Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tại Công ty XNK Tạp phẩm Hà Nội

Đề tài : Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tại Công ty xuất nhập khẩu Tạp phẩm Hà nội. Lời nói đầu Trong xu thế mở rộng giao lưu, hội nhập vào nền kinh tế thế giới, số lượng các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác ngày càng tăng. Xuất khẩu hàng hoá ra nươc ngoài thường phức tạp hơn rất nhiều so với kinh doanh tên thị trường nội địa vì quy mô thị trường rộng lớn khó kiểm soát, doanh nghiệp khó nắm bắt thông hiểu một cách cặn kẽ, lại phải tuân thủ các t

doc72 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1147 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tại Công ty XNK Tạp phẩm Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ập quán, luật lệ của các quốc gia... Nhưng bù lại doanh nghiệp sẽ giải quyết được tình trạng nhu cầu của thị trường nhỏ bé, sức mua thấp hoặc cạnh tranh găy gắt... và sẽ khai thác được tiềm năng tiêu thụ của thị trường quốc tế rộng lớn thu được ngoại tệ, tạo nguồn vốn để mở rộng hoạt động kinh doanh. Khi xuất khẩu ra thị trường quốc tế bất cứ một doanh nghiệp nào cũng phải chịu sự cạnh tranh găy gắt từ các đối thủ trong và ngoài nước. Lúc đó, bất kì một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển đều phải cạnh tranh, phải tiến hành công tác phát triển thị trường, xây dựng chiến lược và kế hoạch xuất khẩu. Đó là một yêu cầu thiết yếu trong kinh doanh bởi lẽ hoạt động xuất khẩu đạt giá trị lớn thì sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp đạt được các mục tiêu cơ bản trong kinh doanh như lợi nhuận, thế lực, thương hiệu... Trong thực tế hiện nay mặc dù các doanh nghiệp Việt Nam đã chú trọng đến hoạt động xuất khẩu nhưng họ vẫn gặp rất nhiều khó khăn khi thực hiện. Xác định đúng phương hướng và giải pháp phát triển thị trường phù hợp với tình hình đã là điều không mấy dễ dàng huy động đầy đủ và phân bổ nguồn lực để thực hiện kế hoạch lại là điều càng khó khăn hơn. các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá tiêu thụ và phải cạnh tranh rất nhiều hơn nữa không phù hợp nhu cầu sử dụng của người tiêu dùng. Chính vì vậy các hoạt động thúc đẩy xuất khẩu thực sự cần thiết cho các doanh nghiệp. Là các mặt hàng thuộc các ngành nghề truyền thống, mang đậm các yếu tố văn hoá dân tộc, hàng thủ công mỹ nghệ không chỉ đáp ứng nhu cầu ử dụng trong cuộc sống hàng ngày mà còn là những vật phẩm phục vụ đời sống tinh thần. Khả năng tiêu thụ mặt hàng này tăng lên cùng với sự cải thiện về đời sống vật chất, tinh thần và sự phát triển giao lưu kinh tế văn hoá giữa các nước, giữa các dân tộc trên thế giới. Mặc dù không được chú ý nhiều như các mặt hàng khác như gạo, may mặc, giày dép, thuỷ sản... nhưng hàng thủ công mỹ nghệ hàng năm vẫn đem lại cho quốc gia một lượng ngoại tệ không nhỏ. Xuất khẩu hàng thủ công mỹnghệ không chỉ mang kại lợi ích kinh tế thiết thực cho các doanh nghiệp, cho các quốc gia mà còn có ý nghĩa chính trị, xã hội to lớn như bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc, giải quyết tình trạng dư thừa lao động, tăng thu nhập cho người dân, góp phần xoá đói giảm nghèo, có tác dụng đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Xuất phát từ tình hình phát triển thị trường xuất khẩu còn nhiều khó khăn của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Công ty xuất nhập khẩu Tạp phẩm Hà Nội nói riêng cũng như lợi ích to lớn của việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tôi đã lựa chọn đề tài : “Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tại Công ty xuất nhập khẩu TOCONTAP Hà Nội. Báo cáo thực tập được kết cấu gồm 3 phần : Chương I : Hoạt động xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ đối với TOCONTAP. Chương II : Thực trạng hoạt động xuất khẩu tại TOCONTAP. Chương III : Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt dộng xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Với kiến thức tiếp thu ở nhà trường cơ quan thực tập và hiểu biết ngoài xã hội, tôi mong muốn được góp thêm một vài suy nghĩ trong việc đánh giá hoạt động xuất khẩu và đề ra một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu của Công ty trong thời gian tới. Xin chân thành cảm ơn các cán bộ phòng kinh doanh xuất nhập khẩu 8, Công ty xuất nhập khẩu Tạp phẩm Hà Nội, đặc biệt là thầy Bình, trưởng khoa Kinh tế và kinh doanh quốc tế, Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội đã tận tình quan tâm, giúp đỡ để hoàn thành công việc của mình. Hà Nội ngày... Sinh viên thực hiện. Phạm Ngọc Huân CHƯƠNG I: Hoạt động xuất khẩu thủ công mỹ nghệ và vai trò của xuất khẩu thủ công nghệ đối với tocontap. vai trò của xuất khẩu thủ công mỹ nghệ. Khái niệm xuất khẩu và vai trò của nó. a, khái niệm xuất khẩu và phân loại Xuất khẩu là một quá trình trao đổi hàng hoá giữa các nước thông qua mua bán nhằm đạt được mức lợi nhuận cao nhất. Trao đổi hàng hoá là hình thức của các mối quan hệ kinh tế xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất kinh doanh hàng hóa riêng biệt của các quốc gia. Xuất khẩu là một lĩnh vực quan trọng nhằm tạo điều kiện cho các nước tham gia vào các phân công lao động quốc tế, phát triển kinh tế và làm giầu cho đất nước. Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Nó không phải là hành vi mua bán riêng lẽ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy xuất khẩu sản xuất hàng hoá phát triển, di chuyển cơ cấu kinh tế ổn định và từng bước nâng cao mức sống của nhân dân. Xuất khẩu là hoạt động đã đem lại hiệu quả đột biến nhưng có thể gây thiệt hại lớn vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà các chủ thể trong nước tham gia xuất khẩu không thể dễ dàng khống chế được. Trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần, kinh doanh xuất khẩu sẽ mang lại nhiều lợi ích, song có một điểm bất lợi. Muốn có hiệu quả cao phải phát triển và hạn chế tác hại. Những thuận lợi của xuất khẩu mang lại có thể thấy rõ ràng, bên canh đó xuất khẩu còn nhiền hạn chế. Canh tranh dẫn đến tình trạng tranh mua, tranh bán hàng hoá xuất khẩu. Nếu không có sự kiểm soát của Nhà nước một cách kịp thời sẽ gây các thiệt hại khi buôn bán với nước ngoài. Các hiện tượng xấu về kinh tế xã hội như buôn lậu, trốn thuế, ép gia, ép cấp… dễ phát triển. Cạnh tranh dẫn đến tình trạng thôn tính lẫn nhau giữ các chủ kinh tế bằng các biện pháp không lành mạnh như phá hoại cản trở công việc của nhau. Do đó việc quản lý không chỉ đơn thuần tính toán về hiệu quả kinh tế mà còn phải chú trọng đến văn hoá và đạo đức xã hội. Xuất khẩu là việc mua bán hàng hoá nước ngoài nhằm phát triển sản xuất kinh doanh và đời sống. Song mua bán ở đây có những nét riêng, phức tạp hơn trong nước như giao dịch với người nước ngoài, thị trường rộng lớn khó kiểm soát, mua bán qua trung gian chiếm tỷ trọng lớn, đồng tiền thanh toán bằng ngoại tệ mạnh, hàng hoá vận chuyển qua biên giới, cửa khẩu các quốc gia khác nhau. Phải tuân thêo các tập quán quốc tế cũng như địa phương. Hoạt động xuất khẩu được tổ chức, thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu từ điều tra trị trường nước ngoài lựa chọn hàng hoá xuất khẩu đến hoàn thành các thủ tục thanh toán. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, đặt chúng trong mối quyan hệ lẫn nhau, tranh thủ nắm bắt những lợi thế nhằm bảo đảm hiệu quả kinh tế, phục vụ kịp thời cho sản xuất và tiêu dùng trong nước. Đối với người tham gia hoạt động xuất khẩu, trước khi bước vào nghiên cứu, thực hiện các khâu nghiệp vụ phải nắm bắt được thông tin về nhu cầu hàng hoá, thị hiếu, tập quán tiêu dùng, khả năng mở rộng sản xuất, giá cả và xu hướng biến động của nó. Những điều đó phải thành nếp thường xuyên trong tư duy mỗi nhà kinh doanh xuất khẩu để nắm bắt được các cơ hội trong kinh doanh thương mại quốc tế. * Các hình thức kinh doanh xuất khẩu trong cơ chế thị trường. - Xuất khẩu tự doanh: Xuất khẩu tự doanh là hoạt động xuất khẩu độc lập của một doanh nghiệp, kinh doanh xuất khẩu trực tiếp trên cơ sở nghiên cứu thi trường trong và ngoài nước, tính toán đầy đủ chi phí, bảo đảm kinh doanh xuất khẩu có lãi, đúng trong phương hướng, chính sách pháp luật quốc gia cũng nhu quốc tế. Trong xuất khẩu tự doanh thì doanh nghiệp phải đứng mũi chịu sào tắt cả. Đây là hoạt động xuất khẩu được xem xét một cách kỹ càng từ việc nghiên cứu thị trường đến việc ký kết hợp đồng bởi doanh nghiệp phảI tự bỏ vốn của mình ra, chịu mọi chi phí giao dịch, nghiên cứu, thăm viếng, giao nhận lưu kho cho tưới chi phí phải giao nhận hàng hoá, chịu thuế doanh thu. Khi xuất khẩu tự doạnh thì doanh nghiệp xuất khẩu được tính kim ngạch xuất nhập khẩu và khi tiêu thụ được số hàng xuất khẩu thì được tính doanh số, do đó phải chịu thuế doanh thu. Đây là hình thức xuất khẩu phức tạp nhất, khó khăn nhất và tự chủ nhất trong các hình thức. Các bộ kinh doanh phải tự nghiên cứu, thực hiện các bước xuất khẩu sao cho tận dụng được mọi sự biến động của thị trường, mua được rẻ nhất, bán được đắt nhất và thời gian ngắn nhất. - Xuất khẩu uỷ thác: Xuất khẩu uỷ thác là hoạt động hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước có hàng hoá và có nhu cầu khuất khẩu một số hàng hoá nhưng không có quyền tham gia nhưng không có quyền quan hệ trực tiếp, đã uỷ thác cho một doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành xuất nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của mình để làm thủ tục xuất khẩu hàng hoá thêo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng một khoản thù lao gọi là phí uỷ thác. Trong hoạt động xuất khẩu này, doanh nghiệp xuất khẩu (nhân uỷ thác) không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch (nếu có) không phải nghiên cứ thị trường tiêu thà chỉ đứng ra thay mặt cho bên uỷ thác để tìm và giao dịch với bạn hàng nước ngoài, ký kết hợp đồng và làm thủ tục xuất khẩu hang hoá cũng như thay mặt bên uỷ thác khiếu nại, đòi bồi thường với bên nước ngoài khi tổn thất. Khi tiến hành xuất khẩu uỷ thác thì tại các doanh nghiệp xuất nhập khẩu chỉ được tính kim ngạch xuất nhập khẩu chứ không tính doanh số, do đó không chịu thuế doanh thu. Khi xuất khẩu uỷ thác, doanh nghiệp phải lập hai hợp đồng, một hợp đồng mua bán hàng hoá với nước ngoài, một hợp đồng nội xuất khẩu uỷ thác với bên uỷ thác. Đây là hình thức xuất khẩu đơn gian nhất, không chịu rủi ro bán hàng, không phải bỏ vốn kinh doanh. Cán bộ kinh doanh trong phòng nghiệp vụ chỉ việc tiến hành hoạt động giao dịch, ký kết và thực hiện hợp đồng. Đây là những nghiệp vụ chuyên môn nên có thể thự hiện dễ dàng mọi chi phí bên uỷ thác phái chịu và phòng kinh doanh sẽ thu được % uỷ thác. - Xuất khẩu liên doanh: Là hoạt động xuất khẩu hàng hoá trên cơ sở liên doanh kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp khả năng để cùng giao dịch đề ra các chủ trương, biện pháp liên quan hoạt động xuất khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho tất cả các bên., cùng chia lãi và cùng chịu lỗ. So với hoạt động xuất khẩu tự doanh thì các doanh nghiệp chịu ít rủi ro hơn bởi mỗi doanh nghiệp liên doanh xuất khẩu chỉ đóng góp một phần vốn nhất định, quyền hạn và chách nhiệm mỗi bên cùng tham gia số vốn góp. Việc phân chia chi phí, thuế doanh thu theo tỷ lệ góp vốn, Lãi và lỗ hai bên phân chia theo thoả thuận dựa trên vốn góp với phần chách nhiệm mà mỗi bên gánh vác. Trong xuất khẩu liên doanh, doanh nghiệp đứng ra xuất hàng sẽ được tính kim nghạch xuất nhập khẩu và chỉ chịu thuế doanh thu trên số doanh thu của mình. Doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải lập hai hợp đồng: một hợp đồng ngoại bán hàng với nước ngoài, một hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp khác ( không nhất thiết là doanh nghiệp trong nước) Hình thức này phát sinh khi phòng nghiệp vụ không đủ khả năng về một nào đó để tự mình đứng ra xuất khẩu, đồng thời có những đơn vị kinh doanh có thể đáp ứng về khả năng ấy cũng như cùng chung ý tưởng kinh doanh, do vậy những đơn vị đó cùng với phòng nghiệp vụ liên doanh với nhau nhằm khắc phục khó khăn cho nhau, cùng tiến hành xuất khẩu hàng hoá. Thường thì do phòng kinh doanh có nhiệm vụ, có kinh nghiệm, có bạn giao dịch và được quyền xuất nhập khẩu trực tiếp đứng ra tiến hành các bước giao dịch ký kết hợp đồng với nước ngoài còn phía ban liên doanh thường góp vốn và đảm bảo hàng hoá. - Xuất khẩu đổi hàng: Nhập đổi hàng cùng với trao đổi bù trừ là hai loại chủ yếu của buôn bán đối lưu, nó là hình thức xuất khẩu gắn liền với nhập khẩu. Thanh toán trong hợp đồng này không phải dùng tiền mà chính bằng hàng hoá. ở đây mục đích xuất hàng không chỉ để thu lãi từ hoạt động nhập mà còn nhằm để xuất được hàng. Hoạt động này rất có lợi bởi cùng một hợp đồng có thể tiến hành cung một lúc hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu do đó thu lãi từ hoạt động xuất và nhập khẩu này. Hàng hoá xuất và nhập khẩu tương đương về giá trị, cân bằng về giá cả, nếu có sự chênh lệch sẽ được thanh toán bù trừ tuỳ theo thoả thuận giữa hai bên.Doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính cả kim ngạch xuất và kim ngạch nhập. Nhận doanh thu tiêu thụ hàng xuất và hàng nhập nên chịu thuế doanh thu cả hàng xuất và hàng nhập. Trong xuất khẩu đổi hàng, biên pháp đảm bảo thực hiện hợp dồng là: *Dùng thư tín (L/C) đối ứng: đây là loại L/C mà trong nội dung của nó có điều khoản quy định L/C này có hiệu lực khi người hưởng mở một L/C có kim ngạch tương đương *Dùng người thứ ba khống chế chứng từ sở hữu hàng hoá, người thứ ba chỉ giao chứng từ đó khi người nhận đổi lại một chứng từ sở hữu hàng hoá có giá trị tương đương. *Phạt về giao thiếu hay giao chậm. b. Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân: Xuất khẩu là cơ sở của nhập khẩu là hoạt động kinh doanh để đem lại lợi nhuận lớn, là phương tiện thúc đẩy kinh tế. Mở rộng xuất khẩu tăng ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và phát triển cơ sơ hạ tầng. Nhà nước ta luôn coi trọng và thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến khích các ngành kinh tế theo hướng xuất khẩu, khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng xuất khẩu để giảI quyết công ăn việc làm tăng thu ngoại tệ. . Xuất khẩu tạo nguồn hàng chủ yếu cho nhập khẩu: Công nghiệp hoá đất nước đòi hỏi phải có số vốn lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị, kỹ thuật, vật tư và công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn sau: - liên doanh đầu tư với nước ngoài - Vay nợ, viện trợ, tài trợ. - Thu từ hoạt động du lịch. - Xuất khẩu sức lao động. Các nguồn vốn từ đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ… chung ta đều phải trả bằng các hình thức khác. Để nhập khẩu nguồn vốn quan trong nhất là từ nhập khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô tốc độ của nhập khẩu. Thời kỳ 1986 đến 1990 nguồn thu của nước ta từ xuất khẩu chiếm 3/3 tổng nguồng thu ngoại tệ, năm 1994 xuất khẩu đã đảm bảo được 80% nhập khẩu so với 24,6% năm 1994. Với xu hướng này, các năm sau kim ngạch đều tăng lên so với năm trước đó. Xuất khẩu góp phần dich chuyển lại cơ cấu kinh tế hướng ngoại Thay đổi cơ cấu sản xuất và tiêu dùng một cách có lợi nhất, đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học, công nghẹ hiện đại. Sự tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dich cơ cấu kinh tế có thể được nhìn nhận theo các hướng sau: - Xuất khẩu sản phẩm của nước ta cho nước ngoài - Xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất những sản phẩm nước khác cần. Điều đó có tác