Lời mở đầu
Trong những năm gần đây, với mục tiêu đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, đồng thời từng bước tham gia hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới, việc đẩy mạnh xuất khẩu được Nhà nước đặc biệt coi trọng. Xuất khẩu phát triển đã đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước, giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, thúc đẩy các ngành công nghiệp khác phát triển.
Ngành dệt may nước ta là một ngành công nghiệp mũi nhọn trong quá trình công nghiệp hoá -
39 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1326 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu của Công ty dệt Minh Khai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiện đại hóa đất nước. Công ty dệt Minh Khai là một trong những doanh nghiệp dệt của Nhà nước, đứng đầu trong ngành công nghiệp nhẹ Hà Nội, đã có những thành tựu đáng kể trong công cuộc đổi mới. Trong thời gian qua, Công ty dệt Minh Khai luôn hoàn thành nhiệm vụ sản xuất và các chỉ tiêu kinh tế do Nhà nước giao và ngày càng chiếm lĩnh các thị trường khó tính như Nhật Bản, EU, Mỹ…đồng thời tạo được uy tín của công ty trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, trong bối cảnh tự do hoá thương mại ngày nay, công ty đang vấp phải sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ lớn mạnh trong ngành dệt may là Trung Quốc, Thái Lan, Indonexia…, đặc biệt là Trung Quốc. Đây là thách thức to lớn đòi hỏi công ty phải có biện pháp giải quyết, nhằm tăng sức cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao uy tín của công ty trên trường quốc tế.
Sau một thời gian tìm hiểu tại công ty và những kiến thức tích luỹ được ở nhà trường, em đã chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu của Công ty dệt Minh Khai” làm luận văn tốt nghiệp. Em mong muốn những nội dung đề cập trong luận văn này, đặc biệt là các giải pháp sẽ góp phần giúp công ty đạt được những kết quả cao hơn trong hoạt động xuất khẩu tới.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, gồm các nội dung sau :
Chương I : Lý luận chung về xuất khẩu.
Chương II : Thực trạng hoạt động xuất khẩu của Công ty dệt Minh Khai.
Chương III : Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu của Công ty dệt Minh Khai.
Có được nội dung và sự thành công của Luận văn tốt nghiệp này, em xin chân thành cảm ơn sự giảng dạy của các thầy cô trong Khoa cùng với sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của TS Trần Bích Lộc và các cô chú trong phòng Kế hoạch thị trường – Công ty dệt Minh Khai.
Do kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn còn nhiều hạn chế nên Luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Vậy em kính mong được sự góp ý của các thầy cô và các bạn sinh viên để em có điều kiện hoàn thiện hơn nữa kiến thức của mình.
Hà nội, tháng 4- 2004.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Xuân Sơn.
Lớp : 5A19 – Kinh tế đối ngoại.
Chương I
Lý luận chung về xuất khẩu.
I. Khái niệm và vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân.
1. Khái niệm về xuất khẩu (XK).
Xuất khẩu hàng hoá là việc bán hàng hoá của quốc gia này cho một quốc gia khác trên cơ sở thanh toán bằng tiền tệ. Hàng hoá được vận chuyển qua biên giới quốc gia, tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một hoặc cả hai quốc gia. Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của hoạt động ngoại thương đã xuất hiện từ lâu đời và ngày càng phát triển.
Hoạt động XK khác với hoạt động buôn bán trong nước. Trong buôn bán nội địa, hàng hóa chỉ được vận chuyển trong phạm vi một quốc gia, đồng tiền thanh toán thường là đồng nội tệ của quốc gia đó và các bên chủ thể chủ yếu là có chung quốc tịch thì trong hoạt động XK, hàng hoá được vận chuyển qua biên giới quốc gia, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ đối với một hoặc cả hai bên và các đối tác kinh doanh có quốc tịch khác nhau. Cũng có trường hợp hàng hoá được bán ra khỏi phạm vi một quốc gia cho đối tác là người cùng quốc tịch nhưng hết sức hạn hữu.
Hoạt động xuất khẩu, diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện kinh tế, từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng, tư liệu sản xuất, máy móc, thiết bị và kỹ thuật công nghệ cao cho đến dịch vụ. Tất cả các hoạt động đó đều nhằm mang lại lợi ích kinh tế cho các chủ thể và quốc gia tham gia.
2. Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân.
