Thực trạng và giải pháp thúc đẩy quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Campuchia trong thời gian tới

LỜI MỞ ĐẦU Trong thời đại ngày nay, mỗi quốc gia muốn phát triển kinh tế đều phải thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập với thế giới bên ngoài. Xu hướng hội nhập và liên kết kinh tế đã trở thành động lực thúc đẩy của quan hệ quốc tế. Các nước dù mạnh hay yếu đều có xu thế liên kết với nhau để đối phó với những thách thức và cạnh tranh quyết liệt về kinh tế, thương mại. Quan hệ thương mại Việt Nam-Cămpuchia cũng không nằm ngoài xu thế đó. Với bề dày hơn 40 năm quan hệ ngoại giao, đã từng ủng hộ

doc93 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1548 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp thúc đẩy quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Campuchia trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh giành độc lập tự do, trong thời kì mới, Việt Nam và Cămpuchia càng tăng cường và củng cố tình đoàn kết hữu nghị để đưa mối quan hệ láng giềng truyền thống tốt đẹp giữa hai nước lên một tầm cao mới vì lợi ích của nhân dân hai nước và góp phần tích cực cho hoà bình, ổn định và hợp tác phát triển trong khu vực và trên thế giới. “Bán anh em xa, mua láng giềng gần” là câu ngạn ngữ rất quen thuộc của ông cha ta để lại. Câu nói giản dị ấy không những có ý nghĩa to lớn trong mối quan hệ cộng đồng “tình làng, nghĩa xóm”, mà ở một phương diện nào đó nó còn mang cả ý ‎nghĩa hợp tác quốc gia, quốc tế. Có tạo được mối quan hệ tốt đẹp nhiều mặt trong đó có quan hệ thương mại với những nước láng giềng, ta mới có điều kiện vững chắc để vươn tới những thị trường xa hơn, rộng lớn hơn. Xuất phát từ những nhận thức đó, em đã chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp thúc đẩy quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Cămpuchia trong thời gian tới” làm luận văn tốt nghiệp. Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở trình bày một số hiểu biết có tính khái quát về đất nước Việt Nam và Cămpuchia, nghiên cứu thực trạng và hiệu quả hoạt động thương mại giữa hai nước trong thời gian qua để từ đó đề xuất một số kiến nghị giải pháp nhằm tăng cường phát triển quan hệ thương mại giữa hai vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh hạnh phúc. Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Cămpuchia. Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Cămpuchia trong thời gian từ năm 2000 đến nay. Kết cấu luận văn tốt nghiệp gồm có ba chương: Chương1: Tổng quan về thương mại quốc tế Chương 2: Thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam-Campuchia trong thời gian qua Chương 3: Triển vọng và giải pháp phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam-Cămpuchia trong thời gian tới. CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 1.1. Khái niệm, chức năng và nhiệm vụ của thương mại quốc tế 1.1.1. Khái niệm Thương mại quốc tế là hoạt động trao đổi, mua bán hàng hóa và dịch vụ vượt biên giới một quốc gia, thông qua các hoạt động xuất, nhập khẩu. Theo cách định nghĩa này, trong hoạt động thương mại quốc tế bao gồm: Hoạt động xuất khẩu là việc bán hàng hóa và dịch vụ cho nước ngoài và hoạt động nhập khẩu là việc mua hàng hóa, dịch vụ từ nước ngoài. Hoạt động thương mại quốc tế bao gồm: thương mại hàng hóa hữu hình (như: xe hơi, máy móc, quần áo, nguyên, nhiên, vật liệu…)Thương mại hàng hóa vô hình (như: bằng phát minh, dịch vụ...) Thương mại quốc tế là hoạt động kinh tế đã có từ lâu đời, tuy quy mô lúc đó còn nhỏ bé. Thương mại quốc tế chỉ thực sự phát triển trong thời đại tư bản chủ nghĩa và trở thành động lực phát triển quan trọng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ngày nay, thương mại quốc tế không chỉ là quan hệ mua bán với bên ngoài mà còn cùng với các quan hệ kinh tế đối ngoại khác giúp một quốc gia, vùng lãnh thổ tham gia vào phân công lao động quốc tế và khu vực. 1.1.2. Chức năng Chức năng thương mại quốc tế được xem xét dưới hai khía cạnh như sau: Một là, thương mại quốc tế là một lĩnh vực kinh tế đảm nhận khâu lưu thông hàng hóa giữa trong nước và nước ngoài. Trên khía cạnh này chức năng cơ bản của thương mại quốc tế là: Tổ chức quá trình lưu thông hàng hóa với bên ngoài , thông qua mua bán, làm cho thị trường trong nước gắn với thị trường bên ngoài. Trên cơ sở đó, thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng của các tổ chức, cá nhân về hàng hóa, dịch vụ theo số lượng, chất lượng, mặt hàng địa điểm và thời gian phù hợp. Hai là, thương mại quốc tế là một khâu trong quá trình tái sản xuất xã hội quốc tế. Xét dưới khía cạnh này, thương mại quốc tế có thế có chức năng như sau: - Thương mại quốc tế tạo vốn cho quá trình gia tăng vốn đầu tư trong nước. - Thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa, dịch vụ được tạo ra trong lĩnh vực sản xuất của các nước. - Góp phần tăng trưởng nền kinh tế. 1.1.3. Nhiệm vụ Thương mại quốc tế có những nhiệm vụ chủ yếu sau đây: Một là, nâng cao hiệu quả kinh doanh, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhiệm vụ này được thực hiện thông qua các hoạt động xuất, nhập khẩu, gia công thuê cho nước ngoài… Bởi vì, khi tham gia trao đổi trên thị trường thế giới, nền kinh tế của một nước phải chấp nhận cạnh tranh trên thị trường nên phải tính toán sao cho có lãi, phải ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, cải tiến quản lý nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí, giá thành sản phẩm, nghĩa là phải làm ăn có hiệu quả. Hai là, góp phần giải quyết vốn, công ăn, việc làm, sử dụng tài nguyên một cách có hiệu quả. Thông qua hoạt động xuất khẩu, hàng hóa, dịch vụ được tiêu thụ sẽ tạo thêm việc làm cho người dân trong nước, khai thác nguồn tài nguyên một cách có kế hoạch và hợp lý phục vụ cho xuất khẩu, qua đó có thêm nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Ba là, thương mại quốc tế, thông qua hoạt động nhập khẩu, có điều kiện tiếp cận đến các nguồn công nghệ tiên tiến, hiện đại và nhất là có thể tiếp nhận những công nghệ phù hợp cho sự phát triển của sản xuất, nhất là phục vụ cho xuất khẩu… 1.2. Chính sách thương mại quốc tế 1.2.1. Khái niệm Chính sách thương mại quốc tế là một phần của chính sách kinh tế đối ngoại, là hệ thống các quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc và các công cụ, biện pháp thích hợp mà chính phủ một nước sử dụng để điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế của nước mình trong từng thời kỳ cho phù hợp với định hướng đã định trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chính sách thương mại quốc tế của mỗi quốc gia được thay đổi cho phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của từng thời kỳ. Tuy nhiên, chính sách thương mại quốc tế có chức năng chung là điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế của mỗi nước theo chiều hướng có lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đó. Cụ thể như sau: Thứ nhất, tạo điều kiện thuận lợi để khai thác triệt để lợi thế của nền kinh tế đất nước, giúp cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường bên ngoài, tham gia mạnh mẽ vào phân công lao động và mậu dịch quốc tế. Thứ hai, bảo vệ thị trường nội địa, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước đứng vững và vươn lên trong hoạt động kinh tế quốc tế. Để thực hiện các nghiệm vụ trên chính sách thương mại của một quốc gia bao gồm các bô phận cơ bản như: chính sách mặt hàng xuất nhập khẩu, chính sách thị trường (bao gồm mở rộng, xâm nhập thị trường mới, xây dựng thị trường trọng điểm) và chính sách hỗ trợ, (bao gồm các chính sách tác động gián tiếp đến hoạt động thương mại quốc tế như: chính sách đầu tư, chính sách tin dụng, giá cả, tỷ giá hối đoái...). Nhìn chung, chính sách thương mại quốc tế là một bộ phận của chính sách kinh tế - xã hội của nhà nước, có quan hệ chặt chẽ và phục vụ cho sự phát triển kinh tế và xã hội của đất nước. 1.2.2. Các chính sách thương mại quốc tế Chính sách tự do thương mại: là chính sách mà trong đó nhà nước không can thiệp trực tiếp vào quá trình điều tiết thương mại quốc tế. Với chính sách này, thị trường nội địa được mở cửa hoàn toàn, tạo điều kiện thông thương trong và ngoài nước. Đặc điểm của chính sách này là nhà nước không sử dụng các công cụ điều tiết xuất, nhập khẩu, quá trình xuất nhập khẩu được tiến hành một cách tự do theo sự điều tiết của các quy luật kinh tế khách quan. Ưu điểm của chính sách này thể hiện ở những điểm sau: hàng hóa được lưu thông tự do, quá trình cạnh tranh tự do giúp nâng cao chất lượng, hạ giá hàng hóa, thỏa mãn nhu cầu hàng hóa cho người tiêu dùng. Nhược điểm của chính sách thể hiện ở chỗ thị trường dễ bị xáo trộn và dễ bị lệ thuộc vào tình hình kinh tế, chính trị bên ngoài. Một khi các nhà sản xuất trong nước chưa đủ mạnh thì dễ bị phá sản. Chính sách bảo hộ thương mại: là chính sách nhà nước sử dụng các biện pháp để bảo vệ thị trường nội địa, nâng đỡ các nhà kinh doanh trong nước bành trường ra thị trướg ngoài nước. Đặc điểm của chính sách này là nhà nước sử dụng các biện pháp thuế quán và phi thuế quan để hạn chế nhập khẩu, nhà nước nâng đỡ các nhà sản xuất nội địa bằng cách giảm thuế xuất khẩu, thuế lợi tức, phá giá đồng nội tệ, trợ cấp xuất khẩu... Ưu điểm của chính sách này là giảm bớt sức cạnh tranh của hàng nhập khẩu, bảo hộ nhà sản xuất trong nước, giúp họ nâng cao khả năng cạnh tranh, giúp nhà xuất khẩu nâng cao khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường bên ngoài. Nhược điểm của chính sách này gây tổn thương cho thương mại quốc tế, nền kinh tế có thế bị cô lập với bên ngoài, làm gia tăng sự bảo thủ trì trệ của các nhà sản xuất trong nước, khiến họ chậm cải tiến gây thiệt hại cho người tiêu dùng, bởi hàng hóa kém đa dạng về mẫu mã, giá thánh sản phẩm cao... 1.2.3. Chính sách thương mại của các nước kém phát triển Chính sách “đóng cửa” kinh tế: Những nước kém phát triển sau khi giành độc lập dân tộc vào những năm 50 của thế kỷ XX đã thực hiện chính sách “đóng cửa” kinh tế bởi vì các lý do sau: Các nước này muốn có nền kinh tế tự lực cánh sinh, độc lập. Do ảnh hưởng của tư tưởng dân tộc trong cuộc cách mạng dân tộc nên muốn có nên kinh tế độc lập, không lệ thuộc vào bên ngoài, thể hiện tinh thần tự lực, tự cường. Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, nên các nước này cũng muốn có nền kinh tế độc lập không có quan hệ rộng rãi với nên kinh tế bên ngoài để khi xảy ra khủng hoảng kinh tế thế giới nền kinh tế mình sẽ không bị ảnh hưởng. Đặc điểm của chính sách này là: Nền kinh tế tự đáp ứng các nhu cầu trong nước trên cơ sở sản xuất tất cả các ngành hàng dù không thuận lợi trong sản xuất mặt hàng đó, mà không cần nhập khẩu hàng hóa từ bên ngoài. Chỉ xuất những gì sau khi trong nước đã thỏa mãn nhu cầu. Nghĩa là sau khi thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước, nếu hàng hóa đó có dư thừa mới tiến hành xuất khẩu chứ không phải đặt mục tiêu xuất khẩu hàng hóa đó ngay từ khi bắt đầu sản xuất. Đối với đầu tư nước ngoài, các chính phủ không khuyến khích đầu tư vốn từ bên ngoài mà chỉ sử dụng hình thức vay vốn. Ưu điểm của chính sách này là: Tốc độ tăng trưởng khinh tế tuy chậm nhưng chắc, chẳng hạn nền kinh tế Ấn Độ áp dụng mô hình này và có tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình hành năm khoảng 3,5-4%. Nền kinh tế trong nước ổn định ít chịu tác động của nền kinh tế thế giới như: khủng hoảng tài chính – tiền tệ, khủng hoảng kinh tế, biến động giá cả năng lượng... Đảm bảo quyền tự quyết về chính trị , bởi vì nếu kinh tế bị phụ thuộc cũng dễ dẫn đến bị lệ thuộc về chính trị. Nền kinh tế phát triển khá toàn diện nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của nền kinh tế. Trong mô hình này, hầu như tất cả các ngành kinh tế đều được tổ chức, xây dựng cho dù có những ngành không có lợi thế. Tuy nhiên, chính sách này cũng có những hạn chế như: Không phát huy được lợi thế so sánh trong thương mại quốc tế, dẫn đến việc tổ chức sản xuất kinh doanh của cả nền kinh tế sẽ bất lợi hơn so với khi nên kinh tế đó tham gia vào phân công lao động quốc tế. Hạn chế khả năng tiếp thu những thành tựu khoa học kỹ thuật từ bên ngoài do không có dịp tiếp cận. Thiếu vốn ngoại tệ do không xuất khẩu hàng hóa, do vậy nền kinh tế phải vay vốn ngoại tệ để thỏa mãn nhu cầu phát triển. Thất nghiệp có thể gia tăng do không thể phát triển sản xuất khi năng lực trong nước có giới hạn. Sản xuất trong nước với giá đắt do nhập khẩu nguyên liệu, bởi vì không có một quốc gia nào trên thế giới này có đầy đủ nguồn nguyên liệu phục vụ cho sản xuất tất cả các mặt hàng, kể cả quốc gia giàu tài nguyên nhất, chẳng hạn nước Mỹ hàng năm vẫn phải nhập nguyên, nhiên, vật liệu để phục vụ sản xuất. Chính sách “mở cửa” kinh tế: Chính sách mở cửa kinh tế được các nước áp dụng sau khi thực hiện chính sách đóng cửa không thành công. Chính sách mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư và kỹ thuật bên ngoài. Chính sách này có ưu điểm: Đẩy mạnh xuất khẩu nên làm tăng nguồn ngoại tệ. Cải thiện cán cân thành toán quốc tế và thu chi tài chính quốc gia. Thu hút đầu tư nước ngoài, tạo thêm công ăn việc làm, giảm thất nghiệp. Giúp nền kinh tế hội nhập kinh tế quốc tế. Do cạnh tranh trên thị trường quốc tế nên hàng hóa được nâng cao chất lượng. Khái thác được lợi thế so sánh. Tuy nhiên, chính sách cũng có những hạn chế nhất định cụ thể như sau: Các nước đang phát triển thực hiện chính sách này dễ dẫn đến phụ thuộc vào bên ngoài. Nền kinh tế dễ bị mất cân đối do chỉ tập trung vào sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Dễ dẫn đến bất bình đẳng và phân hóa giai cấp. Những ngành sản xuất hàng xuất khẩu sẽ được lợi, có thu nhập cao hơn những ngành sản xuất khác. 1.2.4. Các công cụ thực hiện chính sách thương mại Thuế quan (tariffs): Thuế quan là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hóa xuất khẩu hay nhập khẩu của mỗi quốc gia. Như vậy, thuế quan bao gồm thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu. Thuế nhập khẩu: là thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hóa nhập khẩu, theo đó người mua trong nước phải trả những hàng hóa nhập khẩu một khoản lớn mà người xuất khẩu ngoại quốc nhận được. Thuế xuất khẩu: là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hóa xuất khẩu. Loại thuế này hiện nay ở các nước phát triển thường không còn áp dụng nhưng nước đang phát triển vẫn áp dụng nhằm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Thuế quan có thể tính dưới nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn thuế nhập khẩu tính như sau: Thứ nhất, thuế tính theo một đơn vị vật chất của hàng hóa nhập khẩu. Đây là hình thức đơn giản nhất, dễ tính toán, vì nó không phụ thuộc vào giá cả hàng hóa (do giá thường biên động nên nếu phu thuộc vào giá thì thuế cũng sẽ biến động). P = P0 + Tn Trong đó: P: là hàng hóa sau khi có thuế nhập khẩu. P0: là giá nhập khẩu. Tn :Thuế tính theo đơn vị hàng hóa. Thứ hai, thuế tính theo giá trị hàng hóa. Đây là loại thuế mà mức thuế tính theo tỷ lệ % của mức giá hàng hóa trả cho nhà xuất khẩu ngoại quốc. P = P0 (1+ t) Trong đó: P: là hàng hóa sau khi có thuế nhập khẩu. P0: là giá nhập khẩu. t : tỷ lệ % thuế đánh vào giá hàng hóa. Thứ ba, thuế quan hỗn hợp là loại thuế vừa tính theo một tỷ lệ phần trăm vừa tính theo một đơn vị vật chất của hàng hóa. Vai trò của thuế quan thể hiện ở những điểm sau: Đây là công cụ lâu đời nhất của chính sách thương mại quốc Đây là phương tiện truyền thống để tăng nguồn thu ngân sách. Bảo vệ thị trường, bảo vệ những ngành công nghiệp còn non trẻ. Thuế xuất nhập khẩu cũng là công cụ làm tăng ngân sách và làm tăng giá hàng xuất khẩu. Hàng rào phi thuế quan: Hàng rào phi thuế quan có nghĩa là các công cụ khác với thuế quan được sử dụng trong chính sách thương mại quốc tế. Bao gồm các công cụ chủ yếu như sau: Hạn ngạch: Đây là một hình thức của hàng rào phi thuế quan. Hạn ngạch hay hạn chế số lượng được hiểu là quy định của nhà nước về số lượng cao nhất của một mặt hàng hay một nhóm mặt hàng được phép xuất hoặc nhập khẩu từ một thị trường trong một thời gian nhất định, qua hình thức cấp phép. Trong thực tế hạn ngạch nhập khẩu là hình thức phổ biến hơn, còn hạn ngạch xuất khẩu ít được sử dụng (nó tương tự như hạn chế xuất khẩu tự nguyện). Hạn ngạch nhập khẩu đưa đến hạn chế số lượng hàng hóa nhập khẩu sẽ gây tác động đến giá cả nội địa của hàng hóa. Do hạn chế nhập khẩu nên mức tiêu dùng hàng hóa sẽ thấp làm giá cả hàng hóa sẽ cao hơn so với giá trong điều kiện tự do thương mại. Như vậy, hạn ngạch có tác động giống như thuế nhập khẩu. Tuy nhiên, giữa hạn ngạch và thuế quan có sự khác nhau, thể hiện những điểm như sau: Thứ nhất, đối với chính phủ và các doanh nghiệp, hạn ngạch sẽ cho họ biết trước số lượng hàng nhập khẩu. Còn đối với thuế quan thì không thể biết được điều này vì thuế tác động gián tiếp đến cung cầu hàng hóa, thông qua giá cả thị trường. Thứ hai, thuế nhập khẩu sẽ đem lại thu nhập cho chính phủ và không có tác dụng hỗ trợ cho các thuế khác. Còn hạn ngạch thì lại có thể đưa lại lợi ích rất lớn cho những người xin được giấy phép nhập khẩu theo hạn ngạch (dẫn đến hiện tượng tiêu cực là chạy quota). Thứ ba, hạn ngạch nhập khẩu có thể biến một doanh nghiệp trong nước thành nhà độc quyền. Còn thuế quan nhập khẩu thì không thể làm cho bất cứ doanh nghiệp nào có thể lợi dụng thuế quan này để trở thành nhà độc quyền. Nếu có thuế quan nhập khẩu thì nhà sản xuất trong nước có lợi hơn nhà sản xuất ngoại quốc và người tiêu dùng trong nước phải chịu giá cao hơn khi tiêu dùng hàng hóa đó. Vì vậy người ta cho rằng hạn ngạch có tác hại nhiều hơn thuế quan và là công cụ hạn chế thương mại thiếu công khai. Thuế quan là công cụ thương mại công khai nhất, dễ nhìn thấy nhất. Hạn ngạch được xem là công cụ hạn chế thương mại quốc tế chắc chắn hơn là thuế quan nên các nhà sản xuất nội địa ưa thích hơn, nhưng người tiêu dùng thì bị thiết hại nhiều hơn vì vừa phải chịu mua giá cao vừa không thỏa mãn đẩy đủ nhu cầu tiêu dùng do thiếu thốn hàng hóa. Như vậy, các doanh nghiệp nhận được hạn ngạch sẽ có lợi nhiều nhất chứ không phải là nhà nước, hay người tiêu dùng. Thông thương người ta quy định hạn ngạch nhập khẩu cho một số loại sản phẩm đặc biệt hay cho sản phẩm với một thị trường đặc biệt. Nhìn chung hạn ngạch hạn chế tự do lưu thông hàng hóa quốc tế nền điều XI của GATT đã quy định: “Các bêb ký kết không được duy trì hoặc tạo ra các điều cấm hoặc hạn chế nào khác trừ thuế quan, các khoản thu khác, dù mang hình thức hạn ngạch, giấy phép xuất hoặc nhập khẩu và các biện pháp khác bị cấm”. Thuế quan và hạn ngạch có thể kết hợp thành một công cụ hạn chế thương mại khác được gọi là hạn ngạch thuế quan. Nước nhập khẩu sẽ đề ra một mức hạn ngạch nhất định và mức thuế quan thấp đối với mức hạn ngạch đó. Nhưng khi lượng hàng nhập cao hơn hạn ngạch đó thì nước nhập khẩu sẽ áp dụng mức thuế quan cao hơn. Loại công cụ này thương áp dụng đối với hàng nông sản. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện: Hạn chế xuất khẩu tự nguyện là một công cụ phi thuế quan của chính sách thương mại mà theo đó, một quốc gia nhập khẩu đòi hỏi quốc gia xuất khẩu phải tự nguyện hạn chế bớt số lượng hàng hóa xuất khẩu sang nước mình, nếu không họ sẽ áp dụng biện pháp trả đũa. Khi thực hiện biện pháp xuất khẩu tự nguyện cũng có tác động như một hạn ngạch xuất khẩu tương đương. Nhưng ở đây cũng có sự khác nhau giữa hạn ngạch xuất khẩu và hạn chế xuất khẩu tự nguyện ở chỗ: hạn ngạch mang tính chủ động và thường là biện pháp tự bảo vệ thị trường trong nước hoặc nguồn tài nguyên trong nước, còn hạn chế xuất khẩu tự nguyện mang tính miễn cưỡng và gắn với những điều kiện nhất định. Hình thức này thường được áp dụng cho các quốc gia xuất khẩu một số mặt hàng nào đó với lượng quá lớn trên thị trường. Những quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật: Một trong những công cụ bảo hộ mậu dịch hiện được các nước áp dụng là những quy định về tiêu chuẩn vệ sinh, an toàn lao động, bảo vệ môi trường sinh thái... đối với các máy móc, thiết bị dây chuyền công nghệ, hàng hóa sản phẩm nhập khẩu, quy định về kích cỡ, bao bì, mẫu mã...được gọi là hàng rào kỹ thuật. Đây là những công cụ bảo hộ khá tinh vi giúp nâng cao khả năng cạnh tranh cho nước chủ nhà trong quan hệ thương mại quốc tế. Trong các hiệp định của WTO các Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT) và Hiệp định về các biện pháp kiểm dịch (SPS). Các biện pháp tài chính phi thuế quan: Trợ cấp xuất khẩu: Trợ cấp xuất khẩu là các khoản hỗ trợ từ phía chính phủ cho các khoản thu hay cho giá cả. Trợ cấp xuất khẩu bao gồm các khoản: Chính phủ trực tiếp cấp vốn, cho vay, góp cổ phần, bảo đảm cho vay, chính phủ bỏ hay không thu các khoản thu mà doanh nghiệp phải nộp, chính phủ đóng góp tiền vào một cơ chế tài trợ thu nhập hoặc trợ giá xuất khẩu... Mục đích trợ cấp xuất khẩu là để các doanh nghiệp tăng thu nhập, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa, từ đó thúc đẩy xuất khẩu. Có hai hình thức trợ cấp: trực tiếp và gian tiếp. Trợ cấp trực tiếp là chính phủ trực tiếp bù đắp những thiệt hại của nhà xuất khẩu như áp dụng thuế suất ưu đãi, miễn hoặc giảm thuế, cho hưởng giá ưu đãi đối với các đầu vào sản xuất như: điện, nước, vận tải, thông tin, trợ giá xuất khẩu. Trợ cấp gián tiếp là chính phủ dùng ngân sách nhà nước để xúc tiến xuất khẩu, giới thiệu, quảng cáo, triển lãm, tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch xuất khẩu, hoặc nhà nước giúp đỡ hướng dẫn kỹ thuật sản xuất và đào tạo chuyên gia. Ngoài tác dụng thúc đẩy xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu còn tác dụng góp phần phát triển công nghiệp nội địa, điều chỉnh cơ cấu ngành, vùng kinh tế. Trợ cấp xuất khẩu còn được dùng như một công cụ để mặc cả trong đám phán quốc tế. Do tính hợp lý nên GATT/WTO đã cho phép các thành viên duy trì các hình thức trợ cấp không gây khó khăn cho thương mại hoặc không gây thiết hại đến các thành viên khác. Tuy nhiên, trợ cấp cũng có những mặt tiêu cực như: bóp méo sự cạnh tranh tự nhiên trong môi trường thương mại tự do, chi phí cơ hội của trợ cấp rất lớn, không hiệu quả về mặt tài chính vì phải tăng chi và giảm thu ngân sách, xác suất chọn sai đối tượng trợ cấp khá cao, và dễ dẫn đến hành động trả đũa của các nước trong xu hướng tự do hóa thương mại... Vì vậy, trợ cấp xuất khẩu cần phải có điều kiện và thời hạn. Mức độ trợ cấp sẽ phụ thuộc vào các vấn đề sau: chính sách của nhà nước về mặt hàng được trợ cấp, mức độ cạnh tranh trên thị trường. Xu hướng chính hiện nay là trợ cấp vẫn còn được duy trì rộng rãi, nhất là đối với các mặt hàng nông sản phẩm. Tín dụng xuất khẩu: Tín dụng xuất khẩu là khoản tín dụng được nhà nước hoặc doanh nghiệp của nước xuất khẩu cấp cho nhà nước hoặc doanh nghiệp của nhập khẩu để có điều kiện nhập khẩu hàng hóa của nước xuất khẩu. Tín dụng xuất khẩu được thực hiện dưới nhiều hình thức như: Do nhà xuất khẩu trong nước cấp cho nhà nhập khẩu nước ngoài. Đối với loại hình này, nhà nước thường đứng ra bảo lãnh khoản tín dụng này để hạn chế rủi ro cho các doanh nghiệp. Do các cơ quan chính phủ nước xuất khẩu cấp cho nhà nhấp khẩu nước ngoài. Do chính phủ nước xuất khẩu cấp cho chính phủ nước nhập khẩu. Do ngân hàng nước xuất khẩu cấp cho nhà nhập khẩu nước ngoài thông qua nhà xuất khẩu, đây còn gọi là biện pháp chiết khẩu. Ngày nay, tín dụng xuất khẩu ngày càng được sử dụng rộng rãi, với quy mô ngày càng lớn và thời hạn ngày cảng dài. Bán phá giá: Bán phá giá được hiểu là xuất khẩu một hàng hóa nào đó vào một thị trường với giá bán thấp hơn giá thông thường của hàng hóa đó trên thị trường nội địa hoặc trên một thị trường so sánh nhằm chiếm lĩnh thị trường nào đó. Giá trị thông thường bao hàm các nội dung sau: Giá đó phải đảm bảo lợi nhuận cho người bán Phải bán được một lượng thích đáng (chiếm khoảng 5% khối lượng xuất khẩu hàng hóa đó trở lên). Phải có một lượng người mua độc lập ( chiếm hơn 5% nhà xuất khẩu). Thông thường bán phá giá có ba loại Bán phá giá liên tục: là bán hàng hóa trên thị trường nước ngoài thấp hơn so với giá trong nước liên tục trong thời gian dài. Bán phá gia bất ngờ: chỉ trường hợp bán phá giá một mặt hàng nào đó tron thời gian ngắn để cải thiện cán cân thương mại. Bán phá giá tiêu diệt: chỉ trường hợp bán phá giá trong thời gian ngắn để tiêu diệt đối thủ cạnh tranh, sau đó lại phục hồi giá bán thông thương. 