Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu của Doanh nghiệp trong các khu công nghiệp miền Trung

Tài liệu Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu của Doanh nghiệp trong các khu công nghiệp miền Trung: ... Ebook Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu của Doanh nghiệp trong các khu công nghiệp miền Trung

doc94 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1260 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu của Doanh nghiệp trong các khu công nghiệp miền Trung, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tr­êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n khoa kinh tÕ vµ kinh doanh quèc tÕ Chuyªn ngµnh qu¶n trÞ kinh doanh quèc tÕ  & œ chuyªn ®Ò thùc tËp §Ò tµi: Gi¶i ph¸p thóc ®Èy xuÊt khÈu cña doanh nghiÖp trong c¸c khu c«ng nghiÖp miÒn trung Gi¸o viªn h­íng dÉn : TS. T¹ V¨n Lîi Sinh viªn thùc hiÖn : Bïi ThÞ lµnh Líp : KDQT A Kho¸ : 46 HÖ : chÝnh quy Hµ Néi - 2008 MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG DANH MỤC CÁC HÌNH MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU VÀ SỰ CẦN THIẾT THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRONG KHU CÔNG NGHIỆP 4 1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU 4 1.1.1. Khái niệm xuất khẩu 4 1.1.2. Các hình thức xuất khẩu 5 1.1.2.1. Xuất khẩu gián tiếp 6 1.1.2.2. Xuất khẩu trực tiếp 7 1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp 8 1.1.3.1. Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô 9 1.1.3.2. Các yếu tố thuộc môi trường vi mô 13 1.2. KHU CÔNG NGHIỆP 14 1.2.1. Quá trình hình thành và khái niệm về KCN 14 1.2.2. Đặc điểm và phân loại KCN 18 1.2.2.1. Đặc điểm của các KCN 18 1.2.2.2. Phân loại KCN 19 1.2.3. Hoạt động của doanh nghiệp trong KCN 22 1.3. KINH NGHIỆM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU CỦA TRUNG QUỐC 23 1.4. SỰ CẦN THIẾT THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP TRONG KHU CÔNG NGHIỆP 26 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP MIỀN TRUNG 28 2.1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC KHU CÔNG NGHIỆP MIỀN TRUNG 28 2.1.1. Đặc điểm chung về tự nhiên, kinh tế xã hội của Miền Trung 28 2.1.2. Sự hình thành và phát triển các KCN miền Trung 33 2.2. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP MIỀN TRUNG 37 2.2.1. Vài nét về tình hình đầu tư vào các KCN miền Trung 37 2.2.2. Thực trạng xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung 41 2.3. PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP TRONG CÁC KCN MIỀN TRUNG 46 2.3.1. Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô 46 2.3.1.1. Quan hệ chính trị ngoại giao 46 2.3.1.2. Thuế quan và hạn ngạch xuất khẩu 48 2.3.1.3. Hỗ trợ xúc tiến thương mại 49 2.3.1.4. Hỗ trợ tài chính 50 2.3.1.5. Tỷ giá hối đoái 52 2.3.1.6. Cơ sở hạ tầng 53 2.3.2. Các yếu tố thuộc môi trường vi mô 55 2.3.2.1. Mục tiêu xuất khẩu của doanh nghiệp 55 2.3.2.2. Khả năng am hiểu về thị trường nước ngoài 56 2.3.2.3. Năng lực sản xuất 56 2.3.2.4. Năng lực tài chính 57 2.4. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP MIỀN TRUNG 58 2.4.1. Mặt được của hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN 58 2.4.2. Mặt hạn chế của hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN 59 2.4.3. Nguyên nhân của mặt hạn chế 59 2.4.3.1. Nguyên nhân từ phía Nhà nước 60 2.4.3.2. Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp 61 CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP MIỀN TRUNG 63 3.1. TRIỂN VỌNG XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP MIỀN TRUNG 63 3.1.1. Định hướng phát triển các KCN miền Trung 63 3.1.1.1. Quan điểm phát triển KCN 63 3.1.1.2. Mục tiêu phát triển các KCN miền Trung đến năm 2015 64 3.1.1.3. Định hướng phát triển các KCN miền Trung 64 3.1.2. Triển vọng xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung 65 3.2. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP MIỀN TRUNG 67 3.2.1. Các giải pháp từ phía nhà nước 67 3.2.1.1. Tăng cường và đổi mới hoạt động xúc tiến thương mại 67 3.2.1.2. Cải thiện hệ thống pháp lý gắn với thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN 70 3.2.1.3. Quy hoạch lại hệ thống KCN, hệ thống cơ sở hạ tầng, tạo liên kết giữa các địa phương trong vùng 71 3.2.1.4. Đổi mới chính sách phát triển nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp trong KCN miền Trung 72 3.2.3. Giải pháp từ phía doanh nghiệp 73 KẾT LUẬN 76 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Nguyên câu Viết tắt Khu công nghiệp KCN Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa CNH - HĐH Kinh tế - xã hội KT - XH Khu chế xuất KCX Khu công nghệ cao KCNC Ban quản lý BQL Ủy ban nhân dân UBND Tổ chức thương mại thế giới WTO Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Cộng hòa dân chủ nhân dân CHDCND Khu kinh tế KKT Cơ sở hạ tầng CSHT Sản xuất kinh doanh SXKD Kinh tế trọng điểm KTTĐ Giá trị sản xuất công nghiệp GTSXCN Thủ công mỹ nghệ TCMN Xã hội chủ nghĩa XHCN Xúc tiến thương mại XTTM DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Nguyên câu Viết tắt Khu công nghiệp KCN Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa CNH - HĐH Kinh tế - xã hội KT - XH Khu chế xuất KCX Khu công nghệ cao KCNC Ban quản lý BQL Ủy ban nhân dân UBND Tổ chức thương mại thế giới WTO Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Cộng hòa dân chủ nhân dân CHDCND Khu kinh tế KKT Cơ sở hạ tầng CSHT Sản xuất kinh doanh SXKD Kinh tế trọng điểm KTTĐ Giá trị sản xuất công nghiệp GTSXCN Thủ công mỹ nghệ TCMN Xã hội chủ nghĩa XHCN Xúc tiến thương mại XTTM DANH MỤC CÁC HÌNH STT Hình số Nội dung Trang 1 Hình 2.1 Số các KCN ở miền Trung từ năm 1994 – 2007 34 2 Hình 2.2 Tỷ trọng các KCN được phân bổ ở các vùng trên cả nước 37 3 Hình 2.3 Thu hút đầu tư trong nước vào các KCN miền Trung 38 4 Hình 2.4 Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN miền Trung 38 5 Hình 2.5 Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN trên cả nước đến hết năm 2007 39 6 Hình 2.6 Cơ cấu đầu tư trong nước vào các KCN trên cả nước đến hết năm 2007 39 7 Hình 2.7 Kim ngạch xuất khẩu so với GTSXCN của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung 43 8 Hình 2.8 Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung năm 2007 44 9 Hình 2.9 Tỷ trọng xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung so với toàn vùng năm 2007 45 10 Hình 2.10 Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Việt Nam 2003 – 2007 48 11 Hình 2.11 Cơ cấu lao động theo trình độ đào tạo trong các KCN miềnTrung 57 MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Trong bối cảnh mới của quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, việc xây dựng và phát triển các khu công nghiệp (KCN) là một hướng đi đúng đắn, là hướng phát triển có ý nghĩa quan trọng nhằm thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước góp phần đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Những năm qua, nền kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng cao, GDP tăng bình quân 7,5%/năm tăng cao hơn 0,6% so với tốc độ tăng trưởng bình quân của 5 năm 1996-2000, thu nhập của người dân được cải thiện, tỷ lệ thất nghiệp giảm mạnh, lạm phát được kìm hãm… Trong sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ ấy, KCN là một điểm sáng, đóng góp to lớn cho tăng trưởng kinh tế, giữ vai trò quan trọng trong định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ - công, nông, ngư nghiệp; cơ cấu lao động; tăng khả năng thu hút vốn đầu tư; tăng khả năng tiếp nhận công nghệ hiện đại; kinh nghiệm quản lý tiên tiến; tạo việc làm cho người lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo; thúc đẩy xuất khẩu… Miền Trung Việt Nam gồm 14 tỉnh từ Thanh Hoá đến Bình Thuận, chiếm khoảng 29,1% diện tích tự nhiên và 23,3% dân số cả nước cũng đang xây dựng và phát triển các KCN nhằm phát triền kinh tế vùng nói riêng và cả nước nói chung. Miền Trung là cầu nối giữa hai vùng trọng điểm kinh tế miền Bắc và miền Nam, là cửa ngõ ra biển Đông cho các quốc gia tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng, thế nên việc phát triển kinh tế miền Trung có một vai trò to lớn. Đóng góp cho sự thịnh vượng của miền Trung, 22 KCN trong vùng đang làm tốt nhiệm vụ thu hút đầu tư để đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu của vùng. Có thể nói với lợi thế bờ biển dài, lại nằm trên hệ thống giao thông quan trọng của cả nước, với sự phát triển mạnh mẽ của các cảng biển, sân bay… doanh nghiệp trong các KCN miền Trung có ưu thế rất lớn trong việc xuất khẩu hàng hoá ra thị trường thế giới. Tuy nhiên với đặc thù và những lợi thế của mình miền Trung vẫn chưa thực sự bứt phá đi lên. Trị giá xuất khẩu khu vực miền Trung vẫn còn cách xa hai vùng còn lại, mới chỉ chiếm gần 5% kim ngạch xuất khẩu của các KCN cả nước, doanh nghiệp trong các KCN miền Trung hoạt động còn kém hiệu quả. Do vậy đề tài: “Giải phát thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung” sẽ đưa ra một cách nhìn tổng thể về thực trạng xuất khẩu của các KCN miền Trung, qua đó để có hướng đi phù hợp đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu của vùng. 2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về xuất khẩu - khu công nghiệp và thực trạng xuất khẩu của doanh nghiệp trong các khu công nghiệp trên địa bàn miền Trung Việt Nam, mà đề xuất các giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp nằm trong các khu công nghiệp miền Trung. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục tiêu trên, đề tài cần thực hiện các nhiệm vụ sau đây: Hệ thống hóa cơ sở lý luận về xuất khẩu và sự cần thiết phải thúc đẩy xuất của doanh nghiệp trong các khu công nghiệp miền Trung. Phân tích và đánh giá thực trạng xuất khẩu của doanh nghiệp trong các khu công nghiệp miền Trung, rút ra những mặt được, mặt hạn chế cũng như những nguyên nhân hạn chế của hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp trong các khu công nghiệp miền Trung. Trên cơ sở triển vọng xuất khẩu của doanh nghiệp trong các khu công nghiệp miền Trung, đề tài đề xuất các giải phát nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp trong các khu công nghiệp miền Trung. 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp trong các khu công nghiệp miền Trung. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu vào hoạt động chính là xuất khẩu của doanh nghiệp trong các khu công nghiệp ở miền Trung Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm phương pháp luận cơ bản. Bên cạnh đó, phương pháp phân tích kinh tế, phương pháp thống kê, phương pháp lượng hoá, phương pháp hệ thống… cũng được vận dụng để luận giải các vấn đề lý luận và thực tiễn. 5. KẾT CẤU CỦA BÀI VIẾT Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục từ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được chia thành 3 chương: Chương I: Cơ sở lý luận về xuất khẩu và sự cần thiết thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp trong các khu công nghiệp Chương II: Thực trạng xuất khẩu của doanh nghiệp trong các khu công nghiệp miền Trung Chương III: Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp trong các khu công nghiệp miền Trung CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU VÀ SỰ CẦN THIẾT THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRONG KHU CÔNG NGHIỆP 1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU Ngày nay, xu thế hội nhập đang là một xu thế tất yếu. Xu thế này như một làn gió lan rộng khắp thế giới làm cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng mạnh mẽ và sâu rộng. Tất nhiên xu thế này đã tạo rất nhiều các cơ hội to lớn nhưng cũng không ít thách thức cho mỗi doanh nghiệp, mỗi quốc gia. Vì vậy lựa chọn giải pháp thúc đẩy xuất khẩu là một trong những lựa chọn hàng đầu của các quốc gia nhất là các quốc gia đang phát triển để tiến nhanh trên con đường hội nhập. 1.1.1. Khái niệm xuất khẩu Ngay từ thế kỷ XVI, các nhà kinh tế học đã đề cao vai trò của thương mại đặc biệt là ngoại thương đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc gia. Các nhà kinh tế học thuộc trường phái trọng thương cho rằng, một quốc gia muốn phồn thịnh thì phải phát triển thương nghiệp, phát triển thương nghiệp nếu chỉ chú ý đến nội thương thì quốc gia đó không mạnh, quốc gia mạnh phải phát triển ngoại thương. Nhưng các nhà kinh tế thuộc trường phái trọng thương coi hoạt động thương mại giữa các quốc gia không khác một cuộc chiến có kẻ thắng kẻ bại. Chỉ đến đầu thế kỷ XIX, với việc xuất hiện lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo đã khiến cho hoạt động kinh doanh thương mại bùng nổ trên toàn thế giới. Theo Ricardo, thương mại quốc tế là sân chơi chung của tất cả các quốc gia, trong thương mại quốc tế không có kẻ thắng người thua, ngay cả khi một quốc gia không có lợi thế trong sản xuất bất kỳ một loại hàng hoá nào thì vẫn thu được lợi ích khi có quan hệ mậu dịch với nước có khả năng sản xuất hiệu quả hơn ở tất cả các loại hàng hoá, thương mại quốc tế là hoạt động nhằm đem lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia. Sau David Ricardo, các nhà kinh tế học sau này như Haberler, Heckscher… cũng đều khẳng định tầm quan trọng của thương mại quốc tế đối với sự phát triển bền vững của một quốc gia. Và xuất khẩu là một bộ phận quan trọng của hoạt động thương mại quốc tế. Xuất khẩu được xem xét và định nghĩa dưới nhiều góc độ khác nhau. Xét dưới góc độ kinh doanh thì xuất khẩu là hoạt động bán các hàng hoá và dịch vụ hoặc vượt qua biên giới các quốc gia hoặc cho các tổ chức (cá nhân) có quốc tịch khác với bên bán, trên cơ sở dùng tiền làm phương tiện thanh toán hoặc trao đổi lấy một hàng hoá khác có giá trị tương đương. Xét dưới góc độ phi kinh doanh thì xuất khẩu là việc lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ qua biên giới quốc gia không nhằm mục đích lợi nhuận như quà tặng, viện trợ không hoàn lại… Ở Việt Nam, khái niệm hoạt động xuất khẩu cũng có khá nhiều định nghĩa khác nhau. Theo điều 2 của Nghị định 57/1998 NĐ-CP thì “hoạt động xuất khẩu là hoạt động bán hàng hoá của thương nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài theo các hợp đồng mua bán hàng hoá, bao gồm cả hoạt động tạm nhập tái xuất và chuyển khẩu hàng hoá”. Còn theo khoản 1 điều 28 của Luật thương mại năm 2005 thì “xuất khẩu hàng hoá là việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định pháp luật”. Như vậy, xuất khẩu là hoạt động của các doanh nghiệp, các thương nhân nước bán nhằm đưa hàng hoá trong nước đến tay người sử dụng có quốc tịch khác nước bán. 1.1.2. Các hình thức xuất khẩu Là hoạt động xuất hiện rất sớm trong thương mại quốc tế, nên xuất khẩu được hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Nếu căn cứ vào mối quan hệ giữa người bán và người mua thì ta có thể thấy xuất khẩu có hai hình thức chính là xuất khẩu gián tiếp và xuất khẩu trực tiếp. 1.1.2.1. Xuất khẩu gián tiếp Xuất khẩu gián tiếp là hình thức bán hàng hoá và dịch vụ ra thị trường nước ngoài thông qua trung gian (người thứ ba). Như vậy việc kiến lập mối quan hệ giữa người bán và người mua hay việc quy định các điều kiện mua bán đều phải thông qua một người trung gian. Người trung gian mua bán chủ yếu trong kinh doanh xuất khẩu là: đại lý, công ty quản lý xuất khẩu, công ty kinh doanh xuất khẩu. Đại lý: Là cá nhân hoặc thể nhân đại diện cho nhà xuất khẩu thực hiện một hoặc một số hoạt động của việc tiêu thụ sản phẩm tại thị trường nước ngoài. Như vậy đại lý không phải là một chi nhánh của nhà xuất khẩu mà chỉ là người đại diện thực hiện một hoặc một vài hoạt động nhất định chẳng hạn như: nghiên cứu thị trường, phân phối sản phẩm…cho người xuất khẩu và nhận thù lao hoặc hoa hồng. Công ty quản lý xuất khẩu: Là các công ty nhận uỷ thác và quản lý công tác xuất khẩu hàng hoá. Hoạt động của công ty là cung ứng các dịch vụ xuất khẩu như làm thủ tục xuất khẩu và thu được một khảo thù lao nhất định từ hoạt động đó. Công ty kinh doanh xuất khẩu: Là công ty hoạt động như một nhà phân phối độc lập, có chức năng kết nối khách hàng nước ngoài với doanh nghiệp trong nước để đưa hàng hoá ra nước ngoài tiêu thụ. Do có kinh nghiệm trong việc xuất khẩu hàng hoá, am hiểu sâu về thị trường nước ngoài, có vốn và cơ sở vật chất tốt nên ngoài việc thực hiện các hoạt động trực tiếp liên quan đến xuất khẩu, các công ty kinh doanh xuất khẩu còn có thể cung ứng các dịch vụ bổ trợ cho xuất khẩu; thiết lập và mở rộng kênh phân phối; tài trợ cho các dự án thương mại và đầu tư; thậm chí các công ty này còn trực tiếp sản xuất để bổ trợ một công đoạn nào đó cho sản phẩm xuất khẩu như: bao gón, in ấn… Ưu điểm của hình thức xuất khẩu gián tiếp: Với việc sử dụng hình thức xuất khẩu gián tiếp các doanh nghiệp không cần phải thành lập một bộ phận xuất khẩu riêng, một lực lượng bán hàng ở nước ngoài đồng thời các doanh nghiệp cũng không cần phải thực hiện một loạt các giao dịch, tiếp xúc với khách nước ngoài nên ưu điểm đầu tiên của hình thức này là giảm một phần công việc cho doanh nghiệp sản xuất và giúp cho bộ máy doanh nghiệp đỡ cồng kềnh hơn. Nhược điểm của hình thức xuất khẩu gián tiếp: Các trung gian khi tham gia vào xuất khẩu đều thu được thù lao hoặc hoa hồng nhất định, chính vì vậy mà doanh nghiệp sẽ bị giảm bớt một phần lợi nhuận khi sử dụng hình thức xuất khẩu gián tiếp. Ngoài ra, do không tiếp xúc trực tiếp với khách hàng nên việc nắm bắt thông tin của doanh nghiệp sẽ bị hạn chế và không phản ứng kịp thời được với sự biến đổi của nhu cầu thị trường. 1.1.2.2. Xuất khẩu trực tiếp Hình thức xuất khẩu gián tiếp rất thuận lợi cho giai đoạn đầu của một doanh nghiệp khi tham gia hoạt động xuất khẩu do lúc này doanh nghiệp có ít kinh nghiệm và mức đầu tư cũng thấp. Tuy nhiên, về lâu dài thì hình thức này sẽ cản trở việc quản lý thị trường của doanh nghiệp. Khi các doanh nghiệp phát triển có thể thành lập các tổ chức bán hàng riêng để kiểm soát thị trường của mình thì họ dùng hình thức xuất khẩu trực tiếp. Xuất khẩu trực tiếp là việc một doanh nghiệp bán hàng hoá hay dịch vụ của mình cho khác hàng nước ngoài mà không qua bất kỳ một trung gian nào. Doanh nghiệp có thể thực hiện xuất khẩu trực tiếp qua các hình thức chủ yếu sau: Bộ phận xuất khẩu: Là một bộ phận trong cơ cấu tổ chức của công ty chuyên trách thực hiện hoạt động xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ ra thị trường nước ngoài. Như vậy, tất cả các hoạt động liên quan đến việc cung ứng sản phẩm ra thị trường nước ngoài từ nghiên cứu thị trường, tìm kiếm khách hàng, giao dịch và thực hiện việc xuất khẩu sẽ đều do một bộ phận đảm nhiệm. Nếu hoạt động xuất khẩu của công ty phát triển thì bộ phận này có thể trở thành một phòng ban độc lập hay một công ty con ở nước ngoài. Đại diện bán hàng: Là hình thức công ty cử đại diện của mình bán hàng hoá hoặc dịch vụ ra thị trường nước ngoài. Người đại diện hoạt động như một nhân viên bán hàng của công ty ở thị trường nước ngoài, được nhận lương và một phần hoa hồng từ giá trị sản phẩm bán được, còn công ty sẽ ký hợp đồng trực tiếp với khách hàng nước ngoài. Đại lý phân phối: đây là hình thức mà doanh nghiệp có các nhà phân phối hoặc các đại lý bán hàng ở nước ngoài, doanh nghiệp sẽ bán hàng hoá cho các nhà phân phối để họ bán theo kênh tiêu thụ mà công ty đã phân định. Đại lý phân phối sẽ bán hàng và thu lợi nhuận qua chênh lệch giữa giá mua và giá bán, đồng thời họ phải chịu mọi rủi ro trong quá trình bán hàng hoá ở thị trường đã phân định. Ưu điểm của hình thức xuất khẩu trực tiếp: việc xuất khẩu trực tiếp đem lại các ưu điểm sau: Một là, doanh nghiệp sẽ không phải mất một khoản lợi nhuận cho trung gian, lợi nhuận thu được từ việc bán hàng hóa và dịch vụ ra thị trường nước ngoài sẽ cao hơn Hai là, doanh nghiệp có thể phát triển quan hệ chặt chẽ với khách hàng, chủ động hơn khi có sự biến động trên thị trường nước ngoài. Nhược điểm của hình thức xuất khẩu trực tiếp: Để có thể xuất khẩu trực tiếp thành công sản phẩm của mình ra thị trường nước ngoài đòi hỏi doanh nghiệp phải đâu tư nhiều thời gian và tiền bạc. Đây là hình thức có nhiều rủi ro đối với doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm mới. 1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp Hoạt động xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ ra trường thế giới luôn chịu sự tác động trái ngược nhau của nhiều yếu tố. Ta có thể chia các yếu tố này thành hai nhóm chính: nhóm các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô và nhóm các yếu tố thuộc môi trường vi mô. 1.1.3.1. Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô Quan hệ chính trị ngoại giao Trong điều kiện mới của quan hệ kinh tế quốc tế, xu hướng hội nhập liên kết là một đòi hỏi tất yếu đối với mọi quốc gia. Việc là thành viên của các tổ chức liên kết kinh tế sẽ là đem lại cơ hội cho quốc gia phát triển thương mại và đầu tư. Mục đích của các liên kết kinh tế hay các hiệp định song phương giữa các quốc gia là đem lại những điều kiện thuận lợi để thúc đẩy thương mại quốc tế. Các điều kiện thuận lợi đó có thể là các cam kết cắt giảm thuế quan, cam kết áp dụng các ưu đãi đặc biệt, cam kết hỗ trợ đầu tư… Như vậy, hoạt động trong một quốc gia có quan hệ ngoại giao cởi mở sẽ giúp cho doanh nghiệp có nhiều cơ hội trong hoạt động xuất khẩu và tìm kiếm thị trường đối tác. Thuế quan và hạn ngạch xuất khẩu Để thích ứng nhu cầu của hội nhập, các quốc gia trên thế giới đều theo đuổi chính sách tăng cường tự do hóa thương mại và giảm dần bảo hộ mậu dịch. Tuy nhiên, độ mở cửa của mỗi một quốc gia là không giống nhau do họ khác nhau ở các quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc, công cụ và biện pháp về hoạt động thương mại quốc tế. Thuế quan và hạn ngạch xuất khẩu là hai công cụ điển hình ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất khẩu của một quốc gia. Thuế quan xuất khẩu là khoản tiền mà chính phủ đánh vào hàng hóa xuất khẩu. Thuế quan xuất khẩu được coi như một khoản chi phí và nó làm tăng giá của hàng hóa, điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến lợi thế về giá trong xuất khẩu. Nếu thuế đánh vào một mặt hàng nào đó cao thì sẽ hạn chế việc xuất khẩu mặt hàng đó ra thị trường nước ngoài, và ngược lại. Các nước thường áp dụng thuế xuất khẩu khi cho rằng giá xuất khẩu của mặt hàng nào đó thấp hơn so với mức giá thực tế trên thị trường thế giới. Các nước đang phát triển thì cho rằng sử dụng thuế quan với hàng hóa xuất khẩu để bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên trong nước. Hạn ngạch xuất khẩu là quy định của Nhà nước về số lượng cao nhất của một mặt hàng hay một nhóm hàng được phép xuất khẩu ra thị trường nước ngoài trong một thời gian nhất định, thông qua hình thức cấp giấy phép. Khác với thuế quan, những hàng hóa phải chịu mức hạn ngạch thì chỉ được xuất khẩu trong một giới hạn nhất định. Chính phủ các nước thường quy định hạn ngạch xuất khẩu khi muốn duy trì một mức cung thích hợp đối với thị trường trong nước, hoặc muốn giảm lượng cung trên thị trường thế giới để tăng mức giá bán qua đó thu được lợi nhuận lớn hơn. Hỗ trợ xúc tiến thương mại Theo luật Thương mại Việt Nam 2005: “ Xúc tiến thương mại là hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ, bao gồm hoạt động khuyến mại, quảng cáo thương mại, trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ và hội chợ, triểu lãm thương mại.” Điều 3 Luật Thương mại 2005; Những văn bản pháp luật kinh