một sản phẩm đặc thù của ngành nông nghiệp mặt hàng này phân bố rải rác khắp nơi do vậy nguồn hàng không tập trung mà tính chất sản phẩm lại khó bảo quản. ở nước ta hiện nay với xấp xỉ 70% dân số sống bằng nghề nông do vậy sản suất nông sản có ý nghĩa vô cùng to lớn. Vấn đề tiêu thụ mặt hàng này hiện nay đang là bài toán khó giải cho các nhà tiêu thụ. Nông sản đang trong tình trạng ứ động chưa có đầu ra ổn định, giá cả bấp bênh mà khả năng mở rộng thị trường là rất khó . Để tìm hiểu sâu hơn về tiêu thụ nông sản hiện nay ở nước ta, cũng như muốn học hỏi thêm một lĩnh vực được sự quan tâm của rất nhiều chủ thể kinh tế hiện nay. Điều đó rất hữu ích cho một sinh viên kinh tế. Do vậy em chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp tiêu thụ nông sản hiện nay ở Việt nam” làm đề tài nghiên cứu cho đề án của mình. Với trình độ hạn chế của bản thân, đề án chắc không tránh khỏi khiếm khuyết, em rất mong được sự góp ý của các thầy cô và các bạn để cho đề án được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Hà nội ngày 19/11/2002 Sinh viên: Phạm Thị Ngọc Khâm Nội dung Chương I: những lý luận cơ bản về tiêu thụ sản phẩm trong nền kinh tế thị trường 1. Bản chất của tiêu thụ sản phẩm 1.1 Khái niệm về tiêu thụ sản phẩm Mỗi chu kỳ sản suất kinh doanh đều gồm 4 giai đoạn, thiếu bất kỳ giai đoạn nào thì guồng máy sản suất – kinh doanh không thực hiện được. Mỗi giai đoạn đều có chức năng và nhiệm vụ độc lập nhưng đồng thời hỗ trợ cho nhau hình thành vòng quay sản suất – kinh doanh. “Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối của quá trình sản suất kinh doanh đó”, và là khâu quan trọng đặc biệt nó quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Sản phẩm sản suất ra, không phải đến đây là xong, sản phẩm không thể tự chạy đến tay người tiêu dùng được. Vì vậy muốn quá trình sản suất tiếp tục xảy ra, thì chúng ta phải có tiền mua nguyên vật liệu, thuê lao động… vậy tiền lấy từ đâu ra và để duy trì hoạt động sản suất kinh doanh này, không đâu khác tiền này lấy ở sản phẩm kỳ vừa sản suất ra. Nhưng đây chỉ là thành phẩm, là hàng hóa chứ không phải là tiền. Muốn biến số thành phẩm này thành tiền thì chúng ta phải tiêu thụ sản phẩm đó tức là chúng ta phải tổ chức đem bán và tất nhiên chúng ta chỉ bán thànhcông, chỉ thu được tiền khi người tiêu dùng chấp nhận sản phẩm đó, họ có nhu cầu và có khả năng thanh toánvới sản phẩm mà ta sản suất ra. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải đưa được sản phẩm tới tay người tiêu dùng cuối cùng và đảm bảo thỏa mãn nhu cầu của họ bằng sản phẩm của mình. Việc làm này được hiểu là tiêu thụ sản phẩm. Như vậy thị trường sản phẩm không những là khâu cuối cùng của quá trình sản suất kinh doanh mà “thị trường sản phẩm còn là một quá trình kinh tế bao gồmnhiều khâu từ việc nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu khách hàng, đặt hàng và tổ chức sản suất thực hiện các nghiệp vụ tiêu thụ, xúc tiến bán hàng… nhằm mục đích đạt hiệu quả cao nhất ”. Cho dù tiêu thụ sản phẩm được hiểu theo nghĩa nào đi chăng nữa thì bản chất của nó vẫn là thực hiện công thức H – T. Đổi hàng lấy tiền và là khâu đưa sản phẩm vào tiêu dùng. 1.2 Hoạt động tiêu thụ sản phẩm trong cơ chế cũ. Trong thời kỳ nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp. Mỗi doanh nghiệp sản suất không được quyền quyết định sản suất cái gì, sản suất như thế nào và sản suất cho ai. Mọi mệnh lệnh từ trên ban xuống phải được thực hiện, Nhà nước cung cấp nguyên vật liệu cho sản suất và sản phẩm sản suất ra thì do Nhà nước phân phối, tiêu thụ, bán sản phẩm theo kế hoạch với giá cả được ấn định trước. Doanh nghiệp không phải lo lăng đầu ra cho sản