Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản tại Công ty cổ phần XNK và hợp tác đầu tư Vilexim

Lời cam đoan Em xin cam đoan tất cả những số liệu trên là trung thực và hoàn toàn phù hợp với thời gian thực tập do công ty cổ phần xuất nhập khẩu VILEXIM cung cấp. Tất cả các bảng biểu và số liệu đều chính xác không bị thay đổi. Về phần em, bài viết đều đợc làm từ các t liệu tham khảo và không hề sao chép từ bất cứ một bài viết nào trớc đó. Sinh viên Vũ Văn Khơng Lời cảm ơn Em xin chân trọng cảm ơn cô giáo Thạc sỹ. Nguyễn Thị Thanh Hà - Giáo viên hướng dẫn - người đã cung cấp cho e

doc69 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1285 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản tại Công ty cổ phần XNK và hợp tác đầu tư Vilexim, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m những thông tin quý báu, tận tình chỉ bảo giúp đỡ em trong suốt quá trình hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này. Và em cũng xin chân thành cảm ơn các thày cô giáo giảng dạy trong khoa Kinh Tế - Kinh Doanh Quốc Tế trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân và các cô chú cán bộ thuộc các phòng ban trong công ty thuộc công ty VILEXIM đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Một lần nữa em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến tất cả những người đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này và cũng xin được thông cảm cho em những sai sót mắc phải trong quá trình thực tập. Sinh viên Vũ văn Khương lời mở đầu 1. Lý do chọn đề tài. Ngày nay, hoạt động xuất nhập khẩu có một vai trò rất lớn trong tổng thể hệ thống của mọi quốc gia trên thế giới. Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, hoạt động này càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, mang tính chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế, tạo tiền đề vững chắc để thực hiện công nghiệp hoá hiện hoá đất nước. Bởi vậy, trong chính sách kinh tế của mình. Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều lần khẳng định “ Coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại ” và coi đó là một trong ba chương trình kinh tế lớn phải tập trung thực hiện. Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư Vilexim là một đơn vị kinh doanh độc lập, trực thuộc Bộ Thương mại đã ngày càng khẳng định vị trí của mình trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Tuy vậy, trớc mắt Công ty không chỉ là những cơ hội mà còn có rất nhiều khó khăn thách thức cần phải vượt qua khi Việt Nam gia nhập tổ chức WTO . Bằng kiến thức chuyên môn đã được học tại trờng đại học, kết hợp với những hiểu biết thu được trong thời gian thực tập tại Công ty, em quyết định lựa chọn viết đề tài:” Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản tại công ty cổ phần Xuất nhập khâủ và hợp tác đầu tư Vilexim”. 2. Mục đích nghiên cứu. Mục đích của đề tài này là nhằm tìm hiểu hoạt động xuất khẩu hàng hoá, đồng thời đa ra một số giải pháp thúc đẩy và nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động này của công ty. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là thực trạng xuất khẩu hàng nông sản của công ty trong giai đoạn hiên nay , bao gồm cả kim nghạch và thị trờng, hiệu quả xuất khẩu và khả năng cạnh tranh, đặt trong bối cảnh quá trình hội nhập kinh tế thế giới. Phạm vi nghiên cứu: Chuyên đề thực tập nghiên cứu một cách tổng quát các mặt hàng nông sản xuất khẩu của công ty với số liệu chủ yếu trong giai đoạn 2001-2005. 4. Phương pháp nghiên cứu Chuyên đề này sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau như phương pháp đối chiếu, so sánh, bảng biểu, phân tích tổng hợp cùng các phương pháp khái quát và hệ thống. 5. Bố cục của chuyên đề đợc chia làm ba chương: ChươngI. Một số lí luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu hàng hoá và các đặc trưng của xuất khẩu nông sản. Chương II. Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng nông sản tại công ty cổ phần VILEXIM Chương III. Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản của công ty cổ phần VILEXIM Do còn hạn chế về thời gian, kiến thức chuyên môn cũng nh kinh nghiệm thực tế nên bài viết này không thể tránh khỏi những thiếu sót cả về nội dung và hình thức. Do đó, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thày cô giáo cũng như các bạn để bài viết này được hoàn thiện. Qua đây em xin chân thành cảm ơn cô giáo Th.s Nguyễn thị thanh Hà đã tận tình giúp đỡ để em hoàn thành chuyên đề thực tập này. Đồng thời em cũng xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo công ty cùng toàn thể cán bộ phòng xuất nhập khâủ đã tạo mọi điều kiện và đóng góp ý kiến để giúp em hoàn thành chuyên đề này. Hà Nội ngày 22 tháng 07 năm 2005 Sinh viên thực hiện Vũ Văn Khương Chương I Một số lí luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu hàng hoá và các đặc trưng của xuất khẩu nông sản. I. khái niệm, vai trò của xuất khẩu 1. Khái niệm: Xuất khẩu hàng hoá là việc bán, cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho bên nước ngoài trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một bên hay hai hoặc nhiều bên đối tác. Cơ sở của hoạt động xuất khẩu là hoạt động mua bán và trao đổi hàng hoá (Bao gồm cả hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình) trong nước. Khi sản xuất phát triển và trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia có lợi, hoạt động này mở rộng phạm vi ra ngoài biên giới của các quốc gia hoặc thị trường nội địa và khu chế xuất ở trong nước. Xuất khẩu nhằm khai thác được lợi thế so sánh của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Xuất khẩu là một hoạt động cơ bản của hoạt động ngoại thương, xuất hiện từ lâu đời, ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu. Hình thức cơ bản ban đầu của nó là hoạt động trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia, cho đến nay nó đã rất phát triển và được thể hiện thông qua nhiều hình thức. Hoạt động xuất khẩu ngày nay diễn ra trên phạm vi toàn cầu, trong tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế, không chỉ là hàng hoá hữu hình mà cả hàng hoá vô hình với tỷ trọng ngày càng lớn. 2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu: Xuất khẩu là một bộ phận chính trong hoạt động ngoại thương, là hoạt động chủ yếu trong thương mại quốc tế. Nó đóng vai trò rất quan trọng đối với các doanh nghiệp nói riêng, đối với sự phát triển kinh tế quốc gia nói chung. 2.1 Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với các doanh nghiệp: Mở rộng thị trường là nhu cầu tất yếu của bất kỳ doanh nghiệp nào muốn phát triển bền vững và có vị thế trên thương trường, việc mở rộng này được thực hiện phần lớn thông qua hoạt động xuất khẩu, xuất khẩu đem lại cho doanh nghiệp những lợi ích sau: Thông qua xuất khẩu các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Những yếu tố đó đòi hỏi doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường. Xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp luôn luôn phải đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. Xuất khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ kinh doanh với các bạn hàng cả trong và ngoài nước, trên cơ sở hai bên cùng có lợi, tăng doanh số và lợi nhuận đồng thời phân tán và chia sẻ rủi ro, mất mát trong hoạt động kinh doanh, tăng cường uy tín kinh doanh của doanh nghiệp. Xuất khẩu khuyến khích việc phát triển các mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp, chẳng hạn như hoạt động đầu tư, nghiên cứu và phát triển các hoạt động sản xuất, marketing... cũng như sự phân phối và mở rộng trong việc cấp giấy phép. Xuất khẩu đem lại lợi nhuận cao giúp doanh nghiệp bù đắp chi phí, có lãi, tích luỹ nhằm nâng cấp xây mới cơ sở vật chất, bảo dưỡng hoặc trang bị kỹ thuật công nghệ hiện