dụng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. - Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành liên quan có cơ hội phát triển thuận lợi.Ví dụ, khi phát triển hàng mỹ nghệ xuất khẩu sẽ tạo cơ hội cho phát triển các ngành trồng trọt cây cối, cây đay, ngành nhuộm… Sự phát triển của các ngành chế biến thực phẩm xuất khẩu kéo thực sự phát triển của ngành công nghiệp chế rạo thiết bị. - Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, cung cấp đầu vào cho sản xuất, khai thác tối đa cho sản xuất trong nước. - Xuất khẩu tạo ra những điều kiện kinh tế kỹ thuật nhằm đổi mới thường xuyên năng lực sản xuất trong nước. Nói cách khác xuất khẩu với cơ sở tăng thêm vốn và kỹ thuật công nghệ tiên tiến từ các quốc gia bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nước ta. - Thông qua xuất khẩu, hàng hoá Việt Nam sẽ tham gia cuộc cạnh tranh trên thị trường quốc tế về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi phải tổ chức lại sản xuất cho phù hợp với thị trường quốc tế. - Xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. . Xuất khẩu tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân: Trước hết, sản xuất hàng xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động, tạo ra nhuồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu thụ thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân. Sản xuất hàng hoá xuất khẩu là lĩnh vực mang lại lợi nhuận cao, chính vì vậy có thể mang lại mức lương cao cho những lao động hoạt động trong lĩnh vực này, nâng cao mức sống cho người lao động. . Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta: - Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại làm cho nền kinh tế nước ta gắn chặt với phân công lao động quốc tế. Thông thường hoạt xuất khẩu ra đời sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại nên nó thúc đẩy các quan hệ khác phát triển. Chẳng hạn xuất khẩu và sản xuất hàng hoá xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng đầy tư, vận tải quốc tế…ngược lại, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại lại tạo điều kiện cho mở rộng sản xuất . Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. II. Các nội dung chủ yếu của hoạt động kinh doanh xuất khẩu: 1, Nghiên cứu thị trưòng, ký kết hợp đồng xuất khẩu: Nghiên cứu thị trường trong kinh doanh quốc tế là một loạt các thủ tục và kỹ thuật được đưa ra để giúp các nhà kinh doanh có đầy đủ các thông tin cần thiết, từ đó đưa ra các quyết định chính xác. Nghiên cứu thị trường là một quá trình tìm kiếm khách quan và có hệ thống cùng với sự phân tích những thông tin cần thiết để giải quyết vấn đề Marketing. Bởi vậy nghiên thị trường đang đóng một vai trò để giúp các nhà kinh doanh đạt hiệu quả cao trong công tác kinh doanh và các nhà Marketing nắm bắt kịp thời, đúng các nhu cầu. Nghiên cứu thị trường thực chất là phương pháp đã được tiêu chuẩn hoá có hệ thống và tỷ mỷ với mục đích tìm ra những điều cần thiết, thích hợp để tìm thị trường cho các hàng hoá, dịch vụ nào đó, trong một khoảng thời gian và nguồn lực hạn chế . Nghiên cứu thị trường hàng hoá để các nhà Marketing biết được quy luật vận động của nó. Mỗi thị trường hàng hoá có quy luật vận động riêng, những quy luật này thể hiện qua việc biến đổi về nhu cầu, sự cung cấp và giá cả trên thị trường đó. Nắm vững các quy luật về thị trường hàng hoá giúp các nhà quản trị lập chiến lược Marketing xuất khẩu chung cho các hàng hoá của doanh nghiệp và giải quyết các vấn đề thực tiễn trong kinh doanh. Sau khi nghiên cứu thị trường, có những thông tin chính xác về thị trường đó, chúng ta cần tìm kiếm đối kinh doanh. Trong mỗi thường vụ kinh doanh, các nhà kinh doanh cần phải ký kết hợp đồng nhằm mục đích tránh rủi ro. Hợp đồng là văn bản bằng chứng ghi rõ những điều khoản của hai bên trên giấy trắng mực đen có chữ ký và dấu của hai bên. Hợp đồng trong buôn bán quốc tế là rất cần thiết. Bởi vì trong kinh doanh thương mại quốc tế giữa các nước khác nhau về ngôn ngữ, pháp luật, chính trị, tôn giáo, tập quán. 2. Xin giấy phép xuất khẩu hàng hoá: Giấy phép xuất khẩu hàng hoá là vấn đề qua trọng đầu tiên về mặt pháp lý để tiến hành các khâu khác để tiuến hành xuất khẩu hàng hoá. Với hướng hợp tác quốc tế. Nhà nước tạo thuận lợi cho các đơn vị sản xuất kinh doanh làm hàng ghoá xuất khẩu và xuất khẩu những hàng hoá không trái quy định của nhà nước. Nhà nước quản lý xuất khẩu bằng quota và bằng luật pháp, hàng hoá và đối tượng quản lý. Thực tế nước ta, trước 15.12.1995 giấy phép xuất khẩu là một phần quản lý hết sức rộng rãi. Những tốc độ và quy mô xuất khẩu ngày càng ra tăng mạnh mẽ nên giấy phép xuất khẩu trở thành vật cản trở, kéo giài thời gian, giây rắc rối về mặt thủ tục, hạn chế hoạt động xuất khẩu. Mặt khác tồn tại giấy phép xuất khẩu còn có giấy phép kinh doanh xuất khẩu cũng một thủ tục bắt buộc. Vì vặy ngay 15.12.1995, Chính phủ ra quyết định 89/CP quy định giấy phép kinh doanh chuyển cho các doanh nghiệp muốn xuất khẩu phục vụ hoạt động kinh doanh sản xuất đều phải xin giáy phép. 3. Chuẩn bị hàng xuất khẩu: Hiện nay nước ta không chỉ có các doanh nghiệp thương mại lớn là công tác xuất khẩu mà còn có nhiều các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh là công tác xuất khẩu trực tiếp với nước ngoài. Do vậy đối với các doanh nghiệp ngoại thương kinh doanh xuất khẩu, chuẩn bị hàng xuất khẩu gồm các công đoạn sau: - Thu gom tập trung thành lô hàng xuất khẩu. - Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu. - Kẻ ký mã hiệu hàng xuất khẩu. 4, kiểm tra chất lượng hàng hoá xuất khẩu: Đây là công việc cần thiết trong các công đoan thực hiện hợp động kinh doanh xuất khẩu. Các nhà xuất khẩu, trước khi chuyển hàng đi, phải có nghĩa vụ kiểm tra về phẩm chất, số lượng, trọng lượng …(hay còn gọi là kiểm nghiệm). Nếu là hàng hoá thực vật phải kiểm tra khả năng lây lan bệnh tật (gọi là kiểm tra).Việc kiểm nhgiệm và kiểm tra phải được tiến hành ở hai cấp: cơ sở và cửa khẩu. Trong đó kiểm tra ở cơ sở do phòng KCS tiến hành, có vai trò quyết định có tác dụng triệt để nhất. Kiểm tra ở cửa khẩu có tác dụng kiểm tra lại kết quả ở cấp cơ sở. 5, Thuê tàu lưu cước: Trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương, việc thuê tau trở hàng phụ thuộc vào các căn cứu sau đây: - Những điều khoản của hợp đồng mua bán. - Đặc đIểm hàng hoá mua bán. - Điều kiện vận tải. Ví dụ: nếu điều kiện cơ sở giao hàng của hợp đồng là CIF thì đơn vị xuất khẩu phải thuê tàu giao hàng. 6, Mua bảo hiểm: Chuyên chở hàng bằng đường biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Bởi vậy trong kinh doanh xuất khẩu, bảo hiểm hàng hoá đường biển là loại bảo hiểm hàng hoá phổ biến nhất. Các đơn vị kinh doanh khi cần mua bảo hiểm đều mua tai tổn công ty Bảo Hiểm Việt Nam. Hợp đồng bảo hiểm gồm hai loại: hợp đồng bảo hiểm bao là hợp đồng chủ yếu. Khi ký kết hợp đồng bảo hiểm cần nắm vững các điều khoản bảo hiểm: bảo hiểm mọi rủi ro (điều kiện A), bảo hiểm có buồi thường tổn thất riêng, (điều kiện B), bảo hiểm miễn bồi thường tổn thất riêng (điều kiện C) và một sổ điều kiện đặc biệt như: bảo hiểm chiến tranh, bảo hiểm đình công… 7. Làm thủ tục hải quan: Hàng hoá vận chuyển qua biên giới quốc gia. Để xuất khẩu đều phải làm thủ tục hải quan. Thủ tục hải quan là công cụ để quản lý hành vi buan bán theo pháp luật của nhà nước, để ngăn chặn xuất khẩu qua biên giới, kiểm tra giấy tờ có sai sót giả mạo không, để thống kê số liệu về hàng hoá xuất khẩu. Việc làm thủ tục hải quan gồm có 3 bước sau: - Khai báo hải quan - Xuất trình hàng hoá - Thực hiện các quyết định của hải quan sau khi kiểm tra giấy tờ. 8, Giao nhận hàng với tàu: Thực hiện giao nhận hàng hoá theo hợp đồng, đến thời hạn giao hàng các nhà xuất khẩu phải làm thủ tục giao nhận hàng. - Nếu