suất, lỗ Nhà nước chịu, lãi nộp Nhà nước. Chính vì vậy mà không có sự cạnh tranh tạo nên sản phẩm tốt, giá rẻ và năng suất cao. Hàng hóa trở nên khan hiếm, nhu cầu người tiêu dùng không được đáp ứng, mua hàng hóa bằng phiếu và có phải cứ ai có phiếu là mua dược hàng ngay đâu, phải xếp hàng, phải đợi chờ đến lượt mình mua hàng, mà có khi đến lượt mình thì hết hàng. Do vậy vấn đề tiêu thụ sản phẩm trong thời kỳ này là sự phân phối hàng hóa, không phải quảng cáo, không phải xúc tiến bán hàng mà hàng hóa vẫn bán hết. Tiêu thụ sản phẩm là việc của Nhà nước, Nhà nước sẽ lên kế hoạch tiêu thụ sản phẩm trong cả nước, chỉ sợ không có hàng để tiêu thụ chứ có hàng thì tiêu thụ là một vấn đề đơn giản, không phải lo lắng, chỉ có dàn xếp làm sao cho sản phẩm được phân phối một cách công bằng tới từng người dân mà thôi. hoạt động tiêu thụ sản phẩm trong thời kỳ này không còn giữ đúng bản chất của nó nữa, nó chỉ đơn thuần là việc vận chuyển hàng hóa theo kế hoạch từ nơi sản suất đến tới nơi phân phối sản phẩm và thực hiện phân phối sản phẩm tới tay người tiêu dùng. 1.3 Hoạt động tiêu thụ sản phẩm trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay. Kinh tế thị trường là một nền kinh tế được điều tiết theo chủ yếu bởi thị trường. Do đó giá cả được xác định bằng quan hệ cung - cầu. Căn cứ vào thị trường các doanh nghiệp có quyền tự do quyết định sản suất cái gì, sản suất nó như thế nào và sản suất nó cho ai, với mục đích bán được sản phẩm, thu được lợi nhuận tối đa. Với cơ chế thị trường được điều tiết bởi những quy luật kinh tế tự do. Những doanh nghiệp tham gia thị trường đòi hỏi có sự nhạy bén trong cảm nhận nhu cầu thị trường. Từ đó có những chiến lược cạnh tranh sản phẩm phù hợp. Doanh nghiệp quyết định sản suất cái gì, số lượng bao nhiêu phải dựa vào nhu cầu của người tiêu thụ, họ có mua hàng hóa của mình hay không và nhu cầu của họ có được mình đáp ứng hay không? Mặt khác thị trường là nơi tự do cạnh tranh, sản phẩm nào tốt, giá rẻ sẽ chiếm được ưu thế, hàng hóa không còn khan hiếm nữa mà nó thừa tương đối(thừa so với khả năng thanh toán của người tiêu dùng) . Do vậy vấn đề bán sản phẩm, tiêu thụ hàng hóa là nỗi đau đầu của không ít nhà doanh nghiệp, đồi hỏi họ cần phải nghiên cứu thị trường: xem xét đặc điểm thị trường tiêu thụ, xác định nhu cầu khách hàng và khả năng thanh toán của họ từ đó thực hiện hợp đồng đặt hàng, xác định rõ số lượng hàng hóa có khả năng tiêu thụ từ đấy chúng ta mới tung sản phẩm và tiêu thụ chúng. Để thu hút khách mua hàng chúng ta cần có nhiều dịch vụ kèm theo như xúc tiến bán hàng bằng quảng cáo, khuyến mại thưởng cho người tiêu thụ với số lượng lớn hoặc thực hiện dịch vụ bán tận nơi cho người yêu cầu…Đảm bảo chữ tín giúp cho sản phẩm sản suất ra được tiêu thụ liên tục và phát triển hơn. Đồng thời có thể áp dụng nhiều hình thức thanh toán phong phú như thanh toán trả chậm, bán chậm, bán chịu…nhằm mục đích thu được doanh thu càng nhiều càng tốt với lợi nhuận cao. Vấn đề tiêu thụ sản phẩm trong cơ chế thị trường là một hoạt động đưa sản phẩm tư nơi sản suất tới tay người tiêu dùng bằng cách này hay cách khác. Đảm bảo đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng cũng như lợi nhuận của doanh nghiệp. 