Hoạt động xuất khẩu rất cần thiết vì nó mở rộng khả năng tiêu dùng của nước nhập khẩu và khai thác được lợi thế so sánh của nước XK. Thương mại quốc tế cho phép đa dạng hoá các mặt hàng tiêu dùng với chất lượng và số lượng cao hơn so với ranh giới của khả năng sản xuất trong nước. Vì vậy, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng tăng. Tuy nhiên, xét một cách cụ thể thì nguyên nhân cơ bản và sâu xa của việc trao đổi mua bán đó là xuất phát từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiên nên một nước có thể chuyên môn sản xuất một số mặt hàng có lợi thế hơn và XK để đổi lấy hàng nhập khẩu từ nước khác với mục đích lợi nhuận. Nhưng sự khác nhau về điều kiện sản xuất chỉ là một trong những lý do để thúc đẩy các nước mở rộng quan hệ trao đổi buôn bán với nhau. Quan trọng hơn cả là hai bên cùng có lợi do có sự khác nhau về sở thích và mối tương quan cung- cầu đối với hàng hoá, dịch vụ. Vì vậy, nước ta mặc dù với xuất phát điểm thấp và chi phí sản xuất hầu như lớn hơn tất cả các mặt hàng của các cường quốc kinh tế, nhưng vẫn có thể duy trì quan hệ thương mại với các nước đó. Trong những năm qua, vấn đề phát triển ngoại thương nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng luôn là mục tiêu chiến lược để phát triển kinh tế được Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng và đặt lên hàng đầu.
a. Xuất khẩu thúc đẩy phát triển kinh tế, giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Hoạt động xuất khẩu có ý nghĩa rất quan trọng và cần thiết đối với nước ta. Với một nền kinh tế phát triển chậm, cơ sở vật chất, kỹ thuật lạc hậu, không đồng bộ như nước ta thì việc đẩy mạnh xuất khẩu tạo công ăn việc làm, tăng thu ngoại tệ, thúc đẩy phát triển kinh tế là một chiến lược lâu dài. Để thực hiện được chiến lược lâu dài đó chúng ta phải nhận thức rõ được ý nghĩa của việc xuất khẩu hàng hoá:
- Thông qua việc xuất khẩu những mặt hàng có thế mạnh chúng ta có thể phát huy được lợi thế so sánh, sử dụng hợp lý các nguồn lực, trao đổi các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến.
- Thông qua hoạt động xuất khẩu, tính cạnh tranh được nâng cao nên chất lượng hàng hoá không ngừng được tăng lên, tạo điều kiện nâng cao năng lực sản xuất xã hội và nội lực kinh tế của đất nước.
Mặt khác hoạt động xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. Từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho hàng loạt các ngành sản xuất phát triển, đồng thời cũng thúc đẩy các ngành dịch vụ hỗ trợ hoạt động xuất khẩu như ngành bảo hiểm, ngân hàng, hàng hải, viễn thông quốc tế … Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, tạo điều kiện thuận lợi mở rộng khả năng cung cấp đầu tư trở lại cho sản xuất, tạo tiền đề kinh tế kỹ thuật đồng thời nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều đó chứng tỏ xuất khẩu là phương tiện quan trọng để tạo vốn, đưa kỹ thuật công nghệ nước ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước.
b. Xuất khẩu tạo ra nguồn vốn, nguồn ngoại tệ lớn góp phần quan trọng vào việc cải thiện cán cân thanh toán.
Bất cứ quốc gia nào trên thế giới, để phục vụ cho phát triển kinh tế văn hoá, xã hội của mình đều có nhu cầu nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ. Để thực hiện được yêu cầu nhập khẩu, cần có ngoại tệ thanh toán và nguồn ngoại tệ đó chỉ có thể có được thông qua hoạt động xuất khẩu. Đặc biệt ở các nước đang phát triển, dự trữ ngoại tệ rất eo hẹp, vai trò của xuất khẩu càng trở nên quan trọng; trong những giai đoạn nhất định còn phải chấp nhận nhập siêu.
Xuất khẩu tạo ngoại tệ để nhập khẩu các sản phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống hàng ngày, nâng cao chất lượng cuộc sống cả về vật chất lẫn tinh thần.
Việt Nam là một nước đang phát triển, nhu cầu nhập khẩu là rất lớn, cho nên rất cần đẩy mạnh xuất khẩu để có nguồn ngoại tệ cho nhập khẩu và để cải thiện cán cân thanh toán, khắc phục từng bước nhập siêu( mặc dù hiện nay, việc nhập siêu là tất yếu). Đẩy mạnh XK sẽ tạo thế vững chắc cho sự phát triển kinh tế của đất nước.
c. Xuất khẩu có tác dụng tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống cho người lao động.