đại, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường. 2.2 Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế mỗi quốc gia Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một tất yếu của tiến trình phát triển kinh tế xã hội đặc biệt đối với các nước đang và kém phát triển, nó khắc phục tình trạng nghèo nàn lạc hậu. Tuy nhiên nó đòi hỏi một lượng vốn đủ lớn để đầu tư, nhập khầu máy móc, thiết bị... Xuất khẩu là một trong những hình thức thu hút vốn quan trọng của mỗi quốc gia, xuất khẩu tạo tiền đề cho nhập khẩu, nó quyết định đến qui mô, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất Tuỳ thuộc vào chính sách hướng ngoại hay hướng nội của mỗi quốc gia mà xuất khẩu có mức độ tác động đến chuyển dịch cơ cấu và phát triển sản xuất khác nhau + Với chính sách hướng nội, việc xuất khẩu chỉ được thực hiện đối với những sản phẩm thừa so với nhu cầu xã hội.Vì vậy xuất khẩu chỉ bó hẹp trong một phạm vi nhỏ, tăng trưởng chậm, không phát huy được lợi thế so sánh của quốc gia, các ngành sản xuất kinh doanh không có cơ hội phát triển. + Với chính sách hướng ngoại, thị trường thế giới được coi là mục tiêu để tổ chức sản xuất và xuất khẩu thì việc xuất khẩu hàng hoá có tác động tích cực đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy các ngành sản xuất phát triển, đó là: - Xuất khẩu tạo điều kiện cho các nhóm ngành hàng có liên quan có cơ hội phát triển. - Xuất khẩu có vai trò thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả sản xuất của từng quốc gia. - Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường sản phẩm, góp phần ổn định sản xuất sản phẩm công nghiệp, tạo lợi thế kinh doanh nhờ tăng qui mô. - Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, mở rộng khả năng tiêu dùng của mỗi quốc gia. - Xuất khẩu tạo điều kiện cho hàng hoá của một quốc gia thâm nhập và cạnh tranh trên thị trường thế giới. - Xuất khẩu giúp mở rộng ảnh hưởng của quốc gia đó trên trường quốc tế. Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Xuất khẩu kích thích phát triển sản xuất trong nước qua đó tạo việc làm cho lao động xã hội, tăng thu nhập, tăng khả năng chi tiêu của họ, từ đó giảm thất nghiệp trong nước. Mặt khác, xuất khẩu còn tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu hàng tiêu dùng làm cho người dân trở nên sung túc hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của họ. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là một hoạt động chủ yếu, cơ bản, là hình thức ban đầu của hoạt động kinh tế đối ngoại, từ đó thúc đẩy các mối quan hệ khác như du lịch quốc tế, bảo hiểm, vận tải quốc tế, tín dụng quốc tế... phát triển theo. Ngược lại sự phát triển của các ngành này lại là những điều kiện tiền đề cho hoạt động xuất khẩu phát triển. Như vậy xuất khẩu có vai trò quan trọng không chỉ đối với sự tăng trưởng phát triển của nền kinh tế mà nó còn giúp bình ổn xã hội của một quốc gia, tuy nhiên muốn phát huy vai trò của nó cần phải tìm hiểu sâu hơn ở nội dung và các hình thức xuất khẩu II. các hình thức xuất khẩu chủ yếu 1. Xuất khẩu trực tiếp: Xuất khẩu trực tiếp là hình thức xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ do chính doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước tới khách hàng nước ngoài thông qua tổ chức của mình. Xuất khẩu trực tiếp có thể làm tăng thêm rủi ro trong kinh doanh nhưng nó lại có ưu điểm: - Giảm bớt chi phí trung gian do đó tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. - Doanh nghiệp có thể liên hệ trực tiếp và đều đặn với khách hàng và với thị trường nước ngoài từ đó nắm bắt ngay được nhu cầu, xu hướng biến động của thị trường, tình hình của khách hàng nên có thể đưa ra những chính sách linh hoạt về sản phẩm sao cho phù hợp. Nhờ đó việc mở rộng thị trường cho sản phẩm sẽ thuận lợi hơn. Xuất khẩu trực tiếp thường được áp dụng ở những doanh nghiệp có nguồn vốn đủ lớn, đội ngũ cán bộ công nhân viên có năng lực và trình độ chuyên môn cao đồng thời sản phẩm được xuất khẩu thường đã có vị thế trên thị trường trong nước và quốc tế. 2. Xuất khẩu uỷ thác: Xuất khẩu uỷ thác là hình thức mà trong đó đơn vị kinh doanh xuất khẩu đóng vai trò là người trung gian cho đơn vị sản xuất đứng ra ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương, tiến hành các thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng hoá cho nhà sản xuất để qua đó hưởng "phí uỷ thác"(thường tính theo % giá trị lô hàng). Hình thức này có ưu điểm là dễ áp dụng, doanh nghiệp không phải bận tâm việc đàm phán ký kết hợp đồng, các thủ tục xuất nhập khẩu do đó tiết kiệm được thời gian, giảm rủi ro và chuyên tâm vào sản xuất. Tuy nhiên nó có hạn chế là lợi nhuận bị chia sẻ, việc thu thập thông tin thị trường gặp khó khăn do đó khó có phản ứng linh hoạt với những biến động của thị trường. Hình thức này được áp dụng chủ yếu ở những doanh nghiệp có tiềm lực hạn chế, chưa có chỗ đứng thật vững chắc trên thị trường. 3. Buôn bán đối lưu: Buôn bán đối lưu là một phương thức giao dịch trao đổi hàng hoá, trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng giao đi có giá trị tương xứng với lượng hàng nhận về. ở đây mục đích của xuất khẩu không phải nhằm thu về ngoại tệ, mà nhằm thu về một hàng hoá khác có giá trị tương đương. Lợi ích của buôn bán đối lưu là nhằm tránh những rủi ro về biến động tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối. Đồng thời còn có lợi khi các bên không đủ ngoại tệ để thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của mình. Thêm vào đó, đối với một quốc gia buôn bán đối lưu có thể làm cân bằng hạng mục thường xuyên trong cán cân thanh toán. Tuy nhiên buôn bán đối lưu làm hạn chế quá trình trao đổi hàng hoá, việc giao nhận hàng hoá khó tiến hành được thuận lợi. Hình thức này thường áp dụng ở tầm quốc gia hoặc những tập đoàn công ty lớn, các bên tham gia thường đã có quan hệ buôn bán với nhau từ trước. 4. Giao dịch qua trung gian Giao dịch qua trung gian là phương thức giao dịch mà mọi việc thiết lập quan hệ giữa người bán và người mua đều phải thông qua người thứ ba còn gọi là người trung gian buôn bán. Trung gian buôn bán phổ biến trên thị trường là môi giới hay còn gọi là đại lý. Do quá trình trao đổi giữa người bán với người mua phải thông qua một người thứ ba nên tránh được những rủi ro như: do không am hiểu thị trường hoặc do sự biến động của nền kinh tế.Tuy nhiên phương thức giao dịch này cũng phải qua trung gian và phải mất một tỷ lệ hoa hồng nhất định, nó làm cho lợi nhuận giảm xuống. Hình thức này thường áp dụng ở những doanh nghiệp mới vươn ra thị trường nước ngoài, sản phẩm xuất khẩu thường là những sản phẩm mới hoặc những sản phẩm có tính cạnh tranh cao. 5. Gia công quốc tế: Gia công quốc tế là một hình thức kinh doanh, trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên (bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm, giao lại cho bên đặt gia công và qua đó thu lại một khoản phí gọi là phí gia công. Hình thức này áp dụng chủ yếu cho các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển có nhiều tài nguyên, lao động dồi dào với giá rẻ nhưng lại thiếu vốn yếu kém về công nghệ và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Gia công quốc tế đem lại lợi ích cho cả hai bên. Bên đặt gia công tận dụng được giá rẻ về nhân công, nguyên phụ liệu của nước gia công. Bên nhận gia công tạo được việc làm cho lao động trong nước, nhập được máy móc thiết bị, công nghệ mới. Tuy nhiên họ dễ bị phụ thuộc vào nước đặt gia công về số lượng, chủng loại, mẫu mã hàng hoá gia công và đặc biệt là dễ bị ép giá gia công. 6. Tái xuất khẩu: Tái xuất khẩu là xuất khẩu trở lại nước ngoài những hàng hoá trước đây đã nhập khẩu, chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Ưu điểm của hình thức này là doanh nghiệp thực hiện nghiệp vụ có thể thu