2. Vai trò của tiêu thụ sản phẩm 2.1 Tiêu thụ sản phẩm - yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của người sản suất. Như ta đã biết tiêu thụ sản phẩm là quá trình cuối cùng của quá trình sản suất kinh doanh và ta cũng biết hiện chúng ta đang sống trong nền kinh tế thị trường nơi mà sự sống còn của doanh nghiệp phụ thuộc vào nhu cầu của người tiêu dùng và khả năng tiêu thụ sản phẩm của mỗi doanh nghiệp. Cho dù là doanh nghiệp sản suất hay doanh nghiệp thương mại thì đối tượng sản suất kinh doanh của họ cũng là hàng hóa và dịch vụ. Họ bỏ chi phí ra để sản suất kinh doanh nhằm thu về được một lượng tiền lớn hơn. Tức là đn tồn tại và phát triển nhờ vào sự chênh lệch giữa chi phí và doanh thu. Chi phí thì doanh nghiệp có thể tự bỏ vốn hoặc vay ngân hàng để kinh doanh. Nhưng doanh thu thì không ai giúp doanh nghiệp cả, doanh nghiệp phải tự thu được doanh thu nhờ sản phẩm của mình tức là phải bán được sản phẩm thu tiền. Tổng số tiền bán hàng chính là doanh thu của doanh nghiệp. Doanh thu này sẽ bù đắp chi phí giúp doanh nghiệp quay vòng sản suất kinh doanh duy trì sự hoạt động của doanh nghiệp. Hơn nữa với mức lợi nhuận thu được doanh nghiệp sẽ giành một phần tích lũy nhằm mở rộng quy mô sản suất – kinh doanh, tái sản suất mở rộng, doanh nghiệp ngày càng phát triển hơn, khả năng cạnh tranh cũng cao hơn và doanh thu cũng gia tăng cùng với sự gia tăng qut mô sản suất kinh doanh đó. Còn nếu sản phẩm của doanh nghiệp sản suất kinh doanh không tiêu thụ được, hàng hóa không bán được, khách hàng không chấp nhận trả tiền cho sản phẩm đó thì đồng nghĩa với việc sản phẩm của doanh nghiệp không đáp ứng được nhu cầu của thị trường, sản phẩm bị tồn đọng, chi phí bỏ ra không thu hồi được về, doanh nghiệp không có tiền để quay vòng sản suất kinh doanh. Doanh nghiệp lúc này nếu không tìm được biện pháp khắc phục thìsẽ bị lỗ và tình trạng sản phẩm vẫn không tiêu thụ được kéo dài thì doanh nghiệp sẽ phải đóng cửa nhường thị trường cho sản phẩm có khả năng cạnh tranh tốt hơn. Tiêu thụ sản phẩm giúp đơn vị xác định phướng và bước đi của kế hoạch sản suất cho giai đoạn tiếp theo. 2.2 Tiêu thụ sản phẩm – mục têu cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế tham gia thị trường. Như đã nói ở trên, một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường, không còn cách nào khác là doanh nghiệp đó phải làm ăn có hiệu quả. Tức là phải có doanh thu sau khi bán hàng. Điều này kích thích các chủ thể kinh tế phải luôn cạnh tranh với nhau giành những diều kiện tốt nhât cho doanh nghiệp mình. Vì thế tiêu thụ sản phẩm – lợi ích kinh tế trở thành động lực mạnh mẽ, là mục tiêu hàng đầu với một doanh nghiệp sản suất kinh doanh. Tiêu thụ sản phẩm được coi là một đòn bẩy kinh tế quan trọng, đồng thời là một chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả sản suất kinh doanh. Nó quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp và quyết định mức lợi nhuận mà doanh nghiệp có thể thu được. Để có thể tiêu thụ sản phẩm đòi hỏi các doanh nghiệp cần có sự canh tranh quyết liệt với nhau về cả lĩnh vực sản suất, giá cả sản phẩm, và thị trường tiêu thụ. Doanh nghiệp nào cũng muốn sản phẩm của mình chiếm ưu thế trên thị trường, phạm vi thị trường tiêu thụ càng lớn càng tốt(Doanh thu sẽ càng tăng cơ hội mở rộng quy mô sản suất cao cho nên doanh nghiệp làm ăn ngày càng phát triển). Thị trường không chấp nhận sản phẩm kém, giá cao. Doanh nghiệp nào không có sức cạnh tranh, làm ăn kém hiệu quả, không sinh lợi nhuận sẽ bị đào thải. Đay là nguyên tắc mà bất kỳ một chủ thể kinh tế nào khi tham gia thị trường đều biết. Và thị trường sẽ ưu tiên cho sự cạnh tranh hoàn hảo, tức cạnh tranh không bằng các thủ đoạn kinh tế mà bằng sản phẩm: chất lượng tốt, mẫu mã bao bì đẹp mắt, giá hợp lý và dịch vụ bán hàng đáp ứng nhu cầu khách hàng. Đay là mẫu sản phẩm tiêu thụ mà các doanh nghiệp phải chạy đua để đạt được, doanh nghiệp nào thích ứng nhanh nắn bắt tốt sẽ được lợi nhuận cao cũng như thị phần sản phẩm trên thị trường tăng. Và uy tín cũng như thương hiệu sản phẩm sẽ ngày càng cao, khả năng bán ra nhiều sản phẩm những kỳ sau sẽ thuận