hàng hoá được giao bằng đường biển, chủ hàng phải tiến hành các việc sau: + Căn cứ vào chi tiết hàng hoá xuất khẩu lập bảng đăng ký hàng chuyên chở. + Xuất trình bản đăng ký chuyên chở cho người vận tải để lấy hồ sơ xếp hàng. + Bố trí phương tiện đưa hàng vào cảng, xếp hàng lên tàu. + Lấy biên lai thuyền phó và đổi biên lai thuyền phó lấy vận đơn đường biển. Vận đơn đường biển phải là vận đơn hoàn hảo, đã bốc hàng và phải chuyển nhượng được. Vận đơn phải chuyển về bộ phận kế toán để lập bộ chứng từ thanh toán. - Nếu hàng hoá được vận chuyển bằng đường sắt, chủ hàng phải kịp thời đăng ký với cơ quan đường sắt để xin cấp toa xe phù hợp với tính chất và khối lượng của hàng hoá. Khi đã được cấp toa xe, chủ hàng tổ chức bốc xếp, niêm phong kẹp chì và các chứng từ vận tải, trong đó chủ yếu là vận đơn đường sắt. Vận đơn đường sắt chuyển về phòng kế toán để lập bộ chứng từ thanh toán. - Nếu hàng được chuyên chở bằng Container thì giao theo hai phương thức + Hàng chiếm đủ một container thì chủ hàng phải đăng ký thuê container, chịu chi phí chuyển container rỗng về cơ sở sản xuất của mình, đóng hàng vào container và chuyển ra ga để giao hàng cho người vận tải. + Hàng chưa đủ một container thì chủ hàng phải làm đăng ký hàng chuyên chở xuất trình cho người vận tải. Sau khi được chấp nhận chở hàng, chủ hàng đưa hàng đến ga containr để giao cho người vận tải. Cơ quan vận tải chịu trách nhiệm đóng hàng vào container và bốc hàng lên tàu. 9, Thủ tục thanh toán: Đây là khâu cuối cùng và là khâu thể hiện kết quả của quá trình kinh doanh xuất khẩu. Do đặc điểm buôn bán với nước ngoài nên thanh toán trong thương mại quốc tế có nhiều hình thức. Sau đay là hai phương thức thanh toán chủ yếu: - Thanh toán bằng tín dụng ( L/C): Thư tín dụng là một loại giấy phép mà ngân hàng bảo đảm hoạc hứa hẹn sẽ trả tiền. Thaqnh toán tiền hàng bằng L/C là một phương thức thanh toán bảo đảm hợp lý, thuận tiện, an toàn, hạn chế rủi ro cho cả bên mua và bên bán. Nếu trong hợp đồng xuất khẩu quy định thanh toán bằng L/C thì: Người xuất khẩu đôn đốc người nhập khẩu mở L/C đúng hạn mà nội dung như hợp đồng quy đinh. Sau khi nhận được L/C, người xuất khẩu phải kiểm tra so sánh với nội dung và điều kiện ghi trong hợp đồng. Nếu có chỗ chưa phù hợp thì yêu cầu người nhập khẩu sửa bằng văn bản. Có L/C người xuất khẩu tiến hành thưch hiện hợp đồng. Đến thời hạn giao hàng, cung với việc giao hàng người xuất khẩu phải lập bộ chứng từ hoàn hảo phù hợp với nội dung trong L/C. - Thanh toán bằng phưong thức nhờ thu: Nếu hợp đồng xuất khẩu quy định thanh toán bằng phương thức này thì ngay sau sau khi giao hàng, bên xuất khẩu phải hoàn thiện việc lập chứng từ và phải xuất trình ngân hàng để uỷ thác cho ngân hàng vay tiền hộ. Chứng từ thanh toán phải hợp lệ, chính xác và nhanh chóng cho ngân hàng nhằm thu lại vốn. Trong quá trình thực hiện hợp đông khi hàng hoá có tổn thất hoặc hàng hoá có nhầm lẫn thì hai bên có thể đi khyếu nại hoặc đi kiện. Đặc điểm và các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu của hàng thủ công mỹ nghệ. 1, Đặc điểm của thủ công mỹ nghệ. Hàng thủ công mỹ nghệ là những mặt hàng thuộc các ngành nghề truyền thống được truyền từ đời này sang đời khác. chúng được tạo ra nhờ sự khéo léo của các thợ thủ công, sản xuất bằng tay là chủ yếu nên các sản phẩm có chất lượng không đồng đều, khó tiêu chuẩn hoá. Tuy nhiên các sản phẩm này thường rất tinh xảo và độc đáo. Hàng thủ công mỹ nghệ thường chứa đựng các yếu tố văn hoá một cách đậm nét vì chúng là những sản phẩm truyền thống của dân tộc. Mỗi dân tộc đều có một văn hoá riêng và cách thể hiện riêng qua hình thái sắc thái sản phẩm. Chính điều này đã tạo nên sự độc đáo, khác biệt giữa các sản phẩm có cùng chất liệu ở các quốc gia khác nhau. Nhìn chung các sản phẩm thủ công mỹ nghệ đều thể hiện mảng đời sống hiện thực, văn hoá tinh thần với màu sắc đa dạng hoà quyện, mang tính nghệ thuật, đặc sắc. Do đó, chúng không chỉ là những vật phẩm phục vụ đời sống tinh thần, đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của các dân tộc. Với sự phát triển của cuộc sống, nhu cầu của về sản phẩm mỹ nghệ ngày càng cao. Mặc dù khoa học công nghệ cho phép sản xuất ra nhiều sả phẩm đa dạng, phong phú và đẹp nhưng các sản phẩm này thường được sản xuất hàng hoạt, mang tính đồng nhất, chính xác đến từng chi tiết nên biểu cảm tính nghệ thuật không nhiều. Bởi vậy, các san phẩm thủ công mỹ nghệ dù tinh xảo hay mộc mạc đều khẳng định được chổ đứng trong dời sôngs con người. ở Việt Nam, sảm xuất hàng thủ công mỹ nghệ gần đây đang khởi sắc do nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khâủ tăng lên. cùng với sự mở rộng giao lưu văn hóa, kinh tế giữa các nước trên thế giới, hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đã có mặt trênthị trường nhiều nước Châu Âu, Đông á, Mỹ Và Nam Mỹ. Do vậy quan tâm và có chính sách thoả đáng phát triển ngành nghề này, mở rộng thị trường xuất khẩu là thiết thực bảo tồn và phát triển một trong những văn hoá quý giá của dân tộc Việt Nam ta. Ben cạnh ý nghĩa góp phần truyền bá giới thiệu văn hoá truyền thống ra thế giới, việc đẩy mạnh xuất khảu mặt hàng này góp phần tạo ra một lượng lớn công ăn việc làm, giải quyết tình trạng dư thừa lao động, nhất là ở nông thôn trong thời gian nông nhàn, giúp họ có thêm thu nhập góp phần xoá đói giảm nghèo. Như vậy việc phát triển thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ không chỉ mang lại lợi ích kinh tế thiết thực cho băn thân các doanh nghiệp cho người lao động mà còn có ý nghĩa chính trị xã hội rộng lớn. Vì thế đề ra các biện pháp phù hợp để khai thác khả năng của mặt hàng này là vấn đề cần thiết. Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu. a, Các yếu tố khách quan. Các yếu tố khách quan là các yếu tố bên người doanh ngiệp như khách hàng, các đối thủ cạnh tranh, luật pháp, chính trị... Và doanh nghiệp không thể điều khiển chúng theo ý muốn của mình. Doanh nghiệp chỉ có thể cố gắng thíhc ứng một cách tốt nhất sự vận động của nó. Nừu không doanh nghiệp khôngnhững không phát triển được thị trường, nâng cao được vị thế của mình mà còn có thể bị mất thị phần hiện tại hoặc bị đào thải khỏi thị trường. Khách hàng và các yếu tố thuộc về văn hoá xã hội. Đây là yếu tố đầu tiên và cũng là yếu tố quyết định đến khả năng tiêu thụ hàng hoá nói chung và hàng thủ công mỹ nghệ nói riêng. Như ta đã biết, các sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ là những sản phẩm phục cụ cho tiêu dùng, chính vì vậy đời sống được nâng cao đã kéo theo sự giá tăng nhu cầu vè các sản phẩm này, ở những nước có nền kinh tế phát triển như Châu Âu, Mỹ, Nhật, Hàn Quốc... nhu cầu về hàng thủ công mỹ nghệ khá lớn. Chỉ tính riêng mặt hàng gồm gốm sứ hàng năm Nhật nhập khoảng 1 tỷ USD, năm 1997 Mỹ nhập 3,1 tỷ USD và năm 1998 nhu cầu nhập tăng lên 3,35 tỷ USD. Khả năng tiêu thụ các sản phẩm thủ công mỹ nghệ còn rộng mở hơn nhất là khi người tiêu dùng đang có xu hướng bảo vệ thiên nhiên, trở về gần gũi với thiên nhiên thông qua việc sử dụng các sản phẩm được làm từ chất kiệu thiên nhiện như các đồ dùng mây tre cói, đay thay cho các sảm phẩn từ plastic, thuỷ tinh, sợi nhân tạo... Mặt khác sự phát triển giao kưu kinh tế, văn hoá cũng góp phần đẩy mạnh tiêu thụ, truyền bá giới thiệu mặt hàng này tới những thị trường giàu tiềm năng. Tóm lại, nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm thủ công mỹ nghệ nói chung có xu hướng ngày càng tăng. Tuy nhiên khi dự định đảy mạnh xuất khẩu sang thị trường nào, doanh nghiệp cần phải đặc biệt chú ý đến các yếu tố văn hoá xã hội của thị trường đó. Trước hết doanh nghiệp nên xem xét đến yếu tố truyền thống, tập quán sử dụng của mỗi thị trường. ở Châu Âu nhiều gia đình thường sử dụng thảm