1.2.5. Lý thuyết về thương mại quốc tế 1.2.5.1.Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của ADAM SMITH Adam smith là người đầu tiên đưa ra sự phân tích có tính hệ thống về nguồn gốc thương mại quốc tế. Trong tác phẩm nổi tiếng “Của cải của các dân tộc” xuất bản lần đầu tiên vào năm 1776, A. Smith đó đưa ra ý tưởng về lợi thế tuyệt đối để giải thích nguồn gốc và lợi ích của thương mại quốc tế. Nước A xét trong tương quan với nước B là có hiệu quả hơn (có lợi thế tuyệt đối) trong việc sản xuất mặt hàng X, và kém hiệu quả hơn (có mức bất lợi tuyệt đối) trong việc sản xuất mặt hàng Y. Khi đó B là nước có lợi thế tuyệt đối về mặt hàng Y, và bất lợi tuyệt đối trong sản xuất mặt hàng X. Theo Adam Smith, nếu mỗi nước tập trung vào sản xuất mặt hàng mà mình có lợi thế tuyệt đối, và xuất khẩu mặt hàng này sang nước kia để đổi lấy mặt hàng mà mình có mức bất lợi tuyệt đối, thì sản lượng của hai mặt hàng sẽ tăng lên, và cả hai quốc gia đều trở nên sung túc hơn. Nếu như các tác giả trọng thương cho rằng buôn bán chỉ có lợi cho một bên tham gia và họ tán đồng cho chính sách bảo hộ mậu dịch, thì A. Smith lại khẳng định rằng thương mại tự do có lợi cho tất cả các quốc gia, và chính phủ nên thực hiện chính sách “ không can thiệp” vào hoạt động thương mại quốc tế nói riêng và hoạt động kinh tế nói chung. Ông cho rằng thương mại tự do sẽ giúp cho việc phân bổ và sử dụng nguồn lực của thế giới có hiệu quả hơn, từ đó tạo ra lợi ích cho từng nước tham gia vào hoạt động buôn bán. Ý tưởng về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith có thể được minh họa bằng mô hình thương mại đơn giản dưới đây. Để đơn giản hóa sự phân tích, mô hình thương mại được xây dựng với những giả thiết sau đây: thế giới chỉ bao gồm hai quốc gia (Việt Nam và Cămpuchia ) và hai mặt hàng (Thép và Vải ); chí phí vận tải bằng không, lao động là yếu tố sản xuất duy nhất và được di chuyển tự do giữa các ngành sản xuất trong nước, nhưng không di chuyển được giữa các quốc gia, cạnh tranh hoàn hảo tồn tại trên tất cả các thị trường. Trong điều kiện tự cung tự cấp, mỗi nước tự sản xuất hai mặt hàng để tiêu dùng trong nước. Số lượng lao động cần ở mỗi nước để sản xuất mỗi một đơn vị thép và vải được cho trong bảng 1.1. Bảng 1.1: Mô hình giản đơn về lợi thế tuyệt đối Quốc gia Giờ công Việt Nam Cămpuchia Thép 2 6 Vải 5 3 Có thể thấy rằng Việt Nam là nước có hiệu quả cao hơn (lợi thế tuyệt đối) trong sản xuất thép vì để làm ra 1 đơn vị thép nước này chỉ cần 2 giờ công (đơn vị) lao động, trong khi Cămpuchia phải cần tới 6 giờ công (đơn vị) lao động. Ngược lại Cămpuchia có lợi thế tuyệt đối về sản xuất vải vì nước này chỉ cần 3 giờ công (đơn vị) lao động để sản xuất 1 đơn vị vải trong khi Việt Nam phải dùng tới 5 giờ công (đơn vị) lao động. Khi đó Việt Nam sẽ tập trung toàn bộ số lao động của mình để sản xuất thép, còn Cămpuchia thì thực hiện chuyên môn hóa hoàn toàn trong việc trong việc sản xuất vải, và sau đó hai nước đem trao đổi một lượng nhất định các mặt hàng này với nhau để đáp ứng nhu cầu tiều dùng trong nước. Điều này sẽ dẫn tới gia tăng sản lượng thép và vải toàn thế giới, và mỗi nước có khả năng tiêu dùng nhiều hơn so với trường hợp tự cung tự cấp. Thực vậy, giả sử Việt Nam và Cămpuchia mỗi nước có 120 đơn vị lao động và số lao động đó được chia đều cho hai ngành sản xuất thép và vải. Trong trường hợp tự cấp tự túc, Việt Nam sản xuất (và tiêu dùng) 30 đơn vị thép và 12 đơn vị vải, còn Cămpuchia 10 đơn vị thép và 20 đơn vị vải. Sản lượng của toàn thế giới khi đó bao gồm 40 đơn vị thép và 32 đơn vị vải. Khi lượng lao động được phân bố lại trong mỗi nước, cụ thể là tất cả 120 giờ công (đơn vị) lao động ở Việt Nam tập trung vào ngành thép và 120 giờ công (đơn vị) lao động ở Cămpuchia vào ngành sản xuất vải, thì sản lượng của toàn thế giới sẽ là 60 đơn vị thép và 40 đơn vị vải. Rõ ràng là nhờ chuyên môn hóa và trao đổi, sản lượng của toàn thế giới tăng lên không chỉ đủ để đáp ứng nhu cầu tiều dùng của mỗi nước như trong trường hợp tự cấp tự túc, mà còn dôi ra một lượng nhất định. Vì vậy mỗi nước có thế tăng lượng tiều dùng cả hai mặt hàng và sau đó trở nên sung túc hơn. 1.2.5.2. Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo Nếu như khái niệm lợi thế tuyệt đối được xây dựng trên cơ sở sự khác biệt về số lượng lao động thực tế được sử dụng các quốc gia khác nhau (hay nói cách khác, sự khác biệt về hiệu quả sản xuất tuyệt đối ), thì lợi thế so sánh lại xuất phát từ hiệu quả sản xuất tương đối. Trong mô hình tuyệt đối ở trên, thép được sản xuất rẻ hơn ở Việt Nam so với ở Cămpuchia do sử dụng một lượng lao động ít hơn. Ngược lại vải được sản xuất ở Cămpuchia rẻ hơn ở Việt Nam căn cứ vào lượng lao động được sử dụng. Tuy nhiên, nếu một trong hai nước, chẳng hạn là Việt Nam có hiệu quả sản xuất hơn trong hai mặt hàng, thì theo quan điểm lợi thế tuyệt đối cả hai mặt hàng này cần được sản xuất ở Việt Nam. Điểm quan trọng ở đây không phải là hiệu quả tuyệt đối mà là hiệu quả tương đối trong sản xuất vải và thép: Việt Nam có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất cả hai mặt hàng, nhưng chỉ có lợi thế so sánh đối với mặt hàng có mức lợi thế cao hơn; ngược lại Cămpuchia bất lợi tuyệt đối trong sản xuất cả hai mặt hàng nhưng vẫn có thế có lợi thế so sánh đối với mặt hàng nào có mức bất lợi nhỏ hơn. Quay trở lại mô hình thương mại giữa Việt Nam và Cămpuchia ở phần trước. Các giả thiết cơ bản của mô hình vẫn được giữ nguyên. Tuy nhiên lượng lao động cần thiết để sản xuất một đơn vị thép và vải có khác đi theo bảng 1.2 dưới đây. Bảng 1.2: Mô hình giản đơn về lợi thế so sánh Quốc gia Giờ công Việt Nam Cămpuchia Thép 2 12 Vải 5 6 Các số liệu cho thấy Việt Nam cần ít số lượng lao động hơn so với Cămpuchia để sản xuất ra cả hai mặt hàng, thế nhưng điều này sẽ không cản trở thương mại có lợi giữa hai nước. Tuy Việt Nam có lợi thế tuyệt đối về cả hai mặt hàng, nhưng do mức lợi thế về sản xuất thép lớn hơn mức lợi thế về sản xuất vải (được thể hiện qua bất đẳng thức 2/12<5/6) cho nên nước này có lợi thế so sánh về mặt hàng thép. Ngược lại, Cămpuchia bất lợi tuyệt đối về cả hai mặt hàng, nhưng do mức bất lợi về sản xuất vải nhỏ hơn mức bất lợi về sản xuất thép nên Cămpuchia có lợi thế so sánh về mặt hàng vải ( 6/5< 12/2 ). Như vậy mặc dù cả thép và vải ở Việt Nam được sản xuất với hiệu quả tuyệt đối cao hơn, nhưng thép lại là mặt hàng mà nước này có mức bất lợi tương đối. Một cách khái quát, Việt Nam có lợi thế so sánh về mặt hàng thép khi và chỉ khi: Chi phí lao động để sx 1 đv thép ở VN Chi phí lao động để sx 1 đv ở VN ----------------------------------------------- < ------------------------------------------------- Chi phí lao động để sx 1 đv thép ở CPC Chi phí lao động để sx 1 đv vải ở CPC Trái với lợi thế tuyệt đối, lợi thế so sánh là một khái niệm có tính tương đối: trong một thế giới bao gồm 2 quốc gia, 2 mặt hàng, khi đó xác định được một quốc gia có lợi thế so sánh về một mặt hàng nào đó thì có thể rút ra kết luận là quốc gia thứ hai sẽ có lợi thế so sánh về mặt hàng kia. 1.2. Các nhân tố thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam – Cămpuchia 1.2.1. Về vị trí địa lý và quan hệ đặc biệt giữa hai nước Cùng nằm trên bán đả._.o Đông Dương với 1.237 km đường biên giới chung, Việt nam và Campuchia có mối quan hệ tương đồng vô cùng gần gũi. Nhiều phong tục tập quán, trình độ sản xuất, cấp độ tiêu dùng, tâm lý thị hiếu của hai nước cũng có những nét giao hoà. Quan hệ buôn bán giữa hai nước hình thành từ xa xưa là một điều hoàn toàn dễ hiểu. Nói như vậy để thấy rằng, Cămpuchia là một thị trường cũ nhưng trong bối cảnh mới đã gợi mở nhiều cơ hội hấp dẫn. Lịch sử quan hệ Việt Nam–Cămpuchia đã từng chứng kiến những giai đoạn nhân dân hai nước luôn sát cánh bên nhau, cùng nhau “chia ngọt sẻ bùi”, dành cho nhau sự thông cảm sâu sắc và giúp đỡ chân thành. Sự hợp tác giúp đỡ lẫn nhau đó được tôi luyện thử thách bằng mồ hôi và xương máu của nhiều thế hệ người Việt Nam và Campuchia, đã trở thành một biểu tượng sáng ngời của tình hữu nghị, là tài sản vô giá không chỉ cho thế hệ hôm nay mà còn muôn đời sau. Ngày 24.6.1967, hai nước đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Tháng 2 năm 1979, “ Hiệp định đường biên giới” đã được kí kết giữa hai Nhà nước Việt Nam – Campuchia. Sau tổng tuyển cử do Liên hợp quốc tổ chức tại Campuchia tháng 5 năm 1993, chính phủ hoàng gia được thành lập, quan hệ hai nước bước sang một giai đoạn mới, dựa trên cơ sở của “Hiệp định Hoà bình, Hữu nghị và hợp tác” được kí kết giữa hai chính phủ. Trong những năm gần đây, quan hệ hữu nghị láng giềng không ngừng được củng cố và phát triển. Nhiều đoàn đại biểu cấp cao và đoàn đại biểu các bộ ngành, địa phương hai bên cũng thường xuyên sang thăm, trao đổi và k‎ý kết nhiều văn kiện quan trọng góp phần thúc đẩy mối quan hệ giữa hai nước trên nhiều lĩnh vực kinh tế- chính trị –văn hoá. Đặc biệt mối quan hệ nhiều mặt được tăng cường từ sau chuyến thăm hữu nghị chính thức của Lãnh đạo cao nhất của hai nhà nước năm 1995. Qua đó, hai bên khẳng định lại mối quan hệ hữu nghị láng giềng thân thiện lâu dài của nhân dân hai nước dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và bình đẳng cùng có lợi. Tháng 2/1997, Hiệp định vận tải đường bộ được kí kết để tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hoá quá cảnh vào Việt Nam. Việt Nam cũng đã trợ giúp Campuchia về lương thực, hàng tiêu dùng, cung cấp chuyên gia, đào tạo cán bộ, cấp vốn xây dựng cho một số công trình của Campuchia. Hai nước đã thực hiện có hiệu quả sự hợp tác theo phương thức tài nguyên Cămpuchia + lao động và kĩ thuật của Việt Nam + vốn góp chung hoặc đi vay từ một nước thứ 3. Tháng 3/1998, Bộ thương mại Việt Nam và Bộ thương mại Campuchia đã kí Hiệp định thương mại giữa 2 nước theo đó chính phủ mỗi nước sẽ cho phép xuất khẩu những hàng hoá có thể xuất khẩu từ nước mình sang nước kia và tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhập khẩu những mặt hàng có thể nhập khẩu từ nước kia. Trong trường hợp áp dụng quy chế cấp giấy phép xuất nhập khẩu thì hai bên sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong việc cấp giấy phép xuất nhập khẩu theo quy định hiện hành của luật pháp mỗi nước cũng như là thông lệ quốc tế. Đặc biệt 2 nước đã nhất trí dành cho nhau quy chế tối huệ quốc trong buôn bán. Từ nay doanh nghiệp 2 nước được hưỏng ưu đãi về thuế quan và thủ tục hải quan. Đây chắc chắn là một động lực thúc đẩy quan hệ thương mại của hai nước phát triển mạnh mẽ. Ngoài ra có thể kể đến các sự kiện tiêu biểu khác như : chuyến thăm của Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu tháng 6/1999, Chủ tịch quốc hội Nông Đức Mạnh tháng 2/2000, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Duy Niên tháng 3/2000, Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tháng 8/2000, Bộ trưởng bộ Thương mại tháng 9/2000….tạo cho quan hệ hai nước gần nhau, hiểu biết thông cảm cho các khó khăn của nhau để cùng nhau tháo gỡ, do vậy cũng tạo nhiều điều kiện cho thương mại hai nước phát triển theo chiều hướng tốt. Hai nước đã xác định phương hướng cho quan hệ hai nước trong thế kỉ 21 là “Hợp tác láng giềng tốt đẹp, đoàn kết hữu nghị truyền thống, ổn định lâu dài”. Khi xu thế hoà bình, hợp tác, phát triển ngày càng gia tăng và trong bối cảnh Việt Nam và Campuchia đều là thành viên của ASEAN, cùng tham gia vào nhiều khuôn khổ hợp tác khu vực, chắc chắn hai nước sẽ có nhiều điều kiện để thúc đẩy hơn nữa mối quan hệ tốt đẹp vốn đã được nhiều thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước dày công vun đắp, trên cơ sở song phương cũng như trong khuôn khổ đa phương vì lợi ích của nhân dân hai nước và góp phần vào hoà bình, ổn định, hợp tác, phát triển, phồn vinh ở Đông Nam Á và trên thế giới. Về quan hệ Đảng, thì quan hệ giữa Đảng Cộng Sản Việt Nam và Đảng nhân dân Campuchia vốn có từ lâu và đã và đang được tăng cường mạnh mẽ. Qua các chuyến thăm và làm việc giữa lãnh đạo cấp cao của hai Đảng, chúng ta có thể hiểu rõ thiện chí và tình cảm trong sáng, thuỷ chung của Việt Nam với sự nghiệp của Đảng và nhân dân Campuchia; Lãnh đạo cấp cao hai Đảng thường xuyên có cuộc tiếp xúc và làm việc trực tiếp nhằm thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển, phù hợp với lợi ích của mỗi quốc gia, góp phần giữ vững hoà bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới. Sau thành công của Bầu cử Quốc hội tổ chức vào ngày 27.7.2003, hiện nay chính phủ liên hiệp Campuchia (liên hiệp giữa ba đảng) đã được thành lập do ông Hun-xen phó chủ tịch đảng Nhân dân Campuchia làm thủ tướng. Đây cũng là một nhân tố mới giúp cho quan hệ giữa hai nước Việt Nam – Campuchia tiếp tục ổn định và phát triển. Do vậy chúng ta cần tranh thủ thời kì êm đẹp giữa các đảng CPP, Puncinpec và Samrainsy, tranh thủ chính phủ liên hiệp CPC để giải quyết các vấn đề tồn tại, thúc đẩy quan hệ nhiều mặt, trong đó có quan hệ kinh tế, thương mại giữa hai nước. 1.2.2. Xu hướng thời đại Nếu như trước đây, chiến tranh là giải pháp hữu hiệu cho các cuộc xung đột giữa các quốc gia, các cường quốc có thể áp đặt ý chí của mình bằng vũ lực đối với các quốc gia nhỏ yếu hơn thì giờ đây các cường quốc nhận thức được rằng hoà bình, ổn định, đối thoại và hợp tác là con đường tốt nhất để giải quyết các xung đột và bất đồng giữa các quốc gia. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và lực lượng sản xuất trên quy mô toàn thế giới đã dẫn đến xu thế tất yếu của khu vực hoá và toàn cầu hoá. Trong bối cảnh này, một quốc gia muốn phát triển bền vững phải mở cửa buôn bán với tất cả các nước, hội nhập với thế giới bên ngoài để có thể phát huy được các lợi thế cạnh tranh trong nước và sức mạnh toàn dân tộc, đồng thời tận dụng được các ưu thế về công nghệ, vốn của thị trường bên ngoài. Đứng ngoài toàn cầu hoá và khu vực hoá nghĩa là tự mình cô lập, cấm vận mình, nguy cơ lạc hậu là không thể tránh khỏi. Những cản trở biên giới quốc gia về thương mại, đầu tư đang giảm dần. Đây chính là biểu hiện của xu hướng tự do hoá thương mại mà một loạt các nước đang tiến hành. Hiện nay, tại các nước công nghiệp phát triển, mức thuế trung bình thấp hơn 10% so với mức thuế lưu hành phổ biến trước những năm 1914 và các nước đang phát triển cũng đang dần dần từng bước cắt giảm hàng rào thuế quan của mình. Hầu hết các vòng đàm phán và các cuộc thương thuyế toàn cầu đều đưa ra thời hạn 2010 đối với các nước phát triển và 2020 với các nước đang phát triển cho việc tự do hoá thương mại hoàn toàn. Chính vì vậy, thương mại thế giới đã tăng lên nhanh chóng. Tự do hoá thương mại còn được thể hiện qua sự hình thành và củng cố của các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực. Hơn lúc nào hết, khẩu hiệu “buôn có bạn, bán có phường” trở thành thách thức với mỗi quốc gia. Chính vì thế ngày càng nhiều các quốc gia lớn nhỏ tham gia vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực hoạt động khác. Dưới tác động của xu hướng này, nhiều tổ chức kinh tế, thương mại toàn cầu và tổ chức liên kết khu vực đã ra đời trong đó đáng chú ý là WTO với 151 thành viên chiếm hơn 95% tổng giá trị thương mại quốc tế; APEC với 21 thành viên chiếm tới 56% GDP và 46% thương mại thế giới; các liên kết khu vực như ASEAN, AFTA, NAFTA và nhiều tam giác, tứ giác phát triển. Tự do hoá thương mại đã và đang mang lại những lợi ích to lớn và những cơ hội chưa từng có cho các quốc gia bao gồm từ việc mở rộng thị trường, tăng thêm nguồn vốn, có thêm công nghệ mới đến việc có các cơ hội mở rộng, giao lưu học hỏi kinh nghiệm phát triển kinh tế. Tuy nhiên, lịch sử đã chứng minh rằng, quá trình toàn cầu hoá vốn có tính hai mặt. Một mặt nó làm cho các nền kinh tế các nước phải phụ thuộc lẫn nhau. Mặt khác, nó tăng cường tính cạnh tranh giữa các nước. Nền kinh tế thị trường vốn đã là nền kinh tế của cạnh tranh, song quá trình toàn cầu hoá càng đẩy sự khốc liệt của cạnh tranh lên một mức cao hơn. Đó là khi hàng rào thương mại và đầu tư bị xoá bỏ, hàng hoá sẽ dễ dàng lưu thông từ nước này sang nước khác. Khi đó, cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa một nước với một nước hoặc một nhóm nước mà là với toàn thế giới gồm cả các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển. Quá trình cạnh tranh này buộc tất cả các công ty trong nước phải phấn đấu hết mình, phải có các chính sách đúng đắn để tồn tại và phát triển nếu không thì tình trạng phá sản, dẫn tới thất nghiệp gia tăng, gây bất ổn định xã hội là điều không tránh khỏi. Đồng thời, thị trường trong nước sẽ do các công ty tập đoàn nước ngoài kiểm soát và thao túng. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận một điều là các nước đang phát triển bao giờ cũng ở vị trí yếu hơn so với các nước phát triển trong quá trình cạnh tranh toàn cầu này. Do đó tất cả các nước, đặc biệt những nước đang phát triển phải tuỳ thuộc điều kiện hoàn cảnh của mình mà điều chỉnh chính sách sao cho vừa phù hợp với xu thế toàn cầu hoá vừa không làm tổn hại đến nền kinh tế của mình. Bên cạnh những vấn đề về kinh tế, cộng đồng thế giới đang đứng trước những vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu (bảo vệ môi trường, hạn chế sự bùng nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo..) mà không phải một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết được, đòi hỏi phải có sự hợp tác đa phương. Tóm lại, xu hướng toàn cầu hoá đang phát triển như là một xu hướng tất yếu của thế kỉ 21 và là một nhân tố quan trọng đối với sự tiến bộ của xã hội loài người. Chắc chắn rằng, quan hệ thương mại Việt Nam-Campuchia không nằm ngoài xu hướng đó. 1.2.3. Chính sách đối ngoại của hai nước 1.2.3.1. Chính sách đối ngoại của Việt Nam Nhận rõ xu thế trên, Việt Nam đã đề ra chủ trương hội nhập và kiên trì thực hiện chủ trương đó. Trong công cuộc đổi mới của Việt Nam, Đại hội VII (1991), Hội nghị Trung Ương 3 (khoá VII) và Đại hội VIII (1996) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã liên tiếp đề ra và phát triển đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá với phương châm “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đầu vì hoà bình, độc lập và phát triển” nhằm mục tiêu giữ vững hoà bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Từ năm 1991 đến nay, hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam diễn ra cùng một lúc trên bốn mặt: Một là, tạo dựng và củng cố môi trường hoà bình, ổn định cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc củng cố và thúc đẩy các mối quan hệ song phương, nhất là với các nước láng giềng và các nước trong khu vực có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với việc thực hiện nhiệm vụ quan trọng này. Nhận thức rõ điều đó, hoạt động đối ngoại đã tập trung giải quyết vấn đề Campuchia và bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc Từ đầu những năm 90, Việt Nam đã khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế, tiếp đó năm 1995 chính thức gia nhập ASEAN và tham gia AFTA. Năm 1996, Việt Nam tham gia diễn đàn hợp tác Á-Âu (ASEM) với tư cách là thành viên sáng lập và năm 1998 trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC). Việt Nam cũng đã đàm phán và ký kết Hiệp định Thương mại với Mỹ, Hiệp định khung với EU và đang đàm phán về việc gia nhập WTO. Những hoạt động đó đã góp phần phá vỡ thế bị bao vây, cô lập, tạo môi trường hoà bình, ổn định và thuận lợi hơn cho sự nghiệp xây dựng đất nước, đưa Việt Nam hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế. Hai là, tận dụng những điều kiện quốc tế thuận lợi góp phần vào công cuộc phát triển đất nước, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế. Đây là một nhiệm vụ quan trọng của công cuộc đổi mới và chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, Việt Nam đã làm thất bại chính sách bao vây cấm vận của Mỹ và đồng minh, mở rộng và đa dạng hoá thị trường, thúc đẩy quan hệ thương mại song phương với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, đón nhận nguồn đầu tư khoảng 98 tỷ USD của hơn 80 nước và lãnh thổ, thu hút hơn 16 tỷ USD từ nguồn viện trợ ưu đãi chính thức của các chính phủ và các tổ chức quốc tế và hàng tỷ USD viện trợ không hoàn lại của nhiều chính phủ và các tổ chức quốc tế thuộc hệ thống Liên hợp quốc và các tổ chức phi chính phủ. Việc tạo dựng môi trường quốc tế hoà bình, tăng cường hợp tác, mở rộng thị trường, thu hút vốn, công nghệ phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước cũng là sự đóng góp trực tiếp và thiết thực cho yêu cầu bảo đảm an ninh. Ba là, nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 167 nước thuộc tất cả các châu lục và lần đầu tiên trong lịch sử có quan hệ bình thường với tất cả các nước lớn, các uỷ viên thường trực của Hội đồng Bảo An Liên hợp quốc. Việt Nam đã hoạt động tích cực với vai trò ngày càng cao tại Liên hợp quốc (Uỷ viên ECOSOC, uỷ viên Hội đồng chấp hành UNDP, UNFPA và UPU), phát huy vai trò thành viên tích cực của phong trào không liên kết, Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp, ASEAN. Bốn là, chủ động tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Các hoạt động đối ngoại phong phú, đa dạng cả theo đường Đảng lẫn Nhà nước và các hoạt động quốc tế nhân dân đã góp phần duy trì và củng cố quan hệ đoàn kết, hữu nghị với các đảng phái chính trị, trước hết là các Đảng cộng sản và công nhân, các tổ chức tiến bộ đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, từ đó tranh thủ sự hỗ trợ về chính trị có lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Bước vào thế kỉ 21, Việt Nam tiếp tục kiên trì đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế theo phương châm “Việt Nam muốn là bạn và là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.” Việt Nam sẽ chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái. 1.2.3.2. Chính sách đối ngoại của Cămpuchia Lần đầu tiên trong lịch sử, Campuchia đứng ở ngưỡng cửa của giai đoạn chuyển đổi sang