Việt Nam là một nước có dân số đông, số người trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số hơn 80 triệu người. Hàng năm, số người trong độ tuổi lao động được bổ sung khoảng 1,5-2 triệu người. Hơn nữa, số dân làm việc trong ngành nông nghiệp của nước ta là trên 70% nên còn phải tính đến số người thất nghiệp theo mùa vụ. Thực tế cho thấy vấn đề thất nghiệp là một vấn đề nan giải mà Việt
Nam cũng như nhiều nước khác cần phải giải quyết.
Thông qua xuất khẩu, quy mô của các ngành sản xuất hàng xuất khẩu sẽ được mở rộng, có thêm nhiều ngành nghề mới từ đó thu hút nhiều lao động.
Xuất khẩu phát triển là tiền đề cho các quan hệ kinh tế đối ngoại khác như du lịch, xuất khẩu sức lao động, tạo điều kiện đưa lực lượng lao động tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế. Đây là nhân tố quan trọng giải quyết tình trạng thất nghiệp.
d. Hoạt động xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy sự phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta.
Với đường lối kinh tế “đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp”, Đảng ta đã chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, trong đó chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, đẩy mạnh các quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu là lĩnh vực có vai trò đặc biệt quan trọng của kinh tế đối ngoại, có quan hệ mật thiết với các lĩnh vực như thu hút đầu tư, tín dụng quốc tế, hợp tác và triển khai công nghệ mới. Thực tiễn trong thời gian qua đã chứng tỏ sự phát triển của xuất khẩu đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ các quan hệ tín dụng- vay nợ quốc tế, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế và những ngành có liên quan …Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại này lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu.
e. Đối với nền kinh tế thế giới.
Do những điều kiện khác nhau nên mỗi quốc gia đều có thế mạnh về một lĩnh vực nào đó. Để có thể khai thác được lợi thế, giảm thiểu bất lợi, tạo ra sự cân bằng trong quá trình sản xuất và tiêu dùng, các quốc gia phải tiến hành trao đổi hàng hoá với nhau, bán những sản phẩm mà mình sản xuất thuận lợi và mua những sản phẩm mà mình sản xuất bất lợi. Tuy nhiên hoạt động xuất khẩu không nhất thiết phải diễn ra giữa các nước có lợi thế tuyệt đối về một lĩnh vực nào đó, mà theo lý thuyết về lợi thế tương đối thì nó vẫn có thể diễn ra khi một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong hầu hết các loại sản phẩm.
Có nghĩa là một quốc gia dù trong tình huống bất lợi vẫn có thể tìm ra điểm có
lợi để khai thác. Bằng việc khai thác các lợi thế này các quốc gia tập trung vào khai thác và xuất khẩu mặt hàng có lợi thế tương đối và nhập khẩu mặt hàng không có lợi thế tương đối. Xu hướng sản xuất này làm cho mỗi quốc gia khai thác được lợi thế của mình một cách tốt nhất giúp tiết kiệm được các nguồn lực như lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên...trong quá trình sản xuất.
Sự phát triển của ngành may xuất khẩu Việt Nam trong hơn 10 năm đổi mới phù hợp với lý thuyết về lợi thế so sánh: các quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với những các quốc gia khác trong sản xuất hầu hết các loại sản phẩm thì các quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích cho mình.
II. Các hình thức xuất khẩu.
1. Xuất khẩu uỷ thác
Hoạt động xuất khẩu uỷ thác là hoạt động hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước có nhu cầu xuất khẩu một số loại hàng hoá nhưng không đủ điều kiện để xuất khẩu( gọi là doanh nghiệp uỷ thác xuất khẩu) đã uỷ thác cho một doanh nghiệp khác( gọi là doanh nghiệp xuất khẩu uỷ thác) có chức năng giao dịch ngoại thương tiến hành đàm phán với đối tác nước ngoài để làm thủ tục xuất khẩu hàng hoá theo yêu cầu của bên uỷ thác và được hưởng một khoản thù lao gọi là phí uỷ thác, hay còn gọi là hoa hồng uỷ thác.
Trong hoạt động XK uỷ thác, doanh nghiệp nhận uỷ thác không phải bỏ vốn, do không phải lo nguồn hàng mà chỉ phải đứng ra thay mặt bên uỷ thác tìm và giao dịch với bạn hàng nước ngoài, ký hợp đồng và làm thủ tục XK hàng hoá cũng như thay mặt bên uỷ thác khiếu nại, đòi bồi thường với bên nước ngoài khi có tổn thất.
Cần phân biệt rõ hình thức xuất khẩu uỷ thác và nghiệp vụ uỷ thác xuất khẩu qua quyền sở hữu đối với hàng hoá. Chủ sở hữu thực hiện nghiệp vụ uỷ thác xuất khẩu cho đối tác kinh doanh có hình thức xuất khẩu uỷ thác.