để trải sàn, một số nước Đông Âu lại sử dụng các sản phẩm thêu ren, còn ở Nhật, Hàn Quốc người dân rất ưa chuộng những vật phẩm bằng mây tre, cói... Chính những tập quán sử dụng này sẽ gợi ý cho doanh nghiệp nên kinh doanh mặt hàng gì ở thị trươngf nào. ngoài ra doanh nghiệp cũng cần chú ý._. đến quy mô dân số của thị trường tiêu thụ vì nó sẽ ảnh hươngr đến số lượng sản phẩm có thể tiêu thụ được. Thông thường quy mô dân số càng lớn thì khả năng tiêu thụ càng lớn và ngược lại. Doanh ngiệp cần phân ra khách hàng của mình thành các nhóm theo các tiêu thức khác nhau như độ tuổi, cơ cấu gia đình, khách hàng là hộ gia đình và các nhóm tổ chức, tè đó xem xét quy mô của mỗi nhóm. Cũng như những mặt hàng khác, khả năng tiêu thụ của hàng thủ công mỹ nghệ cũng phụ thuộc vào thu nhập, mức sống và địa vị của người tiêu dùng. Tuỳ theo khả năng tài chính và vị thế xã hội của mình mà người tiêu dùng lựa chọn loại sản phẩm với chất lượng, cách thức phục vụ. Những người có thu nhập cao, có địa vị thường lựa chọn những sản phẩm quý, thật độc đáo.... Môi trường cạnh tranh. Khi cung ứng các sản phẩm thủ công mỹ nghệ ra thị trường nước ngoài, doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhiều đối thủ. Có thể là sự cạnh tranh giữa các sản phẩm với nhau để cùng thảo mãn một mong muốn. Đối với các sản phẩm thủ công mỹ nghệ phải lấy truyền thống cạnh tranh với hiện đại. Trên thị trường quốc tế sự cạnh tranh giữa các sản phẩm thủ công mỹ nghệ đến từ các quốc gia khác nhau là sự cạnh tranh về tính tinh xảo sự độc đáo biểu hiện qua sản phẩm/ Tuỳ theo số lượng đối thủ trên thị trường mà người ta xác định mức độ khốc liệt của cạnh tranh. Cạnh tranh ngày càng găy gắt, khả năng chiếm lĩnh phát triển thị trường của doanh nghiệp càng ngày trở nên khó khăn. cho nên doanh nghiệp cần xác định trạng thái kinh doanh trên thị trường là thuần tuý, hỗn tạp hay cạnh tranh độc uy quyền để xác định vị thế của mình và cảu các đối thủ. Từ đó tính chất, độ đa dạng, giá cả của sảm phẩm cũng như quy mô khối lượng doanh nghiệp cung ứng ra thị trường sẽ được quyết định. * Môi trường chính trị luật pháp. Yếu tố chính trị có ảnh hưởng ngày càng lớn đến hoạt động của doanh nghiệp. Môi trường chính trị ở trong nước cũng như ở thị trường xuất khẩu ổn định là điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiến hành các hoạt động kinh doanh thuận lợi. Bên cạnh các yếu tố luật pháp cũng như các quy định của chính phủ là các yếu tố mà doanh nghiệp buộc phải tuôn theo nên chúng chi phói nhiều tới khả năng mở rộng thị trường cảu doanh nghiệp. Chảnh hạn việc quy định hạn chế khai thác gỗ sẽ gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu các mặt hàng làm từ gỗ. * Môi trường kinh tế. Các yếu tố tộc độ phát triển kinh tế, tình hình lạm phát, sự ổn định tỉ giá, hệ thôngs thuế thuộc môi trường kinh tế là yếu tố tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nền kinh tế của quốc gia tăng trưởng hay giảm sút sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống nhân dân qua thu nhập và cách phân bổ thu nhập, tác động tới khả năng mở rộng hay thu hẹp quy mô thị trường của doanh nghiệp. Ngoài ra ta còn có thể kể đến một yếu tố thuộc môi trường kinh doanh ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu, tăng thị phần của doanh nghiệp như yếu tố khoa học công nghệ, môi trường sinh thái địa lý. b, Các yếu tố chủ quan. * ý chí của ban lãnh đạo. Hàng thủ công mỹ nghệ được doanh nghiệp chú ý phát triển ở thị trường nào trước hết phụ thuộc vào mục tiêu của ban lãnh đạo và sự kiên định theo đuổi mục tiêu đó. Khả năng kinh doanh ở mỗi thị trường có đội may rủi khác nhau và mỗi nhà lãnh đạo có thể chấp nhận may rủi ở những mức độ khác nhau và điều này ảnh hưởng đến quyết định chọn lựa cơ hội kinh doanh. Tiềm lực tài chính của doanh nghiệp, Là yếu tố quan trọng phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông qua khối lượng vốn mà doanh nghiệp huy động vào kinh doanh, khả năng phân phối quản lý có hiệu quả các nguồn vốn. Tiềm lực tài chính của doanh nghiệp thường được xem xét qua các chỉ tiêu như số vốn sở hữu, vốn huy động, tỉ lệ tái đầu tư từ lợi nhuận, khả năng chi trả nợ của doanh nghiệp, thông thường doanh nghiệp có khả năng và nguồn lực về tài chính mạnh mé thì việc tiến hành các hoạt động kinh doanh sẽ có nhiều thuận lợi hơn. Bên cạnh việc đầu tơ vào hoạt động sản xuất tổ chức mạng lưới thu mua hàng hoá, các hoạt động nghiên cứu thị trường, xúc tiến phân phối cũng được chú trọng hơn, trong hki ở các doanh nghiệp hạn hẹp về vốn, các hoạt động rất quan trọng nài nhiều khi bị cắt bỏ. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp hoạt động xuất khâủ các chi phí cho hoạt động tìm hiểu thị trường tham dự triển lãm quốc tế thường rất cao cho nên sự hạn chế đầu tư cho các hoạt động Marketing sẽ dẫn đến khó khăn trong cạnh tranh và phát triển thị trường. Sản phẩm của doanh nghiệp. Vì sản phẩm là đối tượng trực tiếp được tiêu dùng, được đánh giá về chất lượng mẫu mã nên nó chính là nhân tố quyết định khiến người tiêu dùng mua sản phẩm. Để mở rộng được thị trường của mình, các sản phẩm của doanh nghiệp trước hết phảy chó chất lượng, kiểu dáng phù hợp với thị hiếu nhu cầu của khách hàng. Các sản phẩm thủ công như mây tre đan thường bị biến dạng hay bị mốc do sự biến đổi của thời tiết. Nừu như khi tiến hành xuất khẩu doanh nghiệp chú ý đến iếu tố nài thì sẽ tránh được tình trạng hàng xuất bị trả lại. Khả năng kiểm soát, chi phí độ tin cậy của nguồn cung cáp hàng hoá. Với các doanh nghiệp thương mại kinh dpanh xuất khẩu thủ công mỹ nghệ nguồn hàng cho xuất khẩu chủ iếu thu mua từ các chân hàng : các hợp tác xã, các làng nghề, hộ gia đình hoặc doanh nghiệp sản xuất. Khả năng kiểm soát nguồn cung cấp hàng hoá ảnh hưởng đến đàu vào của doanh nghiệp và tác dộng mạnh mẽ đến kết quả thực hiện các hoạt động kinh doanh cũng như ở khâu cuối cùng là tiêu thụ sản phẩm. Việc kiểm soát chi phối nguồn hàng tốt sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp chủ động về nguồn cung cấp : an tâm về chất lượng hàng hoá, số lượnghang hoá cũng như đảm bảo được tiến độ giao hàng cho khách. Nguồn cung cấp ổn định còn giúp doanh nghiệp không tốn nhiều công sức và chi phí, ổn định được giá đầu vào. ngoày ra, đyều nài còn giúp doanh nghiệp liên kết được với các đơn vị sản xuất để tạo ra những sản phẩm phù hợp với iêu cầu người tieu dùng. Tổ chức tốt nguồn hàng đầu vào sẽ giúp doanh nghiệp ổn đinh được chất lượng, giá cả sản phẩm, đảm bảo chữ tín trong kinh doanh. Con người và tiềm lực vô hình của doanh nghiệp. Nguồn nhân lực có vai trò hết sức quan trọng đối với sự thành công của doanh nghiệp nói chung và công tác phát triển thị trường nói riêng. Bởi vì chính con người thu thập các thông tin đầu vào để hoạch định mục tiêu lựa chọn và thực hiện các chiến lược thị trường cảu doanh nghiệp. Công việc được thực hiện tốt đến đâu phụ thuộc vào trình độ của cán bộ nhân viên. với đội ngũ cán bọ kinh doanh có tố chất năng động, am hiểu về mặt hàng thủ công mỹ nghệ trong nước và quốc tế, có kinh nghiệm kinh doanh ngoại thương... sẽ giúp doanh nghiệp dễ dàng thích nghi với mọi thay đổi của nền kinh tế, nhanh chóng phán đoán được tình thế, chớp được thời cơ tạo thế vững chắc trên thị trường. Chương ii : thực trạng hạot động xuất khẩu tại tocontap Khái quát chung về Công ty TOCONTAP. 1, Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Công ty. Công ty xuất nhập khẩu Tạp phẩm Hà Nội có tên giao dịch là Vietnam National Sundries inport and export Company (Viết tắt là TOCONTAP). Trụ sở : 36 Bà Triệu, Hà Nội. Được thành lập ngày 5/3/1956 với tên gọi ban dầu là Tổng Cong ty xuất nhập khẩu Tạp phẩm trực thuộc Bộ Thương Mại, Công ty là một doanh ngiệp Nhà nước được phét xuất nhập khẩu tất cả các mặt hàng mà luật phát Việt Nam không cấm. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động, tổ chức của Công ty có nhiều thay dổi, một số bộ phận được tách ra để thành lập các Công ty khác : Năm 1964 : Tách thành lập ARTEXPOT. Năm 1971 : Tách thành lập BAROTEX. Năm 1972 : Tách các cơ sở sản xuất giao cho Bộ công nghiệp nhẹ quản lý. Năm 1978 : Tách thành lập TEXTIMEX. Năm 1985 : Tách thành lập MECANIMEX. Năm 1987 : Tách thành lập LEAPRDOXIM. Năm 1990 : Tách ông ty xuất nhập khẩu phía nam thành Công ty trực thuộc Bộ Thương Mại. Đến năm 1993, để đáp ứng điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường, theo đề nghị của Vụ trưởng Vụ tổ chức và của giám đốc Công ty xuất nhập khẩu Tạp phẩm. Bộ Thương Mại ra quyết định thành lập doanh nghiệp Nhà nước số 333 TM/TCCB ngày 31/3/1993 : Tên Công ty : Công ty xuất nhập khẩu Tạp phẩm Hà Nội. Tên giao dịch : TOCONTAP. Trụ sở : Số 36 Bà Triệu, Hà Nội. Số tài khoản : 00.110.370005 tại Ngân hàng Ngoại thương Viật Nam. Trải qua 45 năm hoạt động và pháy triển, Công ty đã thiết lập được một mạng lưới kinh doanh quốc tế, quan hệ hợp tác với các tổ chức, các Công ty ở trên 70 quốc gia tren thế giới. Không chỉ mở rộng mối quan hệ đối tác, Công ty còn tiến hành phát triển nhiều hình thức giao dịch kinh doanh cũng như mở rộng nhiều mặt hàng kinh doanh để tận dụng các cơ hội thuận lợi mà thị trường đem lại.. Với một nguồn lực năng động, có trình độ, kết hợp với những kinh nghiệm tích luỹ được trong thời gian qua, Công ty hoàn toàn có thể phát triển hơn nữa, xứng đáng trở thành một Công ty lớn của Bộ Thương Mại. 2. Chức năng nhiệm vụ và tổ chức Bộ máy của Công ty. A, Chức năng hoạt động. Chức năng chủ yếu của Công ty là tiến hành các hoạt động xuất nhập khẩu, trong đó : Tổ chức xuất khẩu trực tiếp các loại hàng hoá không thuộc danh mục cấm. Tổ chức tiêu thụ các mặt hàng nhập khẩu. Nhận xuất khẩu uỷ thác, làm đại lý cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Ngoài ra, Công ty còn có thể tiến hành cá hoạt động sản xuất, gia công hàng hoá phục vụ cho việc xuất khẩu hoặc kinh doanh trong nước. Một số mặt hàng kinh doanh chủ yếu của Công ty : Giấy và bột giấy các loại. Hàng nông, lâm, thuỷ hải sản. Hàng thủ công mỹ nghệ. Hàng may mặc vải. Giầy dép thành phẩm và bán thành phẩm. Da và các sản phẩm từ da. Các thiết bị điện dân dụng và công nghiệp. Các thiết bị dành cho điện ảnh,nhiếp ảnh, hàng điện tử dân dụng. Dụng cụ đồ chơi trẻ em, Hàng bảo hộ lao động. Đồ dùng tranh trí nội thất trong gia đình, nhà hàng khách sạn. b, Nhiệm vụ của Công ty. Là một doanh nghiệp Nhà nước, Công ty có nhiệm vụ bảo toànvà phát triển tổng số vốn Nhà nước giao cho, thực hiện chế độ hạch toán độc lập, tự chủ về tài chính. Công ty có nhiệm vụ hoàn thành các chỉ tiêu do Bộ đề ra, có nghĩa vụ nộp ngân sách cho Nhà nước. Công ty phải tiến hành kinh doanh theo đúng luật pháp, chịu trách nhiệm về kinh tế và dân sự, đối với các hoạt động kinh doanh và tài sản của mình. Phát huy ưu thế, uy tín của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế, củng cố và mở rộng các mối quan hệ kinh tế, đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng sản xuất trong và ngoài nước. c, Cơ cấu bộ máy tố chức. Đứng đầu Công ty là tổng giám đốc, do Bộ Thương Mại bổ nhiệm và miễn nhiệm, tổng giám đốc của Công ty hiện nay là bà Bùi Thị Tuệ. Tổng giám đốc điều hành trực tiếp mọi hoạt động cảu Công ty đến tất cả các phòng, các cơ sở sản xuất kinh doanh trong Công ty và chịu trách nhiệm trước Bộ Thương Mại. Giúp việc cho tổng giám đốc có 2 phó tổng giám đốc. Một phó tổng giám đốc chịu trách nhiệm điều hành các phòng ban quản lý. Một phó tổng giám đốc được uỷ nhiệm duyệt các phương án kinh doanh của Công ty, các chi nhánh và các phòng nghiệp vụ xuất nhập khẩu. Trước kia Công ty có 10 phòng ban quản lý, năm 1997 rút xuống còn7 phòng và hiện nay được sắp xếp thu gọn lại còn 4 phòng gồm : phòng tổng hợp : Phòng có chức năng tổng hợp các vấn đề đối nội, đối ngoại, sản xuất kinh doanh cảu Công ty, lập các báo cáo tổng hợp trình Bộ chủ quản và các ngành có liên quan. Thẩm định các phương án kinh doanh nhập khẩu, trước khi trình kí đồng thời hướng dẫn các đơn vị xây dựng kế hoạch kinh doanh và báo cáo tổng hợp theo tháng, quý... Ngoài ra còn có nhiệm vụ biên dịch, phiên dịch các tài liệu phục vụ cho kinh doanh, tìm hiểu các đối tác thu thập các thông tin về tình hình giá cả hàng hoá, tình hình biến động thị trường... và các thông tin về luật pháp, tập quán thương mại, vận chuyển ở các quốc gia, giúp ban giám đốc và các phòng kinh doanh nắm rõ tình hình và các chính sách thích ứng. Phòng tổ chức lao động. Phòng có chức năng tham mưu cho ban giám đốc về việc tổ chức bộ máy, tuyển dụng, sắp xếp bố trí lao động vào những việc phù hợp, phòng cũng có trách nhiệm đào tạo bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ kinh doanh, giải quyết khiếu nại, tố tụng và đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Phòng tài chính kế toán. Thực hiện chức năng giám sát tiền tệ thông qua việc kiểm soát và quản lý vốn, tài sản của Công ty, phòng có trách nhiệm xây dựng quy chế, phương thức cho vay vốn, bảo lãnh vốn vay Ngân hàng và giám sát việc sử dụng vốn nhằm ngăn chặn nguy cơ tồn đọng vốn, thâm hụt vốn. Phòng có nhiệm vụ tham mưu cho ban giám đốc về việc lập kế hoạch và kiểm tra thực hiện kế hoạch taì chính của các phòng kinh doanh. Ngoài ra phòng còn có nhiệm vụ kiểm tra việc thực hiện các phương án đã duyệt và đối chiếu cứng từ để giúp cho đơn vị hạch toán chính xác, góp ý và chịu trách nhiệm với từng phương án kinh doanh cụ thể, xác định lổ lãi để trả tiền cho từng đơn vị. Phòng hành chính quản trị. Phòng này có chức năng điều hành toàn bộ hoạt động chung của Công ty, các hoạt động của công đoàn và đoàn thể. Quản lý văn thư, lưu trữ, điện thoại, Fax, telex, vưn phòng phẩm điều hành xe và các phương tiện làm việc để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Phòng còn có nhiệm vụ duy trì thời gian làm việc, sữa chữa nhà cửa đảm bảo môi trường của Công ty luôn sạch đẹp văn minh. Các phòng kinh doanh. Trước đây Công ty có 6 phòng nghiệp vụ gồm 3 phòng chuyên nhập, 3 phòng chuyên xuất. Nhưng do tình hình thực tế có nhiều thay đổi nên công ty chuyển chức năng phòng nghiệp vụ thành phòng xuất nhập khẩu tổng hợp nhằm tận dụng mọi khả năng quan hệ giao dịch của các thành viên trong Công ty. Hiện nay Công ty có 7 phòng xuất nhập khẩu tổng hợp, 2 chi nhánh tại Hải Phòng và TP Hồ Chí Minh ( Với chức năng giao nhận hàng hoá và nếu có điều kiện tiến hành thêm hoạt động kinh doanh) và xí nghiệp TOCAN (liên doanh với CANADA để sản xuất chổi quét sơn và con lăn tường. Phòng XNK I : Chuyên môn về XNK giấy và bột giấy và các sản phẩm khác bao gồm giấy báo giấy viết, corton, giấy kép, giấy vệ sinh, giấy photo... Sản phẩm điện(máy in, máy tính). Phòng XNK II : chuyên kinh doanh các dụng cụ văn phòng phẩm. Các loại mỹ phẩm, đồ thể thao, đồ chơi trẻ em và vă hoá phẩm, đay và các sản phẩm từ đay, sản phẩm cao su như lốp, săm xe đạp, máy và ô tô. Phòng XNK III : chuyên doanh sản phẩm dệt, may, quần áo, sản phẩm dệt làm bằng de lông cừu, quần áo lao động, quần áo ngủ, khăn trả bàn, mũ corton, hàng thêu... Phòng XNK IV : Chuyên doanh sản phẩm điện (ti vi, điều hoà nhiệt độ, máy hút bụi) dụng cụ văn phòng phẩm, rượu mạnh, sơn và nguyên liệu sơn, một số loại gấiy... Phòng XNK V : Chuyên doanh sản phẩm mây tre đan, thực phẩm, sữa tươi, vật liệu xây dựng, trang trí nội thất, mỹ phẩm, sản phẩm nhựa... Phòng XNK VI : Chuyên doanh máy móc thiết bị điện, cáp và các loại dây dẫn, bóng điện, thiết bị văn phòng, sản phẩm văn hoá, máy quay phim, nguyên liệu len và sản phẩm giấy ăn... Phòng XNK VII : Chuyên doanh sản phẩm nông nghiệp, các loại gia vị, hàng nghệ thuật và thủ công nghiệp, sản phẩm từ gỗ, thiết bị y tế, ô tô máy công nghiệp, các loại giày và dép làm từ các nguyên liệu khác nhau... Phòng XNK VIII : Chuyên doanh sản phẩm gốm sứ, hàng sơn mài, các loại túi, nguyên liệu sản xuất mỳ sợi, thảm đay và thảm len, thiết bị giáo dục, thiết bị thí nghiệm và các loại trái cây khô... 3. Đặc điểm về vốn kinh doanh và cơ sở vật chất kĩ thuật Công ty xuất nhập khẩu Tạp phẩm Hà Nội được thành lập với số vốn điều lệ 28.573,7 triệu đồng trong đó vốn từ ngân sách Nhà nước cấp là 19 tỷ đồng, còn lại là vốn tự có của Công ty. Trong quá trình hoạt động Công ty đã bổ xung thêm 17.219 triệu đồng đưa tổng số vốn của Công ty tính đến nay đã lên tới 45,18 tỷ đồng. Số vốn kinh doanh tăng nhanh chủ yếu là do Công ty đã chú trọng đầu tư mở rộng hoạt động kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh. Bên cạnh sự thay đổi về quy mô vốn, cơ cấu vốn cũng thay đổi rõ rệt. Khi được thành lập số vốn cố định là 1.962,2 triệu đồng, vốn lưu động là 26.611,5 triệu đồng. Như vậy, số vốn cố định chiếm một phàn rất nhỏ so với số vốn lưu động.