tế, Tr 227. Thấy được vai trò quan trọng của xuất khẩu đối với sự phát triển bền vững của nền kinh tế, nên chính phủ của phần lớn các quốc gia trên thế giới đều đầu tư tài chính và cơ sở vật chất kỹ thuật để hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện hoạt động xuất khẩu. Chính phủ thường xuyên tổ chức các chuyến khảo sát thị trường nước ngoài, thiết lập các văn phòng thương mại ở nước ngoài để giới thiệu các doanh nghiệp trong nước với các bạn hàng tiền năng ở nước ngoài, cung cấp cho doanh nghiệp xuất khẩu những thông tin cần thiết về thị trường, về chính sách thương mại của các nước khác… Những hoạt động này của chính phủ đã có tác dụng rất lớn trong việc thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước cung ứng hàng hóa và dịch vụ ra thị trường thế giới. Hỗ trợ tài chính trong xuất khẩu Để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, Chính phủ các nước thường hỗ trợ các doanh nghiệp về mặt tài chính nhằm đảm bảo hoạt động này diễn ra một các thuận lợi. Có 2 hình thức chủ yếu hay được sử dụng trong thương mại quốc tế. Một là tín dụng xuất khẩu và đảm bảo tín dụng xuất khẩu Tín dụng xuất khẩu là việc nhà nước hoặc tư nhân dành cho khách hàng nước ngoài một khoản tín dụng để mua hàng của mình. Tín dụng xuất khẩu còn được hiểu là khoản hỗ trợ của tài chính giúp cho nhà xuất khẩu thực hiện được hợp đồng xuất khẩu. Tín dụng xuất khẩu đã tạo điều kiện cho khách hàng nước ngoài mua được hàng hóa qua đó đẩy mạnh được khả năng xuất khẩu của các công ty trong nước. Người cung ứng tín dụng xuất khẩu rất đa dạng có thể là chính phủ, các cơ quan tín dụng, hay trực tiếp người xuất khẩu/người nhập khẩu. Tình trạng sử dụng tín dụng xuất khẩu ngày càng phổ biến. Tín dụng xuất khẩu có thể cấp cho các nước đang phát triển không đủ khả năng tài chính cho việc nhập máy móc, thiết bị có giá trị lớn. Tín dụng xuất khẩu có thể được cấp cho các đối tác chiến lược hoặc quen thuộc… Để tín dụng xuất khẩu phát huy được hiệu quả, nhà nước đã thực hiện biện pháp đảm bảo tín dụng xuất khẩu đảm bảo cho nhà xuất khẩu không gặp rủi ro ở các khoản tín dụng xuất khẩu đã cấp. Đảm bảo tín dụng xuất khẩu là việc nhà nước đảm bảo sẽ gánh vác mọi rủi ro xảy ra đối với khoản tín dụng mà nhà xuất khẩu nước mình dành cho các nhà nhập khẩu nước ngoài. Nhờ đó đảm bảo tín dụng xuất khẩu giúp cho nhà xuất khẩu yên tâm và mở rộng hoạt động xuất khẩu của mình. Hai là trợ cấp xuất khẩu Trợ cấp xuất khẩu là những ưu đãi về mặt tài chính mà nhà nước dành cho các nhà xuất khẩu khi họ thực hiện hoạt động đưa hàng hóa ra thị trường nước ngoài. Trợ cấp xuất khẩu có thể được thực hiện một các trực tiếp hoặc gián tiếp. Nhà nước có thể trực tiếp cấp cho doanh nghiệp các khoản như tiền thưởng xuất khẩu, áp dụng tỷ giá khuyến khích đối với ngoại tệ thu được do xuất khẩu. Nhà nước có thể gián tiếp thực hiện bằng cách dùng ngân sách nhà nước đi tuyên truyền quảng cáo, giúp đỡ doanh nghiệp về kỹ thuật, tạo điều kiện thuận lợi cho các dịch vụ xuất khẩu. Tùy thuộc vào chính sách của nhà nước mà mặt hàng nào sẽ được hưởng trợ cấp xuất khẩu và ở mức độ nào. Hiện nay, trợ cấp xuất khẩu chủ yếu dành cho sản phẩm nông nghiệp. Tuy nhiên, việc sử dụng trợ cấp xuất khẩu có thể cản trở những cam kết thực hiện theo các hiệp định song phương, đa phương của các quốc gia nên cần phải có sự cân nhắc khi lựa chọn. Tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái là mức tỷ giá theo đó một đồng tiền được trao đổi với một đồng tiền khác. Tỷ giá hối đoái đóng vai trò chính trong thương mại quốc tế, nó cho phép chúng ta so sanh giá cả của các hàng hóa và dịch vụ sản xuất trên các nước khác nhau. Giá hàng xuất khẩu của một nước sẽ được tính theo giá của nước nhập khẩu nếu biết tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền của hai nước. Khi đồng tiền của một nước mất giá, người nước ngoài nhận ra rằng, giá hàng cuất khẩu của nước này sẽ rẻ đi, và người dân trong nước nhận thấy rằng hàng nhập khẩu từ nước ngoài sẽ đắt lên. Sự lên giá có hiệu quả ngược lại: người nước ngoài sẽ phải trả nhiều tiền hơn cho sản phẩm của nước này, và người dân trong nước phải trả ít tiền hơn cho hàng hóa của nước ngoài. Chính vì điều này mà tỷ giá hối đoái được sử dụng để điều tiết chính sách khuyến khích xuất khẩu hay nhập khẩu hàng hóa của một nước Khi kinh doanh trên thị trường thế giới, các doanh nghiệp không thể không tính tới tác động của tỷ giá hối đoái. Đây là một yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả hàng hóa của doanh nghiệp xuất khẩu. Tỷ giá hối đoái tăng sẽ khuyến khích xuất khẩu vì lúc này hàng hóa xuất khẩu sẽ rẻ hơn, dễ cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Đồng thời tỷ giá hối đoái tăng sẽ là động lực thúc đẩy doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa nhiều hơn vì cùng một lượng ngoại tệ thu được do xuất khẩu doanh nghiệp có thể đổi được nhiều hơn đồng nội tệ. Cơ sở hạ tầng Phát triển cơ sở hạ tầng là một trong các yêu cầu cần thiết để hoạt động ngoại thương diễn ra thuận lợi. Để vận chuyển được hàng hóa ra thị trường thế giới, các quốc gia hiện nay có thể sử dụng các loại hình như vận tải đường không, đường biển, đường bộ, đường sắt… Người ta nói rằng, nếu thương mại quốc tế được cho là nhựa sống của nền kinh tế thế giới thì vận tải quốc tế được coi là mạch máu lưu thông của những dòng nhựa đó. Chính vì vậy mà các quốc gia đều hình thành một hệ thống các cơ sở hạ tầng: hệ thống sân bay, cảng biển, đường giao thông… hợp lý để thúc đẩy ngoại thương phát triển. Ngoài ra còn nhiều yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu của các doanh nghiệp như thủ tục hành chính, trình độ của cán bộ hoạt động liên quan đến xuất khẩu…. 1.1.3.2. Các yếu tố thuộc môi trường vi mô Mục tiêu xuất khẩu của doanh nghiệp Khi tham gia xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ không phải doanh nghiệp nào cũng như doanh nghiệp nào. Có doanh nghiệp thì coi việc xuất khẩu hàng hóa, thâm nhập thị trường nước ngoài là mục tiêu sống còn, cũng có doanh nghiệp coi việc xuất khẩu là việc giải quyết năng lực sản xuất dư thừa hay nhằm đáp ứng một đơn đặt hàng cụ thể. Cho nên sự sẵn sàng trong hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp là khác nhau. Khả năng am hiểu về thị trường nước ngoài Là doanh nghiệp mới tham gia vào lĩnh vực thương mại quốc tế nếu như không có một sự hiểu biết nhất định về thị trường thế giới thì khó có thể đạt được thành quả như mong muốn. Kinh doanh trên thị trường mới, các doanh nghiệp cần có sự hiểu biết cơ bản về những quy định pháp luật, nhu cầu của người tiêu dùng, mức độ cạnh tranh trên thị trường… để có được chiến lược xuất khẩu phù hợp. Nếu khả năng này của doanh nghiệp có hạn thì các doanh nghiệp nên chọn hình thức xuất khẩu gián tiếp để tránh rủi ro có thể gặp phải. Năng lực sản xuất Năng lực sản xuất của công ty thể hiện ở công nghệ sản xuất, năng suất lao động, quy mô sản xuất… Năng lực sản xuất có ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng xuất khẩu của doanh nghiệp. Chẳng hạn đối với nhóm hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam hiện nay, do quy mô sản xuất nhỏ, sử dụng công nghệ thủ công nên không đáp ứng được các đơn đặt hàng lớn của nước ngoài nên kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này còn hạn chế. Muốn duy trì và mở rộng được hoạt động xuất khẩu thì doanh nghiệp cần phải nâng cao khả năng sản xuất để đảm bảo cung cấp cho thị trường đủ về số lượng và chất lượng hàng hóa ngay cả khi có sự biến động tăng. Năng lực tài chính Có thể nói khi mới tham gia vào thị trường thế giới, bên cạnh nguyên nhân kinh nghiệm về thị trường nước ngoài kém là nguyên nhân chi phí khiến cho doanh nghiệp lựa chọn hình thức xuất khẩu gián tiếp. Nếu doanh nghiệp có nguồn tài chính dồi dào để đáp ứng cho nhiều loại chi phí khi thâm nhập thị trường nước ngoài như chi phí nghiên cứu thị trường, chi phí quảng cáo, chi phí khuyến mãi, chi phí cải tiến và thích nghi sản phẩm… thì doanh nghiệp có thể dễ dàng thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của mình. 1.2. KHU CÔNG NGHIỆP 1.2.1. Quá trình hình thành và khái niệm về KCN Sau chiến tranh thế giới thứ II, chủ nghĩa tư bản ở trong thời kỳ cạnh tranh tìm kiếm và phân chia lại thị trường thế giới. Các nước tư bản gia sức bành trướng thương mại trên phạm vi toàn thế giới. Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sản xuất trong nước sang các nước khác là mục tiêu quan trọng để phát triển công nghiệp của các nước tư bản trẻ. Hơn nữa, do tính chất toàn cầu hóa chưa cao, nên việc sử dụng nhân công giá rẻ ở các nước thuộc địa như một yếu tố giảm chi phí sản xuất chưa thật cần thiết._. trong các ngành công nghiệp so với việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, cung cấp nguyên liệu, tài nguyên cho công nghiệp chính quốc. Vì vậy, hoạt động thương mại quốc tế trong giai đoạn này rất phát triển, các nhà tư bản chưa chú trọng nhiều đến việc mở rộng thị trường đầu tư phát triển sản xuất ở nước ngoài. Xu thế toàn cầu hóa diễn ra nhanh chóng với quy mô và tốc độ ngày càng lớn, đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình tự hóa thương mại và đầu tư. Xu thế hội nhập đã khiến cho các nền kinh tế càng phụ thuộc vào nhau nhiều hơn và đều theo xu hướng mở cửa. Bên cạnh đó, sự phát triển của cuộc cánh mạng khoa học công nghệ đã tạo nên một cuộc chạy đua giữa các quốc gia, nhất là các nước tư bản phát triển. Các nước phát triển có lợi thế về trình độ công nghệ cao, vốn nhiều nhưng lại phải đối mặt với chi phí nhân công cao, đối mặt vói sụ khan hiếm về tài nguyên thiên nhiên. Các yếu tố này đã thúc đẩy các doanh nghiệp của các nước phát triển tìm kiếm cơ hội đầu tư ra nước ngoài để giảm bớt chi phí sản xuất, tận dụng lợi thế so sánh ở nước tiếp nhận đầu tư, tìm kiếm thị trường mới, nguồn nguyên nhiên liệu mới nhằm thu lợi nhuận cao hơn. Sự phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng thông tin, bưu chính viễn thông và phương tiện vận tải đã khắc phục được khoảng cách về không gian, giúp các doanh nghiệp xử lý thông tin kịp thời, chính xác. Do vậy, đã tạo nên một nhu cầu chuyển dịch dòng vốn đâu tư chảy từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Trong khi đó, các nước đang phát triển do thiếu vốn, thiếu kỹ thuật công nghệ tiên tiến, thiếu cán bộ quản lý và công nhân lành nghề có trình độ cao để khai thác tài nguyên thiên nhiên và tận dụng những lợi thế sẵn có của mình để phát triển kinh tế, vì vậy các nước này khó có thể xây dựng được ngay những điều kiện và yếu tố để sản xuất những sản phẩm công nghiệp đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Như vậy, có điểm gặp nhau về nhu cầu phát triển kinh tế giữa các nước phát triển và nước đang phát triển. Sự thôi thúc tìm kiếm nguồn nhân công giá rẻ và nguyên liệu cũng như các thị trường mới đã thúc đẩy các nước phát triển di chuyển các cơ sở sản xuất công nghiệp dùng nhiều lao động, tài nguyên ra nước ngoài. Còn các nước đang phát triển, thấy được lợi thế và hạn chế của mình, đã cố gắng tạo ra một môi trường kinh tế thích hợp để thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài nhằm giải quyết những khó khăn về kinh tế và thực hiện mục tiêu CNH – HĐH. Để sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp công nghiệp đều cần có một cơ sở hạ tầng kỹ thuật, điều kiện tự nhiên và xã hội xác định. Trên thực tế, có rất nhiều hình thức tổ chức và quy hoạch các doanh nghiệp sản xuất như hình thức phân tán, hội tụ theo cụm công nghiệp, hình thức tập trung có trung tâm chung (thực chất là KCN). Thời gian đầu, các doanh nghiệp công nghiệp của các nước đang phát triển do hạn chế về vốn nên có quy mô vừa