Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng thuỷ sản của tỉnh Hà Tĩnh trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

Mục lục Trang Mục lục bảng - biểu Bảng Bảng 1: Cơ cấu các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu 9 Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam 10 Bảng 3: Sản lượng khai thác đánh bắt, nuôi trồng và chế biến xuất khẩu của ngành giữa 2 năm 1991 - 2002 13 Bảng 4: Cơ cấu giá trị XNK thuỷ sản của Hà Tĩnh năm 2000 28 Bảng 5: Sản lượng thuỷ sản và tốc độ tăng, giảm giai đoạn 1996 - 2000 28 Bảng 6: Sản lượng khai thác hải sản trong giai đoạn 1996 - 2000 29 Bảng 7a: Phương tiện khai thác hải sản chủ yếu

doc75 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1504 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng thuỷ sản của tỉnh Hà Tĩnh trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
30 Bảng 7b: Công suất bình quân của tàu đánh cá 30 Bảng 8: Sản lượng NTTS của Hà Tĩnh trong giai đoạn 1996 - 2000 31 Bảng 9: Sản lượng CB và giá trị xuất khẩu thuỷ sản giai đoạn 1996 - 2000 32 Bảng 10: Cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của ngành giai đoạn 1996 - 2000 34 Bảng 11: Tình hình thực hiện kế hoạch năm 2002 37 Bảng 12: Cơ cấu lao động của ngành năm 2001 - 2002 38 Bảng 13: Cơ cấu vốn đầu tư XDCB của ngành năm 2001 - 2002 38 Bảng 14: Thị trường xuất khẩu của ngành 51 Biểu Biểu 1: Kim ngạch xuất khẩu ngành thuỷ sản 10 Biểu 2: Cơ cấu giá trị xuất khẩu sang các thị trường 51 Lời nói đầu Nền kinh tế Việt Nam nói chung và nền kinh tế Hà Tĩnh nói riêng đang trong tiến trình hội nhập với khu vực và thế giới với phương châm "đa dạng hoá thị trường, đa phương hoá mối quan hệ kinh tế" thông qua con đường xuất khẩu để nâng cao tính cạnh tranh và hiệu quả của sự phát triển. Tự do hoá thương mại và đầu tư phát triển trên thế giới và khu vực, sẽ làm cho trao đổi hàng hoá - dịch vụ tăng nhanh trong thời gian tới. Nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đã có kinh nghiệm hơn 15 năm đổi mới và đã trở thành thành viên của hiệp hội ASEAN; tham gia đầy đủ Hiệp định AFTA vào năm 2006; Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã được ký kết và phê chuẩn; đang tích cực trở thành thành viên chính thức của WT0. Hà Tĩnh có nguồn lực dồi dào, tiềm năng về đất đai, biển và tài nguyên. Cơ sở hạ tầng tương đối phát triển; có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển kinh tế thuỷ sản và đẩy mạnh xuất khẩu. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX và tỉnh Đảng bộ Hà Tĩnh lần thứ XV; Cũng như hệ thống chính sách của Nhà nước về khuyến khích xuất khẩu tạo sự thông thoáng cũng như cơ hôị cho mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất và xuất khẩu Thuỷ sản. Ngành kinh tế thuỷ sản được xác định là một ngành kinh tế mũi nhọn, đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong sự nghiệp công nghiệp hoá của tỉnh. Thuỷ sản là nhóm hàng xuất khẩu có tỷ trọng tương đối lớn của tỉnh với lợi thế 137 km bờ biển; ngư trường rộng lớn; có hàng chục ha mặt nước lợ, năng lực đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản ở tỉnh còn lớn; nhu cầu về thuỷ sản của thế giới khá ổn định; thuế suất hàng thuỷ sản thấp nên có lợi thế cạnh tranh thị trường. Đây vẫn là thế mạnh của tỉnh. Xuất phát từ thực tế trên, việc đưa ra các giải pháp thúc đẩy xuất khâủ mặt hàng thuỷ sản của tỉnh trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế là rất cần thiết và là điều kiện để xây dựng được ngành kinh tế thuỷ sản lớn mạnh, thực sự đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của tỉnh Hà Tĩnh. Chính vì vậy em đã chọn đề tài "Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng thuỷ sản của Hà Tĩnh trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế" làm luận văn tốt nghiệp. Kết cấu luận văn gồm có 4 chương Chương I: Vai trò của kinh tế thuỷ sản trong hệ thống kinh tế HàTĩnh. ChươngII: Thực trạng ngành kinh tế thuỷ sản Hà Tĩnh Chương III: Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng thuỷ sản của Hà Tĩnh trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Chương IV: Kết luận và ý kiến đóng góp. Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm đưa ra một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng thuỷ sản của HàTĩnh; góp phần thúc đẩy ngành kinh tế thuỷ sản ngày càng phát triển. Luận văn hoàn thành chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được sự thông cảm và đóng góp ý kiến của quý thầy, cô và cơ quan thực tập. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của Thầy Phạm Ngọc Linh cùng cơ quan thực tập đã tạo điều kiện giúp đỡ cho em hoàn thành luận văn này. Hà Tĩnh, ngày 20 tháng 5 năm 2003 Người thực hiện Nguyễn Hữu Hùng Chương I vai trò của kinh tế thuỷ sản trong hệ thống kinh tế Hà Tĩnh I. Kinh tế thuỷ sản ngành kinh tế mũi nhọn của nước ta. 1. Kinh tế thuỷ sản 1.1. Khái niệm Kinh tế thuỷ sản là tổng thể các yếu tố vật chất của sản xuất và các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt động nuôi trồng, đắnh bắt, chế biến sản phẩm và các dịch vụ xuất khẩu, tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản kinh tế thuỷ sản bao gồm một chuổi quy trình các hoạt động gắn bó với nhau rất chặt chẽ, từ khâu nuôi trồng; đắnh bắt đến khâu thu mua và chế biến; cuối cùng là tiêu thụ sản phẩm. Ngành kinh tế thuỷ sản là một ngành kinh tế mũi nhọn, hàng năm thu hút được nhiều lao động. Khi phát triển sẽ tạo ra những chuyển biến tích cực về mặt xã hội và có tác động đến môi sinh; môi trường. Ngành kinh tế thuỷ sản là ngành chịu tác động nhiều từ các yếu tố tự nhiên. 1.2. Sản phẩm xuất khẩu Các mặt hàng thuỷ sản Việt Nam đã có mặt tại hơn 45 nước trên các châu lục với đủ các dạng mặt hàng như: sản phẩm ướp đá; khô muối, chế biến sẵn, ăn liền, phi lê và đóng gói nhỏ. Trải qua nhều năm, cơ cấu hàng thuỷ sản xuất khẩu cũng đã được cải thiện, các sản phẩm thô giá trị thấp đã giảm mạnh. Như vậy, tỷ trọng các sản phẩm đông lạnh chế biến sâu ngày càng tăng, do lợi nhuận mặt hàng này cao hơn hàng thô. Mặt khác, chất lượng bảo quản nguyên liệu sau khi thu mua đã tăng lên và các nhu cầu các mặt hàng tươi sống, ướp đá, hàng giá trị gia tăng ngày càng cao. Đơn cử, khối lượng sản phẩm ướp đông tăng từ 12.806 tấn năm 1985 lên 1.114000 tấn năm 1996 nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm 25%. - Tỷ trọng tôm đông lạnh bình quân đạt 45%/năm. Mực ống và mực nang ướp đông lạnh cũng như cá ướp đông tăng hơn 10%. Đặc biệt, từ năm 1991 các sản phẩm này đã mang lại lợi nhuận cao. Các sản phẩm khác như cua, ngao sò sản lượng đã tăng từ mức gần như số 0 lên 15% tổng sản lượng xuất khẩu. Các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu chính của Việt Nam trong thời gian qua được thể hiện ở bảng sau: Bảng 1: Cơ cấu các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu Sản phẩm Tỷ lệ (%) 1.Tôm đông lạnh 2. Cá đông lạnh 3. Mực đông lạnh 4. Mực khô 5. Cá ngừ 6. Bạch tuộc đông lạnh 7.Các mặt hàng khác 45-50 10-17 9,3-10,1 4,7-5,9 0,9-4,1 3,1-3,8 14-19 Nguồn: Bộ Thuỷ sản 2. Vị trí, vai trò của kinh tế thuỷ sản trong hệ thống kinh tế Hiện nay, Việt Nam có tiềm năng lớn trong đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản (Nước ta đứng hàng thứ 29 trên thế giới về xuất khẩu thuỷ sản. Hàng thuỷ sản của ta được xuất khẩu sang thị trường 45 nước). Việt Nam có bờ biển dài 32.600 km với 112 cửa sông và có trên 4000 đảo nhỏ nên đảm bảo cung cấp nguồn tài nguyên thuỷ sản vô cùng phong phú và trữ lượng lớn, chính vì vậy từ năm 1990 đến nay tới độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân là 20%. Tính đến năm 2001 tổng kim ngạch xuất khẩu đã tăng 6,12 lần so với năm 1991 đạt 1760 triệu USD, chỉ sau dầu thô và dệt may. Nhìn chung Việt Nam ngày càng tỏ ra có kinh nghiệm hơn trong việc tìm kiếm thị trường nên số lượng mặt hàng tăng nhanh, giá cả ổn định, được khách hàng quốc tế ưa chuộng. Thị trường cho hàng thuỷ sản còn rất lớn vì hiện nay Việt Nam chỉ mới chủ yếu xuất khẩu hàng sơ chế. Vì vậy việc đầu tư phát tiển công nghệ chế biến sẽ làm tăng đáng kể sức cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam. Cơ cấu thị trường cũng đã có sự thay đổi lớn. Thị trường nhật bản tuy tăng về giá trị nhưng tỷ trọng đã giảm dần (từ 42,3% năm 1998 xuống còn 26,4% năm 2001) bị đẩy xuống hàng thứ 2 sau Mỹ. Thị trường Mỹ đã trở thành thị trường quan trọng nhất, chiếm vị trí đứng đầu với tỷ trọng tăng nhanh từ 11,6% năm 1998 lên 27,81% (kim ngạch đạt 500 triệu USD). Bên cạnh đó thị trường Trung Quốc đã vươn lên đứng vị trí thứ 3 trong cơ cấu thị trường thuỷ sản Việt Nam. Đây là thị trường có tiềm năng vì dân số đông mà nhu cầu thì đa dạng lại không đòi hỏi nhiều về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm như các thị trường Mỹ vàthị trường EU. Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Đơn vị: Triệu USD. Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Kim ngạch 285 305 427 551 621 697 782 858 971 1479 1760 Nguồn: Bộ thuỷ sản Biểu đồ 1: Kim ngạch xuất khẩu ngành Thuỷ sản Nguồn: Bộ Thuỷ sản Mặt khác, do kinh tế ngày càng phát triển, mức sống của dân cư ngày càng nâng cao, nhu cầu về thực phẩm thuỷ sản đang trở thành xu hướng phố biến trên thế giới. Việc tìm hiểu và đưa ngành thuỷ sản Việt Nam hoà nhập vàothị trường thuỷ sản thế giới càng trở nên cấp thiết. Hơn nữa muốn thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế theo hướng CNH, chúng ta phải bắt đầu từ những thế mạnh căn bản của mình mà thuỷ sản được coi là mặt hàng chủ lực có tiềm năng nằm trong 3 chương trình kinh tế lớn củaViệt Nam, là lương thực, thực phẩm; hàng tiêu dùng hàng xuất khẩu. Từ tiềm năng thực tế của ngành thuỷ sản và từ xu thế tiêu dùng mặt hàng thuỷ sản ngày càng tăng, mà cụ thể được thể hiện ở kim ngạch xuất khẩu qua các năm ta có thể kết luận: Ngành kinh tế thuỷ sản đang ngày càng đóng vai trò lớn trong hệ thống kinh tế; là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Góp phần đáng kể vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 3. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế thuỷ sản 3.1. Nhân tố kinh tế Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế có ảnh hưởng lớn tới cung cầu trên thị trường hàng thuỷ sản. Khi thu nhập trên đầu người lên sẽ làm tăng về những mặt hàng có giá trị cao như: Tôm he, cá quả tươi, mực... Vì vậy ở đây đặt ra một vấn đề đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản, đó là phải tuỳ theo từng thị trường để có kế hoạch cungứng thích hợp và có hiệu quả. 3.2 Nhân tố xã hội Cầu về một mặt hàng thuỷ sản phụ thuộc rất nhiều vào cách ăn truyền thống, thói quen ẩn thực của từng quốc gia; từng thị trường, khả năng mua, thị hiếu của khách hàng để từ đó đưa ra các chính sách về giá cả, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, sản lượng xuất khẩu cho phù hợp. 3.3. Nhân tố khoa học - Công nghệ Ngành thuỷ sản nước ta trải qua 5 năm phát triển mạnh mẽ, từ năm 1996 - 2000 với tổng sản lượng thuỷ sản tăng 1,4 lần so với giai đoạn 1991 - 1995 và gấp 2 lần so với giai đoạn1986 - 1990 các hoạt động khoa học công nghệ thuỷ sản triển khai trên diện rộng trong 5 năm qua đã đưa lại những đóng góp đáng kể thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh của ngành. Sự phát triển khoa học công nghệ trên mọi lĩnh vực như: Bảo vệ nguồn lợi; kiểm soát môi trường; dư lượng độc tố chế biến khai thác sản xuất; kỷ thuật nuôi ươm giống đã thuận tiện cho việc điều chỉnh cơ cấu khai thác hải sản; quy hoạch phát triển nuôi trồng thuỷ sản; đa dạng hoá sản phẩm thuỷ sản chế biến xuất khẩu... cho dù còn nhiều đòi hỏi của thực tiễn sản xuất ở nước ta, nhưng những kết quả đạt được đã phần nào chứng tỏ vai trò của khoa học - Công nghệ trong sự phát triển liên tục của ngành thuỷ sản trong thời gian qua. 3.4. Yếu tố tự nhiên Sản xuất ngành thuỷ sản phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố tự nhiên, thời tiết thất thường... đã gây thiệt hại lớn về người và của. Ví dụ: Cơn bão số 5 năm 1997đã làm chết và mất tích hơn 300 ngư dân, hàng nghìn tàu, thuyền bị chìm, cơ sở hạ tầng nơi bảo đi qua bị tàn phá nặng nề. Năm 1998 thiệt hại bão, lũ gây ra cho ngành thuỷ sản ước tính 110 tỷ đồng. Năm 2000 thiệt hại toàn ngành khoảng 27 tỷ đồng. 3.5. Các chính sách Các chính sách có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của ngành. Trong từng thời kỳ sẽ có những chính sách được đưa ra, nhằm khắc phục những hạn chế, tồn tại khó khăn đồng thời hướng dẫn, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh cho phù hợp với điều kiện mới. Các chính sách đó sẽ ảnh hướng rất lớn đến tình hình và kết quả sản xuất kinh doanh. Nếu chính sách đúng, phù hợp với điều kiện mới được đưa ra kịp thời sẽ tác động tích cực đến kết quả san xuất kinh doanh và ngược lại, nếu các chính sách đưa ra không phù hợp với thực tế và đưa ra không đúng thời điểm thì sẽ gây ra cản trở đối với sự phát triển. Nói tóm lại trong thời điểm hiện nay, các chính sách có tác động rất lớn đối với sự phát triển của ngành kinh tế thuỷ sản. Tuyvậy chúng ta phải biết vận dụng chúng một cách hết sức linh hoạt, đưa ra đúng thời điểm cho phù hợp với điều kiện mới để đạt được hiệu quả cao. II. Sự cần thiết thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng thuỷ sản ở Hà Tĩnh 1. Đánh giá chung về kinh tế thuỷ sản ở Hà Tĩnh - Trong 11 năm qua kể từ khi tái lập tỉnh đến nay mặc dù còn gặp nhiều khó khăn do thời tiết khắc nghiệt cơ sở hạ tầng yếu kém, năng lực sản xuất còn thiếu thốn song ngành kinh tế thuỷ sản có bước tiến bộ rõ rệt, là một trong những ngành kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao của tỉnh. Bảng 3: Sản lượng khai thác đánh bắt, nuôi trồng và chế biến xuất khẩu của ngành giữa 2 năm 1991 và 2002 Đơn vị tấn Năm 1991 2002 Tốc độ tăng (lần) 1. Đánh bắt hải sản 2. Nuôi trồng thuỷ sản 3. Sản lượng chế biến XK 11.000 1357 371 20.250 6000 2600 1,8 4,4 7 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hà Tĩnh Nhìn vào 3 bảng ta thấy: Về khai thác hải sản, nhờ có hướng đi đúng trong việc chuyển đổi nghề ven bờ, phát triển đội tàu xa bờ, đưa các nghề tiến bộ vào khai thác hải sản xuất khẩu, thực hiện nhất quán khai thác đi đôi với cải tạo và bảo vệ nguồn lợi nên đã đưa sản lượng khai thác hải sản từ 11.000 tấn năm 1991 lên 20.250 tấn vào năm 2002, tăng gấp 1,8 lần tạo được khối lượng hải sản xuất khẩu như: Mực, tôm, cá... góp phần quan trọng giải quyết việc làm, tăng thu nhập nâng cao đời sống của ngư dân ven biển. Cùng khai thác hải sản, nuôi trồng thuỷ sản cũng có bước chuyển biến tích cực, diện tích nuôi trồng mặn lợ tăng 5 lần với năm 1991, từ 352 ha năm 1991 lên 1758 ha năm 2002. Đã góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập nâng cao đời sống của người nuôi trồng thuỷ sản, bước đầu tạo được sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu của toàn ngành. Xây dựng được các mô hình nuôi tôm bán thân canh năng suất trên 1 tấn/ha/vụ có hiệu quả là tiền đề phát triển cho những năm tiếp theo. Nuôi cá nước ngọt đã từng bước khai thác có hiệu quả, tạo thêm công ăn việc làm và tăng thu nhập cho nông dân, trong thời gian qua, sản lượng nuôi trồng thuỷ sản đã tăng từ 1357 tấn vào năm 1991 lên 6000 tấn, năm 2002 tăng gấp 4,4 lần xuất khẩu thuỷ sản là lĩnh vực có bước tăng trưởng nhanh nhất trong toàn ngành, sản lượng chế biến xuất khẩu tăng từ 171 tấn năm 1991 lên 2600 tấn năm 2002 tăng gấp 7 lần đóng góp tỷ trọng đáng kể trong xuất khẩu của cả tỉnh. Dựa dẫm vào bao cấp nhà nước còn nặng nể ở một bộ phận không nhỏ cán bộ và nhân dân, không dám mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất hàng hoá trong nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu mà bằng lòng với kết quả đủ ăn, với năng suất hiệu quả thu được trong trồng lúa cũng như NTTS theo hình thức quảng canh. Bản thân ngành thuỷ sản còn có những mặt yếu kém về năng lực của đội ngũ cán bộ kỷ thuật, năng lực tổ chức quản lý để giải quyết những vấn đề đặt ra trong sản xuất kinh doanh nhằm giúp dân phát triển sản xuất như: Thông tin thị trường, sản xuất giống trên địa bàn, phòng trừ dịch bệnh, lãnh đạo, chỉ đạo của tỉnh chưa đồng bộ, việc đầu tư của Nhà nước cho nghề nuôi trồng chưa đúng mức. Các chính sách để giải quyết vấn đề đất đai, hỗ trợ vốn cho người nuôi, đầu tư cho chế biến xuất khẩu tạo đầu ra tốt nhất để khuyến khích người nuôi trồng còn nhiều hạn chế. Những tiến bộ trên là sự cố gắng của cả Đảng bộ và nhân dân trong toàn tỉnh mà trước hết là bà con ngư - nông dân - Tuy vậy, so với tiềm năng và yêu cầu phát triển thì tốc độ phát triển còn chậm, nhất là nghề nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu. Mới đưa được 20% diện tích vào nuôi trồng, chưa tạo được vùng nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu tập trung có khối lượng lớn. Sản lượng tôm của xuất khẩu mới đạt trên 10% giá trị xuất khẩu của cả ngành thuỷ sản là hết sức nhỏ bé, năng suất và hiệu quả của các đầm nuôi còn rất thấp chưa tương xứng với tiềm năng. Vùng có tiềm năng đất, mặt nước để phát triển môi trường thuỷ sản xuất khẩu còn là vùng nghèo của tỉnh; nuôi trồng thuỷ sản xuất khâủ chưa tham gia được nhiều vào chương trình giải quyết việc làm xoá đói giảm nghèo cho nông - ngư dân trong vùng. Cơ sở hạ tầng phục vụ cho nuôi bán thâm canh và thâm canh. Thuỷ lợi, giao thông, đê cống nội đồng chưa bảo đảm. Nhiều vấn đề phục vụ cho chương trình nuôi như việc giao đất chuyển đổi đất từ sản xuất lúa hiệu quả kém sang nuôi tôm xuất khẩu, vốn cho nuôi trồng, cán bộ kỷ thuật tay nghề của người nuôi, sản xuất và cung ứng giống phòng trừ dịch bệnh .... còn nhiều bất cập đã hạn chế đến tốc độ phát triển và hiệu quả nghề nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu. Những tồn tại yếu kém trên có nguyên nhân do cấp uỷ Đảng, Chính phủ các cấp nhận thức chưa đầy đủ vị trí, thế mạnh của nghề NTTS, tư tưởng bảo thủ, ỷ lại. 2. Lợi thế của Hà Tĩnh trong việc phát triển mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu 2.1. Điều kiện tự nhiên và tiềm năng nguồn lợi thuỷ sản Hà Tĩnh. - Hà Tĩnh có chiều dài bờ biển 137km, có 4 cửa sông chính: Cửa Hội, cửa Sót, cửa Nhượng, cửa Khẩu. Có diện tích đất đai, mặt nước lớn, thời tiết khí hậu thuận lợi cho việc khai thác hải sản và phát triển nuôi trồng thuỷ sản. - Tiềm năng, nguồn lợi thuỷ sản: + Nguồn lợi hải sản: Căn cứ vào điều tra của Viện nghiên cứu hải sản, biển Hà Tĩnh có 267 loài của 90 họ trong đó 60 loài cá có giá trị, 20 loài tôm, mực ống, mực nang... với trừ lượng: 85.000 tấn, trong đó: cá nổi 41.000 tấn, cá đáy 44.000 tấn, tôm biển 500-600 tấn, mực 3.000 - 3.500 tấn. + Tiềm năng nguồn lợi mặt nước lợ: Với chiều dài bờ biển 137 km, có 4 cửa sông chính và khoảng 20 con sông lớn nhỏ đổ về các cửa biển, tạo thành những vùng nước lợ khá lớn với diện tích gần 5.970 ha (chưa kể diện tích các eo vịnh ven biển). Trong đó: - Diện tích đã xây dựng và đang nuôi: 1.538 ha - Diện tích hoang hoá: 1.417 ha - Diện tích ruộng muối bỏ hoang: 212 ha - Diện tích ruộng lúa nhiễm mặn năng suất thấp: 2.803 ha Nguồn lợi thuỷ sản nước lợ khá phong phú cả về số lượng và thành phần giống loài bao gồm: * Nguồn lợi tôm: Chủ yếu các giống loài tôm He như: tôm Lớt, tôm Sú, tôm Sắt, tôm Nhật Bản, tôm Rảo. Ngoài ra còn có loài tôm Gai, tôm Tít * Cá nước lợ có các loài: Cá Đối, cá Vược, cá Hanh, cá Chai, cá Bớp, cá Bống, cá Nâu, cá Móm... *Cua biển, Gẹ, Rạm cũng có nhiều ở vùng nước lợ Hà Tĩnh. * Rong biển: Có rong câu chỉ vàng là loài rong có giá trị kinh tế. * Nhuyễn thể: Gồm nhiều loài có số lượng lớn như Ngao, Sò, Vẹm, Hầu, Ngán, Vạng, Hến... + Tiềm năng nguồn lợi nước ngọt: - Diện tích mặt nước ngọt: 13.436 ha - Diện tích ao hồ nhỏ < 0,5 ha: 1.250 ha - Diện tích hồ đập nhỏ 0,51 - 5 ha: 1.577 ha - Diện tích mặt nước > 5ha: 7.961 ha - Diện tích ruộng trũng 1 vụ lúa: 1.654 ha - Diện tích ruộng trũng 2 vụ lúa kết hợp nuôi cá: 802 ha Nguồn lợi cá nước ngọt nằm trong khu cá sông Lam. Nhưng đối tượng nuôi chủ yếu của dân là: cá Mè, cá Trôi, cá Trắm, cá Chép, cá Quả, cá Rôpi, cá Trê phi... và một số loài đặc sản khác như: Lươn, ếch, ba ba... Qua sự đánh giá về tiềm năng, ta có thể thấy được đây là một lời thế có ý nghĩa rất lớn quan trọng đối với Hà Tĩnh. Tạo cơ sở tiền đề cho ngành đẩy mạnh xuất khẩu. 2.2. Yếu tố sản xuất: Đó là những yếu tố đầu vào cần thiết cho quá trình sản xuất. Nó bao gồm lao động, đất đai, tài nguyên, vốn, cơ cấu, cơ sở hạ tầng. - Lao động: Dân số Hà Tĩnh 1.270.409 người, tỷ lệ tăng tự nhiên 1,2%. Dự kiến đến năm 2010 có 1.373.500 người, trong đó dân cư nông thôn là 1.144.720 người, lao động hiện nay 575.402 người. Trong đó lao động nông thôn 501.736 người, chiếm 87% lao động xã hội. Ta thấy Hà Tĩnh có nguồn lao động rất dồi dào, nhất là lao động nông thôn. Trong những năm qua với những chính sách phát triển nguồn nhân lực. Ngành thuỷ sản đã phối hợp cùng với các cơ quan khác, tổ chức các lớp học nghề, đào tạo được đội ngũ lao động có tay nghề. Đến năm 2002 lao động trong ngành là 27.600 tăng 300 so với năm 2001, tăng 1,1%. Ngành đã có chính sách nhằm thu hút nhân tài, hiện nay đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý của ngành trình độ ngày càng được nâng cao. Đây cũng là một lợi thế của ngành Thuỷ sản Hà Tĩnh. - Vốn: Những năm qua được sự quan tâm của Nhà nước và tỉnh, ngành đã được đầu tư nâng cấp, hoàn thiện và xây mới các cơ sở hạ tầng; các công trình phục vụ cho quá trình đánh bắt, nuôi trồng và chế biến xuất khẩu. Cơ sở hạ tầng ngày càng được đầu tư xây dựng, nâng cấp, nhất là các công trình phục vụ cho sản xuất hàng hoá xuất khẩu. 2.3. Nhu cầu thị trường Ngày nay nhu cầu về hàng thuỷ sản ngày càng tăng không những trên thị trường thế giới, mà cả thị trường nội địa. Ngành thuỷ sản Hà Tĩnh đã có một hệ thống thị trường tương đối lớn và ổn định. Như thị trường Nhật bản, Đài Loan, Singapore, Mỹ, Trung Quốc. Hàng thuỷ sản chế biến Hà Tĩnh có sức cạnh tranh cao, hàng hoá sản xuất ra đều được xuất ra thị trường ngoài nước, thời gian lưu kho tương đối ngắn, thêm vào đó uy tín của các doanh nghiệp thuộc ngành ngày càng được nâng cao và được thừa nhận trên thị trường thế giới. 2.4. Vấn đề liên kết ngành, đặc biệt là liên kết quốc tế Trong những năm qua, nhờ có các chính sách của tỉnh, ngành đã cùng liên kết với các ngành khác nhằm phối hợp sản xuất kinh doanh tạo ra hiệu quả cao hơn. Các doanh nghiệp thuộc ngành đã liên kết với các doanh nghiệp xuất khẩu ngoài tỉnh để đẩy mạnh xuất khẩu ra thị trường thế giới. Bên cạnh đó hệ thống chính sách khuyến khích, hỗ trợ xuất khẩu của tỉnh. Sự quan tâm đặc biệt của tỉnh cũng là một thế mạnh của ngành. Nói tóm lại, ngành kinh tế thuỷ sản Hà Tĩnh so với các tỉnh bạn tuy còn non kém, nhưng có rất nhiều tiềm năng, lợi thế. Vì vậy để phát huy được hết tiềm , lợi thế của tỉnh, cần phải có các chính sách thích hợp khuyến khích xuất khẩu để ngành thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh và tương xứng với tiềm năng của mình. 3. Yêu cầu của hội nhập Hội nhập quốc tế là quá trình hợp tác trên cơ sở "có đi có lại", áp dụng đối xử ưu đãi giữa các quốc gia thành viên và đối xử thuận lợi đối với các nước kém phát triển hơn trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc, chấp thuận các luật lệ và tập quán quốc tế. Mỗi tổ chức đều có mục tiêu, nguyên tắc và nội dung hoạt động của tổ chức mình. WTO là tền tảng mang tính toàn cầu, trong đó AFTA, APEC, ASEM ... cụ thể hoá tiến trình tự do hoá thương mại và đầu tư trong một