lợi hơn. 2.3 Tiêu thụ sản phẩm – yếu tố cân bằng cung cầu. “Bất cứ một nền kinh tế nào thì sản suất cũng là để phục vụ cho tiêu dùng… cho nên dù muốn hay không đã là nhà kinh doanh thì ngay từ khi sản suất sản phẩm đã phải tính tới lợi ích của người tiêu dùng”. Và nhờ có tiêu thụ sản phẩm mà cung đến được với cầu, nhà sản suất - kinh doanh đáp ứng được nhu cầu của người tiêu thụ. Bất kỳ nhà cung ứng nào đều mong muốn bán được nhiều sản phẩm với giá cao. Còn bất kỳ người tiêu thụ nào cũng mong muốn mua được sản phẩm với chất lượng tốt, mẫu mã đẹp và giá rẻ. Hai nhu cầu này tưởng như không thể dung hòa nhưng nhờ sự tiêu thụ sản phẩm qua sự thương lượng, trả giá cả hai bên cung và cầu sẽ thỏa thuận đưa ra một mức giá mà cả hai bên cùng có lợi ích. Nhà cung ứng vẫn thu được lợi nhuận và người tiêu dùng cũng thỏa mãn được nhu cầu của mình ở mức giá này. Ngoài ra tiêu thụ sản phẩm còn giúp cho cung và cầu đến được với nhau về số lượng hàng hóa. Tiêu thụ sản phẩm sẽ vận chuyển từ hàng hóa từ chỗ giá thấp tới chỗ giá cao. Từ nơi hàng hóa dồi dào đến nơi hàng hóa khan hiếm hàng hóa đáp ứng mọi nhu cầu của người tiêu dùng miễn là họ có khả năng thanh toán. Tiêu thụ sản phẩm giúp cho cân đối cung cầu giúp cho lưu thông hàng hóa được diễn ra liên tục và trôi chảy. Quá trình sản suất kinh doanh không bị ngừng trệ mà diễn ra bình thường theo quy luật vận động của nó. Thị trường tránh được mất cân đối, doanh nghiệp không còn ép giá được với người tiêu dùng mua với giá cao và người tiêu dùng không ép được người sản suất bán với giá thấp. Tiêu thụ sản phẩm trên thị trường điều tiết hành vi của cung cầu trên cơ sở “thuận mua vừa bán”. Cung cầu được cân bằng tránh sự dư thừa hoặc khan hiếm sản phẩm dẫn đến tránh độc quyền – yếu tố làm nên “thất bại thị trường”. Tóm lại tiêu thụ sản phẩm có vai trò quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế mỗi nước, cũng như sự phát triển cụ thể của doanh nghiệp. Nó là yếu tố không thể thiếu giúp nâng cao chất lượng con người. 3. Đặc điểm thị trường tiêu thụ sản phẩm Thị trường tiêu thụ sản phẩm là nơi mà hoạt động mua bán trao đổi hàng hóa sẽ diễn ra. Đây là nơi mà sản phẩm sẽ được tiêu thụ, việc tìm hiểu đặc tính của thị trường sẽ giúp cho chúng ta biết khả năng tiêu thụ của thị trường, nhu cầu thị trường… từ đó xây dựng kế hoạch sản suất - kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm thích hợp cũng như chiến lược. 3.1 Thị trường trong nước. Việt Nam là một nước có truyền thống nông nghiệp lâu đời, hiện là một nước đang phát triển. Lịch sử phát triển kinh tế không có gì là nổi bật lắm, chỉ có hơn mười năm lại đây khi mà kinh tế Việt Nam chuỷen đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung(nền kinh tế mọi thứ được quyết định bởi mệnh lệnh Nhà nước, hàng hóa khan hiếm, kinh tế phát triển chậm, yếu tố cạnh tranh bị dập tắt)chuyển sang mở cửa – nền kinh tế thị trường thì bộ mặt kinh tế Việt Nam đã có những thay đổi rõ rệt, sức sản suất tăng, năng suất lao đọng phát triển mạnh. Vì vậy mà cơ sở hạ tầng được nâng cấp. Đời sống nhân dân được nâng cao, hàng hóa sản suất ra không còn khan hiếm nữa, sức mua của nhân dân cũng được nâng lên. Đặc biệt sự phát triển của những thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng,Thành phố Hồ Chí Minh… ở những địa điểm này đời sống vật chất của người dân cao hơn hẳn, sức mua và đòi hỏi cũng cao, yều cầu hàng hóa phải có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp hơn. Các doanh nghiệp đầu tư mở rộng thị trường ở những khu vực này khả năng thu lợi nhuận là cao. Hàng hóa được tiêu thụ cũng lớn hơn ở những khu vực khác bởi đây là những nơi đông dân, đời sống cao. Mặc dù