2. Xuất khẩu tự doanh.
Xuất khẩu tự doanh là hoạt động xuất khẩu độc lập và trực tiếp của một doanh
nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trên cơ sở nghiên cứu kỹ thị trường trong và ngoài nước, tính toán đầy đủ chi phí đảm bảo kinh doanh xuất khẩu có lãi, đúng phương hướng, chính sách, pháp luật của quốc gia cũng như quốc tế.
Trong xuất khẩu tự doanh, doanh nghiệp phải đứng mũi chịu sào trước tất cả mọi việc. Doanh nghiệp phải xem xét một cách kỹ càng từ bước nghiên cứu thị trường, lo tìm kiếm nguồn hàng xuất khẩu đến việc ký kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng vì doanh nghiệp phải tự bỏ vốn của mình ra, chịu mọi chi phí và rủi ro có thể xảy ra.
3. Xuất khẩu liên doanh.
Đây là hoạt động xuất khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kinh tế tự nguyện giữa các doanh nghiệp nhằm phối hợp khả năng để cùng nhau giao dịch và đề ra các chủ trương, biện pháp có liên quan đến hoạt động XK, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho tất cả các bên, cùng chia lãi hoặc cùng chịu lỗ.
So với hình thức xuất khẩu tự doanh thì trong hình thức này, từng doanh nghiệp được chia sẻ rủi ro, vì mỗi doanh nghiệp liên doanh XK chỉ góp một phần vốn nhất định, quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên cũng phân theo số vốn góp.
4. Xuất khẩu đổi hàng
Xuất khẩu đổi hàng cùng với trao đổi bù trừ là hai loại nghiệp vụ chủ yếu của buôn bán đối lưu, nó là hình thức xuất khẩu gắn liền với nhập khẩu, thanh toán theo hình thức này không phải dùng tiền mà bằng hàng hoá.
Để có thể thực hiện được hình thức xuất khẩu này thì hàng hoá nhập và hàng hoá xuất phải tương đương nhau về giá trị, bạn hàng bán và mua là một.
5. Gia công quốc tế: là hoạt động kinh doanh thương mại, trong đó một bên ( bên nhận gia công) nhận nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác ( bên đặt gia công) để chế biến thành phẩm, giao lại cho bên đặt gia công và được nhận phí gia công. Ngành dệt may Việt Nam sử dụng hình thức này là chủ yếu.
6. Tạm nhập, tái xuất: là hình thức xuất khẩu trở lại ra nước ngoài những hàng hoá đã được nhập khẩu nhưng chưa qua chế biến ở nước tái xuất.
* Trên đây là khái quát một số hình thức XK nói chung và cũng đang được áp dụng phổ biến ở nước ta hiện nay.
III. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu.
1. Thị trường.
Trong kinh doanh, thị trường là vấn đề cốt lõi, quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp. Không có thị trường thì doanh nghiệp không tồn tại được. Hơn nữa, đặc điểm riêng của mỗi thị trường khu vực hay mỗi nước khác nhau lại quyết định đến
số lượng, chủng loại... của hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu.
Thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng cùng các mối quan hệ đa phương của mỗi quốc gia và có nhiều thuận lợi hơn trước, càng có điều kiện thúc đẩy quy mô và tốc độ xuất khẩu.
2. Nguồn hàng.
Nguồn hàng( đầu vào của doanh nghiệp xuất khẩu) là mối quan tâm kế tiếp sau khi đã tìm kiếm được thị trường tiêu thụ( đầu ra), bởi vì có thị trường mà không có hay thiếu nguyên liệu để sản xuất và từ đó để có hàng hoá thì cũng không thể kinh doanh được. Thậm chí nguồn đầu vào mà không ổn định về giá cả, số lượng, chất lượng...thì cũng ảnh hưởng lớn đến việc đảm bảo kinh doanh và lợi nhuận cho doanh nghiệp xuất khẩu.
Nguồn vốn có ý nghĩa lớn đối với mọi doanh nghiệp xuất khẩu. Trong những năm qua Nhà nước đã có nhiều chính sách nhằm xây dựng một môi trường đầu tư hấp dẫn, ổn định để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp ngày càng có điều kiện thuận lợi để liên doanh liên kết, mở rộng sản xuất. Hệ thống ngân hàng đã có nhiều thay đổi tích cực tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn kinh doanh.
3. Pháp luật, chính sách, cơ chế.
Đây chính là những yếu tố quan trọng thuộc về môi trường bên ngoài tác động đến xuất khẩu. Sự thông thoáng, ổn định và dễ nhận biết( tính minh bạch) của yếu tố này sẽ tác động trực tiếp đến doanh nghiệp trong việc xây dựng chiến lược kinh
doanh, chủ động các phương án đàm phán và thực hiện tốt các hoạt động xuất khẩu.