tập hợp và tạo ra cơ chế thực hiện chặt chẽ nhất là AFTA. - Một yêu cầu mang tính nguyên tắc của AFTA cùng như WTO, APEC... là thương mại quốc tế phải được thực hiện theo cơ chế thị trường. Đây chính là thách thức đòi hỏi chúng ta phải tiến hành các chương trình cải tổ nền kinh tế sâu sắc, điều chỉnh hệ thống chính sách và pháp luật của mình, trên cơ sở đó mới tranh thủ được sự hỗ trợ của các định chế tài chính quốc tế, tạo niềm tin thu hút các nước an tâm đầu tư vào Việt Nam. - Thị trường thuỷ sản Mỹ là một thị trường rất có tiềm năng, đặc biệt là sau khi có hiệp định thương mại Việt -Mỹ, nhưng Việt Nam mới chỉ khai thác được một thị phần rất khiêm tốn. Trong khi đó, tiêu thụ thuỷ sản tại Mỹ đang có chiều hướng gia tăng, trong khi nguồn cung trong nước lại giảm dần. Đây là cơ hội để các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam tăng thị phần tại Mỹ. Các doanh nghiệp Việt Nam muốn thành công trên thị trường Thuỷ sản Mỹ cần phải chú trong đến các yếu tố sau: đầu tư xây dựng hệ thống kho bãi hiện đại; chú trọng xây dựng thương hiệu; tăng cường khả năng hợp tác giữa các doanh nghiệp xuất khẩu; tăng cường sử dụng internet trong công tác tiếp thị; chú trọng sản xuất những mặt hàng có chất lượng cao. Ngoài ra, các doanh nghiệp cần phải có trong tay chứng nhận tiêu chuẩn chất lượng HACCP. Đây là điều kiện bắt buộc để giao dịch với khách hàng chính yếu trên thị trường Mỹ. - Nhật Bản là thị trường nhập khẩu thuỷ sản số 3 của thế giới. Hàng thuỷ sản Việt Nam đang xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản gồm nhiều loại, có thể chia thành các nhóm cơ bản sau: Tôm và các sản phẩm tôm, cá và các sản phẩm cá, sản phẩm nhuyễn thể, sản phẩm phối chế, sản phẩm đóng hộp. Để đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Nhật Bản, các doanh nghiệp của ta cần triển khai mạnh các chương trình, phát triển những nhóm sản phẩm chủ lực; chú trọng công tác nghiên cứu thị trường và nghiên cứu khách hàng để lựa chọn những đối tác làm ăn lâu dài, cung cấp cho họ những sản phẩm phù hợp với thị hiếu của người tiêu thụ; cần chú trọng đến yếu tố chất lượng và vệ sinh thực phẩm, các doanh nghiệp cần gắn khâu chế biến với việc nâng cao chất lượng nguyên liệu, hình thành các vùng chuyên canh có khả năng cung cấp một lượng thuỷ sản nguyên liệu lớn nhất với chất lượng ổn định, quan tâm kỹ thuật bảo quản sau thu hoạch để hạn chế tỷ lệ phế phẩm, tăng cường kiểm soát các yếu tố độc hại trong khâu chế biến sản phẩm. Đặc biệt nghiên cứu kỹ "Luật kiểm dịch" và "Luật vệ sinh thực phẩm" của Nhật Bản. Về lâu dài, các doanh nghiệp cần thành lập chi nhánh hoặc văn phòng đại diện tại Nhật Bản để xâm nhập thị trường tốt hơn. - Đối với thị trường EU, hiện nay là thị trường tiêu thụ thuỷ sản lớn của Việt Nam. Những mặt hàng chính mà EU nhập khẩu từ Việt Nam, nhờ chất lượng được cải tiến nên khả năng cạnh tranh và xâm nhập thị trường được nâng cao. Gần đây EU chính thức công nhận Trung tâm kiểm tra chất lượng và vệ sinh Thuỷ sản Việt Nam có đủ điều kiện được EU uỷ quyền kiểm tra hàng thuỷ sản trước khi xuất khẩu vào EU và hàng thuỷ sản Việt Nam được đưa vào danh sách ưu tiên hạng I. Do vậy yêu cầu cần phải tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm và hoàn thiện công tác tổ chức kiểm tra chất lượng để củng cố niềm tin đối với thị trường này. Đẩy mạnh hoạt động của dự án cải thiện chất lượng và xuất khẩu thuỷ sản SEAQIP... - Việt Nam đàm phán gia nhập WTO trong bối cảnh chính WTO cũng đang tiến hành vòng đàm phán thươngmại Doha. Đây là thách thức lớn đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam nói chung và đàm phán gia nhập WTO nói riêng. Trong đàm phán gia nhập WTO Việt Nam phải đáp ứng các yêu cầu hiện tại của tổ chức này như: Làm rõ các chính sách thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ..., bổ sung, sửa đổi các bản phảp luật liên quan đến thương mại, đầu tư, thực hiện các cam kết liên quan đến mở cửa thị trường như: Cắt giảm thuế nhập khẩu và nhiều biện pháp như thuế quan cản trở nhập khẩu hoàng hoá không phù hợp với quy định của WTO, nới lỏng các quy định liên quan đến việc cho phép các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài cung cấp nhiều lĩnh vực dịch vụ tại Việt Nam. Mặt khác, Việt Nam phải tích cực theo dõi tiến triển của vòng đàm phán mới. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh để có thể tận dụng tốt cơ hội trong tương lai. - Hiện nay Việt Nam và Hoa Kỳ đã ký kết và phê chuẩn Hiệp định thương mại song phương, trong thời gian qua, hiệp định này đã có hiệu lực và góp phần thúc đẩy xuất khẩu từ Việt Nam sang Mỹ. Tuy vậy, các nhà xuất khẩu cần phải cân nhắc đến các khoản phí đang được Hoa Kỳ áp dụng đối với nhiều mặt hàng và các rào cản mới để hạn nhập khẩu, đó là các biện pháp gắn liền với môi trường và tiêu chuẩn lao động. - Trong tiến trình hội nhập AFTA cũng đưa đến cho ta những yêu cầu mới. Ta đứng trước yêu cầu cần phải giảm hàng rào thuế và phi thuế để mở đường cho thương mại phát triển. Trong khi đó các doanh nghiệp của Việt Nam chưa đủ sức cạnh tranh, nhất là ngành thuỷ sản. So với các đối thủ trong khu vực như: Thái Lan, Inđônêxia, ngành thuỷ sản của ta chưa đủ khả năng để cạnh tranh trên thị trường các nước khác và ngay trên thị trường nội địa. Vì vậy yêu cầu bức thiết đối với ngành là phải nâng cao chất lượng sản phẩm, chuyển đổi công nghệ sản xuất, giảm giá thành sản phẩm, để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế khi không còn được bảo hộ mậu dịch khẳng định được vị thế của mình, tận dụng triệt để các cơ hội trong quá trình hội nhập. Bên cạnh đó, năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, cũng là một vấn đề cấp thiết đối với ngành thuỉy sản Hà Tĩnh. Nhất là năng lực cạnh tranh so với các nước trong khu vực trong tiến trình hội nhập AFTA. - Về chất lượng: hàng thuỷ sản của ngành ngày càng được hoàn thiện hơn, ngày càng đáp ứng được nhu cầu khắt khe của khách hàng, tuy nhiên xét trên khía cạnh khách quan thì chất lượng chưa thể nói là cao và chưa thích hợp với tiềm năng của mình. Lý do là công nghệ chế biến còn lạc hậu. Công tác chế biến hiện nay chủ yếu là dừng lại ở mức sơ chế (ướp lạnh, làm khô...) sản phẩm gía trị thấp chiếm trên 80% sản lượng, tỷ lệ sản phẩm có chất lượng cao chỉ chiếm 15%. So sánh với các nước khác trong khu vực như: Thái Lan, Inđônêxia, Singapore thì hàng thuỷ sản chế biến của ngành chất lượng kém. Vì vậy trong thời gian tới cần phải nâng cao chất lượng sản phẩm để tạo sức cạnh tranh trên thị trường. - Về giá cả: Việt Nam chỉ mới bắt đầu phát triển lĩnh vực thuỷ sản, thì trong khu vực ASEAN, Thái Lan đã là 1 nước đứng hàng đầu về nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu thuỷ sản. Thái Lan là một nước xuất khẩu có uy tín hàng đầu trên thế giới từ nhiều năm nay, trình độ Maketting quốc tế hơn Việt Nam rất nhiều. Giá cả của hàng xuất khẩu của ta không những bán thấp mà còn bị ép giá. Ngành thuỷ sản Hà Tĩnh cũng phải chịu chung hoàn cảnh đó. Việc xuất khẩu qua thị trường trung gian một bộ phần hàng thuỷ sản đã làm giá trị của hàng xuất khẩu bị giảm mạnh. Điều này đòi hỏi ngành cần phải chú trọng hơn nữa trong việc cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm khi đem ra thị trường thế giới. Nó giúp ta hạ được giá thành sản phẩm, tạo tiền đề để nâng cao năng lực cạnh tranh, không chỉ trên thị trường quốc tế mà cả thị trường nội địa, khi các rào cản thuế quan được dỡ bỏ. Chương II Thực trạng ngành kinh tế thuỷ sản Hà Tĩnh I. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Hà Tĩnh 1. Điều kiện tự nhiên 1.1. Vị trí, địa lý Hà Tĩnh thuộc vùng Duyên Hải bắc trung bộ, có toạ độ địa lý 17054' đến 18046' vĩ độ Bắc, 105006' - 106036' kinh độ Đông. Diện tích lãnh thổ 6055,7km2. Dân số 1.270.409 người. Hà Tĩnh có lợi thế cơ bản là nằm trên trục đường quốc lộ 1A, đường sắt Bắc - Nam, có bờ biển dài 137km và có cửa khẩu quốc tế nối với nước bạn Lào vùng Đông bắc Thái Lan. 1.2. Địa hình Hà Tĩnh nằm phía Đông Trường Sơn, có địa hình hẹp và dốc từ Tây sang Đông. Địa hình đồi núi chiếm trên 70% diện tích tự nhiên. Đồng bằng chiếm diện tích nhỏ và bị chia cắt mạnh bởi sông suối và các dãy núi ăn sâu ra biển. 1.3. Khí hậu Hà Tĩnh nằm trong vùng khí hậu Bắc trung bộ, có đặc điểm chung là: Nhiệt đới, gió mùa nóng ẩm. Nhiệt độ trung bình khá cao (23,80C), lượng mưa nhiều và tập trung vào các tháng 5 (mưa tiểu mãn), và tháng 9-11, khí hậu Hà Tĩnh được phân thành 2 mùa rõ rệt. - Mùa mưa từ tháng 9-2 năm sau. Thờ._.i kỳ đầu thường có mưa to và kèm theo giông tố, bão triều cường làm ảnh hưởng đến sản xuất nông - ngư nghiệp - Mùa nóng từ tháng 4-8 thường ít mưa, gió Tây nam khô nóng gây thiếu nước cho sản xuất và đời sống của dân sinh trong tỉnh. 1.4. Đất đai Hà Tĩnh có 605.574 ha đất tự nhiên, trong đó đất nông nghiệp 98.171 ha, đất lâm nghiệp 215.789 ha, đất chưa sử dụng 239.143 ha. Gồm có 2 nhóm đất chính: - Nhóm đất thuỷ thành, diện tích 176.762 ha, gồm có các loại đất chính: sét, cát pha, cát. Đất này phần lớn đã được khai thác sử dụng vào nông nghiệp trồng lúa, màu và là nơi tập trung phần lớn dân cư của tỉnh, một số vùng bị nhiễm mặn đã được sử dụng để nuôi trồng thuỷ sản. -Nhóm đất địa thành, diện tích 405.436 ha chủ yếu là đất Feralit phát triển trên đất sét, đá sa thạch, Granit, Ryolit... đây là vùng có tiềm năng phát triển cây công nghiệp, chăn nuôi và trồng rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc. 2. Điều kiện kinh tế xã hội 2.1. Dân số và lao động Hà Tĩnh có 9 huyện, 2 thị xã, 260 xã phường. Dân số 1.270.409 người, tỷ lệ tăng tự nhiên 1,2%. Dự kiến đến năm 2010 có 1.373.500 người, trong đó dân cư nông thôn là 1.144.720 người. Lao động hiện nay 575.402 người. Trong đó lao động nông thôn 501.736 người, chiếm 87% lao động xã hội. 2.2. Cơ sở hạ tầng Hệ thống giao thông, thuỷ lợi cấp Nhà nước đã được đầu tư đồng bộ và phát huy hiệu quả của các công trình như: Đường 1A, đường sắt Bắc Nam, đường 8A, các công trình thuỷ lợi như sông Rác, Kẽ Gỗ, Linh Cảm, sông Tiêm và hơn 270 ao hồ chứa có dung tích tổng cộng trên 600.000.000m3 nước, 235 trạm bơm điện có lưu lượng 388.000m3/h. Công trình ngọt hoá sông Nghèn hoàn thành. Hiện nay đã xây dựng cảng Vũng áng sẽ tạo điều kiện phát triển giao thông thuỷ. Hệ thống điện, bưu chính, viễn thông đã được phát triển đồng bộ và phủ sóng khắp cả tỉnh. Tuy nhiên việc phát triển cơ sở hạ tầng vẫn còn nhiều bất cập, đặc biệt là tuyến cơ sở hiện nay đã bị xuống cấp, chưa được đầu tư đúng mức như đường giao thông nông thôn, hệ thống kênh mương nội đồng... chưa đảm bảo yêu cầu phục vụ sản xuất ở nông thôn. II. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu sản phẩm thuỷ sản Hà Tĩnh 1. Môi trường vĩ mô Là môi trường mà tất cả các ngành sản xuất kinh doanh trên thị trường có ảnh hưởng đến. ảnh hưởng này là ảnh hưởng gián tiếp và mức độ ảnh hưởng đối với các doanh nghiệp không phải tuân theo một phương thức nhất định. Môi trường vĩ mô bao gồm các tác lực sau: - Tác lực kinh tế: Tác lực kinh tế bao gồn rất nhiều các yếu tố. Nó ảnh hưởng vô cùng lớn đến tất cả các chủ thể sản xuất kinh doanh, nhìn chung mỗi nội dung, mỗi sự điều chỉnh thay đổi của những yếu tố này có thể tạo nên cơ hội hoặc nguy cơ đối với ngành. Xét về mặt tổng quát chung có 4 yếu tố kinh tế vĩ mô quan trọng nhất ảnh hưởng đến hầu hết các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. + Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế và xu hướng tăng trưởng kinh tế: Nước ta hiện nay là một nước có nền kinh tế đang phát triển. Là một nước có rất nhiều nước trên thế giới để ý đến và muốn hợp tác làm ăn ở trong nước cũng như ở nước ngoài. Tỷ lệ tăng trưởng và tốc độ tăng trưởng của nước ta có nhiều khởi sắc, từ chỗ là một nước nghèo có tỷ lệ đói nghèo cao, nay đã một phần ổn định và nền kinh tế ngày càng ổn định hơn. Hiện nay nền kinh tế nước ta mở rộng giao lưu kinh tế, quan hệ với tất cả các nước trên thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quan hệ thương mại xuất nhập khẩu. Chính điều này đã tạo điều kiện và cơ hội cho ngành phát triển mở rộng đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của mình ra thị trường thế giới và tạo ra nhiều thuận lợi cho ngành. + Lãi suất của Ngân hàng và xu hướng của lãi suất: Lãi suất của Ngân hàng và xu hướng của lãi suất có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sản xuất của ngành, khi lãi suất Ngân hàng tăng lên làm cho lợi nhuận của các doanh nghiệp thuộc ngành giảm xuống và ngược lại sẽ làm cho lợi nhuận của ngành tăng lên. Trong hoàn cảnh hiện nay ngành có rất nhiều thuận lợi so với các ngành khác: các doanh nghiệp thuộc ngành đang làm ăn có lãi, có uy tín trên thị trường trong nước và nước ngoài, được Nhà nước ưu tiên cho vay vốn lớn. Tuy nhiên với lãi suất cho vay hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp thuộc ngành phải hoạt động tích cực, khẩn trương, vòng quay vốn nhanh, tạo uy tín đối với Ngân hàng và có nhiều quyền ưu tiên hơn so với các đối thủ cạnh tranh khác trong việc vay vốn. + Tỷ giá hối đoái: Đối với các doanh nghiệp chế biến xuất nhập khẩu của ngành tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì hoạt động của các doanh nghiệp thuộc ngành là xuất khẩu thuỷ sản ra nước ngoài với sản lượng lớn. Chính vì vậy, mà tại một thời điểm nào đó có sự thay đổi của tỷ giá hối đoái có thể tạo nên cơ hội hoặc nguy cơ đối doanh nghiệp thuộc ngành. - Tác lực về chính trị - pháp luật: Khi nền kinh tế ổn định, pháp luật của đất nước ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tác nước ngoài vào nước ta đầu tư ký kết hợp đồng. - Tác lực về tự nhiên: Các tỉnh miền Trung có chiều dài bờ biển khoảng 2000km chiếm 62% chiều dài bờ biển cả nước trải dài trên 9 vĩ độ Bắc từ Thanh Hoá đến Bình Thuận. Biển Bắc Trung bộ có nhiều vùng rạn (diện tích khoảng 35km2) là những vùng có nhiều loại tôm, cá như: Tôm Hùm, cá Song, cá Mú, cá Bánh Đường cần được giữ gìn khai thác hợp lý và bảo vệ lâu dài. Miền Trung cũng có 1 số như trường tốt: Ngư trường Thanh Nghệ Tĩnh và cửa Vịnh Bắc Bộ phong phú cả cá nổi và cá đáy, ngư trường Đà Nẵng - sông Cầu và ngư trường Ninh Thuận -Bình Thuận là những ngư trường nỗi tiếng về cá nổi. Đây là vùng chịu ảnh hưởng và tác động của bão lớn nhất nước ta. Các tỉnh miền Trung có nhiều diện tích lớn để phát triển nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt, mặn và lợ, tuy nhiên nuôi tôm Sú có khó khăn hơn trong việc lách mùa vụ và sản xuất tôm Sú giống. Hà Tĩnh nằm trên dải đất miền Trung giàu tiềm năng về thuỷ sản nên được kế thừa hầu như tất cả các thuận lợi của biển này. Vùng biển Hà Tĩnh dài 137km, cấu tạo khúc khuỷu hình thành nhiều vũng, vịnh, đầm nên thuận lợi cho việc nuôi trồng thuỷ sản đặc biệt là nghề cá nổi. Hiện nay vùng biển miền Trung hàng năm khai thác một số loại tiêu biểu đạt sản lượng cao và có giá trị kinh tế đó là: Mục thẻ, mực ống, mực ống thông, mực lá, mực ống ngăn, mực nang vân hổ... Ngoài ra trong vùng còn một số loại hải sản khác có giá trị kinh tế cao hiện nay đang được khai thác và chế biến thành các mặt hàng xuất khẩu, các mặt hàng xuất khẩu này đang tăng rất nhanh như: ghẹ, sò, cua... Nằm trên một mảnh đất giàu tiềm năng về nuôi trồng, khai thác thủy sản cộng với vị trí địa lý thuận lợi: Giao thông đường bộ, đường sắt, đường hàng không và đặc biệt là đường thuỷ rất thuận tiện cho việc giao lưu trong nước và quốc tế. Do đó ngành Thuỷ sản Hà Tĩnh có rất nhiều thuận lợi để phát triển hơn nữa hoạt động sản xuất và kinh doanh của mình. Với điều kiện tự nhiên được thiên nhiên ưu đãi đã tạo ra cho ngành những thuận lợi sau: - Tạo điều kiện thuận lợi cho việc cung cấp đầy đủ, kịp thời nguyên liệu thuỷ sản giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp được liên tục, không gián đoạn do thiếu nguyên vật liệu. - Tạo điều kiện thuận lợi trong vận chuyển nguyên vật liệu cũng như vận chuyển sản phẩm đi tiêu thụ. Với số lượng sản phẩm phong phú, có giá trị kinh tế cao, giúp cho ngành có thể sản xuất, chế biến nhiều mặt hàng thuỷ sản khác nhau phục vụ mục tiêu chiến lược đa dạng hoá sản phẩm. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi nêu trên còn có những khó khăn đó là những năm gần đây trên địa bàn Hà Tĩnh do việc khai thác đánh bắt bừa bãi, khai thác thuỷ sản bằng chất nổ, xung điện, cộng thêm môi trường bị ô nhiễm làm cho tài nguyên biển đang bị cạn kiệt, sản lượng khai thác giảm, các loại hải sản có giá trị cao đã bị biến mất dần. Điều đó làm cho nguồn nguyên liệu thuỷ sản có nguy cơ bị thu hẹp nếu tình hình trên vẫn cứ tiếp diễn. Ngoài ra do đặc điểm sản xuất kinh doanh phụ thuộc rất lớn vào tính mùa vụ của nguyên liệu thuỷ sản trong khi đó nguyên liệu thuỷ sản khai thác ở Hà Tĩnh lại phân chia thành hai mùa rõ rệt. Mùa nguyên liệu nhiều vào tháng 4,5,6,7 và tháng 9,10,11, vào những tháng khác nguồn nguyên liệu khan hiếm không đủ để chế biến. Điều này gây khó khăn cho công tác chế biến. - Môi trường công nghệ - Kỹ thuật: Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật là cơ hội để cải tiến đổi mới máy móc thiết bị phục vụ sản xuất, các doanh nghiệp có điều kiện chuyển đổi từ sản xuất thủ công sang cơ giới hiện đại, tăng chất lượng sản phẩm đáp ứng tốt thị hiếu, nhu cầu thị trường. Đồng thời sự tiến bộ khoa học - kỹ thuật cũng đem lại nguy cơ cho ngành, đó là thiếu vốn đầu tư, tụt hậu công nghệ, không cạnh tranh nỗi với các đối thủ cạnh tranh của mình. 2. Môi trường vi mô - Nhà cung ứng: Bất cứ một đơn vị sản xuất kinh doanh nào cũng phát có mối quan hệ với các nhà cung ứng để phục vụ tốt cho đầu ra, cung cấp mua thiết bị, nguyên vật liệu... phục vụ sản xuất. Tạo mối quan hệ tốt với nhà cung ứng sẽ là một thuận lợi cho đầu vào của các doanh nghiệp chế biến xuất nhập khẩu, từ đó có cơ hội phục vụ tốt cho đầu ra. Hơn nữa, các nhà cung ứng sẽ sẵn sàng và dễ dàng trong quan hệ đó, tránh tình trạng cạnh tranh gay gắt giữa các công ty cùng ngành để giành độc quyền đối với nhà hàng cung ứng, tránh bị các nhà hàng cung cấp liên kết với nhau tạo áp lực giá đối với doanh nghiệp. Hiện nay các nhà cung ứng vật liệu cho các doanh nghiệp chủ yếu là các hộ dân, hợp tác xã đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản trong tỉnh và các tỉnh lân cận. - Đối thủ cạnh tranh: Hiện nay, trong khi nền kinh tế thị trường đã phát triển mạnh mẽ, sự tiến bộ của khoa học công nghệ ngày càng tăng thì sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Để tồn tại và phát triển đòi hỏi các doanh nghiệp thuộc ngành phải ý thức được sự đe doạ của đối thủ cạnh tranh và đưa ra những chiến lược thích hợp nhằm tránh được những rủi ro trong kinh doanh. Để chiến thắng trong cạnh tranh, các doanh nghiệp cần phải tìm hiểu sản phẩm, dịch vụ của mình có bị cạnh tranh quyết liệt hay không? Vị trí thị trường hiện nay là gì: Dẫn đầu, cách thức bám sát thị trường hay ẩn trú trong ngách thị trường? So với sản phẩm dịch vụ có tính cạnh tranh cao nhất có đáng ngại lắm không? Doanh nghiệp có lợi thế gì về cạnh trang hiện nay. Các đối thủ canh của doanh nghiệp là các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài như Trung Quốc, Thái Lan, In donexia... các doanh nghiệp cần phải nâng cao chất lượng sản phẩm và đa dạng hoá các mặt hàng cũng như tìm kiếm thị trường mới, khách hàng mới để sản phẩm của doanh nghiệp được tiêu thụ rộng rãi hơn và tốt hơn về giá cả cũng như số lượng tạo điều kiện cho việc thu mua nguyên vật liệu đầu vào được dễ dàng hơn về mặt giá cả. - Khách hàng: Là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó càng quan trọng hơn trong công tác tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy mục đích của các doanh nghiệp là biến người tiêu dùng thành khách hàng. Hiện nay khách hàng của các doanh nghiệp chủ yếu là các thương nhân nước ngoài cùng với một số khách hàng trong nước. Cụ thể là các thương nhân Nhật Bản, Đài Loan, Singapo, Mỹ, Trung Quốc và các khách hàng nội địa. - Các cơ quan công quyền và nhóm xã hội ảnh hưởng: Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động giao tiếp, quan hệ với các cấp chính quyền hay cơ quan quản lý chuyên ngành cần phải được chú ý nhằm tạo mối quan hệ tốt có lợi cho doanh nghiệp khi cần đến sự giúp đỡ của họ. Hiện nay các cơ quan công quyền và nhóm xã hội ảnh hưởng đến các doanh nghiệp đó là: Dư luận xã hội, các tổ chức công đoàn, hiệp hội về người tiêu dùng, các tổ chức y tế, báo chí, hoạt động của các doanh nghiệp sẽ gặp thuận lợi nếu được các tổ chức này ủng hộ và ngược lại. - Hoàn cảnh nội bộ của ngành: Gồm các yếu tổ và điều kiện bên trong của ngành, bao gồm nhân lực, nguồn lực, máy móc thiết bị, trình độ quản lý, khả năng tài chính. Nó luôn thể hiện điểm mạnh, điểm yếu của ngành. Nói chung về nhân lực của ngành hiện nay thì tương đối dồi dào, còn như nguồn lực, thiết bị công nghệ, nguồn vốn còn nhiều hạn chế. III. Thực trạng phát triển kinh tế thuỷ sản Hà Tĩnh 1. Tình hình phát triển kinh tế thuỷ sản trong 5 năm (1996-2000) Trong những năm qua nghề cá Hà Tĩnh có những bước phát triển đáng kể cả về sản lượng, giá trị, cũng như năng lực sản xuất trên mọi lĩnh vực như khai thác nuôi trồng, chế biến,... trong lĩnh vực đánh bắt hải sản ngư dân vùng biển đã dần dần ý thức được việc đầu tư. Đóng mới và cải hoán tàu thuyền có công suất lớn hơn, áp dụng các nghề tiên tiến, hiện đại để đánh bắt các loại hải sản có giá trị kinh tế cao và hải sản xuất khẩu ở các vùng biển khơi, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập. Giảm dần các tàu đánh bắt ven bờ với các nghề mang tính huỷ diệt. Phong trào nuôi trồng thuỷ sản trong những năm 1999, 2000 phát triển rộng rãi trong toàn tỉnh, đặc biệt là nuôi trồng thuỷ sản nước lợ. Nhiều hộ dân đã mạnh dạn bỏ vốn xây dựng và cải tạo ao đầm nuôi tôm xuất khẩu. Vừa qua đã thu được những kết quả khá, qua đó kích thích phong trào nuôi trồng thuỷ sản trong nông dân nhằm xoá đói giảm nghèo, tiến tới làm giàu bằng nghề nuôi trồng thuỷ sản trong những năm tới. Về chế biến thuỷ sản, giá trị hàng chế biến thuỷ sản xuất khẩu và chế biến nội địa không ngừng được tăng lên, trong đó hàng xuất khẩu tiểu ngạch phát triển mạnh (chủ yếu thông qua hộ dân chế biến) Bảng 4: Cơ cấu giá trị XNK thuỷ sản của Hà Tĩnh năm 2000 Hạnh mục Giá trị (Triệu USD) Tỷ trọng (%) 1- Xuất khẩu tiểu ngạch 4,2 42 2- Xuất khẩu qua chế biến 5,8 58 - Công ty XNK Đò Điệm 2,7 27 - Công ty XNK Nam Hà Tĩnh 3,1 31 Nguồn: Sở Thuỷ sản Hà Tĩnh Có giá trị đạt 42% tổng giá trị hàng xuất khẩu vào năm 2000. Xuất khẩu qua chế biến đông lạnh chiểm tỷ trọng 58% trong tổng giá trị xuất khẩu. Công tác hậu cần dịch vụ cũng từng bước phát triển song chưa đáp ứng đầy đủ, kịp thời và chưa thực sự tạo nên động lực cho nghề cá đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Tại các cửa biển chính trong tỉnh đã hình thành nên những vùng tập trung về khai thác, thu mua chế biến và dịch vụ hậu cần, tạo nên những vùng trung tâm về khai thác, thu mua chế biến và dịch vụ hậu cần, tạo nên những Trung tâm thương mại phục vụ nghề cá và nhân dân vùng biển. Bảng 5: Sản lượng thuỷ sản và tốc độ tăng, giảm giai đoạn 1996 - 2000 Năm Sản lượng (tấn) Tốc độ tăng, giảm (%) 1996 18.135 -7,2 1997 17.014 -6 1998 16.826 -1 1999 19.315 14 2000 24.044 24 Nguồn: Sở Thuỷ sản Hà Tĩnh Nhìn vào bảng 5 ta thấy trong giai đoạn 1996 - 2000 sản lượng thuỷ sản có nhiều biến động, tốc độ tăng, giảm không ổn định do thời tiết thất thường và cuộc khủng hoảng tài chính khu vực vào năm 1997. Từ hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành trong 5 năm 1996 -2000 cho phép chúng ta đánh giá tóm tắc các mặt hoạt động chủ yếu như sau: 1.1. Về khai thác hải sản Bảng 6: Sản lượng khai thác hải sản trong giai đoạn 1996 - 2000 Năm Sản lượng (tấn) Tốc độ tăng, giảm (%) 1996 15.132 8,2 1997 14.463 -4 1998 13.990 -3 1999 16.113 15 2000 20.038 24 Nguồn: Sở Thuỷ sản Hà Tĩnh Trong các năm 1996 - 2000 mặc dầu thời tiết diễn biến khá phức tạp, tuy vậy hàng năm sản lượng khai thác hải sản đều đạt kế hoạch đề ra. Nhìn vào bảng trên ta thấy sản lượng khai thác các năm 1997, 1998 giảm, tốc độ giảm lần lượt là -4% và -3% do điều kiện thời tiết thất thường vì ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực đã tác động xấu đến lĩnh vực khai thác hải sản. Sang các năm 1999, 2000 sản lượng đã tăng nhanh, tốc độ tăng là 15% vào năm 1999 và 24% vào năm 2000. Vào năm 2000 sản lượng khai thác đạt 20.038 tấn. Trong đó: - Mực: 3000 tấn - Tôm: 750 tấn - Cá và các SP khác: 16.288 tấn Bảng 7a: Phương tiện khai thác hải sản chủ yếu Hạng mục ĐV 1997 1998 1999 2000 Tàu đánh cá Cái/CV - Kinh tế Nhà nước 3436/46486 3672/52460 3452/53605 2809/48000 + TW quản lý + Địa phương quản lý - Kinh tế tập thể 25/3690 36/5328 59/13167 - Kinh tế tư nhân 2/300 2/300 3/1200 2/310 - Kinh tế cá thể 3434/46186 3645/48470 3408/47077 2748/34523 - Kinh tế hỗn hợp - Kinh tế có VĐT nước ngoài Thuyền đánh cá không có động cơ Cái 2241 1784 1081 1412 - Kinh tế nhà nước + TW quản lý + Địa phương quản lý - Kinh tế tập thể - Kinh tế tư nhân - Kinh tế cá thể 2241 1784 1081 1412 - Kinh tế hỗn hợp - Kinh tế có VĐT nước ngoài Nguồn: Niên giám thống kê Tỉnh Hà Tĩnh Bảng 7b: Công suất bình quân của tàu đánh cá Năm Công suất bình quân/chiếc (CV/C) 1997 1998 1999 2000 13,5 14,3 15,5 17,1 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hà Tĩnh Nhìn vào bảng 7a và bảng 7b ta thấy năng lực tàu thuyền và trình độ đắnh bắt của ngư dân được nâng lên đáng kể. Số lượng tàu thuyền thủ công tính hết năm 2000 còn 1.412 cái, giảm 36% so với năm 1997. Ngư dân đã sử dụng thuyền to máy lớn để sản xuất, số lượng tàu giảm nhưng công suất lại tăng lên. Tuy vậy, các thành phần kinh tế hỗn hợp, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chưa tham gia vào quá trình khai thác. Các đội tàu lớn chủ yếu thuộc thành phần kinh tế Nhà nước, số còn lại phần lớn thuộc kinh tế cá thể. Còn đội thuyền đánh cá không có động cơ giảm mạnh về số lượng và chỉ thuộc kinh tế cá thể. Nhiều nghề đánh bắt lạc hậu năng suất thấp và nghề mang tính huỷ diệt đã được loại bỏ hoặc cải tiến (chẳng hạn lưới xăm 10 được cải tiến thành vây lộng). Ngư dân mạnh dạn đầu tư thêm nhiều nghề mới, nhiều nghề thích hợp trên 1 đơn vị tàu thuyền như: Câu, bóng, rê, chụp mực... để khai thác các loại hải sản xuất khẩu. Nhờ vậy cuộc sống của ngư dân nhìn chung được đảm bảo, một bộ phận khá dần lên. 1.2. Về nuôi trồng thuỷ sản Nuôi trồng thuỷ sản đã có bước phát triển đáng kể cả về chiều rộng và chiều sâu. Sản lượng nuôi trồng tăng nhanh trong các năm 1998 đến năm 2000, đặc biệt là năm 2000 sản lượng đạt 4006 tấn, tăng 25%. Bảng 8: Sản lượng NTTS của Hà tĩnh trong giai đoạn 1996-2000 Năm Sản lượng (tấn) Tốc độ tăng, giảm (%) 1996 2603 - 1997 2551 -2 1998 2836 11 1999 3202 13 2000 4006 25 Nguồn: Sở Thuỷ sản Hà Tĩnh Diện tích nuôi nước lợ đạt 1.280 ha tăng 15% so với năm 1996. Diện tích nuôi nước ngọt 2.000ha - Nhờ sự trợ giúp về kỹ thuật của Trung tâm khuyến ngư, cùng với sự học hỏi kinh nghiệm của các hộ nuôi nên trình độ tay nghề của nông -ngư dân được nâng lên rõ rệt, đặc biệt là khả năng nuôi tôm sú, nuôi cua xuất khẩu. Năm 2000 năng suất nuôi tôm sú quảng canh cải tiến đạt 200- 250kg/ha/vụ (đạt năng suất nuôi bình quân cả nước). Nuôi bán thâm canh 700-800kg/ha/vụ (tuy mới chỉ nuôi 25ha). Đây là thành công bước đầu của nghề nuôi tôm Sú theo kiểu bán thâm canh ở Hà Tĩnh tạo mô hình nhân rộng ra toàn tỉnh. Năng suất nuôi cua đạt 200-300 kg/ha/vụ. Như vậy cơ cấu con nuôi trong những năm qua có sự thay đổi tích cực theo hướng sản xuất hàng hoá, tạo nguồn nguyên liệu cho xuất khẩu. Chương trình 773 đến nay đã xây dựng được 680ha ao đầm nuôi, giải quyết việc làm và thu nhập ổn định cho gần 1500 lao động. Phong trào nuôi nước ngọt phát triển đều trong 10 huyện thi, đặc biệt Hương Sơn, Hương Khê, Can Lộc, Đức Thọ. Các sơ sở sản xuất cá giống năm 2000 đã sản xuất khoảng 20 triệu con tăng gấp đôi so với năm 1996, đáp ứng trên 50% nhu cầu cá giống của nhân dân trong tỉnh. 1.3. Về chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Bảng 9: Sản lượng CB và giá trị XK thuỷ sản giai đoạn 1996 - 2000 Năm Sản lượng (tấn) Tốc độ tăng, giảm (%) Giá trị (tr.USD) Tốc độ tăng, giảm (%) 1996 1012 - 5,7 1997 952 -5,9 5,1 -10,5 1998 1235 29 6,85 34,3 1999 1652 33 8,7 27 2000 1883 13 10 14,9 Nguồn: Sở Thuỷ sản Hà Tĩnh Chế biến xuất khẩu thuỷ sản có bước phát triển khá cả về số lượng và giá trị. Tính đến năm 2000 đạt 1.883 tấn tăng 86% so với năm 1996 và gấp 7 lần so với năm 1991. Về giá trị hàng thuỷ sản chế biến xuất khẩu năm 1999 đạt 8,7 triệu USD, tăng 27% so với năm 1998, năm 2000 đạt 10 triệu USD, tăng 14,9% so với năm 1999. Tuy năm 1997 sản lượng và giá trị hàng thuỷ sản chế biến xuất khẩu có giảm, giá trị xuất khẩu giảm 10,5% so với năm 1996. Nhưng sang năm 1998 giá trị xuất khẩu đã tăng nhanh 34,3% so với năm 1997. Tốc độ tăng trưởng bình quân về giá trị hàng thuỷ sản xuất khẩu khoảng 15%/năm. Trong đó, khu vực quốc doanh từ năm 1996 lại nay vẫn tăng trưởng khá và khẳng định được vai trò nòng cốt trong sản xuất kinh doanh hàng chế biến thuỷ sản xuất khẩu của tỉnh nhà. Năm 2000 công suất của các nhà máy tiếp tục được tăng lên từ 11 tấn/ngày lên 16 tấn/ ngày, giá trị sản phẩm xuất khẩu của 2 công ty xuất khẩu Đò Điệm và Công ty xuất khẩu Nam Hà Tĩnh đạt 5,8 triệu USD chiếm 58% giá trị xuất khẩu toàn ngành. Các cơ sở chế biến xuất khẩu ngoài quốc doanh phát triển nhanh, đặc biệt là trong 3 năm 1998 - 2000, các sản phẩm chủ yếu là: tôm, cua, cá tươi sống, mực khô, ngao. Giá trị xuất khẩu ngoài quốc doanh phát triển nhanh, năm 1999 là 3,05 triệu USD, năm 2000 đạt 4,2 triệu USD chiếm 42% giá trị xuất khẩu toàn ngành và tăng gấp hơn 2 lần so năm 1996 (khả năng trong những năm sắp tới, xuất khẩu ngoài quốc doanh tiếp tục tăng mạnh) Chế biến nội địa truyền thống được khôi phục và phát triển, nhân dân các vùng ven biển đã biết sử dụng hợp lý nguồn nguyên liệu từ đánh bắt hải sản đưa vào chế biến nước mắm, ruốc, cá khô. Năm 2000 sản lượng nước mắm đạt 3.500.000 lít, tăng 59% so năm 1996 và gấp 2-3 lần so năm 1991. Trong vào năm gần đây nhiều địa phương đã tổ chức chế biến và tiêu thụ tốt, bước đầu hình thành các vùng chế biến nội địa tập trung ở xã Kỳ Ninh - Kỳ Anh; Cẩm Nhượng - Cẩm Xuyên; Cương Gián - Nghi Xuân; Thạch Kim - Thạch Hà. Bình quân mỗi xã chế biến từ 300.000 - 500.000 lít nước mắm; 100 - 150 tấn sản phẩm khô và hàng trăm tấn mắm tôm. 1.4. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của ngành Bảng 10: Cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của ngành giai đoạn 1996 - 2000 Hạng mục Số vốn đầu tư (Tỷ đồng) Số vốn đã đưa vào sử dụng 1- Chương trình 773 12 12 2- Cảng cá Xuân Phổ 16,8 13,3 3- Cảng cá Kỳ Hà 16 0,3 4- Nâng cấp trại giống 11,8 11,8 5- Chương trình đánh bắt xa bờ 60,92 60,92 6- Nâng cấp cơ sở chế biến 3 3 Nguồn: Sở Thuỷ sản Hà Tĩnh Cơ sở vật chất của ngành có bước tăng trưởng khá. 5 năm qua thực hiện chương trình 773 của Nhà nước ngành đã xây dựng được 750 ha ao đầm nuôi tôm, cua với tổng số vốn gần 12 tỷ đồng và đã đưa vào sử dụng. - Cảng cá Xuân Phổ được Nhà nước đầu tư 16,8 tỷ đồng đến hết năm 2000 đã thực hiện 13,3 tỷ đồng, hiện nay đang gấp rút chuẩn bị bàn giao công trình để trong quý II năm 2001 đưa vào sử dụng. - Cảng cá Kỳ Hà được sự giúp đỡ của Bộ Thuỷ sản, UBND tĩnh đã phê duyệt dự án khả thi với tổng số vốn đầu tư được duyệt 16 tỷ đồng. Năm 1999 đã được Bộ Thuỷ sản cấp 300 triệu đồng vốn chuẩn bị đầu tư để hoàn thành thiết kế, dự toán. Đến nay đang chờ nguồn phân bổ đầu tư - Công ty Giống thuỷ sản được UBND tỉnh ra quyết định đầu tư nâng cấp các trại giống cá 500 triệu đồng. Năm 1999 đã tiến hành nâng cấp trại cá giống Đức Long, Tiến Lộc, Kỳ Văn. Năm 2000 được đầu tư nâng cấp 680 triệu đồng bằng nguồn vốn dự án IPAX nhằm nâng cao năng suất và chất lượng con giống phục vụ cho các cơ sở nuôi trồng trong toàn tỉnh. - Chương trình đánh cá xa bờ 3 năm 1997 - 1999 được Chính phủ đầu tư 60.920 tỷ đồng để đóng mới 63 tàu với tổng công suất 14.170CV/62.429CV tổng công suất tàu thuyền toàn ngành. Trong đó có 28 tàu công suất 300CV/C làm nghề lưới kéo đôi và 35 tàu có công suất 105-165CV/ chiếc làm nghề vây, rê, câu khơi... Thực hiện quyết định số 1412/1999/UB-NL2 ngày 21/4/1999 của tỉnh, ngành Thuỷ sản đã phối hợp với các ngành liên quan của tỉnh và của huyện đang từng bước triển khai chương trình chuyển đổi nghề đánh bắt hải sản vùng lộng. Đến nay, có 7 dự án đã được đưa vào sản xuất. Năm 2000 UBND tỉnh phê duyệt 14 dự án hiện nay đang triển khai đóng tàu. - Hai công ty thuỷ sản xuất khẩu của ngành đã đầu tư trên 3 tỷ đồng nâng cấp, cải tạo nhà xưởng. Các cơ sở ngoài quốc doanh cũng đầu tư hàng tỷ đồng bằng nguồn vốn tự có và vay ngân hàng xây dựng các cơ sở hậu cần dịch vụ nhỏ như xưởng nước đá, ô bể nước mắm, các cơ sở chế biến xuất khẩu, sửa chữa tàu thuyền. - Chương trình xây dựng khu nuôi tôm công nghiệp 578ha tại 2 xã Kỳ Phương, Kỳ Nam huyện Kỳ Anh đã được Bộ Thuỷ sản ra quyết định phê duyệt đề cường, khảo sát lập báo cáo nghiên cứu khả thi với diện tích khảo sát bước 1 là 85 tại Kỳ Nam. Đến nay, đang tiến hành thẩm định khảo sát thiết kế và dự toán, dự kiến trong quý II/2001 khởi công xây dựng. Chính cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành được nâng lên bằng các nguồn đầu tư là một trong những yếu tố quan trọng góp phần vào việc thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu kế hoạch 5 năm 1996 - 2000. * Những tồn tại chủ yếu - Trong khai thác hải sản: Năm 1999 số lượng thuyền đánh cá gần bờ giảm 384 chiếc so năm 1996, năm 2000 giảm 212 chiếc so năm 1999. Song mật độ tàu nhỏ khai thác ven bờ vẫn còn rất cao (3378 chiếc/137km chiều dài bờ biển, kể cả thuyền thủ công). Tài nguyên vùng lộng bị suy giảm nghiêm trọng. Nguyên nhân chính là do mật độ tàu thuyền dày đặc cộng với hình thức khai thác bừa bãi bằng nhiều loại nghề lạc hậu mang tính chất huỷ diệt. Trong khi đó ở độ sâu 40-50m nước chúng ta chưa có phương tiện và trang thiết bị để tập trung khai thác. Quyết định số 653 của UBND tỉnh đã mở đường cho ngư dân Hà Tĩnh chuyển đổi cơ cấu tàu thuyền và nghề đánh bắt hải sản vùng lộng để mở rộng ngư trường ra khai thác vùng khơi nhằm nâng cao đời sống cho ngư dân cũng là cách tốt nhất để bảo vệ và tái tạo nguồn lợi vùng lộng. Nhưng đến nay tốc độ chuyển đổi còn rất chậm do nhiều lý do khác nhau như: Năng lực tổ chức quản lý và trình độ sản xuất hàng hoá của ngư dân hết sức hạn chế cùng với việc huy động vốn tự có tham gia đầu tư không đảm bảo điều kiện để thực hiện những quy định của UBND tỉnh. Chương trình đánh bắt hải sản xa bờ tuy có bước phát triển khá nhanh, song vẫn còn một số tồn tại, hạn chế cần được tập trung giải quyết để đưa đội tàu vào hoạt động có hiệu quả như: Công tác tổ chức sản xuất, quản lý và hạch toán ... Hầu hết các tàu thiếu vốn lưu động phục vụ sản xuất nên hiệu quả đánh bắt còn hạn chế, ý thức trả nợ của các chủ đầu tư chưa tốt; nhiều dự án đã sản xuất kinh doanh đủ khấu hao và trả nợ song vẫn dựa dẫm và ỷ lại Nhà nước nên đến nay việc trả nợ cả gốc và lãi còn rất thấp. + Cơ sở hậu cần và dịch vụ đã có hiện nay chủ yếu là phục vụ tàu thuyền nhỏ ven bờ, chưa đáp ứng yêu cầu dịch vụ cho đội tàu xa bờ đã tác động xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh của đội tàu. - Nuôi trồng thuỷ sản: Do dân quá nghèo và trình độ sản xuất hàng hoá còn thấp cộng với tư tưởng ỷ lại bao cấp còn hết sức nặng nề trong dân nên đến nay các hộ nuôi tôm cua vẫn chưa dám vay vốn xây dựng nội đầm để nuôi thâm canh và bán thâm canh (mặc dù các đầm nuôi đã được chương trình 773 của Nhà nước hỗ trợ đầu tư xây dựng đê bao, cống chính) nên các đầm nuôi chưa đưa lại hiệu quả mong muốn. Việc phối kết hợp giữa các doanh nghiệp Nhà nước và các hộ nuôi chưa làm được từ khâu xây dựng hệ thống ao nuôi, dịch vụ con giống, chăm sóc, thu hoạch, tiêu thụ ... cũng là một nguyên nhân làm cho chương trình nuôi nước lợ đạt hiệu quả thấp. Các địa phương chưa tiến hành việc giao đất lâu dài cho các hộ nuôi nên họ không yên tâm bỏ vốn đầu tư sản xuất. Các ngân hàng thương mại không tin tưởng vào ngư dân, không dám bỏ vốn cho dân vay sản xuất. Vì những lý do đó nên đến nay vẫn chưa tạo được vùng nuôi bán thâm canh hay quảng canh cải tiến hoàn chỉnh, chưa tạo được sản xuất hàng hoá tập trung phục vụ xuất khẩu. Hầu hết các đầm nuôi được xây dựng vừa qua mới giải quyết được việc làm cho dân ven sông, ven biển mà chưa tạo được vùng sản xuất hàng hoá xuất khẩu tập trung cho tỉnh. - Tuy công ty Giống nuôi trồng thuỷ sản và Trung tâm Giống đã cố gắng trong việc tổ chức sinh sản và việc cung ứng con giống cho các hộ nuôi nhưng đến nay vẫn chưa chủ động cung cấp đủ tôm giống, cá giống theo mùa vụ và giá cả chưa đảm bảo. - Chế biến và xuất khẩu thuỷ sản: Về chế biến xuất khẩu từ năm 1996 lại nay mặc dù các Công ty XNK Thuỷ sản đã rất cố gắng thay đổi trang thiết bị nâng cấp nhà máy để sản xuất các mặt hàng có chất lượng cao hơn (mực sasami, mực lột da) nhưng nhìn chung trang thiết bị kỹ thuật còn hạn chế, chưa đủ tiêu chuẩn sản xuất các mặt hàng xuất khẩu sang khối EU và các thị trường khác. Các sản phẩm chủ yếu là xuất khẩu uỷ thác qua các công ty lớn của Bộ Thuỷ sản ở Hà Nội, Đà Nẵng... nên hiệu quả sản xuất kinh doanh của các công ty chưa cao. Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có bước phát triển nhưng vẫn ở tình trạng sản xuất nhỏ, chưa đủ uy tín và trình độ để cạnh tranh lành mạnh trên thị trường trong nước và quốc tế. - Xây dựng cơ sở hậu cần và dịch vụ: Cơ sở hậu cần và dịch vụ trước đây chủ yếu là cung ứng cho đội tàu đánh bắt ven bờ. Vì vậy, đến nay khi đội tàu đánh bắt xa bờ ra đời thực sự có nhiều bất cập. ở Nghi Xuân đang tiến hành xây dựng cảng cá Xuân Phổ, còn ở Thạch Hà, Cẩm Xuyên và Kỳ Anh trung bình mỗi huyện có 1000 tàu các loại, trong đó Thạch Hà có 17 tàu, Cẩm Xuyên có 15 tàu và Kỳ Anh có 14 tàu xa bờ chưa có bến neo đậu cho đội tàu lớn. Các cửa lạch đều chưa có các cơ sở lớn đảm bảo công tác dịch vụ nước ngọt, xăng dầu, đá lạnh, cơ sở gia công sửa chữa lưới cụ cung ứng cho dân, sửa chữa cơ khí, tiêu thụ sản phẩm cho đội tàu. 2. Tình hình thực hiện kế hoạch năm 2002 2.1. Đánh giá chung Bảng 11: Tình hình thực hiện kế hoạch năm 2002 Hạng mục Năm 2001 Kế hoạch năm 2002 Thực hiện KH2002 % so với kế hoạch Tốc độ tăng, giảm 1- Tổng sản lượng 25.100(tấn) 26.400 26.250 97,2 4,6 - Sản lượng khai thác HS 21.000(tấn) 21.200 20.250 95,5 -3,6 - SL nuôi trồng TS 4.100(tấn) 5.200 6.000 103,5 46 2- SL chế biến 2.200(tấn) 2.600 2.600 100 18 3- Giá trị xuất khẩu 11trUSD 12-13 13 100 18 4- Diện tích nuôi trồng 3790 ha 5601 4173 93 10 5- Vốn đầu tư XDCB 36 tỷ đồng 102,25 31,5 -12,5 6- Giá trị GDP 145 tỷ đồng 163 165 100 13,8 Nguồn: Sở Thuỷ sản Hà Tĩnh Nhìn vào bảng ta thấy năm 2002, ngành thuỷ sản đã có bước phát triển đáng kể, cụ thể là: các lĩnh vực đều có tốc độ tăng khá cao so với năm 2001, chỉ trừ lĩnh vực đánh bắt hải sản do tình hình thời tiết diễn biến phức tạp và vốn đầu tư XDCB giảm 12,5%, Giá trị GDP năm 2002 là 165 tỷ đồng tăng 13,8% so với ._. hàng thuỷ sản xuất khẩu của tỉnh cần phù hợp tương đối với cơ cấu xuất khẩu thuỷ sản của cả nước và thế giới: Tăng hơn nữa tỷ trọng xuất khẩu đồ hộp, tăng tỷ trọng cá và tăng tỷ trọng thuỷ sản có giá trị gia tăng cao trong cơ cấu hàng thuỷ sản tươi, ướp đông, ướp lạnh và giảm tỷ trọng hàng thuỷ sản đông lạnh sơ chế, chuyển hướng cơ cấu sản phẩm có ý nghĩa rất lớn trong tăng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản vì khối lượng và giá xuất khẩu thuỷ sản tăng. Bên việc nâng tỷ trọng hàng chế biến sâu trong cơ cấu sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu, một khả năng nữa cho việc tăng xuất khẩu thuỷ sản từ sự thay đổi cơ cấu sản phẩm là tăng cường xuất khẩu các loại hàng hoá thuỷ sản cao cấp ở dạng sống, mà Trung Quốc và Hồng Kông đang nổi lên là một thị trường tiềm năng nhất. 3.4. Tăng giá thuỷ sản xuất khẩu trong điều kiện đảm bảo cạnh tranh Với xu hướng tăng giá quốc tế hàng thuỷ sản thời gian tới thì Việt Nam nói chung và Hà Tĩnh nói riêng có thể cải thiện giá xuất khẩu thuỷ sản từ mức thấp hiện nay và nâng mức giá trung bình xuất khẩu hàng thuỷ sản lên, tối thiểu bằng 75 - 85% mức giá xuất khẩu cùng loại sản phẩm của các nước trong khu vực nếu tăng cường chế biến sâu. Tuy nhiên, việc tăng giá trị sản phẩm ở đây phải đảm bảo hàng thuỷ sản có sức cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường quốc tế. 3.5. Đầu tư cho ngành thuỷ sản Vốn là yếu tố quan trọng quyết định đến sự phát triển kinh tế ngành, cần hết sức tranh thủ các nguồn vốn bằng việc xây dựng các dự án khả thi thông qua các chương trình đã được trung ương và tỉnh phê duyệt như: Chương trình chế biến thuỷ sản xuất khẩu; chương trình xoá đói - giảm nghèo - giải quyết việc làm, đặc biệt huy động nguồn vốn trong dân tham gia phát triển kinh tế thuỷ sản. Kêu gọi, tạo điều kiện chính sách thông thoáng để các tổ chức trong và ngoài nước đầu tư vào sản xuất trong tỉnh. Tăng cường xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ để ngư dân tiếp cận vay được vốn từ các tổ chức ngân hàng đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Kế hoạch xây dựng cơ bản đến năm 2005 cần nguồn vốn khoảng 126 tỷ đồng để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật nghề cá; trong đó khái thác hải sản 10,4 tỷ đồng; Nuôi trồng thuỷ sản 116 tỷ đồng; chế biến thuỷ sản 25,6 tỷ đồng và hậu cần dịch vụ 13 tỷ đồng. II. Các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng thuỷ sản của Hà Tĩnh trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế Qua phân tích thực trạng phát triển của ngành kinh tế thuỷ sản Hà Tĩnh trong những năm vừa qua. Trong giai đoạn mà sự hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ trong tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội; đã đặt nền kinh tế thuỷ sản Hà Tĩnh trước những cơ hội và thách thức mới. Trong bối cảnh đó cần phải đưa ra các giải pháp nhằm tạo đà thúc đẩy cho ngành kinh tế thuỷ sản phát triển, đẩy mạnh xuất khẩu, tiếp tục phát triển là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 1. Nhóm giải pháp khuyến khích phát triển nuôi trồng thuỷ sản 1.1. Giải pháp về sử dụng đất đai, mặt nước - Trên cơ sở quy hoạch định hướng nuôi trồng thuỷ sản đến 2010 cần xây dựng chương trình phát triển thuỷ sản xuất khẩu đến 2005 và kế hoạch cụ thể cho từng năm. Lập các dự án chi tiết đến từng xã, từng vùng nuôi tập trung để tiến hành đầu tư tạo thành các vùng nuôi thuỷ sản xuất khẩu xác định bước đi thích hợp cho các loại hình nuôi. Song phải đi nhanh và hiệu quả hơn vừa qua. - Tiến hành giao đất ổn định lâu dài để người nuôi tôm yên tâm bỏ vốn đầu tư, học tập nâng cao tay nghề để nuôi trồng có hiệu quả; giao hoặc cho thuê đất, mặt nước, vịnh, đầm phá, hồ chứa mặt nước lớn đã được quy hoạch cho các thành phần kinh tế sử dụng vào nuôi trồng thuỷ sản lâu dài và ổn định. Trước mắt cần tiến hành giao 1.500ha đã được xây dựng và đang nuôi ổn định lâu dài cho các hộ và các chủ trang trại hiện đang nhận thầu với UBND các xã trong thời gian ngắn để họ bỏ vốn đầu tư nuôi thâm canh. - Cần có quy hoạch và chính sách để chuyển đổi ruộng lúa năng suất thấp, ruộng nhiễm mặn, ruộng trũng, đất làm muối, đất ngập úng, hiệu quả sản xuất kém sang nuôi trồng thuỷ sản theo hướng ưu tiên nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu. - Từng bước tích tụ đất để sản xuất hàng hoá xuất khẩu, song phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa hộ trồng lúa với hộ nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu trên tinh thần đảm bảo quyền lợi cho các hộ đã được giao đất theo Nghị định 64 nhằm đảm bảo quyền lợi cho các hộ đã được giao đất; đảm bảo cả việc làm và thu nhập cho các hộ nông dân chuyển đất sang nuôi tôm. 1.2. Giải pháp về góp vốn - Cần khuyến khích các thành phân kinh tế đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo luật khuyến khích đầu tư trong nước(sửa đổi) và các quy định hiện hành. - Nhà nước cần có các chính sách cho nông, ngư dân nghèo có khả năng lao động và có đất nuôi trồng thuỷ sản được vay vốn không phải thế chấp tài sản. - Nông, ngư dân vùng sâu, vùng xa, hải đảo vay vốn phát triển nuôi trồng thuỷ sản được hưởng các quy chế ưu đãi theo quy định hiện hành. - Vốn ngân sách Nhà nước trước hết tập trung đầu tư thuỷ lợi cho nuôi trồng thuỷ sản. Phải gắn quy hoạch vùng nuôi với các quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng cho vùng nuôi như: Giao thông, điện ... nhằm tạo ra một số vùng nuôi tập trung có khối lượng hàng hoá xuất khẩu lớn vừa gắn đầu tư trước mắt để nuôi quảng canh cải tiến lên bán thâm canh ở những vùng có điều kiện để cho nghề nuôi trồng phát triển một cách bền vững, hiệu quả ngày càng tăng. - Ngoài ra còn phải đầu tư xây dựng và hoàn thiện các trung tâm giống quốc gia, cải tạo nâng cấp các trại giống cấp I; đầu tư cho nghiên cứu khoa học: Nhập các giống nuôi mới, công nghệ mới; xây dựng các trạm quan trắc, dự báo môi trường, kiểm định; đào tạo nguồn nhân lực; xây dựng các khu bảo tồn thiên nhiên. - Ngoài vốn Nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng tạo vùng nuôi tập trung, cần có chính sách thông thoáng để kêu gọi vốn đầu tư của các nhà kinh doanh, vốn vay ngân hàng, đặc biệt là vốn huy động trong dân cư để xây dựng nội đầm phát triển nhanh các vùng nuôi thâm canh và mở rộng diện tích nuôi trồng thuỷ xuất khẩu. - Bên cạnh đó vốn tín dụng trung hạn, dài hạn đầu tư cho cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới cơ sở sản xuất thức ăn, sản xuất bột cá, cơ sở sản xuất giống cấp I, II và cải tạo ao, đầm nuôi của các thành phần kinh tế. - Vốn tín dụng ngắn hạn đầu tư cho sản xuất kinh doanh giống, thức ăn, thuốc chữa bệnh cho tôm, cá và các vật tư chuyên dùng phục vụ cho nuôi trồng thuỷ sản. - Vốn đầu tư nước ngoài thông qua các dự án được đầu tư vào việc trợ giúp kỹ thuật, tư vấn, đào tạo, nhập các công nghệ mới, chuyển giao công nghệ và khuyến ngư. Nói tóm lại: Tuỳ theo hình thức và tính chất của từng nguồn vốn, chúng ta phải tổ chức phân bổ nguồn vốn vào các lĩnh vực một cách phù hợp và có hiệu quả, thì khi đó các nguồn vốn mới phát huy hết tác dụng của mình. 1.3. Giải pháp về thuế - Thực hiện chính sách ưu đãi thuế suất cho các tổ chức cá nhân thuộc các thành phần kinh tế tham gia thực hiện chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo quy định của luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) và các quy định hiện hành. - Nuôi trồng thuỷ sản trên đất, mặt nước thuộc đất nông nghiệp thực hiện chính sách thuế theo luật thuế sử dụng đất nông nghiệp hiện hành. - Miễn thuế vận chuyển giống nuôi trồng thuỷ sản đến các vùng sâu, vùng xa, hải đảo. - Phần vượt kế hoạch nộp thuế xuất nhập khẩu được để lại cho địa phương, doanh nghiệp. 