được lợi nhuận cao mà không phải tổ chức sản xuất.Tuy nhiên nếu không được kiểm soát tốt, việc lưu chuyển hàng hoá nhập về nước tái xuất nhằm tránh thuế có thể sẽ gây thông tin nhiễu về cung cầu trên thị trường, điều này tác động trở lại các doanh nghiệp dễ có những quyết định sai. Hình thức này được áp dụng rất phổ biến, nhất là với những nước, những doanh nghiệp chuyên kinh doanh buôn bán quốc tế. Trên đây là những hình thức xuất khẩu chủ yếu, ngoài ra còn nhiều hình thức khác như: xuất khẩu gia công uỷ thác, xuất khẩu theo nghị định thư, xuất khẩu tại chỗ... Việc phân định trên đây sẽ giúp cho các doanh nghiệp lựa chọn phương thức phù hợp với khả năng của chính mình sao cho đạt hiêụ quả cao nhất, tiết kiệm được chi phí, thu hồi vốn nhanh, doanh số bán hàng tăng, thị trường bán hàng được mở rộng thuận lợi trong quá trình xuất nhập khẩu của mình. Ngoài ra các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu cũng cần được quan tâm đúng mức. II. Các nghiệp vụ của hoạt động xuất khẩu 1. Các công việc trước khi giao dịch Hoạt động kinh doanh đối ngoại thường phức tạp hơn các hoạt động đối nội. Do đó, trước khi bước vào giao dịch, doanh nghiệp cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng. Kết quả của việc giao dịch phụ thuộc phần lớn ở sự chuẩn bị đó. Công việc chuẩn bị bao gồm : 1.1 Nghiên cứu tiếp cận thị trường Thông tin về thị trường là hết sức cần thiết đối với một doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Điều này giúp nhà kinh doanh nắm được sự biến động về cung cầu và giá cả hàng hoá trên thị trường quốc tế. Công tác thị trường bao gồm các công tác chủ yếu sau. Nghiên cứu chính sách ngoại thương của các quốc gia: các nước có chính sách ngoại thương khác nhau, các chính sách này có lúc là chìa khoá để các doanh nghiệp thâm nhập thị trường quốc gia đó nhưng có lúc lại là rào cản. Vì vậy, nghiên cứu chính sách ngoại thương giúp doanh nghiệp xuất khẩu nắm được thông tin hay ý đồ của chính phủ nước nhập khẩu, từ đó có chiến lược xuất khẩu thích hợp. Nhận biết hàng hoá : Các doanh nghiệp cần nắm được những đặc tính của hàng hoá và những yêu cầu của thị trường về hàng hoá đó như quy cách phẩm chất bao bì, cách trang trí bên ngoài, cách lựa chọn phân loại…Để chủ động trong việc giao dịch mua bán còn cần nắm vững tình hình hình sản xuất hàng hoá đó như : thời vụ, khả năng về vật liệu, công nhân, tay nghề…Doanh nghiệp phải biết mặt hàng định lựa chọn xuất khẩu đang trong giai đoạn nào của chu kỳ sống trên thị trường. Và cũng cần biết rằng, việc xuất khẩu những mặt hàng đang ở giai đoạn thâm nhập và phát triển là gặp thuận lợi lớn nhất. Nắm vững thị trường nước ngoài : Đối với một doanh nghiệp xuất nhập khẩu, việc nghiên cứu thị trường nước ngoài có ý nghĩa quan trọng. Họ phải nắm vững về những điều kiện chính trị thương mại chung, luật pháp và chính sách buôn bán, điều kiện về tiền tệ và tín dụng, điều kiện vận tải vf tình hình giá cước…Ngoài ra, doanh nghiệp cần tìm hiểu về dung lượng thị trường, tập quán và thị hiếu tiêu dùng, những kênh tiêu thụ, sự biến động giá cả…Tất cả những điều trên sẽ giúp doanh nghiệp lựa chọn được một kế hoạch xuất khẩu phù hợp. Lựa chọn khách hàng : Việc nghiên cứu tình hình thị trường giúp doanh nghiệp lựa chọn thị trường, thời cơ thuận lợi và điều kiện giao dịch phù hợp. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp kết quả hoạt động kinh doanh còn phụ thuộc khách hàng. Vì vậy, một nhiệm vụ quan trọng nữa là lựa chọn khách hàng. Doanh nghiệp có thể điều tra khách hàng qua sách báo tài liệu, Internet hoặc điều tra tại chỗ chứ không nên căn cứ vào những lời quảng cáo, tự giới thiệu của khách hàng. 1.2 Lập phương án kinh doanh Trên cơ sở kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu tiếp cận thị trường doanh nghiệp xuất khẩu lập phương án kinh doanh. Đây là kế hoạch hành động của đơn vị nhằm đạt đến những mục tiêu xác định trong kinh doanh. Doanh nghiệp có thể dựa vào các căn cứ sau để xây dựng phương án kinh doanh : Căn cứ vào tình hình thị trường Căn cứ vào chiến lược kinh doanh tổng quát của doanh nghiệp Căn cứ vào khả năng của doanh nghiệp Căn cứ vào đối thủ cạnh tranh Việc xây dựng phương án kinh doanh bao gồm các bước sau : Đánh giá trình hình thị trường và thương nhân : Trong bước này, người lập phương án rút ra những nét tổng quát về tình hình, phân tích thuận lợi và khó khăn trong kinh doanh. Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điêu kiện và phương thức kinh doanh. Sự lựa chọn này phải có tính thuyết phục trên cơ sở phân tích những tình hình có liên quan. Đề ra những mục tiêu cụ thể như : Sẽ bán được bao nhiêu hàng, với giá cả bao nhiêu, sẽ thâm nhập vào những thị trường nào… Đề rá các biện pháp thực hiện : các biện pháp này cũng phải cụ thể và có những biện pháp đề phòng các rủi ro có thể xảy ra. Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh. Sau khi phương án đã được đề ra, đơn vị kinh doanh phải cố gắng thực hiện họ xây dựng tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu , tiến hành quảng cáo, bắt đầu chào hàng và chuẩn bị hàng hoá… 1.3 Ký kết hợp đồng xuất khẩu Sau giai đoạn tiếp cận thị trường, để chuẩn bị giao dịch, doanh nghiệp xuất khẩu tiến hành tiếp xúc với khách hàng thông qua quảng cáo hoặc chào hàng. Việc lựa chọn loại đơn chào hàng nào cũng phải căn cứ vào quan hệ cung cầu của hàng hoá trên thị trường, như cầu của đối phương và khả năng của ta. Dù chào hàng theo cách nào, đơn chào hàng cũng cần rõ ràng và hấp dẫn. Sự hấp dẫn không chỉ thể hiện ở giá cả hợp lý, các điều kiện ưu đãi mà có thể ở cả dịch vụ cung cấp cho người mua, phẩm chất hàng tốt, điều kiện thanh toán có lợi cho người mua. Sau khi có sự chấp nhận chào hàng từ phía nhập khẩu, các bên đi đến đàm phán thoả thuận một cách kỹ lưỡng hơn và tiến hành ký kết hợp đồng. 2. Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu Sau khi hợp đồng mua bán ngoại thương được ký kết, doanh nghiệp xuất khẩu – với tư cách là một bên ký kết – phải tổ chức thực hiện hợp đồng. Để thực hiện một hợp đồng xuất khẩu, doanh nghiệp phải tiến hành các khâu công việc sau : Nếu hợp đồng quy định thanh toán bằng L/C thì người nhập khẩu phải mở L/C theo như những quy định về thanh toán trong hợp đồng. Người xuất khẩu sau khi nhận được L/C từ phía ngân hàng đại lý của ngân hàng lập thư tín dụng (ngân hàng thông báo) sẽ phải kiểm tra L/C kỹ lưỡng và cẩn thận. Việc kiểm tra L/C bao gồm những nội dung sau đây : -Cơ sở để kiểm tra : + Hợp đồng mua bán ngoại thương đã ký kết. + Bản điều lệ thực hành tín dụng chứng từ UPC 500: bản này cho phép ngân hàng đưa vào L/C một số nội dung để hỗ trợ cho công tác thanh toán, và ngân hàng chỉ chịu trách nhiệm về hình thức của chứng từ chứ không chịu trách nhiệm về bản chất của chứng từ. - Nội dung kiểm tra L/C: Người xuất khẩu phải kiểm tra: + Lỗi chính tả trong L/C. + Lỗi kĩ thuật: Phải đối chiếu những nội dung của L/C sang hợp đồng để không bị thiếu sót, sau đó xét lại một cách tổng thể. Những nội dung kiểm tra cụ thể: + Thời hạn mở L/C: Người mua phải mở L/C trước ngày giao hàng. Tuy nhiên nếu mở trước sớm nhiều ngày thì sẽ bị đọng vốn nên họ thường mở sát ngày giao hàng. Người xuất khẩu, phải kiểm tra ngày mở L/C có phù hợp với hợp đồng hay không. Vì nếu nhà nhập khẩu mở muộn quá sẽ gây khó khăn cho người xuất khẩu trong việc thực hiện hợp đồng. + Loại L/C: Vì có rất nhiều loại L/C nhưng thông thường là L/C không huỷ ngang. + Ngân hàng mở và các ngân hàng có liên quan: Phải kiểm tra tên, địa chỉ và khả năng thu hồi vốn của ngân hàng mở. Ngân hàng này phải được ngân hàng khác xác nhận về khả năng thu hồi vốn. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp còn có ngân hàng trả tiền vì ngân hàng trả tiền không nhất thiết phải là ngân hàng mở L/C. + Tên của người hưởng lợi: Người hưởng lợi không phải lúc nào cũng là người bán nên phải kiểm tra vì tên này sẽ được ghi vào các chứng từ. + Trị giá L/C: Nếu trị giá ghi không đúng sẽ không thực hiện được hợp đồng và căn cứ để kiểm tra là điều khoản số lượng. Cách ghi trên L/C cũng phải tương đồng với cách ghi của điều kiện số lượng trong hợp đồng. + Thời hạn hiệu lực của L/C: Thời hạn này bắt đầu từ ngày mở L/C và phải đảm bảo được quyền lợi của người xuất khẩu. + Các quy định về chừng từ: Phải kiểm tra những loại chứng từ cần xuất trình, bản gốc, bản copy và cả tính chất chủ yếu của chúng. + Trị giá đồng tiền thanh toán, số lượng, chất lượng, thời hạn trả tiền… Tất cả đều phải phù hợp với hợp đồng. Sau khi kiểm tra L/C nều thầy phù hợp thì người bán tiến hành giao hàng và lập chứng từ thanh toán. Trong trường hợp L/C không phù hợp với hợp đồng thì người bán yêu cầu người mua sửa đổi L/C chứ không được phép yêu cầu ngân hàng mở L/C sửa đổi. Khi nhận được L/C đã được sửa đổi thì người bán kiểm tra lại lần nữa để quyền lợi của mình được đảm bảo. 2.2 Xin giấy phép xuất khẩu: Giấy phép xuất khẩu là một biện pháp quan trọng để nhà nước quản lý hoạt động xuất khẩu. Vì thế sau khi kí kết hợp đồng, nếu đối tượng của hợp đồng thuộc phạm vi phải xin giâý phép thì doanh nghiệp phải làm thủ tục xin giấy phép xuất khẩu. hồ sơ bao gồm : hợp đồng phiếu hạn ngạch( nếu hàng thuộc diện quản lý bằng hạn ngạch ), hợp đồng uỷ thác( nếu là xuất khẩu uỷ thác ), và các chứng từ liên quan …bộ hồ sơ này được chuyển dến phòng(hoậc Tổ) cấp giấy phép của Bộ Thương mại. sau khi được cấp phép, doanh nghieep tiến hành cac bước tiếp theo. 2.3 Chuẩn bị hàng xuất khẩu: Thực hiện cam kết trong hợp đồng,người xuất khẩu phải chuẩn bị hàng xuất khẩu. cân cơ để chuẩn bị là hợp đồng dã kí kết và L/C. bước này gồm ba khâu chủ yếu sau: Thu gom,tập trung làm thành lô hàng xuất khẩu: Muốn làm thành lô hàng xuất khẩu, người xuất phải thu gom hàng vì nền sản xuất của chúng ta còn manh mún và nhỏ lẻ, trong khi đó mua bán ngoại thương thường tiến hành trên cơ sở số lượng lớn.lô hàng xuất khẩu có thể được thu gom từ nhiều chân hàng khác nhau và cơ sở pháp lý để làm việc đó là kí kết hợp đồng kinh tế giữa chủ hàng xuất khẩu và các chân hàng. các hợp đồng này được điều chỉnh bởi pháp lệnh hợp đồng kinh tế ban hành ngày 25/9/1998. - Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu: Muốn làm tốt công việc bao bì đóng gói. người xuất khẩu cần nắm vững loại bao bì mà hợp đồng quy định, mặt khác cần nắm vững những yêu cầu cụ thể của việc bao gói để lựa chọn cách bao gói thích hợp. Có rất nhiều loại bao bì được sử dụng trong ngoại thương. Tuy nhiên người ta chia ra làm hai loại bao bì chính đó là bao bì bên ngoài và bao bì bên trong. Bao bì bên ngoài thường là hòm, bao, kiện, thùng…Còn các bao bì bên trong thường là giấy, bìa, bồi, vải bông, vải bạt, vải đay, giấy thiếc hay thậm chí là dầu và mỡ. Tác dụng của các loại bao bì là để bảo vệ hàng hoá tốt hơn trong quá trình vận chuyển cũng như bốc dỡ, tránh những tổn thất cho hàng hoá. Khi lựa chọn loại bao bì, loại vật liệu làm bao bì và phương pháp bao bì, chủ hàng xuất khẩu phải xét đến những điều thoả thuận trong hợp đồng, và cũng phải xét đến tính chất của hàng hoá đối với tác động của môi trường và của điều kiện bốc xếp…Ngoài ra, cần xét đến những nhân tố sau : + Điều kiện vận tải : Khi lựa chọn bao bì người ta phải xét đến đoạn đường dài ngắn, phương pháp và thời gian vận chuyển, khả năng phải chuyển tải dọc đường, sự chung đụng với những hàng hoá khác trong quá trình vận chuyển… + Điều kiện khí hậu : Khí hậu ảnh hưởng rất lớn đến tình trạng của hàng hoá vì vậy cũng cần xem xét đến vấn đề thời tiết khi lựa chọn bao gói, nhất là thời tiết tại các nước mà hàng hoá được giao. + Điều kiện về pháp luật và thuế quan : phương pháp báo bì và vật liệu bao bì đóng gói còn trực tiếp ảnh hưởng tới mức thuế nhập khẩu, nhất là đối với những hàng hoá chịu thuế theo trọng lượng. Như vậy, cũng cần cân nhắc kỹ lưỡng khi lựa chọn bao gói để tiết kiệm tối đa chi phí mà vẫn bảo quản được hàng hoá trong điều kiện tốt. + Điều kiện chi phí vận chuyển : Cước phí thường được tính theo trọng lượng cả bao bì hoặc thể tích của hàng hoá. Vì vậy rút bớt trọng lượng của bao bì hoặc thu hẹp thể tích hàng hoá sẽ tiết kiệm được chi phí vận chuyển. Ngoài ra còn phải đề phòng trộm cắp trong quá trình chuyên chở. Muốn vậy, người ta thường dùng bao bì nhẹ, bền, chắc, tận dụng không gian của bao bì, thu nhỏ hàng hoá… + Việc kẻ ký mã hiệu hàng xuất khẩu : Kẻ ký mã hiệu là một khâu cần thiết của quá trình đóng gói bao bì nhằm bảo đảm thuận lợi cho công tác giao nhận, hướng dẫn phương pháp, kỹ thuật bảo quản, vận chuyển bốc dỡ hàng hoá. Vì thế, ký mã hiệu cần phải thể hiện được những dấu hiệu cần thiết đối với người nhận hàng, đối với công việc vận chuyển và bốc dỡ hàng hoá. Việc cần ký mã hiệu cần đạt yêu cầu sáng sủa, dễ đọc, không thấm nước, không phai màu, sơn không làm ảnh hưởng đến phẩm chất của hàng hoá. 2.4 Kiểm tra chất lượng hàng hoá. Kiểm tra để chứng minh hàng hoá phù hợp với hợp đồng: có thể kiểm tra tại cơ sở sản xuất hoặc người xuất khẩu có thể ký hợp đồng với một công ty giám định để kiểm tra hàng hoá. Cơ sở để kiểm tra là hopwj đồng ngoại thương đã ký kết và các tiêu chuẩn thông thường đối với hàng hoá. Trong trường hợp hàng hoá không thoả mãn các điều kiện đã quy định thì người xuất khẩu phải có trách nhiệm thay thế hoặc bổ xung thêm hoặc bằng cách khác làm cho hàng hoá trở nên phù hợp với hợp đồng. Lưu ý là việc làm này không được làm ảnh hưởng tới thời gian giao hàng, và nếu như có sự cố gì khiến người xuất khẩu làm chậm thời gian giao hàng thì người xuất khẩu phải thông báo cho người nhập khẩu để cùng ng lượng. Sau khi kiểm tra xong, nếu hàng hoá phù hợp với hợp đồng, công ty giám định cung cấp giấy chứng nhận phẩm chất cho chủ hàng. Kiểm tra nhà nước về phẩm chất hàng xuất khẩu : việc kiểm tra này được quy định trong nghị định 86/CP/1995. Doanh nghiệp pahir trình đơn xin kiểm tra hoặc miễn kiểm tra nhà nước, cung cấp giấy chứng nhận phẩm chất của cơ sở, cung cấp hàng hoá hoặc mẫu hàng hoá cho cơ quan kiểm tra đồng thời cũng phải trả lệ phí kiểm tra. Sau khi kiểm tra xong, chủ hàng cuangx được cấp giấy chứng nhận hàng hoá phù hợp tiêu chuẩn xuất khẩu. 2.5 Thuê tàu lưu cước Trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương, việc thuê tàu trở hàng được tiến hành dựa vào 3 căn cứ sau đây : Nhưng điều khoản của hợp đồng mua bán ngoại thương, đặc điểm hàng mua bán và điều kiện vận tải Trong trường hợp điều kiện cơ sở giao hàng của hợp đồng xuất khẩu là CIF , CFR thì chủ hàng xuất khẩu phải thuê tàubireenr để chở hàng.Tàu này có thể là tàu chuyến hoặc tàu chợ. Nếu là hàng có khối lượng lớn thì thuê tàu chuyến, còn nếu là hàng lẻ tẻ, lặt vặt đóng trong bao kiện thì người ta hay thuê tàu chợ. Và việc thuê khoang tàu chợ còn gọi là lưu cước. Nếu điều kiện cơ sở giao hàng trong hợp đồng xuất khẩu là CPT hoặc CIP thì chủ hàng xuất khẩu phải thuê container hoặc tàu RO/RO để chở hàng. Nếu chuyên chở bằng container thì hàng có thể được giao theo một trong hai cách sau + Nếu hàng đủ một Container (FCL) chủ hàng xuất khẩu phải đăng ký thuê container, chịu chi phí chở container rỗng từ bãi container về cơ sở của mình, đóng hàng vào container, rồi giao cho người nhập khẩu. + Nếu hàng không đủ một container (LCL) chủ hàng xuất khẩu phải giao cho người vận tải tại ga container (CFS). Việc thuê tàu, lưu cước đòi hỏi có kinh nghiệm nghiệp vụ,thoongtin về tình hình thị trường thuê tàu và tinh thông các điều kiện thuê tàu. Vì vậy, trong nhiều trường hợp chủ hàng xuất nhập khẩu thường uỷ thác việc thuê tàu lưu cước cho một công ty hàng hải như. Công ty thuê tàu và môi giới hàng hải (VIEFRACHT), công ty đại lý tàu biển (VOSA)… Cơ sở pháp lý điều tiết mối quan hệ giữa hai bên uỷ thác thuê tàu ._.với bên nhận uỷ thác thuê tàu là hợp đồng uỷ thác. Chủ hàng xuất khẩu căn cứ vào các đặc điểm vận chuyển của hàng hoá để lựa chọn loại hình hợp đồng cho thích hợp,hợp đồng uỷ thác thác thuê tàu cả năm hay hợp đồng uỷ thác chuyến. 