Bên cạnh đó, vấn đề pháp luật, chính sách và cơ chế của nước nhập khẩu đang ngày càng khẳng định tác động quan trọng, thậm chí quyết định đến doanh nghiệp xuất khẩu. Nếu doanh nghiệp xuất khẩu không nắm bắt được sẽ có thể gây nên những tổn thất lớn bởi mỗi nước có các chính sách kinh tế khác nhau, hàng rào thuế quan được dựng lên nhiều khi rất phức tạp, gây khó khăn cho nước xuất khẩu, hạn ngạch phi quan thuế thì khắt khe và đa dạng. Mỗi thị trường khu vực, mỗi quốc gia thậm chí là các bang, vùng của một nước có những cơ chế chính sách khác nhau đối với một mặt hàng nhập khẩu.
4. Nội lực doanh nghiệp.
Trình độ tổng hợp và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cũng như kinh nghiệm kinh doanh của doanh nghiệp xuất khẩu tác động có tính chất quyết định đến kết quả và hiệu quả xuất khẩu. Từ yếu tố nội lực này, doanh nghiệp có điều kiện để nhận thức, vận dụng các quy luật và yếu tố khách quan, chủ động tổ chức kinh doanh và xuất khẩu có hiệu quả.
5. Các yếu tố khác.
Cũng cần lưu ý rằng hoạt động xuất khẩu của mỗi quốc gia cũng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác như: điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, pháp luật, lịch sử, văn hoá, khoa học công nghệ, cạnh tranh... và các quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia.
IV. Xuất khẩu hàng dệt may và vai trò của xuất khẩu mặt hàng này.
Dệt may là một ngành phát triển nhanh chóng và năng động. Đây là ngành sử dụng nhiều lao động vì thế chúng được coi là ngành mũi nhọn của các nước có nguồn lao động dồi dào và giá rẻ. Trong lĩnh vực kinh doanh này, ngành dệt may của khu vực Châu á - Thái Bình Dương chiếm khoảng 70% sản lượng của toàn thế giới. Trong đó ngành dệt may của khu vực châu á chiếm tới 60% sản lượng thế giới và đang tiếp tục phát triển với tốc độ cao. Tỷ trọng hàng dệt may xuất khẩu trong các nước này chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu, con số này ở Việt Nam là trên 20%. Đối với Việt Nam, dệt may chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, nó mang lại nhiều ngoại tệ và giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động.
Là một ngành hàng có truyền thống lâu đời tại Việt Nam và là một ngành công nghiệp mũi nhọn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta, sản xuất hàng dệt may tăng trưởng nhanh, kim ngạch xuất khẩu không ngừng gia tăng với nhịp độ cao, thị trường luôn mở rộng, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, góp phần cân bằng cán cân xuất nhập khẩu, thu hút ngày càng nhiều lao động và đóng góp ngày càng nhiều vào ngân sách.
Trong những năm gần đây, hàng may xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là sang thị trường Châu âu và Nhật Bản. Trong năm 1998, thị trường Châu âu đã chiếm 27,53 % tổng kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang thị trường Mỹ còn quá nhỏ bé, mới chỉ đạt khoảng 2 % trong tổng giá trị hàng dệt may của ta tới tất cả các thị trường quốc tế. Trong khi đó thời gian gần đây, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đến Nhật Bản đạt 15,67 % , trong đó giá trị hàng may mặc là 24,01 %.
Xuất khẩu hàng dệt may có ý nghĩa quan trọng đối với nước ta. Với tiềm năng nguyên liệu và sức lao động dồi dào, với vị trí đáng kể trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực truyền thống lâu nay, việc đẩy mạnh xuất khẩu và nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng dệt may có tác động thiết thực để tăng nhanh kim ngạch và hiệu quả xuất khẩu chung, góp phần tích cực giải quyết công ăn việc làm, phát triển kinh tế xã hội.
Chương II
Thực trạng hoạt động xuất khẩu
của Công ty dệt Minh Khai.
I. Giới thiệu khái quát về Công ty dệt Minh Khai.
1. Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty dệt Minh Khai.
Công ty dệt Minh Khai được khởi công xây dựng từ cuối năm 1960 và đến năm 1974, được chính thức thành lập theo quyết định của UBND thành phố Hà Nội. Những năm tiếp theo, Công ty dần đi vào ổn định, hoàn thiện nhà xưởng, hiệu chỉnh lại máy móc thiết bị, đào tạo thêm lao động để tăng cường sản xuất. Nhiệm vụ chủ yếu lúc này của Công ty là sản xuất khăn mặt, khăn bông, khăn tắm… phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng nội địa.