một giai đoạn phát triển kinh tế bền vững mà sẽ giúp đất nước dần dần xoá bỏ tỉ lệ đói nghèo. Hoà bình, ổn định và an ninh trong toàn đất nước và cho tất cả người dân là những điều kiện tiên quyết quan trọng nhất cho phát triển bền vững. Chính phủ hoàng gia cam kết mạnh mẽ tăng cường sự ổn định chính trị, an ninh và trật tự xã hội để tạo lập một môi trường an toàn và ổn định cho nhân dân và cải thiện niềm tin của cộng đồng quốc tế. Đây là mặt thứ nhất của chiến lược tam giác của chính phủ Campuchia. Mặt thứ hai của chiến lược đó là hoà nhập Cămpuchia vào khu vực và bình thường hoá quan hệ với cộng đồng quốc tế. Sau sự ra đời của Chính phủ mới, Campuchia đã thành công trong việc giành được một ghế tại Liên hợp quốc, trở thành thành viên thứ mười của ASEAN. Campuchia kiên quyết đi theo đường lối trung lập không liên kết. Thiết lập mối quan hệ hữu nghị với tất cả các Nhà nước có thiện chí trên toàn thế giới. Đất nước thực hiện chính sách hiểu biết lẫn nhau, bình đẳng, tôn trọng và không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác. Campuchia sẽ đẩy mạnh quan hệ hữu nghị song phương với các nước láng giềng. Những vấn đề về biên giới sẽ được giải quyết thông qua thương lượng đàm phán và các biện pháp hoà bình. Campuchia sẽ thiết lập mối hữu hảo song phương và đa phương với các nước trong khu vực, đặc biệt là các thành viên của ASEAN. Campuchia muốn góp phần xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực hoà bình, ổn định và thịnh vượng. Với tư cách là một thành viên tích cực của ASEAN, Campuchia sẽ tuân thủ mọi nguyên tắc thoả thuận trong tổ chức. Các quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế và những tổ chức quốc tế khác đã được bình thường hoá và sự kiện gần đây nhất là việc Campuchia gia nhập WTO vào ngày 24/7/2003. Mặt thứ ba là đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội. Chính phủ nhận thấy rằng để đạt được sự phát triển kinh tế-xã hội bền vững, điều đó không chỉ phụ thuộc vào việc thi hành các chính sách cải cách một cách hiệu quả, mà còn phụ thuộc vào tiến trình đưa đất nước lên một mức tăng trưởng kinh tế cao. Vì thế, Campuchia đã thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại rộng mở phù hợp với xu thế tự do hoá của thương mại quốc tế, và việc hội nhập nền kinh tế quốc dân vào nền kinh tế thế giới. Thông qua chính sách này, Campuchia tự chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận và cạnh tranh trong khu vực và toàn cầu tiến trình quốc tế hoá về mặt kinh tế. Cho đến nay, Campuchia đã là thành viên của các thể chế hợp tác kinh tế: WTO, AFTA, GMS, AMBDC, hợp tác Tam giác phát triển Việt Nam-Lào-Campuchia, Khu vực tự do thương mại Việt Nam-ASEAN-Trung Quốc, ACD, Diễn đàn hợp tác sông Hằng-sông Mêkông Có thể thấy chính sách đối ngoại của Cămpuchia hoàn toàn tương đồng, phù hợp với chính sách đối ngoại của Việt Nam. Đó là nhân tố cơ bản để quan hệ hai nước Việt Nam-Campuchia vừa qua có bước phát triển mới, lòng tin được củng cố. Tuy nhiên, vấn đề biên giới và Việt kiều vẫn là những vấn đề tồn tại, nhạy cảm trong quan hệ hai nước và cũng là những vấn đề mà các thế lực thù địch ở Cămpuchia lợi dụng để vu cáo Việt Nam, kích động gây chia rẽ, hận thù giữa hai dân tộc, phục vụ cho mưu đồ chính trị xấu xa của chúng vì thế cả hai nhà nước cần phải tỉnh táo để có những đối sách có lợi cho môi quan hệ song phương nhiều mặt. Trong bối cảnh khu vực và quốc tế hiện nay, hai nước đều đứng trước những thời cơ lớn và thách thức gắt gao. Đẩy nhanh quan hệ hợp tác, vượt qua khó khăn đưa đất nước vững bước đi lên trong quá trình phát triển hội nhập với khu vực và thế giới là điều có ý nghĩa quan trọng trước mắt cũng như lâu dài đối với nhân dân hai nước. Tính đến nay, Bộ Công thương Việt Nam và Bộ Thương nghiệp Cămpuchia đã ký các văn bản quan trọng sau cho hợp tác phát triển thương mại: Hiệp định Thương mại (1998) Hiệp định vận chuyển hàng hoá quá cảnh (2000) Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư (26/11/2001) Hiệp định mua bán trao đổi hàng hoá và dịch vụ thương mại tại khu vực biên giới giữa hai nước (26/11/2001) Biên bản cuộc họp lần thứ hai về chống buôn lậu và vận chuyển hàng hoá trái phép qua biên giới tháng 8/2002. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ CĂMPUCHIA TRONG THỜI GIAN QUA 2.1. Giới thiệu chung của hai nước 2.1.1. Giới thiệu chung về Việt Nam Việt Nam, tên đầy đủ là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, là một quốc gia nằm phía đông của bán đảo Đông Dương, thuộc khu vực Đông Nam Á. Lãnh thổ Việt Nam tiếp giáp với nước Trung Quốc ở phía Bắc, nước Lào và nước Campuchia ở phía Tây, vịnh Thái Lan ở phía Tây Nam và biển Đông ở phía Đông và phía Nam. Việt Nam có diện tích 331.688 km², bao gồm khoảng 327.480 km² đất liền và hơn 4.200 km² biển nội thuỷ, hơn 4.000 hòn đảo, gần và xa bờ, có vùng nội thuỷ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được Chính phủ Việt Nam xác định gần gấp ba lần diện tích đất liền (khoảng trên 1 triệu km2). Địa thế có những đồi và những núi đầy rừng, trong khi đất phẳng che phủ khoảng ít hơn 20%. Núi rừng chiếm độ 40%, đồi 40%, và độ che phủ khoảng 75%. Miền Bắc gồm có cao nguyên và vùng châu thổ sông Hồng; miền Trung là phần đất thấp ven biển, những cao nguyên theo dãy Trường Sơn, và miền Nam là vùng châu thổ Cửu Long. Điểm cao nhất Việt Nam là 3.143 mét, tại đỉnh Phan Xi Păng, thuộc dãy núi Hoàng Liên Sơn. Diện tích đất canh tác chiếm 17% tổng diện tích đất Việt Nam. Trên biển Đông có quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa mà Việt Nam khẳng định chủ quyền nhưng một số nước láng giềng khác cũng khẳng định chủ quyền toàn bộ hay từng phần các quần đảo này. Việt Nam có biên giới đất liền với Trung Quốc (1.281 km), Lào (2.130 km) và Cămpuchia (1.228 km) và bờ biển dài 3.444 km tiếp giáp với vịnh Bắc Bộ, biển Đông và vịnh Thái Lan. Về khí hậu: Việt Nam có bốn miền khí hậu chủ yếu, bao gồm: miền khí hậu phía Bắc, miền khí hậu phía Nam, miền khí hậu Trung và Nam Trung Bộ, và miền khí hậu biển Đông. Miền khí hậu phía Bắc bao gồm phần lãnh thổ phía Bắc dãy Hoàng Liên Sơn. Miền này có khí hậu nhiệt đới gió mùa với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông rõ rệt. Tuy nhiên, miền khí hậu này có đặc điểm là mất ổn định với thời gian bắt đầu-kết thúc các mùa và về nhiệt độ. Miền khí hậu phía Nam gồm phần lãnh thổ thuộc Tây Nguyên và Nam Bộ. Miền này có khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình với hai mùa: mùa khô và mùa mưa (từ tháng 4-5 đến tháng 10-11). Quanh năm, nhiệt độ của miền này cao. Khí hậu miền này ít biến động nhiều trong năm. Miền khí hậu Trung và Nam Trung Bộ gồm phần lãnh thổ phía Đông dãy Trường Sơn, kéo dài từ phía Nam dãy Hoàng Liên Sơn tới Phan Thiết. Đây là miền khí hậu chuyển tiếp giữa hai miền khí hậu nói trên. Miền này lại có thể chia làm hai vùng. Miền khí hậu biển Đông Biển Đông Việt Nam mang đặc tính hải dương và tương đối đồng nhất. Về dân số, ngôn ngữ và tôn giáo: Theo thống kê năm 2006 tỷ lệ dân số là 84.115,8 nghìn người. Có 54 dân tộc, trong đó có 53 dân tộc thiểu số, chiếm khoảng 13% tổng số dân của cả nước. Dân tộc Việt (còn gọi là người Kinh) chiếm gần 87%, tập trung ở những miền châu thổ và đồng bằng ven biển. Ngôn ngữ quốc gia của Việt Nam là ngôn ngữ Tiếng Việt. Tôn giáo ở Việt Nam gồm: Phật giáo đại thừa, Khổng giáo, và Đạo giáo (được gọi là tam giáo). Có một số nhóm tín đồ nhỏ thuộc các giáo phái khác như Cơ đốc giáo La Mã, Cao Đài, và Hoà Hảo. Những nhóm tôn giáo có ít tín đồ hơn khác gồm Tin lành, Hồi giáo, và Phật giáo tiểu thừa. Đa số người dân Việt Nam tự coi mình là không theo tôn giáo, mặc dù họ vẫn đến các đền chùa tôn giáo mỗi năm vài lần. Thái độ và cách ứng xử hàng ngày của họ là kết quả của sự tổng họp các triết lý có nguồn gốc từ nhiều tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo Đại thừa, Khổng giáo và Đạo giáo. Các tôn giáo này đã cùng tồn tại trên đất nước Việt Nam trong nhiều thế kỉ và đã hòa trộn một cách hoàn hảo với tục thờ cúng tổ tiên, thờ cúng các anh hùng dân tộc của người Việt. Sự hòa trộn đặc biệt này giải thích tại sao người dân Việt Nam khó có thể xác định chính xác mình thuộc về tôn giáo nào. 2.1.1.1.Chính trị Thể chế chính trị và đối nội Việt Nam là một nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa. Từ thập niên 1970, hệ thống chính trị đó thực hiện theo cơ chế chỉ có duy nhất một đảng phái chính trị lãnh đạo (là Đảng Cộng sản Việt Nam), Chính phủ Việt Nam quản lý và nhân dân làm chủ thông qua cơ quan quyền lực là Quốc hội Việt Nam. Trên thực tế những người dẫn đầu Chính Phủ và Quốc Hội đều là đảng viên kỳ cựu và được giới thiệu bởi Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội theo điều 4 trong Hiến pháp Việt Nam. Người đứng đầu là Tổng bí thư. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Nhiệm vụ của Quốc hội là giám sát, quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, các nhiệm vụ kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, những nguyên tắc chủ yếu của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Nhiệm kỳ Quốc hội là 5 năm. Chủ tịch Quốc hội được Quốc hội bầu do đề cử của Bộ Chính trị. Chủ tịch Quốc hội hiện nay là Ông Nguyễn Phú Trọng. Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước được Quốc hội bầu do Chủ tịch Quốc hội giới thiệu từ đề cử của Bộ Chính trị. Chủ tịch nước có 12 quyền hạn theo Hiến pháp trong đó quan trọng nhất là: công bố hiến pháp, luật, pháp lệnh, thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh, đề nghị Quốc hội bầu hoặc miễn nhiệm Phó chủ tịch nước, Thủ tướng, Chánh án Toà án tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao. Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước là 5 năm. Không có quy định giới hạn số nhiệm kỳ được làm Chủ tịch nước. Chủ tịch nước hiện nay là ông Nguyễn Minh Triết Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ chịu sự giám sát và thực hiện chế độ báo cáo công tác trước Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Nhiệm kỳ Chính phủ là 5 năm. Chính phủ gồm có Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ. Đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng Chính phủ do Chủ tịch nước giới thiệu từ đề cử của Bộ Chính trị để Quốc hội bầu. Không có quy định giới hạn số nhiệm kỳ được làm Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ hiện nay là Ông Nguyễn Tấn Dũng. Các Phó Thủ tướng do Thủ tướng đề nghị Quốc hội phê chuẩn, là người giúp việc cho Thủ tướng và được Thủ tướng ủy nhiệm khi Thủ tướng vắng mặt. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ do Thủ tướng đề nghị Quốc hội phê chuẩn, đảm nhiệm chức năng quản lý Nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác được giao. Việc tổ chức nhân sự cấp cao này đều thông qua Bộ Chính trị và các viên chức này đều do Trung ương Đảng quản lý. Chính phủ Việt Nam có 20 bộ và 6 cơ quan ngang bộ. Chính phủ còn quản lý 13 cơ quan trực thuộc như Ban Tôn giáo Chính phủ, Ban Cơ yếu Chính phủ, Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Tổng cục Du lịch và Tổng cục Thống kê. Những vị lãnh đạo đất nước như Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội, cũng như các bộ trưởng hay các vị trí quản lý chủ chốt trong bộ máy Nhà nước và Chính phủ đều do đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đảm nhiệm dù rằng Hiến pháp không qui định. Đối ngoại Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam chủ trương thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm "Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển". Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 168 quốc gia thuộc tất cả các châu lục, bao gồm tất cả các nước và trung tâm chính trị lớn của thế giới. Việt Nam cũng là thành viên của 63 tổ chức quốc tế và có quan hệ với hơn 500 tổ chức phi chính phủ. Đồng thời, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 165 nước và vùng lãnh thổ. Trong tổ chức Liên Hiệp Quốc, Việt Nam đóng vai trò là ủy viên ECOSOC, ủy viên Hội đồng chấp hành UNDP, UNFPA và UPU. Vai trò đối ngoại của Việt Nam trong đời sống chính trị quốc tế đó được thể hiện thông qua việc tổ chức thành công Hội nghị Thượng đỉnh Cộng đồng Pháp ngữ (La Francophonie) năm 1997, Hội nghị cấp cao ASEAN năm 1998, Hội thảo quốc tế về hợp tác và phát triển Việt Nam và Châu Phi năm 2003, Hội nghị cấp cao ASEM-5 năm 2004 Năm 2006, Việt Nam đăng cai tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh APEC vào tháng 11. Ngày 27 tháng 10 năm 2006, nhóm các nước châu Á tại Liên Hiệp Quốc đó nhất trí thông qua quyết định đề cử Việt Nam là ứng cử viên duy nhất cho ghế thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc dành cho Châu Á nhiệm kỳ 2008-2009. Từ ngày 11 tháng 1 năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức Thưong mại thế giới (WTO). Đây là một bước ngoặc lớn trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. 2.1.1.2. Kinh tế Việt Nam là một quốc gia nghèo và đang dần phát triển sau sự tàn phá của chiến tranh, sự mất mát viện trợ tài chính từ khối các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, và sự yếu kém của nền kinh tế tập trung. Chính sách Đổi Mới năm 1986 thiết lập nền "kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Sau hơn 20 năm, với chính sách đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có một bước chuyển đổi cơ bản từ một nền kinh tế tập trung thành một nền kinh tế thị trường đầy đủ. Trong suốt thời kỳ này, nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh. Mặc dù Việt Nam vẫn còn một khoảng cách khá xa so với các nước giàu có, song với sự điều hành hợp lý của chính phủ Việt Nam, đầu tư nước ngoài ngày càng tăng, và các yếu tố thuận lợi khác trong nước đang giúp cho nền kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển và đất nước trở lên giàu hơn. Thành tựu nổi bật nhất là Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao trong nhiều năm liên tục (đứng thứ hai châu Á). Trong những năm qua nền kinh tế Việt Nam tăng lên một cách tương đối chẳng hạn năm 2000 tốc độ tăng trưởng GDP là 6,79%, năm 2001 là 6,90%, năm 2002 là 7,08%, năm 2003 là 7,34%, năm 2004 là 7,79% và tăng lên nhanh năm 2005 là 8,44% và năm 2006 lại giảm còn 8,17% đến năm 2007 tăng lên 8,48%. (Bảng 2.1) Bảng 2.1: Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Năm (2002-2007) Chỉ tiêu 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tăng trưởng GDP(%) 7,08 7,34 7,79 8,44 8,17 8,48 Trong đó: Khu vực nông,lâm,ngư nghiệp(%) 5,0 4,9 4,4 4,0 3,4 3,5 Khu vực công nghiệp và xây dựng(%) 14,4 10,3 10,2 10,6 10,3 10,6 Khu vực dịch vụ (%) 6,7 7,3 7,3 8,5 8,2 8,7 (Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư ) Biểu đồ 2.1: Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Năm (2000-2007) Về nông, lâm, ngư nghiệp: Việt Nam là nước nông nghiệp sản phẩm chủ yếu là gạo, ngô, khoai tây, cao su, đỗ tương, cà phê, chè, chuối, gà, lợn, cá. Giá trị giá tăng của ngành nông nghiệp là 3,5% (GDP) năm 2007 cao hơn năm 2006 là 3,4% (GDP) và thấp hơn so với năm 2004 và 2005. Do sự phát triển của ngành nông nghiệp gặp nhiều khó khăn về thiên tai và dịch họa (dịch lở mồm long móng, dịch cúm gà, dịch rầy và vàng lùn xoắn lá, bão lũ lớn…) Về công nghiệp và xây dựng: Việt Nam đã tìm cách tăng cường sản lượng sản phẩm công nghiệp. Giá trị giá ._.khu công nghiệp và các vùng chưa có điện lưới. Bộ Công nghiệp và năng lượng Cămpuchia đã chuẩn bị một dự án phát triển năng lượng chi tiết bao gồm việc xây dựng một số nhà máy nhiệt điện. Cũng như các lĩnh vực cho sự phát triển cơ sở hạ tầng, Chính phủ Cămpuchia không có ngân sách để thực hiện, nhưng các nhà đầu tư có thể tìm kiếm trong trang web của Ngân hàng thế giới và Ngân hàng phát triển châu Á để tìm kiếm những dự án mới về ngành điện. Chính phủ Cămpuchia cam kết có trách nhiệm đối với sự sở hữu cả nhân và tài chính của các nhà máy năng lượng. Tuy nhiên việc được Chính phủ chấp nhận đối với các dự án này đang có nhiều khó khăn. 3.1.2.2. Các mặt hàng đang có triển vọng cho các doanh nghiệp Việt Nam - Xăng dầu các loại Xăng dầu các loại nhập vào Cămpuchia theo hình thức chủ yếu là quá cảnh và tạm nhập, tái xuất, thanh toán trả chậm cho các công ty Việt Nam. Đây là mặt hàng có giá trị lớn để tăng kim ngạch nhưng đối với các mặt hàng này các công ty ở Cămpuchia còn nợ rất nhiều các công ty Việt Nam. Thời gian tới, cần chấn chỉnh, xem xét kĩ các đầu mối được cấp quota cũng như tạm nhập tái xuất… tránh để các doanh nghiệp lợi dụng trốn thuế, gian lận thương mại, rút ruột hàng triệu USD bán tại Việt Nam hoặc bị các doanh nghiệp Cămpuchia lợi dụng vốn, không thanh toán… - Nguyên phụ liệu cho dệt may Nguyên phụ liệu cho dệt may chiếm khoảng từ 600-650 triệu USD trong tổng nhập khẩu của Cămpuchia mà Cămpuchia hoàn toàn phải nhập vì chưa sản xuất được. Hiện nay, các công ty Việt Nam đã xuất sang Cămpuchia một số nguyên phụ liệu như tấm bông PE, các loại Mex, phéc-mơ-tuya và khuy nút nhựa, chỉ thêu, chỉ khêu. Ngoài ra, các sản phẩm mà Việt Nam cũng sản xuất được như chăn, màn, gối, và hàng may mặc cũng có thể xuất sang thị trường này. Năm 2005, Cămpuchia đã nhập từ Việt Nam 0,3 triệu USD các sản phẩm nguyên phụ liệu và dệt may. Tuy nhiên, hàng dệt may của Việt Nam hiện đang phải cạnh tranh với hàng của Thái Lan và Trung Quốc. - Nhóm hàng hải sản Khá nhiều loại hải sản và sản phẩm nước mắm của Việt nam rất được Cămpuchia ưa chuộng. Năm 2004, ta cũng xuất được 16 triệu USD và đến năm 2005 lại giảm còn 8 triệu USD. - Gạo Năm 2004, gạo của Việt Nam xuất sang Cămpuchia đạt gần 0,4 triệu USD, chủ yếu là cung cấp cho các tỉnh biên giới. Đối thủ cạnh tranh chủ yếu là gạo Thái Lan. - Nhóm hàng công nghệ cao Mặc dù nhóm hàng điện máy và công nghiệp với công nghệ cao là độc quyền của các công ty lớn, nổi tiếng thuộc các nước phát triển như Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc..nhưng Việt Nam đã có hai mặt hàng chen chân được vào thị trường Cămpuchia là dây điện, cáp điện. Năm 2005, Việt nam đã xuất khẩu hai mặt hàng này sang Cămpuchia được 5,1 triệu USD.. Những mặt hàng này còn hứa hẹn nhiều tiềm năng khai thác. 3.1.3. Mục tiêu xuất nhập khẩu giữa Việt Nam- Cămpuchia 3.1 3.1. Mục tiêu kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Cămpuchia Theo số liệu của Bộ Công thương Việt Nam, mục tiêu kim ngạch và các mặt hàng xuất nhập khẩu giữa hai nước Việt nam – Cămpuchia năm 2010 và 2015 như sau ( Bảng 3.1): Bảng 3.1: Mục tiêu kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Cămpuchia Năm Xuất khẩu Nhập khẩu Tổng 2007 711,5Triệu USD 218,5 Triệu USD 932 Triệu USD Dự kiến 2010 1,9 Tỷ USD 550 Triệu USD 2,45 Tỷ USD Dự kiến 2015 6,3 Tỷ USD 1,3 Tỷ USD 7,6 Tỷ USD (Nguồn: Theo Bộ Công thương vừa đưa ra dự thảo Đề án Phát triển thương mại với Cămpuchia giai đoạn 2007-2015, trong đó đề ra định hướng từ nay đến năm 2010, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giữa hai nước tăng khoảng 27%/năm. Dự kiến đến năm 2010, kim ngạch đạt khoảng 2,45 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất sang Cămpuchia khoảng 1,9 tỷ USD và nhập khẩu từ Campuchia khoảng 550 triệu USD. Giai đoạn 2011-2015, kim ngạch tăng trung bình 25%, đến năm 2015 kim ngạch giữa hai nước đạt 7,6 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu sang Cămpuchia khoảng 6,3 tỷ USD và nhập khẩu từ Cămpuchia khoảng 1,3 tỷ USD. 3.1.3.2. Các mặt hàng xuất nhập khẩu Việt Nam - Cămpuchia Bảng 3.2: Việt Nam nhập khẩu từ Cămpuchia năm 2005 và 2010: (Đơn vị: triệu USD) TT Loại hàng 2005 2010 1 Cao su 30 50 2 Gỗ chế biến 5 7 3 Nông sản 3 7 4 Thiết bị phụ tùng 4 6 5 May mặc, phụ liệu 1 1,5 6 Thuốc lá 0,7 1 7 Điện tử 0,3 0.6 8 Hải sản 0,2 0.5 ( Nguồn: Bộ Công thương) Các mặt hàng gỗ, cao su, nông sản là mặt hàng tái nhập, tái xuất. Việt Nam biến sản phẩm nhập về thành nguyên liệu để tái sản xuất mặt hàng có mẫu mã đa dạng hơn, chất lượng cao hơn để có thể tái xuất lại cho Cămpuchia, hoặc xuất khẩu sang thị trường khác. Bảng 3.3: Việt Nam xuất khẩu sang Cămpuchia giai đoạn 2005 và 2010 (Đơn vị: triệu USD) TT Loại hàng 2005 2010 1 Xăng dầu 100 200 2 Vật liệu xây dựng 8 20 3 Sắt thép 6 15 4 Hải sản 10 15 5 Phân  bón 5 10 6 Nông sản 6 9 7 Rau hoa quả 4 8 8 Nhựa và SP 4 7 9 Xà phòng 4 6 10 Giầy dép 2 4 11 Tân dược 1.5 3 ( Nguồn: Bộ Công thương) Như đã phân tích các mặt hàng xuất khẩu có triển vọng ở mục trên đây, các mặt hàng trong bảng số trên này đều có thế mạnh và ưu thế, có thể cạnh tranh ngang ngửa với hàng của nước khác trên thị trường Cămpuchia. Việt Nam tập trung các mặt hàng nông sản, hải sản, hàng tiêu dùng, thuốc tên dược và đặc biệt là xăng dầu, mặt hàng mà ta đang chiếm ưu thế trên thị trường Cămpuchia. 3.2. Các giải pháp thúc đẩy quan hệ thương mại giữa Việt Nam-Campuchia 3.2.1. Tăng cường hợp tác giữa các cơ quan chức năng của hai nước Bộ Thương mại cho rằng, trong thời gian tới đây, cần củng cố và tăng cường quan hệ kinh tế thương mại cấp nhà nước giữa hai bên. Theo đó, thường xuyên có sự trao đổi hợp tác trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong thương mại. Về tài chính, ngân hàng, thuế, hải quan, biên phòng, cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý với Cămpuchia, tạo điều kiện thông thoáng và có lợi nhất cho các doanh nghiệp trao đổi buôn bán qua biên giới hai nước. Chẳng hạn như sớm thiết lập các tổ chức tín dụng trung gian thay mặt chủ thể nhận hàng để thanh toán cho các nhà cung ứng của Việt nam; tăng cường quan hệ hợp tác giữa các tỉnh có chung biên giới, các huyện - xã giáp biên; tăng cường vai trò và hoạt động của Tiểu ban Hợp tác thương mại trong khuôn khổ ủy ban hợp tác liên Chính phủ giữa hai nước, qua đây thiết lập cơ chế trao đổi định kỳ giữa hai Bộ Thương mại để giải quyết những vướng mắc cũng như bàn biện pháp thúc đẩy quan hệ thương mại song phương. Hiện thuế nhập khẩu của Cămpuchia còn quá cao, Việt Nam có thể đề nghị Campuchia cùng dành những ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu, vì như cơ chế giảm 50% thuế nhập khẩu như Việt Nam áp dụng với Lào. Điều này có lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam, vì trong các năm qua Việt Nam thường xuất siêu sang thị trường Campuchia. Cần cải tiến thủ tục hải quan và xuất nhập cảnh qua lại biên giới để tạo điều kiện thuận lợi cho Doanh nghiệp hai nước tăng cường buôn bán. Cũng cần nghiên cứu cho pháp doanh nghiệp xuất khẩu vào thị trường Campuchia được hưởng hoàn thuế VAT, đồng thời tránh hiện tượng "xuất khống" để hoàn thuế. Có thể áp dụng cho vay ưu đãi cho doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu sang Campuchia nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường này. Phía Việt Nam cũng có thể hợp tác và thúc đẩy phía Cămpuchia trong việc nâng cao năng lực vận chuyển bên bạn vì hiện nay đường sá dọc tuyến biên giới của Cămpuchia cũng xuống cấp nghiêm trọng, gây ảnh hưởng đến vận chuyển hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này và ngược lại. Cần nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu kinh tế cửa khẩu, tăng cường mở rộng các dịch vụ trong các khu kinh tế cửa khẩu và đầu tư nhiều hơn cho hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng trung tâm thương mại Việt Nam tại Phnompenh. Triển khai thoả thuận xúc tiến thương mại của hai Bộ Thương mại và thoả thuận của phòng thương mại hai nước, làm cơ sở cho việc thúc đẩy giao lưu hàng hoá, giới thiệu sản phẩm vào thị trường, tạo chỗ đứng cho doanh nghiệp hai nước. Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại như khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam sang dự các cuộc triển lãm-hội chợ tại Campuchia và ngược lại. Hai bên cần tổ chức hỗ trợ và thông tin, tiếp thị, cả kể việc tổ chức các cửa hàng bán hàng để thăm dò thị hiếu. Trong khi đợi các chính sách thông thoáng hơn thì nên có sự liên kết giữa phía Việt Nam và phía Campuchia để hình thành một đại lí phân phối liên quốc gia. Có vậy các doanh nghiệp mới bớt cảnh đơn phương độc mã khi phải len lỏi một mình qua biên giới. Campuchia chỉ có 14,4 triệu dân nhưng là một thị trường khá hấp dẫn. Vấn đề quyết định của việc mua bán không chỉ là chất lượng hay giá thành sản phẩm mà còn là quảng bá thương hiệu. Hiện nay, hàng hoá của Thái Lan hay Trung Quốc khi tràn qua Campuchia thường đi đôi với những chương trình quảng bá sản phẩm rầm rộ bằng nhiều hình thức. Đây cũng là điểm yếu của hàng Việt Nam. 3.2.2. Đẩy mạnh hơn nữa hợp tác giữa các doanh nghiệp tư nhân với nhau Nhằm thực hiện tốt các mục tiêu kim ngạch nêu trên, cần có chính sách thông thoáng, phù hợp cho các doanh nghiệp Việt Nam cụ thể là: Được hưởng chính sách khuyến khích xuất khẩu, nhập khẩu đối với thị trường Cămpuchia như được miễn hoặc giảm thuế VAT, thuế nhập khẩu tuỳ từng loại hàng. Có chế độ chính sách khuyến khích để tiếp cận thương nhân, nhất là đối với các loại hàng và hợp đồng có trị giá xuất khẩu cao. Giảm lãi suất vay vốn cho kinh doanh loại hàng, đặc biệt cho các tỉnh biên giới Cămpuchia và cũng không nên so sánh chúng với biên giới Lào, Trung Quốc vì mỗi nước có đặc điểm riêng khác nhau. Tạo thuận lợi về thủ tục xuất, nhập khẩu cho doanh nghiệp và hàng hóa qua biên giới. Cho các phương tiện vận tải hai nước được qua lại thuận lợi để công tác và vận chuyển hàng hoá, nhằm giảm chi phí trung gian không cần thiết. Tập trung giải quyết các khó khăn, trở ngại để tổ chức được các triển lãm, hội chợ giới thiệu sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam tại Campuchia càng nhiều càng tốt. Bên cạnh đó, để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Campuchia, Chính phủ Việt Nam cần sớm xúc tiến việc đàm phán để sớm ký kết Hiệp định Thanh toán với Campuchia, thực hiện hoàn thuế giá trị gia tăng cho hàng xuất khẩu sang thị trường này. Ưu đãi thuế suất của hàng Campuchia nhập khẩu vào Việt Nam, Việt Nam đồng ý dành cho Campuchia ưu đãi thuế suất một số hàng nông sản nhập khẩu vào Việt Nam với thuế suất bằng 0%. Riêng đối với hai mặt hàng gạo và thuốc lá, chế độ hạn ngạch sẽ được áp dụng. Những ưu đãi về thuế suất này cũng phù hợp với tuyên bố chung của hai Thủ tướng Việt Nam và Campuchia tháng 10/2005. Chính phủ Việt Nam cần tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp trong việc quảng bá sản phẩm hàng hoá, hỗ trợ thông tin, tạo điều kiện để doanh nghiệp mở văn phòng đại diện tại Campuchia. Nhà nước cần cải tiến và thuận lợi hóa quy trình thủ tục cấp phép mở chi nhánh văn phòng đại diện, đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam nhằm khuyến khích một số ngành đầu tư sản xuất ở mức độ phù hợp nhằm tránh thuế nhập khẩu của bạn, đồng thời tăng cường khả năng xâm nhập thị trường, ví như sản xuất thuốc tân dược, vật liệu xây dựng... Những hỗ trợ về thông tin rất cần thiết, bao gồm thông tin kịp thời về diễn biến thị trường Campuchia, thông tin về chính sách pháp luật, thể chế kinh doanh, thông tin về doanh nghiệp đối tác của doanh nghiệp Việt Nam, tư vấn thủ tục xuất nhập khẩu, thủ tục mở chi nhánh, thủ tục hải quan. Kế đó là các kế hoạch hỗ trợ gián tiếp thông qua các hoạt động khảo sát và tham dự hội chợ triển lãm tại Campuchia bao gồm khảo sát thị trường, hội thảo gặp mặt doanh nghiệp hai nước, giới thiệu doanh nghiệp trưng bày hàng hoá tại các phòng trưng bày, tổ chức hội chợ và tuần lễ thương mại tại Cămpuchia. Trên tầm nhà nước là cụ thể hoá những điều cam kết trong Hiệp định Thương mại mới ký năm 1998. Nói là mới vì vào các thập kỉ trước giữa Việt Nam và Cămpuchia đã từng có các văn kiện về trao đổi hàng hoá, nhưng vì nhiều lí do khác nhau cho nên gần như các văn kiện đó chỉ như là những biểu tượng về tình hữu nghị, kim ngạch hai chiều dẫm chân tại chỗ. Những cam kết trong Hiệp định thương mại năm 1998 cần được cụ thể hoá trong chương trình hằng năm, có địa chỉ thực hiện qua các kỳ họp uỷ ban liên chính phủ và đôn đốc tiến độ thực thi các chương trình đó. Bên cạnh việc thực hành hiệp định thương mại, cần triển khai các hiệp định đã ký hoặc ký mới về vận tải đường bộ, giao thông đường sông, quá cảnh, du lịch, hải quan, nông nghiệp. Và một điều nhiều doanh nghiệp mong đợi đó là Ngân hàng Ngoại thương sớm đặt chi nhánh tại Campuchia hoặc liên doanh với ngân hàng bạn như Liên doanh về ngân hàng giữa Lào và Việt Nam đã triển khai, giúp việc thanh toán giữa các doanh nghiệp hai nước, thay dần việc trao đổi “tiền tươi” có nhiều rủi ro. Các khía cạnh liên quan tài chính, tín dụng cũng cần được giải quyết. Hiện Cămpuchia đã có hơn 6.000 mặt hàng các nước dành cho ưu đãi GSP và hưởng ưu đãi tối huệ quốc đối với Hoa Kỳ. Do đó, trong chừng mực nhất định nên có chính sách tương thích cho doanh nghiệp cả về ưu đãi tín dụng và thuế suất như là thuế lợi tức trong mấy năm đầu khai trương để hàng Việt Nam có sức cạnh tranh trên thị trường này. Tính đến nay, trên toàn tuyến có 151 chợ, trong đó có 114 chợ biên giới, chợ cửa khẩu, 37 chợ trong khu kinh tế cửa khẩu. Chợ ở các tỉnh Tây Ninh, An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang hoạt động sôi nổi và rất hiệu quả. Có 8 khu kinh tế cửa khẩu được thành lập theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, với 6,677 km2, dân số khoảng 1.455 ngàn người, chiếm 2,7% về diện tích và 5,2% về dân số các tỉnh biên giới Việt Nam– Campuchia, vì vậy song hành với buôn bán lớn, cần phải tổ chức tốt việc trao đổi dân cư qua biên giới ở các chợ đường biên mà Việt Nam đã có Quy chế về chợ biên giới, theo đó những thương nhân người Việt Nam và người Campuchia cùng buôn bán trao đổi tại chợ cửa khẩu hàng sản xuất tại mỗi nước với trị giá không quá 500.000 đồng Việt Nam thì được miễn thuế mỗi người/lượt/ngày. Phát triển các chợ đó thành trung tâm giao dịch mua bán trong khu vực làm cơ sở để xây dựng các khu kinh tế cửa khẩu trở thành động lực thúc đẩy kinh tế vùng biên và thu hút các doanh nghiệp ở sâu trong nội địa. Tận dụng mối quan hệ sâu rộng sẵn có với các bộ ngành liên quan đến thương mại đặc biệt là tạo dựng dần từng bước các doanh nghiệp Campuchia ủng hộ và tạo điều kiện tốt cho doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập thị trường Cămpuchia. Lợi thế gần Campuchia, cần tập trung để tạo mọi điều kiện buôn bán đường biên và tiểu ngạch là chính và phát triển tốt hơn nữa lợi thế này, từng bước tiến tới mở rộng buôn bán chính ngạch lớn sau này. Do điều kiện sản xuất của Việt Nam, hầu hết giá các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đều cao hơn so với các nước láng giềng nên gặp nhiều khó khăn đưa hàng hoá chiếm lĩnh thị trường nước bạn từ sắt thép, xi măng, hàng tiêu dùng. Do vậy, ta cần nghiên cứu để có biện pháp, chính sách phù hợp với các tỉnh biên giới nhằm giảm thiểu giá các mặt hàng để đẩy mạnh vịêc đưa hàng Việt Nam vào thị trường Cămpuchia như hàng Trung Quốc vào Việt Nam. Thông qua cơ chế ưu đãi, Nhà nước và các địa phương cần khuyến khích, tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp, Tổng công ty xây dựng Việt nam tham gia đấu thầu các dự án xây dựng tại Cămpuchia, thông qua đó đưa nguyên vật liệu xây dựng và hàng hóa khác vào Campuchia thông qua chương trình dự án. Hàng hóa đi qua con đường này sẽ được giảm thuế, đồng thời tiêu thụ được khối lượng lớn và cho vay ưu đãi thực hiện các công trình thắng thầu tại Cămpuchia. Thị trường Cămpuchia ít lợi nhuận mà khó khăn nhiều hơn các thị trường khác do vậy cũng mong được các cơ quan quản lý nhà nước và các doanh nghiệp tập trung hết sức cho thị trường Cămpuchia về mọi mặt để đẩy mạnh buôn bán, đầu tư tạo điều kiện giữ vững an ninh biên giới lâu dài. 3.2.3. Xây dựng cơ sở hạ tầng thuận lợi, chống buôn lậu, giữ vững quốc phòng, an ninh biên giới. Suy ngẫm từ câu nói dân gian rằng “ thứ nhất cự ly, thứ nhì cường độ” thì chín tỉnh Tây Nam của Việt Nam giáp biên giới Cămpuchia đều là những tỉnh có lợi thế, có sức mạnh. Tiềm năng dồi dào của châu thổ sông Cửu Long, Tây Nguyên và kể tới thành phố Hồ Chí Minh về kinh tế đã là một nhẽ, thì lợi thế ở đây là đường ô tô tới thủ đô Phnom Penh chỉ có 250 km và khi xong tuyến xa lộ xuyên Á phần lãnh thổ trên Việt Nam từ Mộc Bài đến ngã ba Thủ Đức (Thành phố Hồ Chí Minh) thì càng thuận thông hơn, còn nếu đường bay Thành phố Hồ Chí Minh - thủ đô Phnom Penh chỉ mất khoảng 30 phút. Do vậy, cần tăng cường vai trò đầu cầu của các tỉnh, thành phố này, vừa thực hiện các cam kết Chính phủ, vừa hợp tác địa phương với địa phương và doanh nghiệp với doanh nghiệp. Nhà nước cần tăng cường hơn nữa cho công tác an ninh biên phòng, chống buôn lậu dọc biên giới. Buôn lậu dọc biên giới giữa hai nước trong những năm vừa qua cũng như hiện nay rất lộn xộn, khó kiểm soát. Hàng cấm nhập khẩu, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, hàng trốn thuế ồ ạt vào nước ta qua con đường buôn lậu đang làm cho tình hình biên giới phức tạp, làm rối thị trường xuất nhập khẩu của ta. Lợi dụng buôn lậu, các phần tử chống đối nước ta có thể xâm nhập trái phép, hoặc mang theo hàng cấm, các văn hoá phẩm có nội dung chống đối nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam, hoặc có nội dung đồi trụy…Do vậy, làm tốt công tác an ninh biên phòng và chống buôn lậu có hiệu quả sẽ góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ buôn bán giữa hai nước, giữ vững an ninh biên giới và tăng cường mối quan hệ hữu nghị vốn có giữa hai nước. 3.2.4. Phát triển thương hiệu hàng Việt Nam tại thị trường Cămpuchia Mặc dù dân số không nhiều, nhưng Campuchia là thị trường nhiều tiềm năng của các doanh nghiệp Việt Nam, bởi những điểm tương đồng trong thói quen tiêu dùng của người dân hai nước. Tuy nhiên, hiện nay, tại thị trường Cămpuchia, hàng Việt Nam mới chiếm khoảng rất lớn , hầu hết là đồ nhựa, đồ gia dụng, thực phẩm. Rất nhiều mặt hàng khác, kể cả giày dép của Biti’s vẫn còn đang chật vật tìm chỗ đứng vững chắc tại đây do vậy phải có sự cạnh tranh rất mạnh của các mặt hàng cùng chủng loại có xuất xứ từ Thái Lan và Trung Quốc. Hàng Việt Nam xuất hiện tại thị trường Phnom Penh rất nhiều nhưng hàng giả, hàng nhái cũng không ít. Muốn đứng được tại thị trường này thì cần thiết phải dành lại thương hiệu Việt nam, phải cho người tiêu dùng thấy rằng hàng Việt Nam chính hiệu chất lượng cao chứ không phải nhái hiệu của ai hết. Bên cạnh đó, chưa nhiều người dân ở Phnom Penh quen với hàng Việt Nam do họ chưa tiếp cận được với các mặt hàng này. Không sợ sản phẩm khó thâm nhập thị trường mà khó ở chỗ làm cách nào để người tiêu dùng dễ tiếp cận với sản phẩm. Tại siêu thị Anana, 1 trong 8 siêu thị lớn bày bán sản phẩm cà phê An Thái, khách mua hàng chủ yếu là người Khmer, nhưng rất ít người Khmer biết tiếng Anh và tiếng Việt. Do vậy, nhiều người đó không chọn mua cà phê An Thái, vì họ không đọc được chính những dòng chữ được in trên bao bì của sản phẩm. Có lẽ, sản phẩm mang thương