2.6 Mua bảo hiểm cho hàng hoá: Hàng hoá chuyên chở bằng đường biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Vì thế bảo hiểm hàng hoá đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất trong ngoại thương. Cơ sở để mua bảo hiểm là theo hợp đồng mua bán và Incoterm. Hợp đồng bảo hiểm có thể là hợp đồng bảo hiểm bao cũng có thể là hợp đồng bảo hiểm chuyến. Khi mua bảo hiểm, chủ hàng xuất khẩu kí hợp đồng từ đầu năm, còn đến khi giao hàng xuống tàu xong chủ hàng gửi tới công ty bảo hiểm một văn bản gọi là “ Giấy báo bắt đầu vận chuyển ”. Trên cơ sở này chủ hàng và công ty bảo hiểm đàm phán kí kết hợp đồng bảo hiểm. Sau này, công ty bảo hiểm cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc bảo hiểm đơn cho người mua. Chủ hàng xuất khẩu đưa đơn bảo hiểm này vào bộ chứng từ thanh toán. Sau này hàng có tổn thất nằm trong điều kiện được bảo hiểm thì người mua có quyền khiếu nại công ty bảo hiểm. Khi mua bảo hiểm yêu cầu chủ hàng xuất khẩu phải nắm rõ các điều kiện bảo hiểm. Có ba điều kiện bảo hiểm chính: bảo hiểm mọi rủi ro (Điêù kiện A), bảo hiểm có tổn thất riêng(Điều kiện B), bảo hiểm miễn tổn thất riêng( Điều kiện C ), ngoài ra còn có một số điều kiện bảo hiểm đặc biệt khác như bảo hiểm chiến tranh, đình công, bạo động… Việc lựa chọn điều kiện bảo hiểm phải dựa trên bốn căn cứ sau đây: Điều khoản của hợp đồng Tính chất hàng hoá Tính chất bao bì và phương thức xếp hàng Loại tàu chuyên trở. 2.7 Làm thủ tục hải quan Hàng hoá khi xuất khẩu qua biên giới đều phải làm thủ tục hải quan. Việc làm thủ tục hải quan bao gồm ba bước sau đây: *Khai báo hải quan: Chủ hàng xuất khẩu lập hồ sơ gửi đến phòng đăng kí của cơ quan hải quan bao gồm: Tờ khai hải quan theo mẫu của tổng cục hải quan( Hai bản chính ) Các chừng từ khác mà hải quan yêu cầu như: Giấy chứng nhận số lượng, chất lượng, phiếu hạn ngạch, hoá đơn, phiếu đóng gói… Bộ hồ sơ này sau khi kiểm tra sẽ được gửi đến lãnh đạo chi cục đểquyết định việc kiểm tra hàng hoá. *Xuất trình hàng hoá: Thực hiện quyết định của hải quan về kiểm tra hàng hoá, chủ hàng xuất khẩu phải chịu chi phí và nhân công về việc đóng mở các kiện hàng. Chủ hàng cũng cần lưu ý, hàng hoá phải được xắp xể trật tự thuận tiện cho việc kiểm tra của hải quan và cũng là để tiết kiệm chi phí cho chủ hàng xuất khẩu *Thực hiện các quyết định của hải quan : Sau khi kiểm soát giấy tờ và hàng hoá, hải quan sẽ ra quyết định như: thông quan, thông quan có điều kiện( Chẳng hạn như phải sửa chữa, bao bì lại…), cho thông quan khi chủ hàng đã nộp thuế,lưu kho ngoại quan, hoặc cấm xuất khẩu lô hàng… Nghĩa vụ của chủ hàng là nghiêm túc thực hiện quyết định đó của hải quan. 2.8 Giao hàng Hàng xuất khẩu của ta chủ yếu được giao bằng đường biển và đường sắt . Nếu hàng hoá được giao bằng đường biển thì chủ hàng phải tiến hành các công việc sau đây: *Các công việc phải làm trước khi giao hàng: Kí hợp đồng uỷ thác giao nhận vận tải: có thể kí một năm hoặc kí theo chuyến. Kí hợp đồng với ga hoặc cảng để thuê mướn nhân công, dụng cụ bốc xếp… Liên hệ với các cơ quan hữu quan để lấy các giấy tờ cần thiết: Tàu và đại lý tàu biển để lấy sơ đồ xếp hàng lên tầu; cơ quan điều độ cảng để nắm vững ngày giờ xếp hàng lên tàu; hải quan giám định, kiểm dịch để làm một số công việc cần thiết có liên quan: giấy chứng nhận số lượng chất lượng, bảng liệt kê hàng hoá… Trong khi giao hàng,doanh nghiệp xuất khẩu phải cử người theo dõi xem tình trạng của hàng hoá như thừa thiếu để có phương án giải quyết ngay. Sau khi giao hàng xong thì nhận biên lai thuyền phó để đổi lấy vận đơn đường biển. *Chuẩn bị vân đơn và kí phát vận đơn: Thường thì người xuất khẩu sưu tầm mẫu vận đơn của hãng tàu, tiến hành đánh máy các thông tin cần thiết trên vận đơn trừ phần số lượng hàng giao hay số lượng kiện và cán bộ thủ tục mang vận đơn đã chuẩn bị sẵn cùng biên lai thuyền phó đến gặp thuyền trưởng để yêu cầu kí phát vận đơn. Vận đơn phải là vận đơn hoàn hảo, đã xếp hàng lên tàu và phải chuyển nhượng được. Trong trường hợp không đủ điêu kiện cấp vận đơn hoàn hảo thì chủ hàng xuất khẩu phải thay thế, sửa chữa hoặc giao thêm hàng hoá, nếu không làm được điều này thì có thể dùng thư bảo đảm với hãng tàu để nhận được vận đơn hoàn hảo. Nếu giao hàng bằng container, trong trường hợp hàng chiếm đủ một container trường hợp hàng chiếm đủ một container thì chủ hàng xuất khẩu phải đăng kí thuê con tainer,đóng hàng vào container và lập bảng kê hàng. Còn nếu hàng giao không chiếm hết một container, chủ hàng phải lập “ bản đăng kí hàng chuyên trở ”. Sau khi đăng kí được chấp thuận, chủ hàng giao hàng đến ga container cho người vận tải. Sau khi giao hàng xong, chủ hàng xuất khẩu phải thông báo cho người nhập khẩu về việc giao hàng. Căn cứ để thông báo phải được quy định trong hợp đồng hoặc áp dụng Incoterm nếu như hợp đồng không quy định 2.9 Làm thủ tục thanh toán Sau khi giao hàng lên tàu, người xuất khẩu phải lập bộ chứng từ thanh toán.Tuỳ vào từng phương thức thanh toán mà có những căn cứ lập chứng từ thanh toán khác nhau. Hai phương thức thanh toán phổ biến nhất là thanh toán bằng L/C hoặc bằng phương thức nhờ thu. Nếu thanh toán bằng L/C thì căn cứ là L/C vì nếu căn cứ theo hợp đồng lại mâu thuẫn với L/C thì sẽ không lấy được tiền hàng. Bộ chứng từ thanh toán thường gồm : hoá đơn thương mại, phiếu đóng gói, giấy chứng nhận, số lượng chất lượng, giấy chứng nhận bảo hiểm, biên bản giám định,vận đơn…Chứng từ thanh toán phải được làm đầy đủ về số lượng, chủng loại và chúng không được mâu thuẫn với nhau, phù với yêu cầu của L/C cả về nội dung lẫn hình thức. Sau khi lập chứng từ, khẩn trương đưa ra ngân hàng để thanh toán tiền. Theo UPC500, thời hạn chậm nhất để xuất trình chứng từ là 21 ngày kể từ ngày kí vận đơn. Nếu thanh toán bằng phương thức nhờ thu thì căn cứ để lập chứng từ là hợp đồng mua bán. Ngay sau khi giao hàng, doanh nghiệp xuất khẩu phải hoàn thành việc lập chứng từ và xuất trình cho ngân hàng đẻ uỷ thác cho ngân hàng việc thu đòi tiền. Chứng từ cũng phải chính xác về chủng loại, số lượng và phải đảm bảo tính thống nhất với nhau 2.10 Khiếu nại và giải quyết khiếu nại Trong buôn bán quốc tế, người xuất khẩu vừa có thể là người đi khiếu nại nhưng cũng có thể là người bị khiếu nại. Dù trong trường hợp nào thì người bán cũng cần thận trọng xem xét vấn đề để giải quết một cách thấu đáo và có lợi nhất. Nếu là người bị khiêú nại, người xuất khẩu thấy khiếu nại của khách là có cơ sở thì phải nhanh chóng giải quyết theo cách đã thoả thuận trong hợp đồng. Việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại là công việc cuối cùng trong quy trình thực hiện một hợp đồng xuất khẩu. Như vậy ta thấy, việc thực hiện một hợp đồng ngoại thương phức tạp hơn nhiều so với việc thực hiện một hợp đồng trong nước. Tuy nhiên, nếu nắm vững được các bước và kĩ thuật trong từng bước cộng với kinh nghiệm thực tế của cán bộ xuất nhập khẩu thì công việc này trở nên đơn giản và gọn nhẹ hơn nhiều. III. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp thương mại 1.Các nhân tố kinh tế: 1.1Các chính sách thương mại: Các nước khác nhau thường có chính sách thương mại khác nhau hiện ý chí và mục tiêu của nhà nước trong việc can thiệp và điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế có liên quan đến nền kinh tế quốc dân, để nền kinh tế quốc dân vận hành một cách có hiệu quả thì những chính sách thương mại thích hợp thực sự cần thiết. Trong lĩnh vực xuất khẩu chính sách chủ yếu được nhà nước sử dụng để điều tiết những ảnh hưởng đến việc đến việc xuất khẩu là: Thuế quan ( Thuế xuất khẩu ): “ là một loại thuế gián thu đánh vào các loại hàng mậu dịch, phi mậu dịch, được phép xuất khẩu qua biên giới việt nam ” . Nhìn chung trong hoạt động xuất khẩu, nhà nước chỉ sử dụng loại công cụ này để điều tiết một số mặt hàng nhằm hạn chế xuất khẩu theo mục tiêu chiến lược của nhà nước, đó là khuyến khích xuất khẩu hàng hoá đã qua chế biến, hạn chế xuất khẩu những mặt hàng thô hoặc những loại nguyên liệu làm giảm giá trị tài nguyên của quốc gia. Để khuyến khích xuất khẩu, Nhà nước quy định việc miễn giảm và hoàn lại thuế cho các doanh nghiệp xuất khẩu. như vậy, thuế xuất khẩu không còn là một rào cản. Nó không những trở thành nguồn khuyến khích xuất khẩu đối với các doanh nghiệp mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp nhà nước quản lý tốt hoạt động xuất khẩu, nhất là trong thời kỳ nước ta đang hoà nhập vào nền kinh tế thế giới như hiện nay. hạn nghạch xuất khẩu: hình thức này được áp dụng như một công cụphổ biến trong hàng rào phi thuế quan và ngày càng có vai trò quan trọng trong xuất khẩu hàng hoá. Hạn ngạch được hiểu là quy định của nhà nước về số lượng cao nhất của mặt hàng được phép xuất khẩu trong một thời gian nhất định, thông qua hình thức cấp giấy phép. Mục đích là nhằm quản lý, điều chỉnh loại hàng xuất khẩu. Hơn thế nữa, nó có thể bảo vệ nền sản xuất trong nước, bảo vệ tài nguyên, cải thiện cán cân thanh toán. Còn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng có áp dụng hạn nghạch thì phải luôn luôn hoàn thành tốt những mục tiêu đề ra cũng như các nghĩa vụ đối với nhà nước để được cấp hạn nghạch. Điều này là rất tốt đối với các doanh nghiệp . - Tỷ giá hối đoái: Đây là yếu tố ảnh hưởng rất sâu sắc đến quy mô và cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Đây cũng là yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ tới khả năng cạnh trạnh của các doanh nghiệp. Khi tỉ giá hối đoái tăng quá cao sẽ gây bất lợi cho các doanh nghiệp trong việc thực hiện hợp đồng. Các doanh nghiệp xuất khẩu các sản phẩm sơ chế phải chịu chi phí cao do lạm phát trong nước, mức sinh lợi kém. Còn đối với các nhà sản xuất hàng chế tạo thì bị hạn chế khả năng chiếm lĩnh thị trường, quá trình đẩy mạnh xuất khẩu sẽ gặp nhiều khó khăn. Ngược lại, khi tỉ giá hối đoái giảm xuống, nếu như không có các yếu tố khác ảnh hưởng thì sẽ có tác động khuyến khích xuất khẩu, các doanh nghiệp thu được nhiều lãi hơn đồng thời nâng cao được sức cạnh tranh do có khả năng bán hàng hoá với giá thấp hơn giá thị trường quốc tế. -Trợ cấp xuất khẩu: đây là những ưu đãi tài chính mà nhà nước dành cho nhà xuất khẩu, giúp họ tăng thu nhập, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu và do đó đẩy mạnh được xuất khẩu, nhất là đối với những mặt hàng nhà nước khuyến khích xuất khẩu. Trợ cấp xuất khẩu có thể thực hiên trực tiếp thông qua việc miễn giảm thuế xuất khẩu hoặc cho các nhà xuất khẩu hưởng các giá ưu đãi đối với các đầu vào sản xuất hàng xuất khẩu như điện nước, vận tải…Ngoài ra, Nhà nước còn dùng ngân sách để giới thiệu, quảng cáo, tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch xuất khẩu… gọi là trợ cấp gián tiếp hiện nay trợ cấp trực tiếp có xu hướng bị thu hẹp và trợ cấp gián tiếp ngày càng tăng lên. -Tín dụng xuất khẩu: Vốn bỏ ra thực hiện một hợp đồng xuất khẩu là rất lớn nên người xuất khẩu cần có một số vốn cả trước và sau khi giao hàng. Nhiều chương trình phát triển xuất khẩu không thể thiếu được việc cấp tín dụng của chính phủ theo những điều kiện ưu đãi. Điều đó càng làm giảm được các chi phí xuất khẩu, hạ giá thành cản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường quốc tế. 1.2 Đối thủ cạnh tranh: Đây là những tổ chức, công ty tham gia vào thị trường xuất khẩu và có tác động rất lớn đến khả năng đẩy mạnh xuất khẩu của doanh nghiệp. trong cơ chế thị trường hiện nay, nhất là khi nhà nước không nắm độc quyền ngoại thương thì cạnh tranh là điều không thể tránh khỏi. tuy nhiên,việc cạnh tranh không phải lúc nào cũng có hại. không một doanh nghiệp nào lại muốn làm ăn thua lỗ, vì vậy khi gặp phải sự cạnh tranh của đối thủ thì doanh nghiệp này sẽ phải chủ động đổi mới, điều chỉnh mọi mặt cần thiết để thích nghi với một môi trường cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Ngược lại, nếu doanh nghiệp không nhạy bén với môi trường cạnh tranh, không thích nghi được với môi trường hoặc không đánh giá đúng đối thủ cạnh tranh thì nó sẽ tự đào thải nó, trở nên kém sức cạnh tranh và mất dần uy tín. như vậy cạnh tranh có tác dụng hai mặt tới hoạt động xuất khẩu doanh nghiệp. Nó vừa là động lực thúc đẩy phát triển đối với các doanh nghiệp năng động và sáng suốt, nó lại vừa là rào cản đối với những doanh nghiệp trì trệ, kém nhạy bén. 1.3 Sản phẩm và dịch vụ thay thế: Thị trường ngày nay rất đa dạng về nhu cầu mua sắm của con người vì thế mà xuất hiện rất nhiều các sản phẩm thay thế. Người tiêu dùng không phải lúc nào cũng sẵn sàng sử dụng các sản phẩm chính thống, mà nhiều khi là sản phẩm thay thế hơn, nhất là trong trường hợp giá bán của hàng hoá dịch vụ quá cao. đây là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất khẩu cũng như thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp. 1.4 Khách hàng: Đây là lực lượng trực ảnh hưởng trực tiếp quan trọng nhất đối với tất cả doanh nghiệp. Xét cho cùng thì quyết định mua hay không mua sản phẩm của họ quyết định trực tiếp đến doanh số bán hàng của công ty và cuối cùng là sự sống sót của công ty. Đối với mốt doanh nghiệp có ngày càng nhiều khách hàng để phục vụ là mốt mục tiêu quan trọng bởi nếu không có khách hàng thì sự sụp đổ doanh nghiệp là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy việc nghiên cứu khách hàng là việc quan trọng và không thể bỏ qua. 1.5 Người cung ứng: Tất cả các doanh nghiệp đều cần có những nguồn tài nguyên- ngân quỹ, năng lượng trang thiết bị, các dịch vụ và vật tư để sản xuất sản phẩm hay dịch vụ thành công trên thi trường. Vì vậy, tất cả đều cần có nhà cung ứng những nguồn tài nguyên đó. Một doanh nghiệp dù xuất khẩu sản phẩm tự sản xuất hay xuất khẩu những sản phẩm do người khác sản xuất thì ít nhiều cũng bị ảnh hưởng bởi các nhà cung ứng hàng hoá hay nguyên vật liệu. Đầu ra của họ là đầu vào của doanh nghiệp và vì thế có thể ảnh hưởng lớn đến chất lượng chi phí và tính hơpj thời của sản phẩm. Nếu sự cung ứng được kịp thời là điều rất tốt cho doanh nghiệp. Ngược lại, doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc tạo nguồn hàng xuất khẩu. Hơn nữa nước ta lại có nền sản xuất manh mún, nhỏ lẻ và không tập trung, vì thế việc gom hàng rất bị hạn chế, Đôi khi không có được sự đồng nhất về quy cách phẩm chất hàng hoá trong một lô hàng xuất khẩu. Điều này ảnh hưởng ít nhiều đến uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. 2. Nhân tố văn hoá xã hội Mỗi dân tộc đều có giá trị văn hoá và hệ thống xã hội với những nét riêng biệt. Trong kinh doanh quốc tế, việc coi trọng các yếu tố này là rất cần thiết vì nó góp phần tạo nên thành công hay thất bại của doanh nghiệp Các lực lượng văn hoá xã hội có thể ảnh hưởng đến những hoạt dộng của doanh nghiệp và mức cầu đối với sản phẩm trên thị trường. Việc nắm bắt được những nét văn hoá và xu hướng xã hội tại mốt thị trường nhất định có thể giúp doanh nghiệp thành công trong đàm phán và chớp được những cơ hội đưa sản phẩm của mình vào thị trường này. 3. Chính trị - pháp luật: Tình hình chính trị pháp luật của một quốc gia có ảnh hưởng không nhỏ hoạt động của tất cả các doanh nghiệp. Chính trị ổn định tại nước người mua và người bán sẽ tạo điều kiện rất lớn cho hoát động giao dịch giữa hai nước. Ngược lại, nó kìm hãm, nó hạn chế mối quan hệ buôn bán giữa các quốc gia với nhau.