Từ năm 1981- 1989 là thời kỳ phát triển với tốc độ cao của Công ty, Công ty đã chuyển hướng để xuất khẩu là chủ yếu. Năm 1988, Công ty là doanh nghiệp đầu tiên ở miền Bắc được Nhà nước cho phép xuất khẩu trực tiếp ra nước ngoài. Đầu những năm 90, nền kinh tế nước ta chuyển mạnh sang cơ chế quản lý mới cùng với việc hệ thống XHCN sụp đổ ở Đông Âu và Liên Xô đã làm cho nhiều doanh nghiệp trong đó có Công ty dệt Minh Khai gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, được sự giúp đỡ của Nhà nước cùng với sự nỗ lực của cán bộ công nhân viên, Công ty dệt Minh Khai đã đầu tư thêm nhiều trang thiết bị mới nhằm từng bước nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, chăm lo tốt đời sống CBCNV; cho đến nay Công ty đã từng bước khẳng định vị trí của mình là một doanh nghiệp nhà nước kinh doanh có hiệu quả trong công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
2. Chức năng nhiệm vụ của Công ty dệt Minh Khai.
Công ty dệt Minh Khai ngay từ khi mới thành lập đã được Nhà nước giao cho thực hiện chức năng và nhiệm vụ chủ yếu là sản xuất và kinh doanh các sản phẩm ngành dệt phục vụ cho nhu cầu trong nước cũng như quốc tế, làm tốt công tác nhập
khẩu phục vụ cho nhu cầu sản xuất, góp phần nâng cao chất lượng hàng hoá, tăng thu ngoại tệ và phát triển kinh tế đất nước.
Với chức năng và nhiệm vụ trên, trong 30 năm qua, Công ty dệt Minh Khai đã phát huy mọi nguồn lực khắc phục khó khăn để không ngừng lớn mạnh và trưởng thành, đứng vững trên thương trường, góp phần thiết thực vào việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
3. Cơ cấu tổ chức hoạt động của Công ty dệt Minh Khai .
Công ty dệt Minh Khai tổ chức bộ máy quản lý theo một cấp, đứng đầu là Ban giám đốc chỉ đạo trực tiếp đến từng đơn vị thành viên, giúp việc cho giám đốc có các phòng ban nghiệp vụ. (Xem Sơ đồ tổ chức – Phụ lục)
Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban:
- Ban giám đốc: gồm có giám đốc và hai phó giám đốc (PGĐ sản xuất và PGĐ kỹ thuật). Đây là cơ quan đầu não của Công ty chịu trách nhiệm đưa ra những định hướng phát triển và điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Phòng tài vụ: giúp giám đốc thống kê kế toán tài chính, kiểm tra giám sát tình hình thu chi tài chính, và hướng dẫn chế độ chi tiêu và hạch toán kinh tế.
- Phòng kế hoạch thị trường: là phòng nghiệp vụ tham mưu cho giám đốc trong công tác xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu, tổ chức thực hiện công tác tiêu thụ sản phẩm .
- Phòng tổ chức: giúp giám đốc xây dựng mô hình tổ chức sản xuất và quản lý với nhiệm vụ quản lý số lượng, chất lượng CBCNV, sắp xếp đào tạo đội ngũ CBCNV trong Công ty đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, thực hiện đầy đủ các chế độ chính sách của Nhà nước đối với người lao động …
- Phòng kỹ thuật: nghiên cứu tham mưu giúp đỡ giám đốc về công tác quản lý sử dụng kế hoạch và biện pháp về dài hạn, ngắn hạn, áp dụng khoa học kỹ thuật
tiên tiến trong thiết kế chế tạo sản phẩm và đưa công nghệ mới vào sản xuất.
- Phòng hành chính y tế: thực hiện các công việc thuộc phạm vi hành chính, tổng hợp các giao dịch, văn thư và truyền đạt chỉ thị của giám đốc đến các phòng ban phân xưởng, tổ chức công tác khám chữa bệnh tại chỗ cho CBCNV.
4. Đặc điểm sản xuất kinh doanh
a. Đặc điểm sản phẩm dịch vụ.
Sản phẩm của Công ty là: khăn mặt, khăn tắm, màn tuyn…, mang tính chất sử dụng nhiều lần, có tác dụng giữ gìn vệ sinh và bảo vệ sức khoẻ. Sản phẩm tiêu dùng cho cá nhân nên yêu cầu phải bền, mềm, thấm nước, mầu sắc mẫu mã phong phú, không phai màu, nhiều kích cỡ khác nhau, độ dày mỏng phù hợp.