thị trường Việt Nam đã có những thay đổi rõ rệt nhưng so với sự phát triển chung của toàn cầu thì nước ta còn là một trong những nước nghèo nhất thế giới. Do vậy doanh nghiệp nào muốn làm ăn lớn, mở rộng sự ảnh hưởng của sản phẩm mình thì cần mở rộng thị trường tiêu thụ không những ở trong nước mà còn đưa sản phẩm đi ra khỏi biên giới quốc gia, xâm nhập thị trường nước ngoài. Nơi mà sức mua cao hơn, khả năng thanh toán cũng lớn. 3.2 Thị trường xuất khẩu Trên thị trường thế giới “Tăng trưởng diễn ra ở tất cả các khu vực trên thế giới, nhờ có sức sống mạnh mẽ của nền kinh tế Mỹ, sự phục hồi nhanh của Châu Âu, sự tăng mạnh của các nền kinh tế Châu á…”thị trường thế giới ngày càng phát triển. Sức mua của những thị trường điển hình là Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản… rất lớn. Đây là những thị trường khó tính đòi hỏi hàng hóa xuất sang phải là hàng hóa tốt, phù hợp với nhu cầu những thị trường này. Nhưng nếu chúng ta phát triển được hàng hóa sang những nước này thì nguồn ngoại tệ thu vào không phải là nhỏđồng thời sẽ giải quyết được công ăn việc làm cho một lực lượng lớn lao động trong nước. Thị trường xuất khẩu là những thị trường có sức mua lớn đặc biệt với những hàng hóa xa xỉ. Đây là một cơ hội để thị trường Việt Nam thâm nhập nước ngoài. 4. Nội dung hoạt động tiêu thụ sản phẩm. 4.1 Nghiên cứu nhu cầu thị trường tiêu thụ sản phẩm. Để thành công trên thương trường, đòi hỏi bất cứ một chủ thể kinh tế nào cũng phải thực hiện công tác nghiên cứu, thăm dò và thâm nhập thị trường của mình nhằm mục tiêu nhận biết và đánh giá khái quát khả năng xâm nhập về tiềm năng của thị trường để định hướng quyết định lựa chọn thị trường tiềm năng và chiến lược tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Đay là công việc phức tạp, tốn kém nhưng lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì vậy cần nghiên cứu tỷ mỉ trên từng phương diện của thị trường . 4.1.1 Lựa chọn sản phẩm tiến hành sản suất hoặc thu mua. Ngày nay cùng với xu thế phát triển của thời đại, lối sống của con người cũng ngày một hiện đại hơn, và nhu cầu tiêu dùng của con người cũng không còn đơn giản như trước. Ngoài nhu cầu sống và tồn tại, con người còn có nhu cầu hưởng thụ. Họ không dễ dàng mua cái mà nhà sản suất bán, mà họ mua cái mà họ cần và họ thích. Bởi vậy muốn tiêu thụ được sản phẩm thì sản phẩm ngoài việc bảo đảm chất lượng, sự tiện lợi trong tiêu dùng, còn phải độc đáo, mới lạ phù hợp với lối sống hiện đại, đủ sức hấp dẫn gây ấn tượng với khách hàng. Sau một loạt các hoạt động nghiên cứu thị trường trên những địa bàn cụ thể, đòi hỏi chủ thể kinh tế cần nắm được nhu cầu của khách hàng về những mặt hàng nào? đặc tính sản phẩm ưa thích ra sao từ đó sẽ lựa chọn sản phẩm sản suất hoặc thu mua thích hợp. Như đã nói ở trên sản phẩm lựa chọn phải đáp ứng được sự mong đợi của khách hàng có như vậy sản phẩm sau khi sản suất hoặc thu mua mới có khách hàng khả năng cạnh tranh và tiêu thụ mạnh trên thị trường. Nó đòi hỏi doanh nghiệp phải nhạy bén, phải tìm ra lỗ hổng của thị trường từ đó sẽ tung sản phẩm mới ra lấp lỗ hổng. Hoặc đầu tư khoa học kỹ thuật doanh nghiệp phải lựa chọn sản phẩm mới có tính năng ưu việt và có khách hàngả năng thay thế sản phẩm đang lưu hành. Việc quyết định lựa chọn sản phẩm sản suất hoặc thu mua nào có ý nghĩa lớn với sự phát triển của doanh nghiệp. Nó cho biết sản phẩm có đáp ứng nhu cầu thị trường hay không, khách hàng có mua sản phẩm đó không và khả năng chiếm thị phần thị trường của sản phẩm mới là bao nhiêu?. Điều đó ảnh hưởng lớn tới khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp quyết định tới doanh thu và lợi nhuận của người kinh doanh. 