1.4. Giải pháp về nguyên liệu phục vụ cho chế biến xuất khẩu - Đầu ra cho các loại nguyên liệu thuỷ sản là một vấn đề quan tâm của ngư dân, vì nó liên quan đến giá cả và thu nhập của họ sau mỗi vụ thu hoạch. Hiện nay nguyên liệu thuỷ sản phân bổ không đều trong các mùa; có những tháng nguyên liệu dồi dào, có những tháng lại khan hiếm. Vì vậy, cần có các chính sách quy hoạch các vùng nguyên liệu sao cho phân bổ đều giữa các tháng để không gây sốc giá và ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu. - Cần có chính sách quy định giá trần, sản phẩm của hàng thuỷ sản và trợ giá những lúc cần thiết để tránh thiệt thòi cho ngư dân, cũng như các doanh nghiệp chế biến. - Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đường giao thông nối liên với các vùng nguyên liệu, để dễ dàng trong công tác thu mua và vận chuyển. - Hướng dẫn tổ chức các mô hình quản lý cộng đồng ở các vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung theo các hình thức hiệp hội, HTX như là các bà đỡ giúp các hộ gia đình cung ứng đầu vào và dịch vụ đầu ra. - Tổ chức các hình thức doanh nghiệp chế biến đầu tư một phần vốn, giống và kỹ thuật cho các hộ ngư dân, các hộ ngư dân có nghĩa vụ sản xuất, thu hoạch và bán lại cho doanh nghiệp theo các thoả thuận trước, khi đó sẽ tránh được các chi phí trung gian. - Có chính sách quản lý hình thức xuất khẩu tiểu ngạch sang Trung Quốc và các đại lý ngoài tỉnh để tránh tình trạng bị ép giá. 1.5. Giải pháp về công tác khuyến ngư - Nâng cao năng lực hoạt động khuyến ngư Củng cố tổ chức khuyến ngư tỉnh, hình thành các phòng ban tuyển dụng, bố trí sắp xếp cán bộ phù hợp với năng lực công tác. Triển khai xây dựng và đưa vào sử dụng trại thực nghiệm nuôi và sản xuất giống thuỷ sản Bổ sung phòng làm việc, các thiết bị thiết yếu phục vụ công tác ở văn phòng, dụng cụ phục vụ hoạt động chuyên môn. Đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ quản lý Nhà nước cho cán bộ khuyến ngư tỉnh bằng việc tập guấn, tham quan học tập. Đào tạo xây dựng mạng lưới khuyến ngư viên cơ sở, ở huyện có từ 1 - 2 người, mỗi xã trọng điểm có nghề cá phát triển 1 người. + Có chính sách hỗ trợ cho các cán bộ đi cơ sở; cán bộ khuyến ngư cơ sở + Chính sách khuyến khích các tổ chức đoàn thể, cơ quan nghiên cứu tham gia hoạt động khuyến ngư. - Đẩy mạnh và nâng cao các hoạt động tập huấn và xây dựng mô hình Căn cứ vào phạm vi, điều kiện, năng lực sản xuất của từng địa phương để lựa chọn hình thức, nội dung tập huấn phù hợp từng bước bồi dưỡng nâng dần công nghệ kỷ thuật cho ngư dân; đồng thời tập huấn, truyền đạt những quy trình kỹ thuật đối với những giống mới. Xây dựng các mô hình dựa trên cơ sở các điều kiện về ao đầm, tài chính, trình độ kỹ thuật của chủ mô hình để phát huy hiệu quả lâu dài, đồng thời tiến hành thử nghiệm các mô hình mới. - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền khuyến ngư trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tăng cường phối hợp chặt chẽ với các tổ chức kinh tế - xã hội, tổ chức nghề nghiệp, tổ chức thanh niên, tăng cường hợp tác với các tổ chức, dự án quốc tế để tranh thủ việc hỗ trợ về đào tạo cán bộ, tài chính đẩy mạnh công tác khuyến ngư. - Đẩy mạnh hoạt động dịch vụ kể cả phạm vi, đối tượng và chất lượng dịch vụ trong đó đặt mục tiêu phục vụ lên hàng đầu, gắn hoạt động dịch vụ với việc hướng dẫn, tư vấn kỹ thuật, các thông tin kinh tế, thị trường. Thành lập các cơ sở cấp 2 tại các địa phương có nghề cá phát triển. 1.6. Giải pháp về bảo hiểm cho người sản xuất kinh doanh - Cần tác động đến tâm lý của người sản xuất kinh doanh, giúp họ tự tin phát triển sản xuất và tránh được một phần rủi ro. Từ đó sẽ tạo ra các tác lực tích cực khuyến khích mọi người tham gia vào sản xuất, nuôi trồng. Vì vậy, cần phải đưa chính sách bảo hiểm vào lĩnh vực nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản. - Cần phải giao trách nhiệm cho các cơ quan bảo hiểm tham gia công tác bảo hiểm cho người nuôi tôm. - UBND huyện, thị xã hướng dẫn, vận động người nuôi tôm thành lập các tổ chức hiệp hội, tự nguyện đóng góp cổ phần để giúp đỡ nhau làm dịch vụ, kỹ thuật sản xuất quản lý, bảo vệ, tiêu thụ sản phẩm và hỗ trợ nhau khi rủi ro. - Có chính sách khuyến khích, tuyên truyền sâu rộng cho bà con ngư dân thấy được ý nghĩa, tác dụng của bảo hiểm, để từ đó khuyến khích họ tham gia các dịch vụ bảo hiểm. 1.7. Giải pháp về hỗ trợ đầu tư đánh bắt xa bờ Trong những năm vừa qua lĩnh vực khai thác hải sản đã có bước phát triển đáng kể cả về chiều rộng, lẫn chiều sâu. Tuy vậy, cũng vẫn còn rất nhiều những khó khăn, tồn tại. Vì vậy, cần phải có các giải pháp mới để khắc phục những khó khăn đó. - Cần có chính sách thích hợp giải quyết vấn đề khó khăn về vốn lưu động cho các đội tàu đánh bắt xa bờ, để họ mua sắm ngư lưới cụ chính để sản xuất. Nâng cao năng lực sản xuất và quản lý kỹ thuật của cán bộ, thuyền viên để nâng cao năng suất, sản lượng khai thác hải sản. - Cần có các hình thức huy động vốn và tín dụng để đầu tư thay thế, trang bị cho các đội tàu, đặc biệt là hình thức huy động vốn trong dân. - Nâng cao công tác quản lý Nhà nước về các đội tàu, tuyên truyền, giáo dục ngư dân chấp hành nghiêm túc luật HTX các quy định của Nhà nước. - Đầu tư xây dựng và hoàn thiện các cảng cá, xây dựng cơ sở hậu cần dịch vụ cho các đội tàu đánh bắt, đặc biệt cung ứng cho đội tàu đánh bắt xa bờ, bởi vì từ trước đến nay cơ sở hậu cần dịch vụ chủ yếu cung cấp cho các đội tàu đánh bắt ven bờ. - Đầu tư đóng mới các đội tàu có công suất lớn; phối hợp với các ngành liên quan của tỉnh, huyện từng bước triển khai chương trình chuyển đổi ngành đánh bắt hải sản vùng lộng. - Xây dựng các dự án đầu tư và tổ chức thực hiện chương trình chuyển đổi nghề khai thác ven biển. 2. Nhóm giải pháp thúc đẩy chế biến xuất khẩu 2.1. Giải pháp đẩy mạnh công tác thu mua nguyên liệu Cần phải đẩy mạnh công tác thu mua nguyên liệu. Muốn thu hút được nhiều nguyên liệu để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cần phải tăng cường hơn nữa công tác thu mua nguyên liệu. - Quy hoạch phát triển sản xuất nguyên liệu theo nhóm sản phẩm chủ yếu, gắn chặt chẽ chế biến với thị trường tiêu tụ. - Trong tương lai nếu phải nhập khẩu nguyên liệu cần phải xây dựng các chính sách mới. + Nên miễn lâu dài thuế nhập nguyên liệu, phụ liệu thuỷ sản phục vụ cho sản xuất. + Trợ giá cho các hoạt động nhập nguyên liệu và các sản phẩm thuỷ sản thay thế để đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng cho nhân dân. + Miễn thuế xuất khẩu đối với hàng thuỷ sản được sản xuất bằng nguyên liệu nhập ngoại. + Khuyến khích mọi hình thức hợp tác với nước ngoài trong việc đưa nguyên liệu thuỷ sản vào Việt Nam để chế biên hay gia công tái xuất khẩu. - Chống thất thoát sau thu hoạch và quản lý thị trường nguyên liệu: + Hình thành hệ thống chợ cá nằm trong quy hoạch chung hoặc nằm ngay sát khu cảng cá, đủ điều kiện phân loại bảo quản, bán đấu giá, trao đổi nguyên liệu thuỷ sản. + Khuyến khích các hình thức liên kết, liên doanh, phối hợp chặt chẽ giữa sản xuất nguyên liệu và chế biến xuất khẩu, tận dụng tối đa nguồn nguyên liệu, giảm thất thoát sau thu hoạch. + Nhà nước cần tiến hành quản lý chặt chẽ việc cấp giấy phép hành nghề cho hệ thống thương nhân chuyên thu mua nguyên liệu thuỷ sản nhằm phát huy vai trò tích cực, hạn chế sự tiêu cực của hệ thống này. - Về phía các doanh nghiệp chế biến, để thu mua được nhiều nguyên liệu cần phải làm tốt các vấn đề sau; + Phương pháp thu mua: Phải cử cán bộ tới trực tiếp các hộ ngư dân, các hộ đầm đìa cùng với đội tàu, phải có mặt ở các cửa khẩu, bến cá làm sao tất cả nguyên liệu đều thu gom được. + Chính sách giá cả: Phải xây dựng đúng đắn chính sách giá cả trên cơ sở các thông tin về giá cả thị trường để đưa ra hệ thống giá cả phù hợp. + Phương thức thanh toán: Có thể sử dụng nhiều phương thức thanh toán, làm thế nào để phương thức đó gọn nhẹ và nâng cao hiệu quả thu mua. 2.2. Giải pháp về thị trường Thâm nhập thị trường quốc tế trong xu thế toàn cần hoá là một thách thức đối với các doanh nghiệp thuộc ngành. Do vậy, cần phải duy trì và mở rộng thị phần ở các thị trường quen thuộc là phương pháp tối ưu. Bên cạnh đó, cần có chính sách mở rộng thị trường mới. Điều đó đòi hỏi phải có sự nổ lực của các doanh nghiệp. Cụ thể là: - Các cơ quan quản lý Nhà nước ở tỉnh có nhiệm vụ đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, tăng cường công tác thu thập và cung cấp thông tin thị trường, dự báo thị trường, quy hoạch và định hướng cho xuất khẩu, tạo hàng lang môi trường pháp lý, các điều kiện ưu đãi để thu hút mạnh mẽ đầu tư của mọi thành phần kinh tế vào sản xuất và kinh doanh xuất khẩu. Nghiên cứu các chính sách hỗ trợ, các doanh nghiệp trong công tác thị trường; làm đầu mối tổ chức hoạt động phát triển thị trường và xúc tiến thương mại. - Các doanh nghiệp: Dựavào khung pháp lý và các chính sách khuyến khích của Nhà nước, của UBND tỉnh để tiếp cận và khai thác thông tin, các nguồn tín dụng. Đẩy mạnh công tác maketing, tiếp thị để nắm bắt nhu cầu, thị hiếu của thị trường, có chiến lược dài hạn và kế hoạch ngắn hạn về sản xuất và tiêu thụ. Tổ chức và định hướng sản xuất những mặt hàng thị trường đang và sẽ cần. Cần phát huy tính hợp tác, liên doanh, liên kết để tăng năng lực sản xuất kinh doanh đủ lớn, đảm bảo các điều kiện để tham gia hội nhập một cách tốt nhất. - Tích cực, chủ động tranh thủ mở rộng thị trường nhất là sau khi hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết và Việt Nam tham gia WTO. - Đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ với các đối tác nhưng phải tập trung vào các thị trường lớn, có tính ổn định. - Mở rộng tối đa các thị trường, song trọng điểm là các thị trường có sức mua lớn, tiếp cận các thị trường cung ứng công nghệ. - Tăng cường công tác thông tin thị trường và xúc tiến thương mại bằng cách thành lập cơ quan thông tin tiếp thị thuỷ sản với chức năng nghiên cứu có hệ thống các thị trường truyền thống, thị trường mới, thu thập, xử lý, dự báo tình hình thị trường, thông tin pháp luật của các nước nhập khẩu liên quan. Trong giai đoạn đầu, Nhà nước cần hỗ trợ tài chính, phương tiện kỹ thuật, đào tạo cán bộ, khuyến khích phát triển các hoạt động thông tin tiếp thị ở các nước. - Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại trên cơ sở chiến lược xuất khẩu dài hạn của ngành với những hoạt động như tổ chức và tham gia hội chợ triển lãm, quảng cáo quốc tế, phối hợp chặt chẽ với Bộ Thương mại, Cục Xúc tiến thương mại, các cơ quan thương vụ Đại sứ quán Việt Nam tại nước ngoài và các bộ, ngành có liên quan, chủ động giúp các doanh nghiệp tìm kiếm, mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản. - Đẩy mạnh việc áp dụng thương mại điện tử (E - commerce) vào các hoạt động thương mại thuỷ sản, nhanh chóng hỗ trợ các biện pháp về công nghệ và kỹ thuật để đưa E-commerce trở thành một công cụ hữu hiện giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ vượt qua rào cản thương mại. 2.3. Giải pháp tăng cường năng lực công nghệ chế biến Giá trị xuất khẩu của Hà Tĩnh trong những năm qua còn quá nhỏ bé so với tiềm năng của tỉnh. Nguyên nhân chủ yếu là do trình độ công nghệ chế biến còn yếu kém, sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu chủ yếu chỉ mới qua sơ chế, giá trị không cao và khó bảo quản, gây lãng phí. Trong thời gian tới, phải nâng cao năng lực chế biến để nâng cao hiệu quả xuất khẩu, khả năng cạnh tranh và đạt hiệu quả của việc tăng sản lượng nguyên liệu. - Tập trung đầu tư vào một số doanh nghiệp có vốn Nhà nước chi phối, quy mô vốn lớn, công nghệ hiện đại, đạt trình độ tiên tiến của thế giới để đảm nhiệm vai trò tiên phong và hướng dẫn về thị trường và công nghệ trong chế biến xuất khẩu, chỉ đạo các hoạt động dịch vụ kỹ thuật nghề cá. - Tăng tỷ lệ khấu hao tài sản cố định trong khu vực chế biến xuất khẩu lên 20 - 30% năm để tạo điều kiện đổi