Đối với hoạt động xuất khẩu cũng vậy, vì nó nằm trong hệ thống các quan hệ đối ngoại. Luật pháp cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động xuất khẩu. Luật pháp quá rườm rà, phức tạp và không ổn định sẽ hạn chế rất nhiều năng lực xuất khẩu của một doanh nghiệp. Nhưng một khung pháp lý hoàn chỉnh lại tạo điều kiện rất lớn thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác kinh tế, trong đó có hoạt động xuất khẩu . 4. Khoa học công nghệ Ta không thể phủ nhận những ưu điểm của khoa học công nghệ tiên tiến. Trong hoạt động giao dịch quốc tế, khoa học công nghệ đóng vai trò quan trọng, thúc đẩy quá trình giao dịch được nhanh chóng hiệu quả. Ví dụ sự tiến bộ khoa học trong ngành vận tải, ngân hàng, thông tin liên lạc. Đã tiết kiệm được rất nhiều thời gian và chi phí cho các bên. Ngoài ra, nó còn giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường và đa dạng hoá sản phẩm, giảm giá bán, từ đó nâng cao được sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu trên thị trường quốc tế. IV. Các đặc trưng của xuất khẩu nông sản 1. Về sản phẩm Thứ nhất, các cây trồng xuất khẩu chủ lực đều phù hợp với những điều kiện tự nhiên của nước ta. Ví dụ, cây lúa là loại cây trồng lâu năm, thích hợp với hầu hết các loại địa hình của Việt Nam, từ đồng bằng, trung du đến miền núi đều cho năng suất từ khá trở lên. Về cà phê, nước ta có thế mạnh trong sản xuất do những vùng đất đỏ bazan rộng lớn trên cả nước với diện tích hàng triệu hecta. Đây là loại đất tốt nhất đối với sự phát triển của cây cà phê. Ngoài ra, lượng mưa phân bố đồng đều các tháng trong năm nhất là những tháng cà phê sinh trưởng là nhân tố thuận lợi để trồng cây cà phê ở nước ta. Thứ hai, những loại cây nói trên đều được trồng trên quy mô lớn và phân chia thành từng vùng tập trung. Điều này rất thuận lợi cho việc thu gom, chế biến sản phẩm cũng như phổ biến công nghệ, kỹ thuật mới cho bà con nông dân. Đối với cà phê, năm 1986 diện tích cà phê cả nước là 65,6 nghìn hecta và sản lượng 72 nghìn tấn thì đến năm 2000, con số tương ứng đã là 430 nghìn hecta và 780 nghìn tấn. Đặc biệt Tây Nguyên là vùng chuyên canh tập trung lớn nhất gồm bốn tỉnh (Đaklak, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng) có tới 55% diện tích và 60% sản lượng của cả nước. Bên cạnh đó, cao su là cây công nghiệp dài ngày, trước kia chỉ trồng ở Thủ Giầu Một và Suối Dầu đến nay đã phát triển khá ổn định và diện tích ngày một tăng, hình thành vùng sản xuất khá tập trung ở Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Trong 20 năm (1976-1996) diện tích cao su tăng lên 4,6 lần, sản lượng tăng lên 4,8 lần và năng suất tăng lên 1,5 lần. Trong đó riêng diện tích của hai vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên chiếm tới 76% so với diện tích cao su của cả nước. Tương tự cao su, điều là loại cây đang phát triển nhanh và đã hình thành từng vùng sản xuất tập trung dọc tuyến duyên hải Miền Trung (với 61.000ha, chiếm 24% diện tích điều cả nước) và Đông Nam Bộ (149.000 ha, 60% diện tích). Năm 1980 cả nước mới có 30.000 ha điều, đến năm 1999 đã có 255.000 ha, trong đó 180.000 ha cho thu hoạch với sản lượng 140 ngàn tấn điều thô. Còn vùng sản xuất tập trung chè lớn nhất của Việt Nam là trung du-miền núi phía Bắc và tỉnh Lâm Đồng, chiếm tới 75% diện tích chè của cả nước. Trong giai đoạn 1996-2000, diện tích chè tăng bình quân 3,3%/năm, sản lượng tăng 11,2%/năm và kim ngạch tăng 12,8%/năm, trở thành một trong những hàng nông sản có thế mạnh lớn. (Nguồn: Báo Nông nghiệp Việt Nam các số tháng 1,2,3,4 năm 2003). Thứ ba, thị trường nhập khẩu các mặt hàng nông sản trên thế giới được phân chia rõ rệt. Ví dụ, thị trường nhập khẩu gạo chia làm hai mảng với đặc tính hoàn toàn khác nhau. Mảng thứ nhất là các thị trường như: Trung Đông, Nam Mỹ, Châu á, Châu Phi thường nhập khẩu gạo với chất lượng thấp và sức mua yếu. Mảng thứ hai là các thị trường: Châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản, Singapore và các nước phát triển thường nhập khẩu gạo với chất lượng cao và sức mua lớn. Do hạn chế về mặt chất lượng nên thị trường tiêu thụ gạo chủ yếu của Việt Nam vẫn là Châu á, Châu Phi với tỷ trọng 79% tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam, trong đó ba nước nhập khẩu chủ yếu là Indonesia, Philippinnes và Malaysia. Thị trường Châu Âu chỉ nhập khoảng 13% lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam và số lượng sang Châu Mỹ chỉ có 8% với ba nước nhập khẩu chủ yếu là Mỹ, Cu Ba, Barazil (theo Bộ NN&PTNT). Thứ tư, phần lớn hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam được tiêu thụ dưới nhãn mác của các nhà phân phối nước ngoài nên chưa tạo được nhiều bạn hàng vững chắc. Theo thống kê hiện 80% hàng nông sản của ta phải bán cho các công ty trung gian đóng gói lại rồi xuất đi với thương hiệu của họ. Đối với những sản phẩm như cà phê, điều, chè thì tỷ lệ trên lên đến 90%. Thứ năm, đa số các mặt hàng nông sản của ta đều là xuất thô hoặc sơ chế. Tỷ lệ nông sản phẩm xuất khẩu có độ chế biến sâu chỉ chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản trong khi tiềm năng ngành chế biến nước ta là rất lớn. Hy vọng trong những năm tới, cùng với việc đầu tư vào trang thiết bị và đổi mới công nghệ, tỷ lệ xuất khẩu nông sản chế biến của Việt Nam sẽ tăng lên. 2. Về thị trường Theo phân loại của Tổ chức lương thực nông nghiệp Liên hiệp quốc (FAO), hàng nông sản là tập hợp của nhiều nhóm hàng khác nhau như : nhóm hàng các sản phẩm nhiệt đới, nhóm hàng ngũ cốc, nhóm hàng thịt, nhóm hàng các sản phẩm sữa, nhóm hàng nông sản nguyên liệu, nhóm hàng dầu mỡ và các sản phẩm khác... Những mặt hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam hầu hết là những cây trồng truyền thống, phù hợp với điều kiện khí hậu và tự nhiên. Trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của các vùng sinh thái và các địa phương trong cả nước, đã hình thành được nhiều vùng chuyên canh sản xuất nông sản xuất khẩu có quy mô lớn như : lúa gạo vùng đồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng; cà phê vùng Tây Nguyên; cao su vùng Đông Nam Bộ; chè vùng miền núi, trung du phía Bắc; cây có dầu vùng duyên hải Miền Trung và một số cây ăn quả đặc sản rải rác ở các tỉnh. Đặc điểm nổi bật của các mặt hàng nông sản là sản lượng phụ thuộc nhiều vào các điều kiện khách quan như thời tiết, sâu bệnh và không có khả năng tích trữ, bảo quản lâu. Vì vậy nông dân luôn phải bán hết số lượng nông sản làm ra trong một vụ vì nếu để lâu sẽ hỏng và mất giá trị hoàn toàn. Chính điều này đã dẫn đến đặc điểm sau của thị trường nông sản mà người chịu thiệt hại không ai khác chính là bà con nông dân. Điều dễ nhận thấy ở thị trường hàng nông sản là loại thị trường các sản phẩm thiết yếu nên cầu về hàng nông sản rất ít co giãn đối với giá cả (biểu hiện ở đường cầu D có độ dốc lớn). Qua phân tích sơ đồ ta thấy nếu đường cung sản phẩm mở rộng từ S0 đến S1 thì điểm cân bằng cung cầu chuyển từ A sang B còn giá cân bằng giảm từ P0 xuống P1. Doanh thu hàng nông sản khi nông dân được mùa được tính là P1´Q1 bằng diện tích hình chữ nhật OP1BQ1. Biểu 1: Sơ đồ cung cầu thị trường hàng nông sản P O Q0 Q1 Q S0 S1 P0 P1 D A B M So sánh với doanh thu trước khi sản lượng tăng (bằng diện tích hình chữ nhật OP0AQ0), nếu diện tích hình chữ nhật AMP1P0 lớn hơn diện tích hình BMQ0Q1 ta thấy một điều là doanh thu khi cung sản phẩm tăng có thể thấp hơn so với khi cung giảm. Nghịch lí này thực tế đã xảy ra khi sản lượng nông sản tăng do nông dân được mùa thì giá cả giảm xuống rất mạnh và doanh thu của người nông dân có khi không bằng năm mất mùa, gây tác động tiêu cực đến quá trình sản xuất, làm giảm động cơ khuyến khích nông dân nâng cao năng suất lao động. Đó là đặc điểm của thị trường nông sản nói chung. Đối với thị trường