4.1.2 Định giá bán sản phẩm. “Giá cả là một phạm trù kinh tế tổng hợp, tồn tại một cách khách quan cùng với sự ra đời và phát triển hàng hóa. Đồng thời giá cả cũng phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa người bán với người mua; giữa nhà sản suất – kinh doanh với thị trường và xã hội”. Trước tiên ta thấy định giá sản phẩm có vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới khả năng tiêu thụ. Vì thế trong sản suất kinh doanh không thể định giá một cách chủ quan, tùy tiện theo ý muốn của mình. Mà giá cả phải được hình thành dựa trên quan hệ cung – cầu phải có sự thỏa thuận giữa người mua và người bán sao cho cả hai bên cùng có lợi . Mặt khác ta cũng thấy rằnggiá cả gắn liền với những thị trường nhất định: như thị trường độc quyến hay thị trường cạnh tranh hoàn hảo hoặc thị trường nửa cạnh tranh nửa độc quyền. Cũng như khi ấn định giá cả chúng ta phải tính toán cẩn thận khả năng cung ứng và nhu cầu tiêu dùng, chi phí sản suất và lưu thông của sản phẩm, mức giá đã hình thành trên thị trường của những sản phẩm tương tự… thuế phải nộp cho Nhà nước. Nói chung khi định giá sản phẩm chủ yếu dựa vào: - Thu nhập dân cư - Sức hấp dẫn của sản phẩm - Khả năng cạnh tranh trên thị trường tiêu thụ Và giá bán sản phẩm phải bù dắp được chi phí bỏ ra và phải thu được lợi nhuận về cho nhà sản suất kinh doanh. Đồng thời với mức giá áy sẽ được khách hàng chấp nhận, sản phẩm được tiêu thụ nhanh chóng. 4.2 Xây dựng mạng lưới tiêu thụ sản phẩm. Thiết lập mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp có thể thực hiện bằng nhiều cách khác nhau có thể là tiêu thụ trực tiếp hoặc tiêu thụ gián tiếptùy thuộc vào cách tiêu thụ sản phẩm mà số chủ thể tham gia vào mạng lưới tiêu thụ khác nhau. +Người sản suất : Được coi là người bán thứ nhất, họ là người quyết định sẽ bán sản phẩm nào, họ cũng là người được lưu chọn bán hàng trực tiếp hay bán hàng qua trung gian, thường thì người sản suất sẽ kết hợp cả hai cách tiêu thụ sản phẩm trên để có được chiến lược tiêu thụ sản phẩm hiệu quả nhất. +Người bán buôn: là người trực tiếp mua sản phẩm của doanh nghiệp sau đó phân bổ lại thị trường nguồn hàng, đây là lực lượng tiêu thụ sản phẩm có thế mạnh, vốn lớn, phương tiện kinh doanh hiện đại, có sẵn mạng lưới chân rết. Do vậy họ có vai trò quan trọng trên thị trường và các kênh phân phối, họ có khả năng chi phối người bán lẻ, và quan hệ thị trường khác. Vì thế họ có khả năng đẩy nhanh việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. +Người bán lẻ: Là người trực tiếp bán sản phẩm cho người tiêu dùng cuối cùng, họ có điều kiện tiếp xúc thường xuyên và trực tiếp với khách hàng. Do đó họ hiểu biết và nắm vững nhu cầu thị trường hơn gồm hệ thống các của hàng buôn bán phong phú và đa dạng. +Người đại lý; Là đại diện cho chủ hàng đứng ra bán sản phẩm, họ có thể làm đại lý cho doanh nghiệp, người bán buôn, người bán lẻ. Do vậy họ có thể thực hiện công việc của người bán buôn, và cũng có thể thực hiện công việc của người bán lẻ. Nhưng chủ yếu là làm đại lý cho doanh nghiệp, và hưởng thù lao trên doanh số bán. +Người môi giới: Là người chắp nối quan hệ mua bán trên thị trường, là người nắm bắt thị trường một cách chính xác và đầy đủ. Họ giúp cho người mua và người bán tìm đến được với nhau làm cho “guồng máy” tiêu thụ sản phẩm được diễn ra thông suôt hơn. +Người tiêu dùng: Là người mua sản phẩm cuối cùng để tiêu dùng sản phẩm đó, là người thanh toán chi phí, lợi nhuận và nuôi sống mạng lưới tiêu thụ; họ quyết định sự tồn tại va phát triển của doanh nghiệp… Do vậy hoạt động kinh tế cần hướng tới lợi ích của người tiêu dùng. Nắm bắt nhanh chóng nhu cầu này để xây dựng chiến lược sản