Điều này hoàn toàn phù hợp với hoạt đồng kinh doanh thuần tuý của Công ty. Tuy nhiên đến nay cơ cấu vốn của Công ty đã thay đổi, vốn cố định chiếm 19.164,6 triệu đồng (42%), vốn lưu động chiếm 56%. Như vậy vốn cố định và vốn lưu động không chênh lệch nhau nhiều trong khi vốn cố định của các cong ty thương mại khác chỉ chiếm từ 25- 30%. Nó cho thấy sự khác biệt giữa Công ty với các công ty khác. Đó là do từ năm 1994, Công ty đã nhận góp vốn liên doanh với CANADA để sản xuất chổi quét sơn. Năm 1997 Công ty hợp đồng gia công hàng may mặc với Nhật trong 7 năm với máy móc do Nhật đưa sang với trị giá gần 300.000 USD. Vì vậy, tài sản cố định của Công ty mới nhanh chóng tăng lên và chiếm tỉ trọng lớn trong vốn kinh doanh. Công ty thường tìm đối tượng tiêu thụ trước rồi với tiến hành thu mua hàng sau, lượng bán lẻ cũng không đáng kể nên ượng hàng tồn kho không ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả sử dụng vốn. Thông thường, trong một năm vòng quay vốn của Công ty từ 5,35 – 7,7 vòng/năm tức là tời gian hoàn vốn từ 67,7 ngày/vòng. Do hoạt động xuất nhập khẩu mất nhiều thời gian cho khâu chuẩn bị hàng hoá, vận chuyển giao nhận... và trong nhiều trường hợp khách hàng thanh toán chậm nên với thời gian thực hiện một vòng quay của vốn như vậy là hợp lý. Vốn lưu động của Công ty chủ yếu dưới dạng tièn hàng hoá và các khoản phải thu từ khách hàng. Do phương thức thanh toán cũng như phương thức mua bán ngoại thương mà số vốn lưu động của Công ty vào thời điểm 31/12/2000 chủ yếu ở dươi hình thái các khoản phả thu, tiền gửi ngân hàng và hàng hoá còn lượng tiền mặt chiếm tỉ trọng rất ít vì thanh toán chủ yếu qua ngân hàng. Khi được thành lập tài sản cố địng của Công ty tập trung chủ yếu vào các dạng vật kiến trúc như trụ sở, cửa hàng, kho bãi, các trang thết bị làm việc và các phương tiện vận chuyển.Tuy nhiên, cho đến nay thì tài sản cố định còn bao gồm cả các máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất. Có thể nói cơ sở vật chất kĩ thuật của Công ty khá tốt. Trụ sở kinh doanh tại 36 Bà Triệu được trú trọng sữa chữa khang trang sạch sẽ. Các phòng ban được trang bị đầy đủ các trang thiết bị làm việc, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh giao dịch nhanh chóng hiệu quả. Do hoạt động thương mại nên công ty thường đảm nhận việc bảo quản hàng hoá cũng như giao hàng theo yêu cầu của khách hàng. Công ty đã tổ chức một đội xe gồm 9 chiếc trong đó có 2 chiếc phục vụ hội họp và 7 chiếc phục vụ giao nhận hàng hoá nhằm đáp ứng việc vận chuyển hàng hoá. Công ty cũng đã xây dựng một kho hàng tại Hải Phòng vừa dùng để bảo quản hành hoá vừa dùng để kinh doanh thêm. Nhờ có điều kiện vật chất như thế nên công ty phục vụ khách hàng rất tốt. 4. Thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty trong những năm vừa qua. Chỉ tiêu doanh thu. Doanh thu của công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm phụ thuộc chủ yêu vào hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá từ dịch vụ nhận uỷ thác xuất nhập khẩu. Vì vậy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu của công ty. Bảng 4: Tình hình thực hiện kế hoạch doanh thu của Công ty 5 năm 1997 - 2001 Năm Doanh thu Kế hoạch Thực hiện Hoàn thành Tăng giảm 1997 72.940 142.542,7 195,4 1998 120.000 204.872,0 164,0 44 1999 90.000 104.842,0 116,5 -48,8 2000 150.000 185.372,0 123,6 76,8 2001 170.000 286.380,0 168,5 54,5 Nguồn: Phòng tài chính kế toán Vượt qua nhữnh khó khăn trong hai năm 1995 và 1996 doanh thu của công ty đã tăng trở lại từ 81,821tỉ đồng năm 1996 lên 142,542tỉ đồng năm 1997. So với kim ngạch xuất nhập khẩu là 25,087triệu USD thì mức doanh số này chưa cao vì các hoạt động phần lớn là uỷ thác(chiếm 50,5% giá trị xuất nhập khẩu). Nừu công ty tư thì doanh thu phải là 300tỉ đồng. Sang năm 1998, doanh thu đạt mức tăng kỷ lục trong nhữnh năm gần đây với 204,872tỉ đồng, hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra là 84,872tỉ đồng(vượt 64%). Năm 1999 hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và của công ty nói chung bị ảnh hưởng của các luật thuế mới và nhất là thuế VAT. Do thuế VAT không được hạch toán vào doanh thu nên doanh thu giảm xuống, tỷ lệ nộp thuế VAT tăng gấp 10 lần so với thuế doanh thu(các năm trước công ty nộp thuế doanh thu bằng 15% chênh lệch giữa giá bán và giá mua, chỉ chiếm khoảnh 0,68% doanh thu) nên đã đẩy giá bán lên, dẫn đến không bán được hàng. Với nhữnh lí do trên doanh thu của công ty giảm xuống đáng kể còn 104,82tỉ đồng mặc dù vẫn đạt kế hoạch đặt ra. Năm 2000 do kim ngạch XNK phục hồi trở lại nên doanh thu cũng đã tăng trở lại 185,372 tỷ đồng tăng 76,8%. Sang năm 2001, doanh thu của Công ty cũng tăng nhưng tốc độ chậm hơn năm 2000. tuy vậy, mức doanh thu vẫn đạt kỉ lục trong một thập kỉ qua với mức 286.380 tỷ đồng, cũng là mức doanh thu tương đối cao so với kim ngạch XNK. Nhìn chung năm qua doanh thu của Công ty đã vượt mức kế hoạch đề ra, từ năm 1999 doanh thu giảm do ảnh hưởng của chính sách Nhà nước, còn lại các năm luôn đạt mức cao, do vậy chiến lược kinh doanh của Công ty luôn được đảm bảo thực hiện tốt. Chỉ tiêu chi phí. Chí phí hoạt động kinh doanh của công ty bao gồm chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Chi phí kinh doanh nhiều hay ít phụ thuộc vào khối lượng hàng hoá kinh doanh, một phần phụ thuộc vào ý thức tiết kiệm, chống lãng phí của cán bộ công nhân viên. Chi phí ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận do đó giảm chi phí để tăng lợi nhuận là mục đích của mọi doanh nghiệp. Bảng 5: Tình hình chi phí kinh doanh của Công ty Đơn vị: Triệu đồng Năm 1997 1998 1999 2000 2001 Giá trị %DT Giá trị %DT Giá trị %DT Giá trị %DT Giá trị %DT Chi phí KD 4.917 6,5 5736,5 2,7 2.639,0 2,5 11.425 6,1 19.917 6,9 CP trực tiếp 3.991,2 4,8 4.712,1 2,2 2.096,8 2,0 9.369 5,0 17.854 6,2 CP gián tiếp 925,8 1,7 1024,4 0,5 542,2 0,5 2.056 1,1 2.063 0,7 Năm 1996 chi phí kinh doanh của Công ty là 5.360,3 triệu đồng, trong đó chi phí quản lý là 1.415 triệu đồng, chi phí trực tiếp là 3.945,3 triệu đồng. So với năm khác ta thấy chi phí kinh doanh của năm 1996 gần bằng mức chi của năm 1998 và cao hơn chi phí bỏ ra các năm... ... ... thế nhưng doanh số năm 1996 lại nhỏ nhất, chỉ bằng 40% năm 1999, chi phí kinh doanh năm 1996 bằng 6,5 daonh thu và nếu như năm 1997 tính theo tỉ lệ này Công ty sẽ phải bỏ ra 9.265,3 triệu đồng. Nhưng thực tế, Công ty chỉ phải chi 4.917 triệu đồng tức là tiết kiệm được 4,3 tỉ đồng. Nhứng thực tế cho thấy, việc chi tiêu của Công ty đã hiệu quả hơn, tỉ lệ chi phí trên doanh số đã giảm xuống rõ rệt còn 2,7% năm 1999. Sở dĩ Công ty tiết kiệm