Công ty đã không ngừng cải tiến, thiết kế ra những mẫu mới. Hiện nay cơ cấu sản phẩm của Công ty đã phong phú hơn rất nhiều và có đủ khả năng đáp ứng nhu cầu tiều dùng trong nước và thị trường xuất khẩu; có hai loại chủ yếu sau: Khăn bông các loại và màn tuyn.
* Với sản phẩm khăn bông Công ty sản xuất từ nguyên liệu sợi bông 100% nên có độ thấm nước cao, mềm mại và phù hợp với yêu cầu sử dụng của người tiêu dùng. Đây là nhóm sản phẩm chủ yếu của Công ty, chiếm tới 98% khối lượng sản phẩm của Công ty, bao gồm: khăn ăn, khăn rửa mặt, khăn tắm và bộ khăn dùng cho khách sạn bao gồm : khăn mặt, khăn tay, thảm chùi chân và áo choàng tắm…; ngoài ra, công ty còn sản xuất các loại vải sợi bông sử dụng để may lót và may mũi giầy phục vụ cho các cơ sở may xuất khẩu như giầy Ngọc Hà, may X40…
* Với sản phẩm màn tuyn: Công ty sản xuất 100% sợi PETEX đảm bảo cho màn tuyn có độ bền cao chống được oxy hoá gây ngả màu vàng. Loại sản phẩm này mới được đưa vào sản xuất trong Công ty hơn 10 năm, nên khối lượng sản xuất ra chỉ chiếm tỷ trọng khiêm tốn.
b. Phương thức sản xuất kinh doanh.
Công ty ký và thực hiện hợp đồng xuất khẩu trực tiếp. Với hình thức này, Công ty trực tiếp tiếp xúc với khách hàng ngoại. Khi có những thoả thuận trao đổi đi đến thống nhất về mẫu mã, số lượng sản phẩm, hai bên sẽ chính thức kí kết hợp đồng. Phần lớn mặt hàng khăn bông xuất khẩu của Công ty áp dụng phương thức này. Các mặt hàng khăn bông không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu được tiêu thụ tại thị trường nội địa chiếm 10% nhưng kích thước, mầu sắc và mẫu mã sản phẩm không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Công ty chỉ có một vài sản phẩm sản xuất theo thiết kế phục vụ trong nước. Việc tiêu thụ chủ yếu thông qua các doanh nghiệp trung gian như: các Công ty thương mại trong và ngoài nước, các trung tâm thương mại, các siêu thị ở Hà nội và tư thương. Từ đó sản phẩm của Công ty được bán cho những người mua bán và bán lẻ tới tay người tiêu dùng.
Ngoài ra, đối với một số sản phẩm Công ty còn áp dụng nghiệp vụ uỷ thác xuất khẩu. Công ty xuất khẩu sản phẩm thông qua Tổng Công ty dệt may Vịêt Nam (Vinatex) và Công ty xuất khẩu thủ công mỹ nghệ (Artexport). Công ty cũng kí hợp đồng với các siêu thị ở Hà nội cung cấp các sản phẩm khăn bông để bán tại các siêu thị này với phương thức thanh toán “gối đầu”.
Mặt khác, Công ty cũng nhận sợi, hoá chất, thuốc nhuộm của khách hàng để tiến hành sản xuất sản phẩm cho khách hàng qua các hợp đồng gia công. Loại hợp đồng này đối với Công ty không nhiều, tùy thuộc vào yêu cầu của khách hàng nhận gia công, đơn giá gia công, thời hạn giao hàng, định mức tiêu hao nguyên vật liệu. Ngoài ra Công ty còn thực hiện hợp đồng nhận vốn ứng trước .
II. Phân tích thực trạng hoạt động XK của công ty.
1. Tình hình xuất khẩu của Công ty trong thời gian qua.
Đối với Công ty dệt Minh Khai, hoạt động xuất khẩu được coi là hoạt động quan trọng nhất của Công ty. Doanh thu xuất khẩu luôn chiếm tỷ trọng lớn, từ 80-85% tổng doanh thu hàng năm.
a. Phân tích tình hình xuất khẩu theo thị trường XK. (Xem bảng 1- Phụ lục)
* Thị trường Nhật Bản
Công ty đã thiết lập và duy trì mối quan hệ làm ăn với các khách hàng Nhật Bản từ năm 1983 cho tới nay và đây cũng là một trong những thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam. Công ty xuất khẩu sang Nhật Bản những sản phẩm khăn bông bao gồm khăn ăn, khăn mặt, khăn tắm, áo choàng tắm các loại phong phú về kiểu dáng và mẫu mã.