phẩm mới. Phân phối sản phẩm vào kênh tiêu thụ: Kênh tiêu thụ ngắn hay dài phụ thuộc vào hình thức tiêu thụ Nếu tiêu thụ trực tiếp ta có kênh ngắn: Người sản xuất Người môi giới Người tiêu dùng Với kênh sản phẩm này được bán trực tiếp từ người sản suất tới luôn người tiêu dùng. Và có thể chỉ qua trung gian môi giới. Do vậy sản phẩm không phải phân phối qua trung gian mà sản phẩm sản suất ra chỉ phân phối tới từng người tiêu dùng ở những khu vực thị trường này hay thị trường khác. doanh nghiệp sản suất đồng thời là của hàng bán sản phẩm luôn. thị trường sản phẩm cách này lợi nhuận trên sản phẩm sẽ cao hơn do không bị thất thót bởi trung gian. Nhưng do vừa sản suất vừa làm nhiệm vụ tiêu thụ sản phẩm do đó khối lượng sản phẩm tiêu thụ không lớn, không linh hoạt. Do vậy có thể làm tổng lợi nhuận không cao. Nếu tiêu thụ gián tiếp ta sẽ có kênh dài. Nhà sản xuất Người bán buôn Người bán lẻ Người đại lý Người tiêu dùng Người môi giới Tại kênh tiêu thụ này sản phẩm sẽ được phân phối hợp lý tùy khả năng tiêu thụ của từng khâu. Do vậy giá cả tại từng nấc tiêu thụ cũng có thể khác nhau. Nhà sản suất tung sản phẩm qua một loạt thành phần trung gian tiêu thụ sản phẩm của mình để đưa sản phẩm tới tay người tiêu dùng, sản phẩm phần lớn tập trung ở tay người bán buôn và đại lý, sau đó nguồn hàng được xé nhỏ dần, sản phẩm được tiêu thụ phần nhỏ một ở các cửa hàng bán lẻ, các quầy siêu thị hoặc cũng có thể ở hệ thống bán rong. Với kênh tiêu thụ này sản phẩm sẽ được tiêu thụ nhanh chóng hơn nhờ có các thành phần trung gian am hiểu thị trường hơn, chuyên sâu hơn. Do vậy khối lượng sản phẩm sẽ được tiêu thụ nhanh chóng và lớn hơn. Nhưng phải qua trung gian nên người sản suất phải chia sẻ một phần lợi nhuận trên sản phẩm cho các chủ thể tiêu thụ sản phẩm giúp. Nhưng khối lượng sản phẩm tiêu thụ nhiều nên không làm tổng lợi nhuận giảm xuống. Đối với mạng trực tiếp: thường sử dụng với hàng dễ hỏng, khó bảo quản như hàng nông sản, đồ sống… Hàng số lượng ít, giá trị cao, yêu cầu có sự hướng dẫn sử dụng phức tạp. Thường áp dụng với doanh nghiệp có quy mô sản suất nhỏ và thị trường hoạt động hẹp. Đối với mạng lưới gián tiếp: Thường áp dụng với những trường hợp sản phẩm cung ứng cho người tiêu dùng ở nhiều nơi, quy mô sản suất lớn. 4.3 Xúc tiến tiêu thụ sản phẩm. Xúc tiến tiêu thụ sản phẩm là hình thức kích thích mua hàng, giúp cho sản phẩm dễ bán hơn, và mở rộng số người quan tâm tới sản phẩm hơn. Đây là một loại dịch vụ hỗ trợ bán hàng hiệu quả. Có thể có nhiều hình thức xúc tiến như quảng cáo, tham gia hội trợ, khuyến mãi dùng thử, khuyến mãi kèm bán hàng, thưởng với người mua với số lượng lớn... Xúc tiến tiêu thụ sản phẩm phải đảm bảo gây được ấn tượng tốt về sản phẩm với nhiều khách hàng, hướng sự lựa chọn của họ vào sản phẩm của mình. Doanh số bán hàng trong tương lai phải tăng cũng như khả năng cạnh tranh trên thị trường chiếm ưu thế hơn. Trong khâu này cần đặc biệt chú ý tới khâu quảng cáo, đây là phương tiện có khả năng đẩy mạnh bán hàng. Quảng cáo có thể qua các hình thức như qua báo chí, đài, truyền hình, áp phích, bưu điện, quảng cáo trực tiếp bằng người bán... Dù với bất kỳ hình thức nào thì cũng cần cung cấp đầy đủ thông tin, độc đáo với mỗi bài quảng cáo, có thế mới đạt hiệu quả - thúc đẩy bán hàng. 4.4 Triển khai bán hàng. “Bán hàng là khâu cuối cùng của sản xuất kinh doanh…là công việc quyết định kết quả cuối cùng của nhà kinh doanh”. Trước hết doanh nghiệp phải “tung sản phẩm” ra thị trường. Điều này cũng rất quan trọng do đó phảI nghiên cứu kỹ: Thời điểm tung sản phẩm ra thị trường Địa điểm tung sản phẩm Cách thức tung sản phẩm Số lượng sản phẩm tung ra thị trường Tổ chức tung