và nhỏ được bố trí ở những địa điểm không phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế cả về quy hoạch và lãnh thổ. Các doanh nghiệp công nghiệp phân bố phân tán, khả năng xử lý ô nhiễm và bảo vệ môi trường thấp, thêm vào đó, các chi tiêu của Chính phủ cần phải tập trung vòa việc phát triển cơ sở hạ tầng. Vì vậy để đáp ứng yêu cầu trên, việc phát triển các doanh nghiệp công nghiệp tập trung vào một khu vực nhất định theo quy hoạch phát triển, nhằm tiết kiệm trong đầu tư, tiết kiệm đất đai, dễ dàng kiểm soát và có biện pháp bảo vệ một trường thích hợp là một giải phát hữu hiệu nhất. Bởi vậy các nước đang phát triển cần tạo một môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước theo một quy hoạch nhất định, phù hợp với mục tiêu phát triển KT – XH. Các nước đang phát triển đã thành lập các khu vực đặc biệt với những ưu đãi nổi bật về tài chính, thuận lợi về cơ sở hạ tầng kỹ thuật nhằm thu hút đầu tư và phát triển công nghiệp bền vững. Các KCN đã bắt đầu hình thành ở các nước đang phát triển. Đến những năm 50 của thế kỷ XX, các KCN đã bắt đầu xuất hiện ở châu Á, đi đầu là Singapore năm 1951, tiếp đến là Malaisia (1954), Ấn Độ (1955). Cùng với sự páht triển của thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế, KCN xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, do vậy mà khái niệm về KCN ở các nước trên thế giới rất khác nhau. Khái niệm thứ nhất: KCN là khu vực lãnh thổ rộng có nền tảng là sản xuất công nghiệp, đan xen với nhiều hoạt động dịch vụ, kể cả dịch vụ sản xuất công nghiệp, dịch vụ sinh hoạt, vui chơi giải trí, khu thương mại, văn phòng, nhà ở, trường học, bệnh viện… Về thực chất mô hình này là khu hành chính – kinh tế đặc biệt như KCN Batam ở Indonesia, các công viên công nghiệp ở Đài Loan, Thái Lan và một số nước Tây Âu. Khái niệm thứ hai: KCN là khu vực lãnh thổ hữu hạn, trong đó tập trung các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ sản xuất công nghiệp, không có dân cư sinh sống. Mô hình KCN này được tìm thấy ở một số nước như Malaixia, Indonesia, Thái Lan, Đài Loan, Philippin… Còn ở Việt Nam, KCN cũng có khá nhiều các khái niệm khác nhau. Theo Quy chế KCN, KCX, KCNC ban hành kèm theo Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997, Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Theo luật đầu tư 2005, KCN là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ. Và gần đây nhất Nghị định 29/2008 NĐ – CP đã nêu rõ KCN là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo một trình tự thủ tục nhất định. Cũng theo nghị định này, KCN và KCX được gọi chung là KCN, trư những trường hợp có quy định cụ thể. Từ các khái niệm trên có thể rút ra một số kết luận về KCN như sau: KCN là một khu vực lãnh thổ có ranh giới xác định, được phân cách bằng đường bao hữu hình hoặc vô hình. Các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp (hàng tiêu dùng, hàng công nghiệp chế biến, hàng tư liệu sản xuất) là hạt nhân của KCN. Vệ tinh của các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp là các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ và doanh nghiệp dịch vụ. Doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và dịch vụ cho sản xuất công nghiệp sử dụng chung cơ sở hạ tầng theo một cơ chế tổ chức quản lý thống nhất của Ban quản lý KCN. Nguồn nhân lực chủ yếu cho các doanh nghiệp là người lao động trong nước và tại chỗ. KCN được sự quản lý trực tiếp của Chính phủ (từ quyết định thành lập, quy hoạch tổng thể, khung điều lệ mẫu, kiểm tra, kiểm soát…) 1.2.2. Đặc điểm và phân loại KCN 1.2.2.1. Đặc điểm của các KCN Đến nay, các KCN đã được thành lập và phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển. Mặc dù các KCN ở các quốc gia có sự khác nhau về quy mô, địa điểm, phương thức xây dựng cơ sở hạ tầng, nhưng nhìn chung các KCN đó đều có những đặc điểm chủ yếu sau: Tính chất hoạt động: KCN chính là nơi tập trung các doanh nghiệp thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh mà không có dân cư. KCN được thành lập để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước vào sản xuất các sản phẩm công nghiệp hoặc kinh doanh các dịch vụ gắn liền với sản xuất công nghiệp. Trong KCN, các nhà đầu tư, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được đầu tư vào các lĩnh vực: Xây dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng Sản xuất, gia công, lắp ráp các sản phẩm công nghiệp để xuất khẩu và tiêu dùng tại thị trường trong nước; phát triển và kinh doanh bằng sáng chế, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ. Nghiên cứu – triển khai khoa học – công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo ra sản phẩm mới. Dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp. Điều 6 - Nghị định 36/CP ngày 24/7/1997 ban hành về quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao Cơ sở hạ tầng kỹ thuật: Trước khi các doanh nghiệp vào KCN để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh thì KCN đã được xây dựng hoàn chỉnh hệ thống cơ sở hạ tầng như đường xá, hệ thống điện - nước, mạng lưới thông tin liên lạc… Ở Việt Nam, Chính phủ khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế, các nhà đầu tư nước ngoài dưới hình thức liên doanh với doanh nghiệp Việt Nam đầu tư, xây dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng KCN. Tùy theo quy mô và tính chất, một KCN có thể có một hoặc nhiều công ty phát triển hạ tầng cùng thực hiện. Tổ chức quản lý: Mỗi một KCN đều có một Ban quản lý KCN (BQL KCN) cấp tỉnh để thực hiện các chức năng quản lý Nhà nước đối với các hoạt động sản xuất – kinh doanh trong KCN. Ngoài BQL KCN là cơ quan quản lý trực tiếp, còn có các cơ quan khác tham gia vào quản lý hoạt động của các KCN như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công nghiệp, Bộ Xây dựng, Bộ Thương mại, UBND cấp tỉnh… 1.2.2.2. Phân loại KCN Tuy có nhiều điểm chung, nhưng các KCN còn có những nét đặc thù riêng thể hiện tính đa dạng, phong phú. Đứng ở các góc độ nghiên cứu khác nhau, ta có thể chia KCN thành các nhóm khác nhau. Căn cứ vào quy mô của KCN thì có thể phân các KCN thành 2 loại: KCN tập trung: có quy mô từ 50 ha trơ lên. KCN vừa và nhỏ: có quy mô nhỏ hơn 50 ha. Căn cứ theo chủ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng KCN thì có 3 loại: KCN do doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài làm chủ đầu tư xây dựng CSHT. Như KCN Phúc Khánh (Thái Bình), KCN An Tây (Bình Dương), KCN Minh Hưng ( Bình Phước)… KCN do doanh nghiệp liên doanh giữa giưa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doang nghiệp trong nước là chru đầu tư xây dựng CSHT. Đặc trưng của các KCN này là được xây dựng hiện đại, có quy mô lớn thường trên 100 ha. Điển hình ở Việt Nam có các KCN Nomura (Hải Phòng), KCN Đà Nẵng (Đà Nẵng), KCN Việt Nam – Singapore (Bình Dương)… KCN do doanh nghiệp trong nước làm chủ đầu tư xây dựng CSHT. Đặc trưng của các KCN này là thường được xây dựng theo hình thức cuốn chiếu (xây dựng đến đâu cho các nhà đầu tư thuê đến đó, sau đó mới tiếp tục xây dựng). Ví dụ như KCN Quế Võ (Bắc Ninh), KCN Phan Thiết (Bình Thuận), KCN Trảng Bàng (Tây Ninh)… Căn cứ theo mục đích phát triển KCN có các hình thức sau KCN nhằm thu hút đầu tư nước ngoài. Loại KCN này thường tập trung ở các thành phố lớn, các trung tâm kinh tế lớn của đất nước. Có quy mô trên 100 ha. KCN nhằm di dời các cơ sở công nghiệp trong các thành phố, đô thị lớn. Các KCN này thường tập trung ở các thành phố lớn, có quy mô dưới 100 ha. Ví dụ như KCN Phú Thị (Hà Nội), KCN Thanh Trì (Hà Nội)… KCN nhằm phát triển ưu thế của địa phương. Các KCN này thường có quy mô nhỏ hơn 100 ha, gắn với các lợi thế của địa phương và chế biến các nông sản, thực phẩm do địa phương sản xuất ra như KCN Tiền Hải (Thái Bình), KCN Tâm Thắng (Đăk Lắk)… Căn cứ vào đặc điểm của ngành công nghiệp KCN tập trung các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp chế tạo. Ví dụ như KCN Phú Mỹ 1 (Bà Rịa – Vũng Tàu) là nơi tập trung các dự án về thép, phân bón, điện, khí. KCN tập trung các ngành công nghiệp nhẹ và sản xuất hàng tiêu dùng, như KCN Đồng An (Bình Dương), KCN Biên Hòa 2 (Đồng Nai)… KCN tập trung các ngành công nghiệp dịch vụ chuyên sản xuất các sản phẩm phục vụ cho các ngành công nghiệp như: bao bì, đóng gói…như KCN Bình Đường (Bình Dương). KCN gắn với nông nghiệp, nông thôn: trong KCN gồm các ngành công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp, sản xuất các sản phẩm hỗ trợ cho nông nghiệp và nông thôn. Ví dụ KCN Phúc Khánh (Thái Bình), KCN Tâm Thắng (Đắk Lắk)… Căn cứ vào trình độ công nghệ, các KCN được phân thành: KCN tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng công nghệ thấp và trung bình, tương đương với trình độ công nghệ của các doanh nghiệp công nghiệp bên ngoài KCN. Chẳng hạn như KCN Bình Đường (Bình Dương), KCN Lê Minh Xuân (tp Hồ Chí Minh). KCN tập trung sản xuất các sản phẩm có hàng lượng công nghệ khá so với các ngành công nghiệp trong nước nhưng chỉ đạt mức trung bình so với khu vực như KCN Nội Bài (Hà Nội), KCN Sài Đồng B (Hà Nội)… KCN tập trung sản xuất các sản phẩm công nghệ khá so với khu vực như KCN Thăng Long (Hà Nội), KCN Vĩnh Lộc (TP Hồ Chí Minh)… KCN tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng công nghệ tiên tiến so với khu vực và thế giới như KCN Nomura (Hải Phòng). 1.2.3. Hoạt động của doanh nghiệp trong KCN Theo nghị định 36/1997 của Chính phủ thì doanh nghiệp trong KCN là các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong KCN, bao gồm các doanh nghiệp sản xuất và các doanh nghiệp dịch vụ. Trong đó Doanh nghiệp sản xuất KCN là các doanh nghiệp sản xuất hàng công nghiệp được thành lập và hoạt động trong KCN. Doanh nghiệp dịch vụ KCN là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong KCN, thực hiện dịch vụ các công trình kết cầu hạ tầng KCN, dịch vụ sản xuất công nghiệp. Điều 2 - Nghị định 36/CP ngày 24/7/1997 ban hành về quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao Như vậy, khi hoạt động trong KCN doanh nghiệp có thể tham gia vào cả hai lĩnh vực sản xuất là công nghiệp và dịch vụ. Ngay sau khi các KCN được quyết định xây dựng, các công ty phát triển hạ tầng là những doanh nghiệp đầu tiên hoạt động trong KCN. Khi cơ sở hạ tầng của KCN đã xây dựng xong, lúc này BQL KCN bắt đầu lên kế hoạch thu hút các doanh nghiệp vào sản xuất kinh doanh trong KCN. Các doanh nghiệp sẽ thuê lại đất trong KCN theo quy định để xây dựng nhà xưởng và các công trình kiến trúc phục vụ sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp trong KCN sản xuất ra các sản phẩm có thể được tiêu thụ ngay tại KCN (doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ phục vụ sản xuất công nghiệp), tại thị trường trong nước hoặc xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Theo quy định của Chính phủ thì thời gian hoạt động của doanh nghiệp trong KCN không quá 50 năm đồng thời cũng không vượt quá thời hạn hoạt động của công ty phát triển hạ tầng KCN tính từ ngày doanh nghiệp được cấp có thẩm quyền ra quyết định chấp thuận đầu tư hoặc cấp giấy phép đầu tư vào KCN. 1.3. KINH NGHIỆM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU CỦA TRUNG QUỐC Cho đến nay, cả thế giới đều phải thừa nhận và khâm phục những thành công trong công cuộc đổi mới, tái thiết kinh tế của Trung Quốc. Thành công này là kết quả của rất nhiều nhân tố khách quan và chủ quan. Thực tế cho thấy việc hình thành và phát huy hiệu quả của hệ thống các KCN ở Trung Quốc là một nhân tố quyết định.Trung Quốc thời kỳ đầu mở cửa đã chọn các tỉnh duyên hải xây dựng hàng loạt các KCN, đã biến các vùng đất không có khả năng sản xuất nông nghiệp thành các trung tâm công nghiệp. Trung Quốc đã xác định không để các KCN trở thành nơi tập kết các ngành “công nghiệp cổ điển”mà phải lựa chọn loại hình “kỹ thuật tương đối tiên tiến” đồng thời cũng hướng sản xuất trong KCN theo chiến lược “hướng ngoại”, tức là sản xuất hàng xuất khẩu. Chiến lược đó cho đến nay dường như đã thành công khi hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc có một phần lớn là hàng chế tạo và chiếm tỷ trọng không nhỏ (trên dưới 10%) trong tổng kim ngạch xuất khẩu trên toàn thế giới. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự tăng trưởng xuất khẩu của Trung Quốc. Trước hết, nền kinh tế thế giới trong thời gian qua luôn đạt mức tăng trưởng cao và vững chắc, dẫn đến mức cầu trên thị trường thế giới tăng. Nếu như trong năm 2001 nền kinh tế Mỹ chỉ đạt mức tăng trưởng thực tế là 0,3% thì năm 2006 mức tăng này là 3,2%. Nhật Bản bắt đầu thoát khỏi tình trạng giảm phát từ năm 2003 để bước vào thời kỳ phục hồi kinh tế mới. Từ năm 2004, kinh tế các nước EU cũng bắt đầu tăng trưởng nhanh hơn so với 2 năm trước đó. Ngoài ra, tăng trưởng xuất khẩu Trung Quốc đạt thành quả như vậy là do Trung Quốc duy trì một mức tỷ giá hối đoái cố định, trong đó giá trị đồng nhân dân tệ (NDT) luôn đánh giá thấp hơn giá trị thực của nó tới 40%. Tuy nhiên, một trong những khâu then chốt quyết định sự tăng trưởng của xuất khẩu hàng hóa của Trung Quốc chính là việc thực hiện và duy trì một chiến lược phát triển xuất khẩu đúng đắn. Bảng 1.1: Xuất khẩu của Trung Quốc giai đoạn 2001-2005 Tổng XK Tốc độ tăng Mặt hàng XK (tỷ USD) Hình thức XK (tỷ USD) XK của các DN (tỷ USD) Năm (tỷ USD) (%) Hàng sơ chế Hàng chế tạo Gia công XK XK khác DN trong nước DN có vốn nước ngoài 2001 266,15 6,80 26,39 (9,90) 239,76 (90,19) 147,40 (55,40) 118,70 (44,60) 132,91 (49,94) 133,24 (50,06) 2002 325,57 22,33 27,81 (8,54) 297,76 (91,46) 179,9 (55,3) 145,7 (44,7) 155,63 (47,80) 169,94 (52,20) 2003 438,40 34,66 41,41 (9,45) 296,99 (90,55) 241,8 (55,2) 196,6 (44,8) 198,03 (45,17) 240,34 (54,83) 2004 593,40 35,40 40,58 (6,84) 552,82 (93,16) 328,0 (55,3) 265,4 (44,7) 254,61 (42,93) 338,61 (57,07) 2005 762,0 28,40 49,04 (6,44) 712,96 (93,56) 416,48 (54,6) 345,32 (45,4) 317,79 (41,70) 444,21 (58,30) Chú thích: * Số liệu trong ngoặc đơn chỉ tỷ trọng trong tổng xuất khẩu (Nguồn Website: Điều này được thể hiện trước hết ở sự coi trọng hoạt động xuất khẩu, chủ trương khuyến khích đầu tư cho xuất khẩu đến mức tối đa. Năm 2001, cùng với việc gia nhạp WTO, Trung Quốc đã được hưởng nhiều ưu đãi dành cho các nước đang phát triển, được tham gia cạnh tranh bình đẳng theo nguyên tắc của WTO, được hưởng quy chế quan hệ thương mại bình thường với Mỹ và các quốc gia khác. Song hành với việc tiếp tục đẩy mạnh các cải cách trong nước như đơn giản hóa thủ tục hành chính, nâng cấp cơ sở hạ tầng, cắt giảm thuế quan, xóa bỏ hạn ngạch và các rào cản phi thuế quan khác, mở cửa thị trường trong nước theo những cam kết trong khuôn khổ WTO, Trung Quốc chủ trương áp dụng chính sách thu hút và khai thác có hiệu quả dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các hoạt động sản xuất để xuất khẩu. Các rào cản đối với FDI như yêu cầu về chuyển giao công nghệ, cân đối ngoại tệ và tỷ lệ nội địa hóa được bãi bỏ. Nhờ đó, dòng vốn FDI ồ ạt vào Trung Quốc có xu hướng ngày càng gia tăng vào những ngành xuất khẩu mà Trung Quốc có lợi thế so sánh. Bên cạnh đó, Trung Quốc vẫn tiếp tục áp dụng chính sách can thiệp có lựa chọn để hướng FDI vào các lĩnh vực ưu tiên, từ đó góp phần đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu của Trung Quốc. Trung Quốc cũng rát coi trọng việc đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, không tập trung đầu tư cho một thị trường riêng biệt nào cả. Những cải cách định hướng thị trường đó góp phần làm cho hệ thống ngoại thương của Trung Quốc ngày càng có tính trung lập cao hơn, tạo điều kiện khuyến khích hoạt động xuất khẩu. Bên cạnh đó, Trung Quốc áp dụng chế độ hoàn thuế xuất khẩu. Đến nay, ở Trung Quốc, các loại thuế sản phẩm được hoàn lại bao gồm bốn loại thuế sản phẩm, thuế giá trị gia tăng, thuế doanh thu và đặc biệt là thuế tiêu dùng. Trung Quốc cũng thực hiện chế độ hoàn vốn xuất khẩu, điều chỉnh có cấu ngành nghề sản xuất, hạ thấp giá thành xuất khẩu, bù lỗ xuất khẩu của xí nghiệp, làm giảm khó khăn về nguồn vốn kinh doanh, từ đó góp phần củng cố chính sách điều tiết thuế mậu dịch xuất khẩu. Từ năm 2002 trở đi, Trung Quốc tiếp tục áp dụng các chính sách thúc đẩy xuất khẩu truyền thống và phù hợp với thông lệ quốc tế như miễn, giảm và hoàn thuế, đồng thời chuyển sang đẩy mạnh thực hiện các chính sách hỗ trợ xuất khẩu được áp dụng rộng rãi trên thế giới như: cung cấp tín dụng cho người mua nước ngoài, cho vay ưu đãi theo hiệp định cấp chính phủ, bảo hiểm và bảo lãnh tín dụng xuất khẩu. Việc cung cấp tín dụng xuấ khẩu do ngân hàng xuất nhập khẩu Trung Quốc đảm nhiệm, với đối tượng chủ yếu là các sản phẩm cơ điện, điện tử, đóng tàu và các mặt hàng công nghệ mới – công nghệ cao. Có thể nói các chính sách hỗ trợ trên có rất có hiệu quả trong việc thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng chế tạo, đặc biệt là các sản phẩm công nghệ mới – công nghệ cao (hiện nay các sản phẩm chế tạo chiếm hơn 90% xuất khẩu của Trung Quốc), tạo điều kiện để Trung Quốc tiếp cận vững chắc những thị trường xuất khẩu chủ yếu, đồng thời thâm nhập được những thị trường xuất khẩu mới tiềm năng. 1.4. SỰ CẦN THIẾT THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP TRONG KHU CÔNG NGHIỆP Ngày nay, hòa chung trong xu thế hội nhập, các quốc gia trên thế giới đều mở rộng cánh cửa nền kinh tế để đẩy mạnh mậu dịch thương mại với các quốc gia khác. Cánh cửa kinh tế mở là điều kiện thuận lợi cho dòng hàng hóa ra (xuất khẩu) và dòng hàng hóa vào (nhập khẩu). Trong đó các quốc gia đều muốn tăng cường xuất khẩu để phát triển nền kinh tế bền vững. Xuất khẩu hàng hóa ra thị trường nước ngoài là con đường mà rất nhiều doanh nghiệp lựa chọn. Xuất khẩu giúp các doanh nghiệp nhanh có thể nhanh chóng mở rộng thì trường tiêu thụ, học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu công nghệ sản xuất tiên tiến …qua đó có thể nâng cao năng lực sản xuất và tạo dựng được vị thế cạnh tranh nhất định trên thương trường quốc tế. Qua hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp, quốc gia sẽ nhận biết được lợi thế so sánh của mình, từ đó giúp cho quốc gia có thể tập trung được nguồn lực vào sản xuất và cung ứng những sản phẩm có thế mạnh, tạo điều kiện cho phân công lao động quốc tế được hình thành. Ngoài ra, xuất khẩu thu ngoại tệ tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu công nghệ, máy móc hiện đại để phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. KCN ra đời đã tạo nên mảnh đất thuận lợi cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước có điều kiện đầu tư phát triển sản xuất, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu và đó cũng chính là những bước đầu tiên để thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế. Do được hưởng những ưu đãi và một cơ chế hải quan thông thoáng, nên hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN ngày càng giữ một tỷ trọng đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay kim ngach xuất khẩu tại các KCN chiếm tới 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Ngoài ra, KCN là nơi thu hút vốn, công nghệ tiên tiến của nước ngoài giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu xuất khẩu từ sản phẩm thô sang các sản phẩm chế tạo, góp phần tạo uy tín thương mại của Việt Nam trên thị trường thế giới. Như vậy, cần phải thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN để tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu của quốc gia. Tóm lại, trong chương 1 giới thiệu một số vấn đề cơ bản về xuất khẩu và KCN. Bên cạnh đó đề tài cũng đưa ra một số kinh nghiệm thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc cũng như sự cần thiết phải thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp trong các KCN nói riêng. Căn cứ về mặt lý luận để nhận thấy rằng Việt Nam cần phải có các giải pháp thích hợp để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp trong KCN. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP MIỀN TRUNG Xuất khẩu hàng hóa ra thị trường nước ngoài là một hướng đi của hầu hết các doanh nghiệp muốn mở rộng sản xuât, mở rộng thị trường tiêu thụ. Gia tăng kim ngạch xuất khẩu cũng là một mục tiêu quan trọng của doanh nghiệp trong KCN miền Trung. Với rất nhiều lợi thế về vị trí địa lý, về tài nguyên thiên nhiên, về chính sách quản lý nhưng doanh nghiệp trong các KCN miền Trung vẫn chưa tận dụng được hết tiềm năng này để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, mở rộng thị trường tiêu thụ. 2.1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC KHU CÔNG NGHIỆP MIỀN TRUNG 2.1.1. Đặc điểm chung về tự nhiên, kinh tế xã hội của Miền Trung Nằm ở giữa cả nước, là cầu nối hai miền Nam – Bắc, miền Trung có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội. Vị trí địa lý Miền Trung Việt Nam bao gồm 14 tỉnh, thành phố ven biển từ Thanh Hóa đến Bình Thuận chiến 29,1% diện tích và 23,6% dân số cả nước. Miền Trung là lãnh thổ ven biển, kéo dài từ vĩ tuyến 10oB đến 20o20’B; phía bắc giáp với tỉnh Ninh Bình; phía nam giáp với tỉnh Đồng Nai; phía tây giáp với 2 nước Lào và Campuchia; phía đông giáp biển. Miền Trung nằm ở điểm giữa của nước Việt Nam, trên hệ thống giao thông huyết mạch của quốc gia với Quốc lộ 1A và đường sắt xuyên Việt đi ngang qua. Miền Trung không chỉ nằm ở giữa nước Việt Nam mà còn ở vị trí trung tâm của các trục giao lưu quốc tế các nước ASEAN. Miền Trung là phần đất vươn ra biển Đông xa nhất của nước Việt Nam; do đó các hải cảng của miền Trung rất gần với đường hàng hải quốc tế nối khu vực Đông Bắc Á với Đông Nam Á và các châu lục khác. Ngoài ra, 3 tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế và Đà Nẵng còn nằm trong hành lang kinh tế đông tây với tổng chiều dài 1450km, đi qua bốn nước Myanmar, Thái Lan, Lào và Việt Nam. Do nằm ở vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, miền Trung Việt Nam đã trở thành mặt tiền của đất nước, nối liền các nước tiểu vùng sông MêKông, Châu Á – Thái Bình Dương và thế giới bên ngoài bằng hệ thống cảng biển đồng thời cũng giúp miền Trung thành một vùng trọng điểm của đất nước trong thời kỳ đổi mới với đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tài nguyên thiên nhiên Tuy hiện nay miền Trung vẫn là khu vực nghèo và chậm phát triển nhất của đất nước nhưng miền đất này lại ẩn chứa một nguồn tài nguyên thiên nhiên lớn lao mà nếu được khai thác tốt sẽ là đòn bẩy tạo ra sự tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế và xã hội. Biển và tài nguyên biển được đánh giá là một nguyền tài nguyên quan trọng nhất của miền Trung. Một đặc điểm nổi bật là các tỉnh miền Trung đều giáp biển, tạo lên một bờ biển trải dài 1.172km, ngoài khơi còn có hàng trăm hải đảo lớn nhỏ, trong đó có hai quần đảo lớn là đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Trữ lượng hải sản trong vùng thềm lục địa miền Trung ước đoán khoảng nửa triệu tấn, trong đó cá nổi chiếm 67%. Trữ lượng hải sản này tuy không lớn nhưng đa dạng về chủng loại và có nhiều loại quý hiếm, có giá trị cao. Sự tiếp giáp giữa núi và biển khiến cho thềm lục địa miền Trung thường dốc và hẹp, nhiều rạn đá và bão san hô, đây là môi trường phát triển của các loài giáp các như tôm, mực và các loại cá cảnh nước mặn. Theo số liệu thống kê của ngành hải sản miền Trung thì có khoảng 4.55. tấn tôm biển và hơn 7.000 tấn mực. Ngoài ra, ven biển miền Trung còn có yến sào, một loài đặc sản quý hiếm được phân bổ rải rác trên các