mới nhanh trang thiết bị. - Ban hành chính sách khuyến khích các doanh nghiệp có công nghệ hiện đại, bí quyết công nghệ, thuê chuyên gia giỏi nước ngoài, đầu tư nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới, phát triển các mặt hàng mới. - Củng cố, mở rộng hệ thống khuyến ngư đến tận huyện xã nghề cá, đặt hệ thống này trong mối quan hệ chặt chẽ với các viện nghiên cứu và trường đại học nhằm chuyển giao trực tiếp công nghệ mới, huấn luyện kỹ thuật cho lao động nghề cá. - Hỗ trợ tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản đầu tư nâng cấp điều kiện sản xuất đáp ứng yêu cầu an toàn vệ sinh thực phẩm của các nước, nhất là Mỹ, Nhật, EU... - Tăng tỷ trọng cơ sở chế biến thực hiện chương trình quản lý chất lượng theo quy phạm sản xuất (good Manu facturing Praetice - GMP), HACCP, Quy phạm vệ sinh (Sanitarystandard Operating Procedure - Ssop), ISO 9000. Đến năm 2005, bắt buộc 100% các cơ sở chế biến thuỷ sản phải thực hiện hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến nhằm đảm bảo an toàn và vệ sinh thực phẩm cho người tiêu dùng và xuất khẩu. - Xây dựng, ban hành và triển khai áp dụng các tiêu chuẩn Nhà nước (TCVN) và tiêu chuẩn ngành (TCN) về điều kiện sản xuất, an toàn vệ sinh tối thiểu đối với các chợ, cảng cá, cơ sở chế biến thuỷ sản tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. - Trang bị hệ thống bảo quản ngay trên tàu, xây dựng các trung tâm công nghệ chế biến hiện đại gần hệ thống chợ tại các cảng của tỉnh để nâng cấp chất lượng nguyên liệu, giảm giá đầu vào. - Tăng cường nghiên cứu và mở rộng chủng loại, khối lượng chế biến các mặt hàng có giá trị gia tăng nhằm nâng cao tỷ trọng mặt hàng giá trị gia tăng lên 40 - 45% vào năm 2005. - Tăng cường và hoàn thiện năng lực của trung tâm kiểm tra chất lượng và an toàn vệ sinh thuỷ sản. 2.4. Giải pháp tăng cường công tác quản lý và nâng cao chất lượng Chất lượng là vấn đề then chốt đối với bất kỳ sản phẩm trong dịch vụ nào trên thị trường quốc tế, có tầm quan trọng sống còn đối với thực phẩm. Do vậy để đảm bảo cạnh tranh và uy tín trên thị trường thuỷ sản quốc tế thì phải thực hiện đồng bộ các biện pháp hợp tác giữa Nhà nước, cơ quan có thẩm quyền và doanh nghiệp. * Về phía ngành thuỷ sản + Hoàn thiện về cơ bản hệ thống các văn bản pháp quy và pháp chế kỷ thuật liên quan đến vấn đề quản lý chất lượng trong ngành thuỷ sản, cụ thể: - Quy định điều kiện đảm bảo an toàn vệ sinh tối thiểu cho tất cả các cơ sở chế biến và bảo quản thuỷ sản; quy chế về kiểm tra điều kiện an toàn vệ sinh của các cơ sở chế biến và bảo quản thuỷ sản. - Quy định áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo HACCP; quy chế kiểm tra và công nhận các doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý chất lượng HACCP. - Sửa đổi quy chế kiểm tra và chứng nhận chất lượng hàng thuỷ sản theo hướng giảm kiểm tra sản phẩm cuối cùng đối với các doanh nghiệp đã áp dụng chương trình quản lý chất lượng HACCP. - Xây dựng các văn bản quy định rõ việc phân biệt sản phẩm chế biến, sản phẩm giá trị gia tăng với các sản phẩm nguyên liệu sơ chế để làm cơ sở xây dựng và áp dụng chính sách miễn giảm thuế, khuyến khích xuất khẩu. + Tăng cường tổ chức và quản lý chất lượng - Nâng cao năng lực quản lý chất lượng thuỷ sản, tăng cường đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ quản lý chất lượng ở Sở Thuỷ sản và các cơ sở - Thành lập tổ chức tư vấn, giúp các doanh nghiệp đầu tư mới, sửa chữa, cải tạo và nâng cấp nhà xưởng chế biến, xây dựng và hoàn thiện hệ thống quản lý chất lượng. - Tổ chức thanh tra hoạt động kiểm tra chứng nhận Nhà nước về chất lượng hàng thuỷ sản, chấn chỉnh những việc làm chưa đúng của cơ quan kiểm tra Nhà nước theo quy định của pháp luật. + Tăng cường quản lý chất lượng của doanh nghiệp. - Tạo điều kiện cho doanh nghiệp vay vốn đầu tư với lãi suất ưu đãi để nâng cấp, bảo trì điều kiện sản xuất, phương pháp quản lý chất lượng HACCP. - Tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng và triển khai thực hiện các hệ thống quản lý chất lượng theo HACCP. - Hỗ trợ doanh nghiệp tham gia quản lý chất lượng nguyên liệu tại các cơ sở đại lý cung cấp hàng. - Thường xuyên kiểm tra và thẩm định điều kiện đảm bảo an toàn vệ sinh của doanh nghiệp, kiểm tra đánh giá và công nhận các hệ thống quản lý chất lượng theo HACCP như quy chế đã ban hành. * Về phía các doanh nghiệp - Tăng cường công tác tuyên truyền, đào tạo, huấn luyện về chất lượng và quản lý chất lượng cho cán bộ của doanh nghiệp mình. - Tăng cường quan hệ với các cơ quan nghiên cứu khoa học trong và ngoài ngành để giải quyết các vấn đề kỹ thuật liên quan đến chất lượng và an toàn vệ sinh sản phẩm, bảo vệ môi trường và sức khoẻ của người lao động theo tiêu chuẩn ngành. - Nâng cấp điều kiện sản xuất của doanh nghiệp theo hướng hiện đại. Phải xác định rõ sản phẩm, thị trường để lựa chọn công nghệ phù hợp, đạt mục tiêu chất lượng đề ra. - Tin học hoá hệ thống quản lý chất lượng theo HACCP để hiện có hiệu quả, hạn chế tối đa những công việc giấy tờ trong nhà máy sản xuất tiết kiệm công sức thức hiện HACCP. 2.5. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả đầu tư - Tập trung chỉ đạo, đưa vào đầu tư xây dựng các dự án đồng bộ, nhanh chóng phát huy hiệu quả. - Ưu tiên đầu tư những dự án xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng, các tụ điểm nghề cá... - Thu hút nguồn vốn trong và ngoài nước, khuyến khích đầu tư tư nhân; Chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo hướng khuyến khích đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý. - Nhanh chóng đưa vào sử dụng có hiệu quả các dự đã hoàn thành. - Thực hiện đầu tư thiết bị cho các cảng cá và đóng tàu bảo vệ nguồn lợi - Đầu tư nâng cấp và mở rộng một số nhà máy chế biến xuất khẩu của tỉnh. 2.6. Giải pháp về khoa học công nghệ - Đẩy nhanh việc nghiên cứu và nhập một số công nghệ tiên tiến của nước ngoài, nhất là công nghệ sản xuất giống các loài thuỷ sản có giá trị kinh tế cao... thực hiện mối liên kết cơ sở nghiên cứu với cơ sở sản xuất kinh doanh trong việc ứng dụng khoa học công nghệ. - Chú trọng phát triển công nghệ sản xuất giống thuỷ sản có giá trị xuất khẩu và phục vụ sản sinh, trong đó tập trung hoàn thiện quy trình nuôi thành thục tôm sú bố, mẹ trong điều kiện nhân tạo, tái tạo nguồn tôm giống ở vùng nước tự nhiên và công nghệ sản xuất giống các loài đặc sản có thị trường áp dụng công nghệ tạo giống tôm sú chất lượng cao. - Tiếp tục thực hiện và mở rộng khả năng hợp tác với các nước và các tổ chức quốc tế để tranh thủ khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trường thu hút vốn và cơ hội đầu tư. Có quy chế phân cấp cụ thể để chủ động tìm kiếm đối tác và vốn từ phía nước ngoài. 2.7. Giải pháp về phát triển nguồn nhân lực Việc phát triển nguồn nhân lực cho ngành thuỷ sản thông qua việc nâng cao trình độ văn hoá và tay nghề cho ngư dân, đào tạo mới và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ thị trường để có đủ năng lực và thích ứng với yêu cầu của nền kinh tế thị trường là chìa khoá thành công của chiến lược xuất khẩu thuỷ sản trong thời gian tới bởi các biện pháp khuyến khích xuất khẩu của Nhà nước ngay cả khi được xác định một cách khoa học và đúng đắn cũng chỉ là một vế của phương trình xuất khẩu, trách nhiệm cuối cùng cũng như khả năng tận dụng mọi sự ưu đãi đó để chào bán các sản phẩm có tính cạnh tranh cao, mở rộng thị trường xuất khẩu lại phụ thuộc vào bản thân doanh nghiệp và nổ lực của họ. Đào tạo nguồn nhân lực là mối quan tâm không chỉ ở quy mô doanh nghiệp mà cả quy mô quốc gia và quốc tế. Vì vậy, phương châm Nhà nước và nhân dân cùng tham gia đầu tư xây dựng nguồn nhân lực sẽ mang lại hiệu qủa. Cụ thể: - Phải liên kết với các trường đại học, trung học Thuỷ sản để đào tạo đội ngũ lao động cho tỉnh với những nghề cần chú trọng đào tạo là quản lý nghề cá, quản lý môi trường, thanh tra nguồn lợi thuỷ sản, thanh tra chất lượng thuỷ sản, chế biến thuỷ sản, kinh tế thuỷ sản, maketing thuỷ sản và quản lý doanh nghiệp. - Nâng cao trình độ đào tạo và cơ sở vật chất của trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề thuỷ sản. - Phổ cập giáo dục tiểu học trong cộng đồng ngư dân. - Tổ chức các lớp học về pháp luật và đào tạo hướng nghiệp cho ngư dân - Nâng cấp cơ sở hạ tầng về văn hoá, giáo dục xã hội trong các khu vực cộng đồng ngư dân. Làm tốt công tác phát triển nguồn nhân lực không những tạo ra tiền dề vững chắc cho những bước nhảy vọt của ngành sau này mà còn góp phần quan trọng trong việc xây dựng một ngành công nghệ chế biến thực phẩm vững mạnh cho tỉnh. 2.8. Giải pháp về tổ chức bộ máy - Củng cố tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước tham gia xuất khẩu thuỷ sản; tập hợp thu gọn đầu mối có năng lực thực sự và đủ lớn làm nòng cốt trong công tác sản xuất, kinh doanh xuất khẩu. Động viên và khuyến khích tất cả mọi thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu. Bố trí cán bộ có năng lực, nhiệt tình trách nhiệm vào vị trí chủ chốt trong các doanh nghiệp thuộc ngành. Kết luận và đề xuất Hà Tĩnh có nhiều tiềm năng để phát triển ngành kinh tế thuỷ sản. Nhân dân có đức tính cần cù, chịu khó, ham học, ham làm và biết làm giàu từ mảnh đất của mình. Tuy nhiên nền kinh tế Hà Tĩnh có điểm xuất phát thấp, mang tính độc canh, tự cấp tự túc là chính. Điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt đã ảnh hưởng rất lớn đến ngành kinh tế thuỷ sản. Để thực hiện được mục tiêu đề ra, đẩy mạnh khả năng xuất khẩu. Em xin có một số ý kiến sau: + Đối với các doanh nghiệp: - Cần thiết lập một bộ phận maketing riêng biệt để nghiên cứu nguồn nguyên liệu thu mua và mở rộng thị trường nhằm đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh và tăng lợi nhuận. - Có kế hoạch tổ chức sản xuất hợp lý nhằm hạn chế những ảnh hưởng của tính mùa vụ từ nguyên liệu thuỷ sản. - Nhanh chóng hoàn thiện chương trình quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn HACCP để đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường EU, Mỹ... - Có định hướng tìm kiếm và khai thác các nguồn nguyên liệu xa bờ như: Cá ngừ đại dương, đổng cơ, đổng quéo, bò da... đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định trong tương lai, đồng thời đủ khả năng để thích nghi trong việc chuyển đổi cơ cấu mặt hàng một khi nguồn nguyên liệu gần bờ bị cạn kiệt. - Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, tìm hiểu thị trường và mở rộng mối quan hệ với các khách hàng. Từ đó tìm cách xuất khẩu trực tiếp sang các thị trường mà không cần qua khâu trung gian. + Đối với Nhà nước: - Có chính sách tài chính khuyến khích đối với người nuôi trồng thuỷ sản. Có thể tạo các liên doanh giữa khai thác và nuôi trồng với chế biến thuỷ sản với mức độ ổn định nguôn nguyên liệu thuỷ sản cho công nghệ chế biến thuỷ sản. Do thời gian thực tập có hạn, cộng thêm kiến thức còn hạn chế nên không thể trách được sai sót. Rất mong được sự hướng dẫn, chỉ bảo của thầy cô và cơ quan thực tập để luận văn được hoàn thiện hơn. Em xin cảm ơn thầy Phạm Ngọc Linh đã trực tiếp tận tình hướng dẫn em. Em cũng xin cảm ơn cơ quan thực tập đã tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành tốt đợt thực tập này. Hà Tĩnh, tháng 5 năm 2003 Sinh viên thực hiện Nguyễn Hữu Hùng Tài liệu tham khảo Văn kiện đại hội Đảng lần thứ IX Niên giám thống kê tỉnh Hà Tĩnh Tạp chí thương mại Tạp chí kinh tế phát triển Báo cáo hoạt động qua các năm của sở Thuỷ sản Hà Tĩnh Báo cáo quy hoạch kinh tế xã hội tỉnh Hà Tĩnh Các tài liệu, số liệu thu thập từ thực tế Quyết định số 338/2001/UB-NL2 của UBND tỉnh Hà Tĩnh Nghị định số 48/CP ra ngày 12 tháng 8 năm 1996 của Chính phú ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37048.doc
Tài liệu liên quan