nông sản xuất khẩu, điểm nổi bật nhất là chúng ta phải chấp nhận giá. Giá xuất khẩu không phụ thuộc vào giá cân bằng trong nước mà là giá cân bằng của thị trường thế giới. Nhìn chung kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam vẫn chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng giá trị giao dịch thương mại hàng nông sản toàn cầu. Vì vậy chúng ta không có khả năng quyết định tới giá xuất khẩu (trừ 3 mặt hàng chủ lực là gạo, cà phê, hồ tiêu). ChươngII Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng nông sản tại công ty cổ phần Vilexim I. Giới thiệu so lược về công ty 1. Lịch sử hình thành. Công ty xuất nhập khẩu với Lào (VILEXIM) được thành lập căn cứ vào Quyết định số 82/VNgt - TCCB ngày 20/02/1987 của Bộ Ngoại thương (nay là Bộ Thương mại). Công ty xuất nhập khẩu với Lào được thành lập ngay sau khi tách từ Tổng Công ty xuất nhập khẩu Việt Nam năm 1987. Công ty là một đơn vị hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ về tài chính, có tư cách pháp nhân, có tài khoản tiền Việt và ngoại tệ ở ngân hàng và có con dấu riêng, hoạt động theo luật pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Công ty có nhiều quan hệ hợp tác kinh doanh với các tổ chức, Công ty kinh doanh của nước ngoài. Mặt khác, thông qua hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu để đẩy mạnh phát triển quan hệ thương mại và các hoạt động liên quan. * Hình thức Công ty: Doanh nghiệp Nhà nước (Thuộc Bộ Thương mại) * Tên gọi : Công ty Vilexim - Tên Việt Nam : Công ty xuất nhập khẩu với Lào - Tên giao dịch Quốc tế : VIETNAM NATIONAL IMPORT – EXPORT CORPORATION WITH LAOS. - Tên điện tín : VILEXIM Trụ sở chính : số 170 Đường Giải Phóng -- Phường phương Liệt – Quận Thanh Xuân – Hà Nội Điện thoại : 04-8694175/ 04-8691494/ 04- 8691496 Fax : 04-8694168 Chi nhánh Hải Phòng : số 138 Lê Lai – Hải Phòng Điện thoại : 031 – 768518 Fax :031-768518 Chi nhánh T.p Hồ CHí Minh : 29 Nguyễn Sơn Hà-Quận 3-T.p Hồ Chí Minh Điện thoại : 08-8358881/ 8346643 Fax: 031-768518 Chi nhánh HàTây : Điện thoại Fax: Công ty Vilexim là một Công ty xuất nhập khẩu (XNK) trực thuộc Bộ Thương mại, tiền thân là Công ty XNK biên giới (FRONTALIMEX) được thành lập từ tháng 2 năm 1967 có nhiệm vụ tiếp chuyển hàng hoá viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa, vận tải quá cảnh và chi viện cho nước bạn Lào. Tháng 7 năm 1967, sau khi hoà bình lập lại đổi tên thành Tổng Công ty xuất nhập khẩu Việt Nam , sau đó lại đổi tên thành Tổng Công ty xuất nhập khẩu với Lào và Campuchia tiếp tục thực hiện nhận hàng viện trợ đồng thời giao dịch xuất nhập khẩu với hai nước này. Sau khi Việt Nam chuyển đổi cơ cấu kinh tế tập trung sang cơ chế thị trường thì đến tháng 2 năm 1987, Công ty xuất nhập khẩu với Lào và Cămpuchia lại tách ra làm 2 Công ty là Công ty xuất nhập khẩu với Lào (VILEXIM) và Công ty xuất nhập khẩu với Căm pu chia (VIKAMEX). Vilexim là một doanh nghiệp hoạt động độc lập có tư cách pháp nhân trực thuộc Bộ Thương Mại. Đến quý III năm 2004, công ty đã chuyển đổi thành công ty cổ phần XNK và hợp tác đầu tư VILEXIM theo đúng chủ trương của nhà nước và Bộ Thương mại. 2. Các giai đoạn phát triển: Quá trình phát triển của Công ty chia làm hai giai đoạn : -Giai đoạn 1: 1987 – 1993 Công ty được Bộ thương mại giao nhiệm vụ tiến hành các hoạt động xuất nhập khẩu với nước CHDC nhân dân Lào. - Giai đoạn 2 : từ 1993 đến nay theo xu thế của cơ chế thị trường và sự đổi mới của đất nước để có thể thích ứng và vươn lên Công ty phải có những thay đổi trong chiến lược xuất nhập khẩu kinh doanh và thị trường. Do vậy Bộ thương mại đã có những điều chỉnh để Công ty không chỉ thực hiện kinh doanh xuất nhập khẩu với Lào và thay mặt chính phủ nhận nợ cho Nhà nước do Chính phủ Lào trả mà còn được phép tiến hành hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu với tất cả các nước trên thế giới và cả thị trường trong nước góp phần vào phát triển chung của nền kinh tế đất nước . Trải qua hơn 10 năm hoạt động Công ty VILEXIM đã có sự mạnh mẽ về cả lượng và chất . Điều đó được thể hiện qua sự lớn mạnh của Công ty về vốn, kỹ thụât và trình độ quản lý và cả sự hoàn thiện hơn về cơ cấu tổ chức. 3. Cơ cấu tổ chức : Đến nay, Công ty có tổng số cán bộ công nhân viên là 120 (trong đó 76 là nam và 44 là nữ) người và cơ cấu Công ty là một hệ thống nhất từ trên xuống dưới. Phân theo trình độ lao động + Cán bộ có trình độ đại học : 97 người + Cán bộ có trình độ cao đẳng : 0 người + Cán bộ có trình độ trung cấp : 13 người + Công nhân kỹ thuật : 10 người + Lao động phổ thông : 0 người Tổng cộng : 120 người Dưới đây là các các quyền hạn và nhiệm vụ của bộ máy quản trị của công ty cổ phần VILEXIM : - Quyền hạn và nhiệm vụ của Đại hội cổ đông : +Thông qua bấo cáo của Hội đồng quản trị về tình hình hoạt động và kết quả kinh doanh, thông qua báo cáo của ban kiểm soát; + Phê chuẩn báo cáo quyết toán năm tài chính;phương án phân phối sử dụng lợi nhuận, chia cổ tức và trích lập, sử dung các quỹ theo đề nghị của hội đồng quản trị. + Quyết định phương hướng, nhiệm vụ của nam tài chính mới. + Quyết định việc tăng giảm vốn điều lệ, loại cổ phần phát hành mới và tổng số cổ phần được quyền chào bán của từng loại. + Quyết định mua lại hơn 10% tổng số cổ phần phổ thông đang lưu hành cổ phần phổ thông. + Quyết định bán số tài sản có giá trị bằng hoặc trên 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong sổ kế toán của công ty. + Quyết định mức cổ tức hàng năm của cổ phần phổ thông. + Quyết định về tổng mức thù lao cho HĐQT, Ban kiểm soát, và những quy định khác liên quan tới chủ tịch HĐQT, HĐQT và Ban kiểm soát. + Bầu thành viên HĐQT và kiểm soát viên nếu hết nhiệm kỳ hoặc bầu bổ sung, thay thế thành viên HĐQT và kiểm soát viên theo quy định của bản điều lệ của Công ty. + Xem xét và xử lý các vi phạm của HĐQT và ban kiểm soát gây thiệt hại cho công ty và cổ đông của công ty. + Quyết định tổ chức lại, giải thể công ty, các chi nhánh, văn phòng đạ diện, các đơn vị trực thuộc của công ty. + Thông qua sửa đổi, bổ sung điều lệ công ty. + Biểu quyết tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán. + Sáp nhập hoặc chuyển đổi công ty. + Giao dịch bán tài sản của công ty hoặc bất kỳ chi nhánh nào hoặc giao dịch mua do công ty hoặc các chi nhanhs thục hiện có giá trị từ 50% trở lên tổng giá trị tái sản của công ty và các chi nhánh của công ty theo sổ sách kế toán . - Hội đồng quản trị: + Quyết định chiến lược phát triển của công ty. + Quyết định cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý điều hành của công ty + Quyết định thành lập công ty trực thuộc chi nhánh, văn phòng đại diện. + Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức tổng giám đốc công ty. + Quyết định giá chào bán giá cổ phần của công ty. + Quyết định giải pháp phát triển thị trường và công nghệ. + Quyết định chính sách đầu tư của công ty thông qua phương án đầu tư do tổng giám đốc đệ trình. + Có trách nhiệm báo cáo các kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trước đại hội cổ đông tại mỗi kỳ họp cổ đông của công ty. - Ban giám đốc: + Tổng giám đốc là người điều hành và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của công ty theo nghị quyết, quyết định của HĐQT, nghị quyết của đại hội dồng cổ đông, điều lệ công ty và tuân thủ pháp luật. + Xây dựng và trình HĐQT kế hoạch dài hạn và kế hoạch hàng năm. + Xây dựng và trình HĐQT phê chuẩn cơ cấu tổ chức, bộ máy giúp việc và quy chế quản lý nội bộ công ty. Bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh quản lý trong công ty, trừ các chức danh do HĐQT bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm. + Ký kết các hợp đồng kinh tế, dân sự của công ty trừ những điều ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34183.doc
Tài liệu liên quan