sản phẩm Doanh nghiệp phải tìm ra cách tung sản phẩm có hiệu quả nhất tránh quá ít sẽ bỏ lỡ lợi nhuận, quá nhiều sẽ bị ép giá. Đặc biệt với sản phẩm mới cần nghiên cứu phản ứng của khách hàng với sản phẩm, thu thập ý kiến đóng góp để hoàn thiện sản phẩm hơn. Sau khi sản phẩm được tung ra, chúng ta thực hiện bán sản phẩm tới tay người tiêu dùng, đặt lợi ích khách hàng lên trên hết: Cần bố trí những quầy hàng thuận tiện cho người tiêu dùng có thể mua hàng như ở mặt phố lớn, siêu thị… Mở cửa bán trước giờ sẽ kéo dài được thời gian bán hàng và bảo đảm sự liên tục. Bán hàng dưới nhiều hình thức: bán trực tiếp, bán qua điện thoại, bán tại xưởng, bán tới tận nhà, bán hàng lưu động… Bán sản phẩm đồng thời với những phụ tùng cần thiết. Bán hàng kết hợp với những dịch vụ sau bán hàng, như vận chuyển, bảo hành… Đặc biệt là cần quan tâm tới thái độ đội ngũ nhân viên trực tiếp bán hàng. Người tiêu dùng có hài lòng về dịch vụ bán hàng hay không phụ thuộc phần lớn vào điều này. Chương II: Thực trạng tiêu thụ nông sản hiện nay 1. Đặc điểm sản phẩm nông sản Nông sản là một sản phẩm đặc biệt, có nguồn sản xuất phân bố phân tán và rộng khắp trên mọi miền của lãnh thổ. Hàng nông sản gắn liền với cuộc sống hàng ngày của nhân dân, Giá chênh lệch giữa nơi sản xuất và nơi tiêu dùng khá lớn, nếu nắm bắt thông tin kịp thời sẽ rất có lãi. Nhưng đồng thời quan hệ cung – cầu về mặt hàng này rất phức tạp cần phải nghiên cứu kỹ đặc điểm sản phẩm, nơi sản xuất và thị trường có nhu cầu nông sản lớn từ đó sẽ vạch hướng kinh doanh cho các kênh tiêu thụ sản phẩm. Và chủ yếu phải nghiên cứu những đặc điểm chính của hàng nông sản như sau. 1.1Tính thời vụ. Sản xuất nông sản có tính thời vụ rõ ràng: Vụ Đông, vụ Hè, vụ Chiêm, vụ Mùa… Tuỳ từng thời vụ mà có những sản phẩm nông sản đặc trưng cũng như giá cả khác nhau, nông sản trái mùa sẽ có giá cao hơn nông sản vào mùa thu hoạch. Đồng thời khác các loại hàng hoá khác để sản xuất được sản phẩm nông sản cần có một thời gian nhất định để cay, con sinh trưởng, vòng quay sản xuất tương đối dài. Do vậy trong khoảng thời gian từ vụ yhu hoạch này tới vụ thu hoạch sau là một khoảng thời gianvà sản phẩm nông sản lúc đó tương đối hiếm. Còn vào thời điểm thu hoạch thì lượng sản phẩm nông sản rất dồi dào và phong phú. Do vậy người kinh doanh hàng nông sản cần phải biết quy luật sản xuất các mặt hàng này để làm tốt công tác chuẩn bị trước mùa thu hoạch, đến mùa thu hoạch thì tập trung lao động nhanh chóng triển khai công tác thu mua và tiêu thụ sản phẩm. 1.2Tính phân tán. Sản phẩm nông sản được sản xuất bởi các hộ nông dân, và được trồng ở nông thôn nơi mà hàng triệu người nông dân sinh sống. Họ sản xuất nông sản theo từng gia đình và với số lượng nhỏ. Do vậy nguồn nông sản phải cóp nhặt từ các hộ gia đình này và từ nhiều nơi khác nhau. Trong khi đó sức tiêu thụ thì tập trung ở thành phố, khu công nghiệp lớn. Nông sản phải vận chuyển từ nông thôn ra thành thị, đòi hỏi bố trí điểm thu mua đặt địa điểm chế biến đều phải thuận lợi cho quá trình vận chuyển nông sản. 1.3Tính khu vực. Sản xuất nông sản gắn liền với địa hình, tuỳ theo tính chất địa hình mà có thể nuôi, trồng những loại con, cây khác nhau. Thường mỗi loại sản phẩm nông sản chỉ thích ứng trên mỗi địa hình đặc trưng riêng như đất đai, khí hậu, con người. Tuỳ theo địa hình, khu vực mà nơi thì thích ứng trồng bông, mía nơi thì trồng cà phê, chè, cao su… Do đặc điểm tự nhiên này mà hình thành những khu vực sản xuất khác nhau với tính chất sản phẩm khác nhau(chè Thái Nguyên thì khác chè ở Tuyên Quang, Hà Giang…) chính vì thế có những khu vực._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35386.doc
Tài liệu liên quan