Giá trị kim ngạch xuất khẩu của Công ty sang thị trường này luôn chiếm một tỷ trọng cao nhất khoảng 90% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Công ty hàng năm. Tuy nhiên, mức tăng kim ngạch xuất khẩu trên thị trường Nhật Bản không ổn định. Sở dĩ có tình trạng như vậy là vì hiện nay Công ty đang vấp phải sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ cạnh tranh lớn mạnh trong lĩnh vực xuất khẩu hàng dệt may là Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia… Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản năm 2002 giảm xuống còn 4.038.000 USD tức là chỉ bằng 95% so với năm 2001 (4.240.000USD). Nguyên nhân là do có sự cạnh tranh về giá giữa các Công ty xuất khẩu hàng dệt may ở Việt Nam, các Công ty này liên tục tự giảm giá để cạnh tranh, giành quyền được ký hợp đồng xuất khẩu, nên giá xuất khẩu của Công ty giảm. Mặt khác các đối tác phía Nhật Bản khi đàm phán ký kết hợp đồng xuất khẩu thường đưa ra mức giá giao dịch rất rẻ là mức giá mà Trung Quốc xuất khẩu vào Nhật Bản để gây sức ép buộc Công ty phải giảm giá theo họ. Hơn nữa, chính phủ Nhật Bản hiện nay đang có ý định hạn chế nhập khẩu mặt hàng dệt nên Bộ Thương mại Việt Nam đã yêu cầu các công ty Việt Nam xuất khẩu sản phẩm dệt vào thị trường Nhật Bản phải hạn chế số lượng xuất khẩu để phía Nhật Bản không áp dụng biện pháp tự vệ tức là hạn chế nhập khẩu nữa.
* Các thị trường khác.
Bên cạnh Nhật Bản, Công ty còn xuất khẩu sang một số thị trường khác như Đan Mạch, Đài Loan, Hồng Kông… nhưng chỉ chiếm tỉ lệ không đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Công ty.
Trở ngại lớn nhất của Công ty đối với việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu là khả năng cạnh tranh của Công ty. Các sản phẩm khăn bông của Trung Quốc mặc dù có chất lượng không cao hơn so với chất lượng sản phẩm của Công ty nhưng lại có lợi thế là giá xuất khẩu rẻ hơn. Trong khi đó để sản xuất khăn bông xuất khẩu, Công ty phải nhập nguyên liệu từ nước ngoài, hơn nữa phải đầu tư nhiều để đổi mới thiết bị công nghệ sản xuất nên chi phí giá thành sản phẩm tăng cao, làm cho sản phẩm của Công ty có giá bán cao. Đặc biệt là Trung Quốc vừa gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới(WTO) nên thuế xuất khẩu các sản phẩm của Trung Quốc cũng được giảm nhiều. Đây là một bất lợi lớn đối với toàn ngành dệt may Việt Nam cũng như đối với Công ty.
b. Phân tích tình hình xuất khẩu theo mặt hàng.(Xem bảng 2 – Phụ lục)
Từ khi Nhà nước chuyển đổi sang cơ chế thị trường, mặc dù gặp phải rất nhiều khó khăn song Công ty vẫn đứng vững trên thị trường, sản phẩm sản xuất ra đạt chất lượng tốt, màu sắc đẹp, độ bền cao. Mặt hàng xuất khẩu chính của Công ty gồm có: khăn ăn, khăn mặt, khăn tay, áo choàng tắm, thảm chùi chân, ga trải giường, khăn bếp...
Ngay từ khi chuyển đổi sang kinh doanh xuất khẩu là chính, Công ty dệt Minh Khai cũng xác định sản phẩm xuất khẩu chính của mình là khăn bông dệt các loại. Hàng năm, xuất khẩu sản phẩm này luôn mang lại cho Công ty nguồn lợi nhuận cao. Năm 2000 do có khó khăn về thị trường và tỷ giá hối đoái không ổn định nên kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 2.623.600 USD. Năm 2001 đạt 3.312.960 USD và giảm nhẹ vào năm 2002 nhưng năm vừa qua đã tăng với giá trị đạt tới 3.411.650 USD.
Sở dĩ nhóm sản phẩm này có giá trị xuất khẩu cao là do có sự đa dạng về kiểu dáng, mẫu mã, màu sắc phong phú...Một số loại sản phẩm còn được trang trí in hình động vật, hoa văn trang trí rất bắt mắt do đó rất hấp dẫn và được người tiêu dùng ưa chuộng. Hơn nữa, sản phẩm khăn bông lại có chất lượng tốt, khăn dày, thấm nước, độ mềm mại cao, tạo sự thoải mái khi sử dụn._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2398.doc