được một lượng tương đối lớn là do cơ chế khoán kinh doanh đem lại, việc khoán lãi đến từng phòng kinh doanh tức là hạch toán được thực hiện ở cấp phòng. Điều này khiến các phòng phải tiết kiệm chi phí, cắt bỏ các khoản chi không cần thiết, sử dụng các trang thiết bị, dụngcụ và thực hiện công việc có hiệu quả hơn. các cán bộ có trách nhiệm hơn trong việc sử dụng vốn, chấm dứt tình trạng sử dụng tuỳ tiện lãng phí hoặc vào mục đích riêng. Tạo cho cán bộ công nhân viên một tinh thân chống lãng phí để nâng cao hiệu quả kinh doanh của coong ty. Sang năm 2000 và 2001 do công ty phải chi phí cho việc giới thiệu sản phẩm sang thị trường mới, thường xuyên cử cán bộ đi triển lãm sản phẩm ở nước ngoài, đào tạo nâng cao trìn độ nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên nên chi phí kinh doanh đã chiếm phần lơns trong doanh thu. Đặc biệt năm 2001 chi phí kinh doanh chiếm 6,9% doanh thu bằng 19,917 tỷ dồng, chi phí trực tiếp 17,854 tỷ đồng, chi phí gián tiếp 2,063 tỷ đồng cao nhất tròng 5 năm trở lại đây. C, Chỉ tiêu lợi nhuận. Mặc dù trong thời gian qua tình hình kinh oanh của Công ty còn nhiều biến động, thể hiện qua kim ngạch XNK, nhưng Công ty vẫn là đơn vị kinh doanh có lãi. Bảng 6: Một số chỉ tiêu tài chính của Công ty Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 2001 Lợi nhuận 1.566,7 1799,5 1.186,8 2.022 2.100 Nộp ngân sách 16.971,8 29.969 22.617,8 45.888 33.336 Thuế XNK 14.491,7 26.892 9.865 15.966 15.910,3 Thuế VAT - - 10.986 24.374 11.860 Thuế TTDB 913,4 1.277,4 581 3.829 3.815 Thuế lợi tức 705 809,8 379,3 647 670 Thu SD vốn 861,7 989,7 806,5 1.069,6 828 Phải nộp khác - - - 2,4 252 Nừu như vào năm 1995, khó khăn nhất kinh doanh chỉ hoà vốn thì đến năm 1996 lợi nhuận thu được là 465,14 triệu đồng và năm 1997 đạt mức cao là 1566,7 triệu đồng tăng 56,67 so với kế hoạch đề ra. Đạt được kết quả này trong bối cảnh thương trường cạnh tranh hết sức khốc liệt, nhiều yếu tố khó khăn khách quan, trước hết do sự cố gắng của cán bộ nghiệp vụ kinh doanh,. Nừu như năm 1996 chỉ có 30% cán bộ nghiệp vụ có hợp đồng thì đến năm 1997 con số này là 80%. Ngoài ra còn phỉa kể đến chính sách tiết kiệm, chốnh lãng phí được quán triệt, giảm đươc cả chi phí trực tiếp lẫn chi phí gián tiếp, đã góp phần tích cực trong việc nâng cao lợi nhuận. Ta thấy trong 5 năm qua Công ty luôn giữ được mức tăng lợi nhuận mức tăng trung bình là 31,8% rè năm 1999 lợi nhuận Công ty giảm 34% sovới năm 1998. như vậy lợi nhuận giảm nhưng tỉ suất lợi nhuận trên doanh thu vẫn tăng so với năm 1998 diều này chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của Công ty càng ngày càng tăng luôn vượt mức kế hoạch đề ra. Mặc dù có nhiều biến động về kinh tế, tiền tệ và moi mặt ở các nước trong khu vực cũng như trên toàn thế giới, Công ty vẫn duy trì được hoạt động kinh doanh, đảm bảo nhịp độ phát triển, lợi nhuận năm 1998 đạt 1799,5 triệu đồng tăng 14,8% so với năm 1997 và bằng 108,2% kế hoạch được giao. Đây là kết quả tất yếu của cơ chế quản lý kinh doanh đúng hướng. Kế hoạch lợi nhuận Bộ giao cho Công ty trong năm 1999 phải đạt 1300 triệu đồng. Nhưng do doanh thu từ hoạt động uỷ thác giảm rõ rệt (Từ mức chiếm 51,8% trong năm 1998 xuống 32% kim ngạch xuấtnhập khẩu năm 1999 ) đã ảnh hưởng đến lợi nhuận kinh doanh. Mặt khác tình hình thị trường ngày càng khó khăn, sức mua giảm thị trường kém sôi động khiến tỉ suất lợi nhuận trong kinh doanh mỗi ngày một thấp, tác động xấu đến kết quả kinh doanh. Là một doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh đúng pháp luật nên Công ty luôn luôn nghiêm chỉnh chấp hành nộp ngân sách cho Nhà nước. Năm 1998 nộp cho Nhà nước là 29,969 tỉ đồng, năm 1999 nộp………….. năm 2000 nộp…………..năm 2001 nộp………….. Do tình hình xuất nhập khẩu trong năm 1999 của Công ty giảm sút nên thuế xuất nhập khẩu cũng giảm xuống còn 9,865 ti đồng. Nguyên nhân là do từ 1/1/1999 thuế VAT ra đời thay thế cho thuế doanh thu và tỉ lệ nộp lớn gấp 10 lần thuế doanh thu, đạt mức 10,986 tỉ đồng. ………………….. D, Một số chỉ tiêu khác. Được Nhà nước giao vốn để kinh doanh, Công ty phải có nghĩa vụ bảo toàn và phát triển nguồn vốn đó. Cho đến nay số vốn của Công ty là 45.798,3 triệu đồng, và không chênh lệch nhiều so với năm trước. Số vốn lưu động 3 năm gần đây được cố định ở mức 26.572,7 triệu đồng, chiếm tỷ tọng 58,16% tổng số vốn kinh doanh. Sở dĩ vốn lưu động của Công ty không đổi là do Công ty chưa sử dụng vốn một cách triệt để, vẫn còn tình trạng vốn nhàn rỗi. Trong khi vốn lưu động không đổi thì vốn cố định có tăng lên một chú ít do Công ty đâu tư đầu tư mua sắm thêm một số trang thiết bị dụng cụ làm việc. Việc sử dụng vốn của Công ty ngày càng hiệu quả hơn, thời gian quay vòng vốn ngày càng được rút ngắn từ 77,8 ngày/vòng trongnăm 1996 nay xuống còn 67,3 ngày. Sang năm 1998, cán bộ kinh doanh tăng nhanh xuay vòng vốn, thời hạn thu hồi vốn là 46,7 ngày, cả năm quay được 7,7 vòng và đây là múc kỉ lục. Trong năm này toàn bộ số vốn đã được huy động và toàn Côngty đã phải vay thêm vốn để kinh doanh. Thế nhưng hầu hết các khoản vay là ngắn hạn do đó đến cuối năm 1998 Công ty đã thanh toán hết. Trong năm 1999, số vòng quay chỉ đạt 3,94 vòng khiến cho thời gian hoàn vốn lên tới 91,4 ngày. Việc quay vôn chậm một phần do hoạt động kinh doanh khong đạt được mức như các năm trước, một phần là do tác động của thuế VAT. Năm 2000 và 2001 tình hình có được cải thiện nhất là năm 2001 vòng quay vốn đã đạt mức gần bằng năm 1998. Theo cơ chế quản lý tài chính mới, ban hành thực hiện từ năm 1997 : Thuế vốn phải nộp sau thuế lợi tức nên trong những năm qua Công ty luôn làm ăn có lãi những mới chỉ đủ để nộp thuế vốn nên không còn đủ đẻ trích lập các quỹ phát triển kinh doanh, quỹ xây dựng cơ bản. Cùng với sự tiến triển trong hoạt động kinh doanh, đời sống của cán bộ công nhân viên cũng đợc cải thiện. Thu nhập bình quân của cán bộ công nhân viên đã đủ trang trải đời sống vật chất. Hiện nay, tổng số lao động của Công ty là 343 người trong đó xí nghiệp TOCAN là 203 người. Ta thấy so vơi những năm trước số lao động tăng lên gần 100 người, chủ yếu là do yêu cầu mởo rộng sản xuất ở xí nghiệp TOCAN và bổ sung một số cán bộ tre có năng lực. có thể nói nguồn nhân lực là một thế mạnh của Công ty. Trong số 140 cán bộ công nhân viên của Công ty thi 74% cán b0ọ có trình độ đại học của 15 trường đại học khác nhau(trên 50% tốt nghiệp đại học ngoại thương). Trong thời gian qua, Công ty đã kết hợp tốt sự năng động của những cán bộ trẻ với sự kinh nghiệm tích luỹ được trong 44năm qua, đảm bảo thành công trong từng thương vụ và sự phát triển vững chắc trong tương lai. Qua tình hình kinh doanh và thu nhập của cán bộ trong Công ty ta thấy việc khoán lãi đến các phòng kinh doanh, gắn lợi ichs vật chất và trách nhiệm công việc chứng tỏ là một hướng đi có hiệu quả cho đến nay hầu hết cán bộ Công ty đã có một thái độ phương pháp kinh doanh nghiêm túc, có trách nhiệm với đồng vốn bỏ ra. Công ty đã biết hoà nhập vơi cơ chế thị trường, chấm dứt tình trạng làm ăn thụ động, không tính toán đến hiệu quả kinh doanh. Đánh giá chung về hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong thời gian qua. 1, Phân tích chung về kết quả kinh doanh của Công ty. a, Kim ngạch xuất nhập khẩu. Những năm đầu thập kỉ 90, tình hình kinh doanh của Công ty xuất nhập khẩu Tạp phẩm Hà Nội giảm sút nhanh chóng từ mức 77,53 triệu năm 1990 xuống 36,32 triệu USD năm 1991 và 15,25 triệu năm 1992 khó khăn tiêp tục đến với Công ty trong những năm sau, mặc dù Công ty đã có những cố gắng chuyển hướng kinh doanh trên các thị trường mới như : Nhật, Đài Loan, Singapore, Hồng Kông, Đan Mạch, Canada,... Đơn vị : Triệu USD Năm Kim ngạchXNK._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28751.doc
Tài liệu liên quan