đảo đá gần bờ thuộc các tỉnh từ Quảng Nam đến Khánh Hòa. Vùng ven biển miền Trung có nhiều đầm phá nước mặn nước lợ và nước ngọt, tập trung ở các tỉnh Thừa Thiên Huế, Bình Định và Phú Yên. Hiện Nay có khoảng 40.000 ha đầm phá được sử dụng để nuôi trồng các loại hải sản như tôm, cua, cá, rong câu…cung cấp cho các nhà máy chế biến thủy sản. Những nhánh núi vươn ra biển cùng với nhiều cửa sông lớn đã tạo cho miền Trung nhiều cửa biển, vịnh biển sâu và kín gió thuận lợi để phát triển cảng biển. Hiện Nay ở miền Trung có 4 hải cảng tầm quốc gia là Vinh, Đà Nẵng, Quy Nhơn và Nha Trang. Các hải cảng này đang phục vụ cho hoạt động kinh tế đối ngoại và du lịch của các tỉnh miền Trung và nước CHDCND Lào với mức độ hoạt động ngày càng tăng mạnh. So với các hải cảng lớn ở hai miền Nam – Bắc thì hải cảng miền Trung không có ưu thế về cơ sở hạ tầng kỹ thuật nhưng lại có ưu thế do thiên nhiên tạo ra như mực nước sâu, độ kín gió và đặc biệt là rất gần đường hàng hải quốc tế. Do cấu tạo địa chất, khoáng sản miền Trung không nhiều và đa dạng như miền Bắc nhưng phân phối tương đối tập trung và điều kiện khai thác không mấy phức tạp. Đá vôi và đất sét có nhiều ở các tỉnh Bắc Trung Bộ, trong các rặng núi thuộc hệ Trường Sơn Bắc. Các mỏ đá vôi ở đây có trữ lượng hàng tỷ tấn, phân phối nhiều nhất ở Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Quảng Trị và Quảng Nam. Đá granít và các loại đá cứng có màu dùng để chế tác đá ốp lát có hầu hết ở các tỉnh. Nguồn đá này được khai thác để cung ứng cho thị trường vật liệu trong nước và xuất khẩu. Ở đây còn có nhiều mỏ cát trắng có thể làm nguyên liệu cho công nghiệp sản xuất thủy tinh. Một phần các mỏ cát trắng ở Quảng Nam, Đà Nẵng, Khánh Hòa…đã được khai thác để xuất khẩu hoặc cung cấp cho các xí nghiệp địa phương. Đầu tư xây dựng các nhà máy khai thác, tuyển rửa cát trắng để xuất khẩu hoặc xây dựng các nhà máy thủy tinh, kính phẳng có công nghệ tiên tiến là hướng đầu tư ưu tiên trong miền. Về khoáng sản kim loại, dải phía tây của miền Trung là khu vực miền núi, chiếm tới 4/5 diện tích lãnh thổ, đây là khu vực có nhiều tiềm năng khoáng sản. Tuy quy mô khoáng sản không lớn song đa dạng, phong phú. Một số tài nguyên có giá trị kinh tế lớn như: 61,3% trữ lượng quặng sắt, 100% cromit, 40% đá vôi so với toàn quốc, vật liệu xây dựng bentonit, graphit, titan… Nguồn tài nguyên nước khoáng có ở khắp các tỉnh miền duyên hải. Về qui mô và chất lượng, đáng chú ý nhất có các nguồn khoáng Bang ở Quảng Bình, Thạch Bích ở Quảng Ngãi. Kinh tế - xã hội Thời gian qua, kinh tế miền Trung đã có sự tăng trưởng và đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế quốc gia. Mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm thời kỳ 2001-2005 đạt 10,1% cao hơn mức bình quân cả nước. Thế nhưng cho đến nay, các tỉnh miền Trung vẫn là các địa phương có mức thu nhập thấp, có nền kinh tế thuần nông với tỷ lệ gần 90% số dân chỉ biết “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. Với bản chất cần cù, chịu khó, tích cách mạnh mẽ, sáng tạo những người dân miền Trung đang dần cải thiện dần hình ảnh một miền Trung nghèo khó. Trong công nghiệp, công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến và các sản phẩm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phục vụ đời sống và sinh hoạt của nhân dân đã có bước tăng khá. Đây là kết quả của quá trình đầu tư mở rộng sản xuất, thay đổi thiết bị, cải tiến quy trình công nghệ. Một số công trình quan trọng như đường hầm đèo Hải Vân, đầu tư nâng cấp sân bay quốc tế Đà Nẵng, sân bay Phú Bài (Thừa Thiên Huế) và sân bay Chu Lai (Quảng Nam) đang được đầu tư xây dựng, đặc biệt là nhà máy lọc dầu Dung Quất đang được tích cực triển khai có tác dụng tạo động lực cho phát triển kinh tế toàn cầu. Trong nông nghiệp, việc thực hiện chuyển đổi cơ cấu vật nuôi, cây trồng theo hướng sản xuất hàng hóa, đã tạo ra vùng nguyên liệu ổn định phục vụ cho công nghiệp chế biến. Nông thôn đang phát triển theo hướng CNH – HĐH cùng với tỷ lệ đô thị hóa của vùng là 20% trong khi của cả nước là 25%. Công tác quản lý và bảo vệ rừng đã được coi trọng, hạn chế được cháy rừng, phá rừng; giao đất và khoán rừng cho dân đang được đẩy mạnh. Ngành thủy sản đã có nhiều đội tàu có công suất lớn đưa vào khai thác đánh bắt hải sản xa bờ, đạt hiều quả kinh tế cao; nuôi trồng thủy sản phát triển nhanh, góp phần tăng kim ngạch xuát khẩu và cải thiện đời sống nhân dân vùng biển đảo. Trong thương mại ._. cũng như những yêu cầu về ổn định xã hội, an ninh quốc phòng trong khu vực có KCN. 3.1.1.2. Mục tiêu phát triển các KCN miền Trung đến năm 2015 Căn cứ vào Quyết định số 1107/QĐ – TTg ngày 21/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển các KCN của Việt Nam đến năm 2015 định hướng đến năm 2020 đã được ban hành, thì tính từ thời điểm tháng 1/2008, dự kiến đến năm 2015 miền Trung sẽ có 22 KCN thành lập mới với tổng diện tích 4.885 ha và 26 KCN mở rộng với tổng diện tích 607 ha. Bảng 3.1. KCN miền Trung dự kiến thành lập và mở rộng đến năm 2015 STT Tỉnh, Thành phố Số KCN dự kiến thành lập mới đến năm 2015 Số KCN dự kiến mở rộng đến năm 2015 Tổng Diện tích thành lập mới và mở rộng (ha) 1 Đà Nẵng 2 0 350 2 Bình Định 2 1 760 3 Bình Thuận 1 0 900 4 Hà Tĩnh 2 0 200 5 Khánh Hòa 2 0 350 6 Nghệ An 1 0 50 7 Ninh Thuận 1 0 410 8 Quảng Bình 1 1 353 9 Quảng Nam 2 0 430 10 Quảng Ngãi 1 1 188 11 Quảng Trị 1 0 140 12 Phú Yên 3 1 576 13 Thừa Thiên Huế 1 1 135 14 Thanh Hóa 2 0 650 Tổng cộng 22 5 5492 (Nguồn: Vụ quản lý KCN và KCX) 3.1.1.3. Định hướng phát triển các KCN miền Trung Phát triển các KCN đảm bảo hình thành hệ thống các KCN nòng cốt có vai trò dẫn dắt sự phát triển công nghiệp của toàn miền. Hình thành hệ thống các KCN vừa và nhỏ, tạo điều kiện phát triển khu vực nông thôn và làm thay đổi bộ mặt KT – XH nông thôn. Thúc đẩy phát triển các KCN trong toàn vùng tránh sự tập trung tạo ra sự chênh lệch quá lớn về phát triển giữa các tỉnh, thông qua tác động của chính sách và hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng. Phát triển các KCN hiện có theo chiều sâu và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động theo hướng lấp đầy diện tích đất công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu công nghiệp thông qua đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, phát triển các ngành công nghệ cao như công nghệ thông tin, cơ điện tử, công nghệ sinh học… Chuyển mạnh từ công nghiệp gia công sang công nghiệp chế biến các nguyên liệu sẵn có và công nghiệp chế tạo nhằm nâng cao giá trị hàm lượng quốc gia cảu sản phẩm, hạn chế thua thiệt khi tham gia hội nhập thị trường khu vực và quốc tế. Chấm dứt việc phát triển các KCN xen lẫn khu dân cư, thực hiện di chuyển các cơ sở sản xuất ô nhiễm ra ngoài đô thị, hướng các nhà đầu tư vào KCN, trừ những dự án đòi hỏi nguồn nguyên liệu và diện tích lớn, các dự án đầu tư chiều sâu không thuộc diện di dời và phù hợp với quy hoạch. Phát triển các KCN đi đôi với việc bảo vệ môi trường trong và ngoài KCN, nhất là các KCN gần địa điểm du lịch chiến lược của vùng; chăm lo điều kiện làm việc, đời sống và nhà ở cho người lao động; giám sát chặt chẽ việc thi hành pháp luật về lao động trong các doanh nghiệp KCN. 3.1.2. Triển vọng xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, miền Trung đang đứng trước những thời cơ và vận hội mới thuận lợi hơn bao giờ hết. Khu vực miền Trung nằm trên trục giao thông chính của cả nước, có nhiều sân bay, là đầu ra của các nước tiểu vùng sông Mekong, nối kết một vùng rộng lớn từ phía Nam Trung Quốc qua Myanmar, Thái Lan, Lào. Miền Trung hiện có 22 KCN được thành lập và dự kiến thành lập thêm 22 KCN trong thời gian từ nay tới 2015, được coi là điểm đột phá, điểm đến của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Tuyến hành lang kinh tế Đông – Tây đã đem đến những cơ hội quý giá cho sự phát triển của miền Trung nói chung cũng như các doanh nghiệp trong KCN miền Trung nói riêng. Cuối năm 2006, cây cầu quốc tế Mekong thứ hai nối Mukdahan (Thái Lan) với Savannakhet (Lào) chính thức được khai thông đồng nghĩa với việc cơ sở hạ tầng cơ bản của hành lang kinh tế Đông – Tây đã gần như hoàn tất. Chặng đường dài hơn 1.450 km, đi qua 4 nước trên hành lang kinh tế Đông – Tây đã được rút ngắn khoảng cách về địa lý nhờ giao thông thuận lợi và cải cách hành chính thông thoáng tại các cửa khẩu quốc tế. Điều này đã mang đến những cơ hội thúc đẩy hợp tác khu vực, tạo tiền đề vững chắc cho các doanh nghiệp miền Trung có thể tiếp cận tốt hơn với các nguồn nguyên liệu, đa dạng hóa hoạt động kinh tế và thị trường xuất khẩu phía tây rộng lớn. Thông qua Lào, thị trường Đông Bắc Thái Lan có thể chấp nhận rất nhiều hàng hóa tiêu dùng của Việt Nam như hàng dệt may, giày dép, văn phòng phẩm…Gần đây, nhiều đại lý bán hàng tại Lào nhập khẩu các sản phẩm giày như Biti’s bán sang Thái Lan, một lượng lớn quần áo may sẵn từ miền Trung cũng được nhiều khu vực chợ trung chuyển tại Viên Chăn nhập để đưa qua Thái Lan. Các sản phẩm trang trí nội thất, dược phẩm, cao su, da và giả da cũng đang có xu hướng xuất khẩu mạnh sang thị trường Đông Bắc Thái Lan. Ngoài ra, với hàng thủy sản chế biến sẵn, hàng nông sản như tỏi, tiêu…đang là những sản phẩm ưa chuộng tại các thị trường phía tây. Vì thế một số lĩnh vực đã và đang đầu tư tại các KCN miền Trung có thể tiếp tục khẳng định tại các thị trường phía Tây như hàng dệt may, chế biến thủy sản, hàng giày dép… Sau khi luật đầu tư 2005 có hiệu lực (1/7/2006) cùng với việc ban hành nghị định 108/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của luật Đẩu tư 2005, tốc độ thu hút dầu tư vào các KCN miền Trung phát triển khá nhanh. Luật đầu tư 2005 đã tạo ra môi trường đầu tư thông thoáng, bình đẳng hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam. Năm 2007 vốn đầu tư nước ngoài vào các KCN miền Trung tăng vọt lên 1.725 triệu USD, tăng 105% so với năm 2006. Năm 2007, Việt Nam trở thành thành viên 150 của WTO. Là thành viên của tổ chức thương mại thế giới, Việt Nam phải điều chỉnh một số chính sách về đầu tư, thương mại để phù hợp với thông lệ quốc tế. Môi trường đầu tư sẽ hấp dẫn hơn, các rào cản thương mại sẽ được giảm hoặc gỡ bỏ, thủ tục hành chính thuận tiện hơn. Vào WTO chính là vào một thị trường rộng lớn cho hàng hóa Việt Nam. Đây là một cơ hội rất lớn cho các KCN cả nước nói chung và các KCN miền Trung nói riêng trong việc thu hút đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Với nguồn tài nguyên cùng hệ thống cảng biển nước sâu, hệ thống sân bay, hệ thống đường cao tốc miền Trung đang nổi lên như một địa điểm sáng lôi cuốn đầu tư trong và ngoài nước. Việc tăng nguồn vốn đầu tư vào các KCN là tiền đề để doanh nghiệp trong KCN miền Trung tập trung vào sản xuất, ứng dụng công nghệ hiện đại nâng cao chất lượng sản phẩm, gia tăng khả năng xuất khẩu sản phẩm ra thị trường quốc tế. Ngoài ra, trong xu thế hội nhập quốc tê, Việt Nam đã là thành viên chính thức của ASEAN từ ngày 25/7/1995, tham gia khu vực mậu dịch tự do AFTA vào năm 2003 và là thành viên của diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) từ tháng 11/1998 chắc chắn cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu đối với hàng hóa của các KCN miền Trung sẽ còn nhiều triển vọng hơn nữa. 3.2. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP MIỀN TRUNG 3.2.1. Các giải pháp từ phía nhà nước 3.2.1.1. Tăng cường và đổi mới hoạt động xúc tiến thương mại Thúc đẩy xuất khẩu là vấn đề quan trọng đối với doanh nghiệp trong các KCN miền Trung hiện nay, nhất là khi tiến trình hội nhập ngày càng mang đến nhiều cơ hội cũng như thách thức lớn. Vì vậy, hoạt động xúc tiến thương mại của Nhà nước trở nên vô cùng cần thiết, nhất là khi các trợ cấp xuất khẩu đang phải dỡ bỏ. Các hoạt động xúc tiến này cần phải được đổi mới cho phù hợp với thực tiễn, phải chuyên nghiệp hơn, mang lại hiệu quả đích thực góp phần tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu, mở rộng thị trường cho ngành hàng hoặc địa phương. Cần phải tăng cường phối hợp giữa các tổ chức XTTM với các thương vụ. Cho đến nay, đã có rất nhiều các văn bản phát quy để thực thi một cách có hiệu quả về quản lý nhà nước đối với XTTM toàn quốc. Toàn quốc đã hình thành một hệ thống XTTM xuyên suốt từ Trung ương đến các địa phương, đến các Bộ ngành, các hiệp hội ngành hàng và các Tổ chức phi chính phủ. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng đã thiết lập được 55 thương vụ tại các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, nhằm phụ trách các thị trường ở các nước khác nhau trên thế giới. Quan hệ giữa các tổ chức XTTM trong nước với các thương vụ đã được thiết lập từ lâu, đã phát huy tác dụng của XTTM, song các thông tin qua lại vẫn theo những vụ việc cụ thể, chưa có tính bài bản, chưa mang tính chiến lược mở rộng thị trường, phát triển xuất khẩu. Trong các biện phát tăng cường phối hợp giữa các tổ chức XTTM với các tham tán, thì việc tăng cường quan hệ giữa cục XTTM với các tham tán thương mại ở nước ngoài là một mắt xích quan trọng vì hai bên đều có chung nhiệm vụ và ở vị trí đầu mối, cùng có điều kiện, môi trường để thực hiện. Việc tăng cường phối hợp giữa các tổ chức XTTM với các thương vụ có thể đi theo các hướng sau: Tăng thời lượng, hàm lượng, đầy đủ kịp thời thông tin kế hoạch XTTM ở trong và ngoài nước để các tổ chức XTTM và tham tán cùng biết, cùng phối hợp thực hiện. Cùng nhau tìm ra những hình thức mới, phong phú trong việc thực hiện các hạng mục trong Chương trinh XTTM quốc gia ở nước ngoài. Các tổ chức XTTM làm đầu mối duy trì quan hệ giữa các tham tán và doanh nghiệp xuất khẩu trong nước. Cần giải quyết vấn đề kinh phí cho hoạt động XTTM sao cho có trọng điểm, không lãng phí, thuận lợi cho các tham tán cũng như các tổ chức XTTM hoạt động; đồng thời cần đa dạng hóa việc huy động kinh phí từ nhiều nguồn khác nhau để các tổ chức thuộc hệ thống XTTM ở trong nước và nước ngoài mở mang hoạt động, nhất là cho các thương vụ. … Xây dựng các chương trình XTTM trong và ngoài nước dành cho các hàng hóa của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung. Do có điều kiện kinh tế - xã hội không giống nhau, nên đã tạo ra những lợi thế, bất lợi riêng cho sản phẩm của từng vùng trong cả nước. Sản phẩm thủy sản của miền Trung có thể nói là đa dạng với trữ lượng lớn hơn các vùng khác; sản phẩm máy móc linh kiện điện tử của miền Trung có thể có chất lượng không bằng với sản phẩm của miền Bắc và miền Nam do nơi đây thiếu nhiều lao động có trình độ… Chính vì có sự khác biệt này mà nên phải có các chương trình XTTM riêng cho miền Trung cũng như cho các KCN trong miền. Hỗ trợ các doanh nghiệp trong công tác nghiên cứu thị trường. Hầu hết doanh nghiệp trong các KCN miền Trung còn yếu về cả thế và lực, vì thế công tác nghiên cứu thị trường dường như còn nằm ngoài khả năng của các doanh nghiệp này. Thế nên, Nhà nước cần phải cùng phối hợp với các cơ quan tham tán, thương vụ của Việt Nam tại thị trường nước ngoài để nâng cao chất lượng của công tác dự báo thông tin thị trường, nắm bắt các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, nhãn mác, tình hình cạnh tranh… Nhà nước cần xây dựng và tăng cường hoạt động của các sàn giao dịch thương mại điện tử; kinh nghiệm của các nước cho thấy, đây là một biện phát rất hiệu quả bởi nó giúp các doanh nghiệp tìm hiểu được thông tin nhanh chóng, kịp thời, tiết kiệm được chi phí giao dịch, chi phí đi lại. Ngoài ra Nhà nước có thể tổ chức đoàn khảo sát cho doanh nghiệp trong các KCN miền Trung đi thị sát, tìm hiểu nhu cầu thị trường để nắm bắt cơ hội kinh doanh, gia tăng khả năng thâm nhập thị trường. Tăng cường hợp tác quốc tế để nâng cao hiệu quả hoạt động XTTM. Đẩy mạnh các hoạt động XTTM cấp cao để thúc đẩy hợp tác đầu tư, buôn bán, đặc biệt với việc thu hút các tập đoàn lớn vào đầu tư SXKD trong các KCN miền Trung, tạo bước tiến cho hoạt động xuất khẩu của các KCN trong vùng. Đồng thời, tích cực chủ động tham gia các diễn đàn kinh tế, các tổ chức liên kết khu vực và quốc tế để tranh thủ cơ hội, học tập kinh nghiệm quốc tế và truyền đạt lai cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước. Ngoài ra cần vận dụng các cam kết song phương và đa phương để tìm kiếm cơ hội mới. 3.2.1.2. Cải thiện hệ thống pháp lý gắn với thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN Mặc dù được hưởng quy chế một cửa, nhưng doanh nghiệp trong các KCN miền Trung còn gặp khá nhiều khó khăn đối với các thủ tục hành chính hay chính sách của Nhà nước liên quan đến hoạt động xuất khẩu. Cần phải cải thiện môi trường pháp lý linh hoạt, đơn giản, hiệu quả hơn để thúc đẩy doanh nghiệp trong các KCN gia tăng kim ngạch xuất khẩu. Cần có sự thay đổi trong chính sách tiền tệ. Việt Nam nên thực hiện chính sách đa ngoại tệ. Hiện nay, Việt Nam đang ràng buộc tỷ giá vào một điểm so với đồng USD. Mặc dù USD là một ngoài tệ mạnh, có vị thế mạnh hơn các ngoại tệ khác, song nếu trong quan hệ tỷ giá chỉ áp dụng một loại ngoại tệ trong nước sẽ làm cho tỷ giá rằng buộc vào ngoại tệ đó. Khi có sự biến động về giá cả USD trên thế giới, lập tức quan hệ tỷ giá của USD và VND sẽ chịu ảnh hưởng, và tác động trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu. Bên cạnh đó, thị trường xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ chỉ chiếm chưa đầy 20% kim ngạch xuát khẩu. Nên xét về mặt phát triển thương mại quốc tế, Việt Nam nên xem xét sử dụng hệ thống rổ tiền tệ để xác định tỷ giá ngoại hối hợp lý, làm tăng tính ổn định của tỷ giá hối đoái danh nghĩa, nhằm góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế ổn định và cho phép đồng tiền dao động linh hoạt theo cùng với xu thế kinh tế thế giới. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa, tại chỗ” tại các KCN miền Trung. Với cơ chế này, các doanh nghiệp sẽ thuận tiện về thời gian, địa điểm và tiết kiệm cả chi phí trong quá trình sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm. Thế nhưng trên thực tế hiện nay, có chế “một cửa, tại chỗ” vẫn chưa được hoàn thiện tại các KCN. Phần lớn các quyết định vẫn phải xin ý kiến chỉ đạo của các cấp cao hơn. Chẳng hạn, giấy chứng nhận đầu tư, giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn vệ sinh môi trường… BQL các KCN vẫn chưa đủ thẩm quyền để cấp. Cần phải thực hiện ủy quyền hơn nữa cho các UBND tỉnh và BQL KCN cấp tỉnh, để tạo điều kiện cho những cơ quan này thực hiện triệt để cơ chế “một cửa, tại chỗ”. Bên cạnh đó, cần phải tăng cường mối quan hệ giữa BQL, doanh nghiệp phát triển hạ tầng, doanh nghiệp SXKD KCN theo hướng đảm bảo một đầu mối giải quyết. 3.2.1.3. Quy hoạch lại hệ thống KCN, hệ thống cơ sở hạ tầng, tạo liên kết giữa các địa phương trong vùng Vấn đề liên kết giữa các địa phương ở miền Trung đang là yếu tổ cản trở sự phát triển chung của toàn vùng. Giữa các tỉnh không có sự khác biệt lớn về điều kiện kinh tế - xã hội, không tạo nên được sự nổi bật của địa phương mình để tạo lợi thế so sánh so với các địa phương khác trong vùng. Cần phải có một kế hoạch phát triển các KCN trong vùng một các hợp lý. Các KCN cần phải được xây dựng ở những khu vực gần nguồn nguyên nhiên vật liệu cung cấp cho sản xuất, hay gần thị trường đầu ra, hoặc gần các cảng biển, sân bay để thuận lợi cho việc sản xuất và vận chuyển hàng hóa đến thị trường tiêu thụ. Bên cạnh đó, để miền Trung phát triển bền vững và ổn định, đã đến lúc cần phải có chiến lược thu hút đầu tư vào các ngành trong KCN một cách hợp lý, phải định hướng thu hút đầu tư sang một giai đoạn mới. Trong đó, dựa trên điều kiện lợi thế của mình, các địa phương nên khuyến khích, chọn lọc các dự án đầu tư vào các ngành dịch vụ, công nghiệp kỹ thuật cao, có hàm lượng chất xám và tạo ra giá trị gia tăng cao; các dự án ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, điện tử… Đây chính là điều kiện tiền đề để tạo ra sự bứt phá mới, cũng như xây dựng một hình ảnh mới của khu vực đối với các nhà đầu tư quốc tế. Tăng cường đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng bên trong và bên ngoài KCN. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng trong và ngoài KCN phục vụ xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN là một yêu cầu cấp bách. Cần nhanh chóng hoàn thành việc xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, để sớm đưa các KCN miền Trung vào giai đoạn vận hành, đồng thời cũng phải nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng KCN như hệ thống thông tin liên lạc, điện – nước…phục vụ tốt nhất cho quá trình sản xuất và xuất khẩu hàng hóa. Hệ thống cơ sở hạ tầng bên ngoài KCN được xây dựng tràn lan, không có điểm nhấm, tạo ra sự lãng phí và không hiệu quả. Do các tỉnh ở miền Trung đều có bờ biển, các bờ biển này tương đối ngắn nên rất cần sự liên kết với nhau. Mỗi tỉnh không nhất thiết cần có riêng một cảng biển, một sân bay mà nên tạo ra những cảng biển, sân bay lớn để giải quyết về vận tải, xuất nhập khẩu hàng hóa cho cả miền Trung. Miền Trung nền đầu tư vào 5 cảng trong điểm như Cửa Lò, Đà Nẵng, Nha Trang, Quy Nhơn và cảng chuyên dùng Dung Quất, đầu tư vào các sân bay lớn như sân bay Đồng Hới (Quảng Bình), Phú Bài (Huế), Đà Nẵng (Đà Nẵng). 3.2.1.4. Đổi mới chính sách phát triển nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp trong KCN miền Trung Nguồn lực con người là yếu tố cơ bản đế phát triển xã hôi, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Nguồn nhân lực chất lượng cao và giá rẻ luôn là yếu tố hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực luôn được ưu tiên trong kế hoạch phát triển của mọi quốc gia trong thời kỳ hội nhập. Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO nên yêu cầu hiện tại là phải nhanh chóng chuyển hướng đào tạo nhân lực phù hợp với yêu cầu mới. Các KCN miền Trung hiện nay đang rất thiếu nguồn lao động có chuyên môn, có tay nghề. Do vậy cần phải tập trung tăng nhanh quy mô và chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Phải cải cách phương pháp đào tạo cho sát với thực tế. Mở rộng và nâng cấp hệ thống đào tạo về cả cơ sở vật chất lẫn đội ngũ cán bộ đào tạo. Quán triệt phương pháp lý thuyết đi đôi với thực hành, thực hành tại trường, tại các doanh nghiệp. Tăng cường sự tham gia và phối hợp của các doanh nghiệp trong quá trình đào tạo.Cần tăng cường đầu tư đầu tư từ ngân sách nhà nước để nâng cấp các trường đại học, cao đẳng, trung cấp dạy nghề hiện có. Các địa phương, doanh nghiệp trong vùng cũng cần tiếp tục nghiên cứu, ban hành các chính sách khuyến khích thu hút nhân tài, lao động có chất lượng cao đến làm việc tại khu vực miền Trung. Ngoài ra đối với từng KCN, ngay từ giai đoạn đầu khi lập dự án xây dựng KCN cần có sự phối hợp giữa các ban, ngành liên quan với các chủ đầu tư hạ tầng để nắm bắt cơ cấu ngành nghề trong KCN, từ đó dự báo nhu cầu lao động của doanh nghiệp trong KCN, chủ động tổ chức các khóa đào tạo lao động cho các doanh nghiệp trong KCN. Với đội ngũ XTTM, đội ngũ đóng vai trò xung kích trên thị trường thế giới, cần có các chương trình đào tạo nâng cao nghiệp vụ, kiến thức kinh nghiệm cho đội ngũ này. Để có thể thực hiện được điều này, nhà nước có thể tổ chức các cuộc hội thảo dành cho các cán bộ hoạt động xúc tiến thương mại trao đổi kinh nghiệm trong quá trình công tác. Cần tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực gồm các bộ quản lý KCN các cấp theo chương trình, chiến lược đào tạo cụ thể. Đồng thời, địa phương cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phù hợp và quản lý việc đào tạo, dạy nghề đáp ứng nhu cầu lao động của KCN. 3.2.3. Giải pháp từ phía doanh nghiệp Khi kinh doanh trên thị trường thế giới, có rất nhiều các yếu tố tác động đến hoạt động của doanh nghiệp, có những yếu tố thuận lợi góp phần thúc đẩy doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa ra thị trường thể giới như rào cản thuế quan giảm, nhưng cũng gặp không ít khó khăn cản trở như công nghệ sản xuất biến đổi rất nhanh. Bởi vậy, để có thể đứng vững và phát triển trong môi trường kinh doanh quốc tế, các doanh nghiệp phải chủ động nắm bắt cơ hội, và hạ chế những nguy cơ có thể xảy ra. Các doanh nghiệp cần có thái độ chủ động hơn trong việc nghiên cứu thị trường nước ngoài. Việc nghiên cứu, nắm bắt thông tin thị trường nước ngoài có thể giúp các doanh nghiệp Việt Nam tránh khỏi tình trạng xuất khẩu theo hình thức tự phát. Ngoài ra, nhờ quá trình nghiên cứu các doanh nghiệp mới có thể nâng cao được chất lượng hàng hóa, gia tăng khả năng cạnh tranh so với các đối thủ. Để thực hiện được điều này, các doanh nghiệp có thể trực tiếp liên hệ với các cơ quan XTTM tại địa phương và Trung ương, cơ quan XTTM trong BQL KCN, các thương vụ ở nước ngoài để tìm hiểu thông tin một cách gián tiếp; doanh nghiệp có thể trực tiếp mở các cuộc điều tra tại thị trường nước ngoài để lấy thông tin, tuy nhiên phương án này có chi phí rất cao, do vậy để giảm chi phí các doanh nghiệp nên kết hợp mục đích này trong các lần tham gia hội trợ trong và ngoài nước. Tăng đầu tư vào SXKD để đổi mới công nghệ sản xuất. Công nghệ sản xuất của các doanh nghiệp trong KCN có mặt bằng cao hơn các doanh nghiệp ngoài KCN, nhưng so với khu vực và thế giới thì trình độ công nghệ của doanh nghiệp trong các KCN cả nước nói chung và miền Trung nói riêng còn rất thấp. Do vậy các doanh nghiệp nên tăng cường đầu tư vào sản xuất, thay đổi dần công nghệ sản xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu. Chủ động trong việc đào tạo nguồn nhân lực. Doanh nghiệp là nơi sử dụng trực tiếp lao động, hiểu rõ mình cần lao động như thế nào, bao nhiêu và khi nào. Do vậy, để thuận lợi cho qua trình SXKD các doanh nghiệp nên có một chiến lược cụ thể về nguồn nhân lực. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nên chủ động trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho chính mình. Trường hợp của các doanh nghiệp FPT là một ví dụ sáng chói về chủ động tạo nguồn nhân lực cho quá trình hoạt động. FPT đã mở các trường đào tạo ngay trong doanh nghiệp để đáp ứng nhu cầu lao động kỹ thuật cao. Do đại học nằm trong doanh nghiệp nên nhu cầu đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của doanh nghiệp được xác định rõ ràng, các chương trinh huấn luyện, đào tạo và nghiên cứu phục vụ cho sự phát triển của FPT đều được đưa vào giảng dạy. Vì vậy, hoạt đông đào tạo của các doanh nghiệp FPT không chỉ tiết kiệm được chi phí và thời gian mà sinh viên khi ra trường có thể đảm nhận ngay được công việc, mang lại hiệu quả cao. Cách làm của FPT đáng được các doanh nghiệp quan tâm, học hỏi và rút kinh nghiệm để triển khai trên diện rộng. Nếu các doanh nghiệp trong KCN miền Trung không có đủ điều kiện để làm theo cách của các doanh nghiệp FPT thì có thể trực tiếp liên hệ với các trung tâm đào tạo, các trường đại học, cao đẳng để cùng tham gia vào quá trình đào tạo, cung ứng nguồn nhân lực cho mình trong tương lai. Thay đổi ngoại tệ trong thanh toán. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp khi ký kết các hợp đồng xuất khẩu thường sử dụng USD là đồng tiền thanh toán. Thị trường Mỹ tuy là một thị trường mục tiêu của rất nhiều doanh nghiệp nhưng đây không phải là thị trường duy nhất. Để giảm ảnh hưởng do biến động của đồng USD, các doanh nghiệp nên sử dụng các ngoại tệ mạnh khác làm đơn vị thanh toán như đồng Euro, đồng Yên Nhật, đồng Bảng Anh… Tóm lại, xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung có nhiều triển vọng lớn. Hội nhập đã đem đến nhiều cơ hội mới cũng như thách thức mới đối với các doanh nghiệp miền Trung nói chung cũng như các doanh nghiệp trong KCN miền Trung nói riêng. Để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp trong KCN miền Trung trong thời gian tời thì cần có sự nỗ lực, sự quan tâm, phối hợp thực hiện một của Nhà nước và doanh nghiệp trong các KCN miền Trung. KẾT LUẬN Những năm gần đây, miền Trung đã có những bước tiến vượt bậc trong phát triển kinh tế - xã hội, thu nhập của người dân được cải thiện, GDP không ngừng tăng cao, giá trị sản xuất công nghiệp tăng… Đóng góp vào thành quả đó là sự nỗ lực hoạt động của các KCN miền Trung. Các KCN miền Trung đã và đang trở thành một điểm sáng thu hút đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy sản xuất và gia tăng kim ngạch xuất khẩu. Đặc biệt là các KCN đã góp phần chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của miền Trung thông qua chính sách thu hút đầu tư vào các KCN. Bên cạnh đó, xu thế hội nhập đã lan tỏa rộng khắp trên khắp các vùng tổ quốc. Hội nhập đã mang đến cho các vùng một cơ hội lớn về đầu tư, một thị trường rộng lớn cho hoạt động xuất khẩu. Năm 2006 Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO, thúc đẩy cho quá trình hội nhập diễn ra nhanh và sâu rộng. Đây là một triển vọng lớn cho doanh nghiệp trong các KCN miền Trung nâng cao khả năng xuất khẩu, xâm nhập thị trường quốc tế và khu vực. Trên cơ sở hệ thống hóa và phân tích một số vấn đề về xuất khẩu và thực trạng xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung thời gian qua, đề tài “giải phát thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung” sẽ góp phần vào việc đánh giá thực trạng xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung. Qua đó thấy được những mặt được, mặt hạn chế và các nguyên nhân tồn tại. Đây cũng là cơ sở quan trọng trong việc đưa ra các định hướng, giải pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp trong các KCN miền Trung. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO TS . Nguyễn Thị Hường (2001), “Kinh doanh quốc tế”, Tập 1, NXB Thống Kê, Hà Nội. PGS.TS Nguyễn Thị Hường (2003), “Kinh doanh quốc tế”, Tập 2, NXB Lao động – Xã Hội, Hà Nội. PGS.TS. Đỗ Đức Bình – TS. Nguyễn Thường Lạng (2004), “Giáo trình Kinh tế quốc tế”, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. PGS. Vũ Hữu Tửu (2006), “Giáo trình kỹ thuật nghiệp vụ giao dịch ngoại thương”, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. PGS. Vũ Hữu Tửu (2006), “Giáo trình kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương”, NXB Giáo Dục, Hà Nội. GS.TS Lê Văn Tư (2000), “Tín dụng tài trợ xuất, nhập khẩu thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ”, NXB Thống Kê. Viện nghiên cứu thương mại – Ban nghiên cứu thị trường (2003), “Xúc tiến xuất khẩu của chính phủ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ”, NXB Lao động – Xã hội, Hà Nội. Khoa Luật – trường ĐH Kinh tế Quốc dân (2006), “Những văn bản pháp luật kinh tế”, NXB Lao động – Xã Hội, Hà Nội. Tổng cục thống kê (2007), “Niêm giám thống kê 2006”, NXB Thống Kê, Hà Nội. TS. Nguyễn Xuân Thu – TS. Nguyễn Văn Phú (2006), “Phát triển kinh tế vùng trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. TS. Đinh Quý Xuân (2007), “Triển vọng phát triển KT- XH Việt Nam đến 2010”, NXB Thống Kê, Hà Nội. “Hệ thống văn bản pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2006. Luật Thương mại 2005 Nghị định số 57/1998/NĐ – CP ngày 31/7/1998, Quy đinh chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hóa với nước ngoài. Luật đầu tư 2005 Nghị định số 29/2008/NĐ – CP ngày 14/3/2008, Quy định về Khu công nghiệp, Khu chế xuất và Khu kinh tế. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2006), “báo cáo tổng kết 15 năm xây dựng và phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam”, Long An TS. Trần Ngọc Hưng (2008), “xây dựng và phát triển KCN, KKT – kết quả đạt được trong năm 2007 và nhiệm vụ cần thực hiện trong năm 2008”, Báo cáo của Vụ Quản lý KCN và KCX. Th.S Nguyễn Văn Hùng (2008), “Vai trò của Khu kinh tế, Khu công nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội miền Trung”, Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam, số 88(124), tháng 1/2008. “Vai trò nhà nước trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa ở nước ta”, Tạp chí thương mại số 16 (2007). “Chính sách đẩy nhanh xuất khẩu của Trung Quốc”, Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam số 90(126), tháng 3/2008. “Đồng USD thăng trầm tác động tới XNK Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương, số 11(206) ngày 11/3/2008. Nguyễn Anh Tuấn (2007), “Chuyển giao công nghệ qua FDI: thực tiễn ở một số nước đang phát triển và Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 344, tháng 1/2007. (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) (vụ quản lý khu công nghiệp và chế xuất) (Bộ ngoại giao) (Thời báo kinh tế) (Diễn đàn kinh tế miền Trung) (Bộ công thương) Phụ lục 1: Bản đồ khu vực Việt Nam Phụ lục 2: Danh sách các tỉnh thành thuộc miền Trung Việt Nam STT Tên tỉnh, thành phố Ghi chú 1 Thanh Hóa 2 Nghệ An 3 Hà Tĩnh 4 Quảng Bình 5 Quảng Trị 6 Thừa Thiên Huế Thuộc vùng KTTĐ miền Trung 7 Đà Nẵng Thuộc vùng KTTĐ miền Trung 8 Quảng Nam Thuộc vùng KTTĐ miền Trung 9 Quảng Ngãi Thuộc vùng KTTĐ miền Trung 10 Bình Định Thuộc vùng KTTĐ miền Trung 11 Phú Yên 12 Khánh Hòa 13 Ninh Thuận 14 Bình Thuận Phụ lục 3: Bản đồ các khu công nghiệp Việt Nam Phụ lục 4: Danh sách các KCN miền Trung STT Tên KCN Địa phương Năm cấp giấy phép Chủ đầu tư xây dựng CSHT Diện tích (ha) I. KCN đã thành lập và vận hành 1 Đà Nẵng Đà Nẵng 1994 Malaysia – Việt Nam 50 2 Liên Chiểu Đà Nẵng 1998 Việt Nam 374 3 Hòa Cầm Đà Nẵng 2003 Việt Nam 137 4 Hòa Khánh (GĐ1+MR) Đà Nẵng 1997 Việt Nam 572 5 Long Mỹ (GĐ1) Bình Định 2004 Việt Nam 100 6 Phú Tài (GĐ1,2,3+MR) Bình Định 1998 Việt Nam 348 7 Phan Thiết (GĐ1&2) Bình Thuận 1998 Việt Nam 164 8 Suối Dầu ( GĐ1&2) Khánh Hòa 1997 Việt Nam 137 9 Bắc Vinh Nghệ An 1998 Việt Nam 60 10 Hòa Hiệp Phú yên 1998 Việt Nam 102 11 Tây Bắc Đồng Hới Quảng Bình 2005 Việt Nam 66 12 Điên Nam – Điện Ngọc Quảng Nam 1996 Việt Nam 390 13 Tịnh Phong Quảng Ngãi 1997 Việt Nam 142 14 Quảng Phú Quảng Ngãi 1998 Việt Nam 120 15 Nam Đông Hà Quảng Trị 2004 Việt Nam 99 16 Lễ Môn Thanh Hóa 1998 Việt Nam 88 17 Phú Bài ( GĐ1,2,3) Thừa Thiên Huế 1998 Việt Nam, Hàn Quốc 269 II. KCN đã thành lập và đang xây dựng cơ bản 1 Hàn Kiệm I Bình Thuận 2007 Việt Nam 143 2 Hàn Kiệm II Bình Thuận 2007 Việt Nam 436 3 Hòn La Quảng Bình 2005 Việt Nam 98 4 Phước Nam Ninh Thuận 2006 Việt Nam 370 5 Phong Thu Thừa Thiên Huế 2007 Hàn Quốc 100 Phụ lục 5: Danh sách các KCN dự kiến thành lập mới và mở rộng đến năm 2015 của miền Trung Tỉnh, Thành phố STT KCN dự kiến thành lập mới đến năm 2015 STT KCN dự kiến mở rộng đến năm 2015 Tên KCN Diện tích (ha) Tên KCN Diện tích (ha) Đà Nẵng 1 KCN Hòa Cầm 2 150 2 KCN Hòa Ninh 200 Bình Định 3 KCN Nhơn Hòa 320 1 KCN Long Mỹ 100 4 KCN Hòa Hội 340 Bình Thuận 5 KCN Tân Đức 900 Hà Tĩnh 6 KCN Hạ Vàng 100 7 KCN Gia Lách 100 Khánh Hòa 8 KCN Nam Cam Ranh 200 9 KCN Bắc Cam Ranh 150 Nghệ An 10 KCN Cửa Lò 50 Ninh Thuận 11 KCN Du Long 410 Quảng Bình 12 KCN Bắc Đồng Hới 150 2 KCN Hòn La 203 Quảng Nam 13 KCN Thuận Yên 230 14 KCN Đông Quế Sơn 200 Quảng Ngãi 15 KCN Phổ Phong 140 3 KCN Quảng Phú 48 Quảng Trị 16 KCN Quán Ngang 140 Phú Yên 17 KCN Đông Bắc Sông Cầu 105 4 KCN Hòa Hiệp 221 18 KCN An Phú 100 19 KCN Hòa Tâm 150 Thừa Thiên Huế 20 KCN Tứ Hạ 100 5 KCN Phú Bài 35 Thanh Hóa 21 KCN Bỉm Sơn 450 22 KCN Lam Sơn 200 Tổng 4885 607 NHẬN XÉT CỦA CƠ SỞ THỰC TẬP NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26367.doc