hiệu Việt nam được tiêu thụ mạnh nhất ở Phnompenh là sữa Vinamilk. Mỗi tháng, chỉ riêng mạng lưới phân phối tới các nhà bán lẻ khắp Phnom Penh cũng đã tiêu thụ lượng sữa trị giá khoảng 25.000 USD nhập khẩu từ Việt Nam. Trong thời gian tới, có thể thị phần của mặt hàng này sẽ tăng lên do hiệu quả quảng cáo trên truyền hình của Cămpuchia. Không nhiều sản phẩm, thương hiệu Việt Nam có “cái nhìn chiến lược” qua hoạt động quảng cáo trên các kênh truyền hình của Cămpuchia như Công ty sữa Vinamilk. Mở kênh truyền hình Apsara TV vào lúc 11h30 trưa và 7h30 tối hàng ngày, quảng cáo sữa Vinamilk được phát đi, phát lại bằng tiếng Khmer. Đây chính là con đường ngắn và nhanh nhất để người tiêu dùng Cămpuchia biết, tin tưởng vào mặt hàng này. Tuy nhiên, rất ít hoạt động quảng bá thương hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam như Vinamik tại Phnompenh. Do có những đặc thù riêng về chính trị - xã hội, nên việc phát tờ rơi quảng cáo của các nhà bán lẻ bị hạn chế. Giá quảng cáo trên Balo, áp phích ngoài đường phố có giá không “mềm”, mỗi tháng 50 USD cho 1 tấm quảng cáo có diện tích 2 mét vuông. Ngoài lý do về chi phí quảng cáo, nhiều nhà sản xuất Việt Nam vẫn chưa thực sự coi trọng thị trường Cămpuchia, nên chưa có một chiến lược dài hơi để quảng bá sản phẩm, thương hiệu. Người tiêu dùng Cămpuchia sẽ dễ tiếp cận với hàng hoá Việt Nam hơn, nếu thực sự họ biết trên bao bì sản phẩm đưa ra các thông số gì về sản phẩm. Bài học kinh nghiệm từ các sản phẩm có xuất xứ từ Thái Lan cho thấy, hầu hết sản phẩm của Thái Lan đều có những hướng dẫn viết bằng chữ Khmer, giúp người tiêu dùng dễ dàng tiếp cận. Vì vậy, các nhà sản xuất nên dán thêm đề can bằng tiếng Khmer lên bao bì của tất cả các sản phẩm Việt Nam được tiêu thụ tại Cămpuchia. 3.2.5. Xây dựng kênh phân phối, bán lẻ tại thị trường Cămpuchia Doanh nghiệp Việt Nam phải xây dựng cho được hệ thống các kênh phân phối, bán lẻ tại thị trường Cămpuchia để hàng Việt Nam thật sự "bám rễ" tại đây. Bộ trưởng Bộ thương mại Campuchia khuyên các doanh nghiệp Việt Nam muốn xuất khẩu vào thị trường này cần có văn phòng đại diện hoặc ít ra phải có một đầu mối. Dưới đây là một số kinh nghiệm xây dựng kênh phân phối tại Cămpuchia : - Tạo mối quan hệ thật tốt với chính quyền địa phương. Như đã đề cập ở trên, vì thế cần chú ‎ý gây thiện cảm với các chức trách địa phương để họ tạo điều kiện thuận lợi cho mình. - Tìm nhà phân phối là các công ty của người địa phương sẽ rất thuận lợi về nhiều mặt. - Có văn phòng chính thức hoặc nhà phân phối chính thức để lo chuyện tiếp thị, quảng cáo, hậu mãi…, trên sản phẩm phải có dán tem, ghi địa chỉ của nhà phân phối tại Cămpuchia. Có như vậy các đại lý cấp hai sẽ rất an tâm bán hàng, người tiêu dùng cũng an tâm mua vì có địa chỉ để khiếu nại. - Các bảng hiệu quảng cáo, nhãn hiệu phải có in tiếng Cămpuchia mới dễ tạo thiện cảm, dễ được chấp nhận. 3.2.6. Liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp Việt nam Để tránh tình trạng đơn phương độc mã tại một thị trường có nhiều sản phẩm tương tự nhau, các doanh nghiệp Việt Nam nên cùng phối hợp lại để tạo ra một lực lượng hùng mạnh, từ đó dễ dàng đưa hình ảnh của hàng Việt Nam đến với người tiêu dùng Cămpuchia. Để họ thấy rằng, hàng Việt Nam có một hệ thống vững chắc, có sức mạnh, họ sẽ tin vào hàng Việt Nam hơn. Trong thời gian qua, các hội chợ triển lãm hàng Việt Nam tại Cămpuchia thủ đô Phnom Penh chính là những cơ hội quý báu để các doanh nghiệp có một định hướng nhất định về hợp tác, liên kết. Trong thời gian tới, có thể nghĩ đến một quy mô lớn hơn như xây dựng một Trung tâm thương mại Việt Nam tại Cămpuchia, kiểu như siêu thị Vinamart nhưng lớn hơn. Khi xây dựng được những cơ sở như thế, các hiện tượng hàng giả hàng nhái sẽ được loại bỏ, hình ảnh hàng Việt Nam sẽ được quảng bá với một cường độ và tính hệ thống cao. Dân gian Việt nam có câu “ Buôn có bạn, bán có phường”, khi các doanh nghiệp cùng liên kết, hợp tác, bắt tay giúp đỡ nhau, họ sẽ có một nguồn vốn lớn hơn, sản phẩm sẽ đa dạng và không trùng chéo lên nhau, họ sẽ cùng chia sẻ kinh phí, các kinh nghiệm làm ăn, việc quảng bá sản phẩm sẽ có điều kiện phát triển rộng rãi hơn, việc vận chuyển, thủ tục hải quan…được thuận tiện, nhanh gọn hơn. Từ đó uy tín của các doanh nghiệp sẽ được củng cố, khách hàng sẽ đến với các sản phẩm của doanh nghiệp nhiều hơn và thường xuyên hơn, do vậy mà hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn. 3.2.7. Một số giải pháp khác - Tham gia đấu thầu xây dựng cơ sở hạ tầng: Cămpuchia là nước đang có các khoản viện trợ nước ngoài khá lớn và nhiều nước mới đầu tư vào thị trường này. Các công ty Việt Nam có thể tham gia đấu thầu để nhận tái thiết các cơ sở hạ tầng, từ đó đưa máy móc sang thi công, cung ứng nguyên vật liệu mà Việt Nam sẵn có như ống nhựa, vật liệu xây dựng, trang trí nội thất và Việt Nam có thể chuyển giao công nghệ, cung cấp các chuyên gia, công nhân có tay nghề cao, nhưng chi phí lại có thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực và sẽ kéo theo nhiều hàng tiêu dùng cùng các dịch vụ đi kèm khác. Vừa qua, Bộ Công thương Cămpuchia cũng đã đề ra giải pháp thông qua các cơ chế ưu đãi, khuyến khích và tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam tham gia đấu thầu các dự án xây dựng ở Campuchia, từ đó đưa nguyên liệu vật liệu xây dựng và hàng hoá khác vào Campuchia thông qua các chương trình dự án. Hàng hoá đi qua con đường này sẽ được giảm thuế, đồng thời tiêu thụ được khối lượng lớn, giảm thiểu rủi ro trong thanh toán cho các doanh nghiệp. Song các dự án này đòi hỏi vốn lớn, nên Nhà nước cần có các chế độ ưu đãi để thực hiện các công trình thắng thầu ở Cămpuchia. Chính phủ cần chủ động đưa các giải pháp có tính hệ thống nhằm chuyển hướng Campuchia từ thị trường tiêu thụ hàng hoá sang thị trường đầu tư, mở ra lộ trình mới cho các doanh nghiệp Việt Nam trước xu thế hội nhập. Điều đó đòi hỏi phía Chính phủ phải có những phản ứng nhanh nhạy, kịp thời, quyết đoán, nếu không thì sẽ mất cơ hội, mất thị trường đầu tư mà Việt nam đang có những lợi thế, tiềm năng nhất định. - Thông qua Kiều bào Việt Nam tại Cămpuchia làm trung gian xuất khẩu: Kiều bào Việt Nam tại Campuchia có một số lượng khá lớn làm nghề buôn bán. Họ thông thạo tiếng Khmer, nắm chắc nhu cầu, sở thích, tâm ‎l‎‎‎ý tiêu dùng của người Cămpuchia. Đây là điều kiện thuận lợi cho hàng hoá Việt nam thâm nhập vào Cămpuchia. Các doanh nghiệp Việt nam cần tạo mối quan hệ và hợp tác kinh doanh với các thương nhân, thương lái người Việt kiều và người Việt gốc Hoa tại Phnompenh và thông qua họ đưa hàng hóa sang Cămpuchia. - Tái chế, tái xuất: Cămpuchia là nước có nhiều sản phẩm thô chưa tái chế như mủ cao su, đậu tương, hạt sen, đá quý…nên chăng các doanh nghiệp Việt Nam mua về tái chế, nâng cao phẩm cấp, hoàn thiện bao bì, nhãn mác để rồi tái xuất. - Liên kết sản xuất, chế biến tại chỗ: Các doanh nghiệp Việt Nam nên liên kết với doanh nghiệp Cămpuchia hoặc với doanh nghiệp nước ngoài mở công xưởng sản xuất, chế biến để bán tại chỗ hoặc xuất khẩu sang nước thứ ba. - Tận dụng vị thế mới của bạn, đầu tư thay thế xuất khẩu sang nước thứ ba: Bên cạnh việc đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng mũi nhọn, Việt Nam có thể tận dụng vị thế mới của Campuchia bằng cách đầu tư vào nước này như một hình thức thay thế xuất khẩu chính ngạch, tránh rủi ro và bất trắc. Việt Nam có thể tận dụng Campuchia như một địa bàn lấy xuất xứ hàng hoá, tranh thủ sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng thế mạnh qua đường Campuchia. Hiện nay Cămpuchia đang được hưởng nhiều ưu đãi về các mặt hàng nông sản, dệt may, giày da qua các hiệp định với Mỹ và Châu Âu. Trong lúc đó thì các ngành hàng Việt Nam có khả năng đầu tư tại Campuchia là mỳ ăn liền, nhựa, giày dép, chế biến gỗ, hạt điều. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt nam cần nắm bắt thời cơ này, tranh thủ đầu tư sản xuất các mặt hàng truyền thống của mình tại Cămpuchia một cách hợp lý. KẾT LUẬN Việt Nam và Campuchia là hai nước láng giềng gần gũi với hơn 1.100 km đường biên giới chung. Trải qua bao thăng trầm, thử thách của lịch sử, hai nước vẫn giữ vững được mối quan hệ láng giềng, hữu nghị với phương châm “Láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài”. Sau Tổng tuyển cử Quốc hội nhiệm kỳ III ngày 27 /7/2003, Chính phủ liên hiệp hiện nay gồm ba đảng, do ngài Hun Sen, phó chủ tịch Đảng nhân dân Campuchia làm thủ tướng tiếp tục đưa đất nước Campuchia ổn định và phát triển, quan hệ với Việt Nam sẽ tiếp tục có nhiều thuận lợi. Trong bối cảnh đó, những năm vừa qua, quan hệ giữa hai nước ngày càng được cải thiện về nhiều mặt trong đó có quan hệ thương mại. Hai bên vừa là bạn hàng, vừa là đối tác của nhau, dựa vào nhau để cùng phát triển. Trong khối ASEAN, Việt Nam là bạn hàng thứ ba của Campuchia sau Thái Lan và Singapore và đứng thứ sáu trong các nước buôn bán với Campuchia. Ngược lại, Việt Nam cũng là một thị trường xuất khẩu lớn của Campuchia với kim ngạch năm 2007 là 932 triệu USD. Cămpuchia đã chính thực gia nhập WTO 13/10/2004 (thành viên thứ 148) là một thắng lợi của Campuchia, vừa đặt ra những thách thức, vừa mở ra những cơ hội đối với Việt Nam. Cùng với sự bùng nổ thông tin và vấn đề toàn cầu hoá, nền kinh tế tri thức cùng với thương mại điện tử đang đặt ra cho chúng ta nhiều vấn đề nan giải. Trong bối cảnh đó, việc tăng cường quan hệ hợp tác nhiều mặt với các nước láng giềng như Cămpuchia, trong đó có thúc đẩy quan hệ thương mại song phương giữa hai nước là một yếu tố khách quan và vô cùng quan trọng. Nắm vững chủ trương, đường lối đối ngoại rộng mở của Đảng và Nhà nước ta, tận dụng những thời cơ, lợi thế, tiềm năng nhiều mặt, khắc phục những khó khăn tạm thời, Việt Nam nhất định sẽ tìm được những cơ hội mới mẻ, những giải pháp thích hợp để mở rộng và thúc đẩy quan hệ thương mại với nước bạn Cămpuchia lên một tầm cao mới. MỤC LỤC Trang DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1.1: Mô hình giản đơn về lợi thế tuyệt đối 16 Bảng 1.2: Mô hình giản đơn về lợi thế so sánh 17 Bảng 2.1: Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Năm (2002-2007) 34 Bảng 2.2 : Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam (2005- 2007) 41 Bảng 2.3: Các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam (2005- 200 ) 42 Bảng 2.4: Tốc độ tăng trưởng GDP của Cămpuchia (2000-2007) 47 Bảng 2.5: Các mặt hàng xuất khẩu (2003-2007) 49 Bảng2.6: Các mặt hàng nhập khẩu( 2003- 2007) 50 Bảng 2.7: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam–Cămpuchia (2000-2007) 54 Bảng 2.8: Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam với các nước trong khu vực giai đoạn (2004-2006) 56 Bảng 2.9: Tổng kim ngạch xuất Việt Nam sang Cămpuchia(2000-2007) 57 Bảng 2.10: Các mặt hàng chủ yếu Việt Nam xuất khẩu sang Cămpuchia 58 (2001-2005) 58 Bảng 2.11: Tổng kim nhập khẩu của Việt Nam từ Cămpuchia(2000-2007) 61 Bảng 2.12: Cơ cấu mặt hàng Việt Nam nhập khẩu từ Cămpuchia 62 Bảng 3.1: Mục tiêu kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Cămpuchia 76 Bảng 3.2: Việt Nam nhập khẩu từ Cămpuchia năm 2005 và 2010: 76 Bảng 3.3: Việt Nam xuất khẩu sang Cămpuchia giai đoạn 2005 và 2010 77 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 2.1: Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Năm (2000-2007) 34 Biểu đồ 2.2: Tốc độ tăng trưởng GDP của Cămpuchia (2000-2007) 47 Biểu đồ 2.3: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam-Cămpuchia (2000-2007) 55 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33339.doc
Tài liệu liên quan