Thực trạng và giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang Thị trường Trung Quốc dưới tác động của Chương trình thu hoạch sớm

LỜI CẢM ƠN Sinh viên thực hiện đề tài nghiên cứu xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn, Ths. Ngô Thị Tuyết Mai cùng các giáo viên giảng dạy trong Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế đã tận tình chỉ dẫn, cung cấp các tài liệu quan trọng và đóng góp ý kiến quy báu để góp phần tạo nên sự hoàn thành của đề tài nghiên cứu khoa học. Với những sự giúp đỡ nhiệt tình này, rất mong đề tài sẽ đạt được những kết quả nhất định, đóng góp một cái nhìn tổng quan hơn về Chương trình thu hoạch

doc56 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1402 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang Thị trường Trung Quốc dưới tác động của Chương trình thu hoạch sớm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sớm (EHP) một phần quan trọng trong Hiệp định khung về hợp tác toàn diện giữa Trung Quốc và các nước ASEAN (ACFTA ), và những giải pháp nhằm khai thác những lợi thế của EHP nhằm thúc đẩy quan hệ xuất khẩu Việt Nam – Trung Quốc Rất mong nhận được những góp ý xây dựng của các thầy cô giáo, các bạn sinh viên để đề nghiên cứu khoa học của chúng em được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn. Sinh viên thực hiện: Vũ Quang Năng Võ Tá Trung Lớp Kinh tế Quốc tế Khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế Khoá 44 LỜI MỞ ĐẦU Thị trường Trung Quốc với 1,3 tỷ dân luôn là một thị trường tiềm năng đối với mọi đối tác. Đối với các nước trong khu vực AFTA, Trung Quốc luôn là một bạn hàng, một đối tác lớn chiếm vị trí vô cùng quan trọng, do đó những biến động của thị trường khổng lồ này luôn gây những tác động rất lớn đối với khu vực, trong đó những điều chỉnh về chính sách kinh tế đối ngoại mà đặc biệt là chính sách ngoại thương của Trung Quốc luôn gây ảnh hưởng rất lớn tới quan hệ và hiệu quả thương mại của các nước trong khu vực. Với vai trò to lớn như vậy, việc Hiệp định khung về tự do thương mại và đầu tư chung được ký kết giữa các nước ASEAN và Trung Quốc (ACFTA ) đã tạo nên một bước đột phá trong quan hệ thương mại và đầu tư giữa các nước ASEAN và đối tác quan trọng này. Xét riêng Việt Nam, Trung Quốc cũng chính là đối tác quan trọng đứng hàng thứ 3 chỉ sau Mỹ và EU, do đó việc tham gia vào khu vực Mậu dịch tự do ACFTA đã mở ra nhiều cơ hội mới cho hoạt động thương mại song phương Việt Nam – Trung Quốc, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu vào thị trường đầy tiềm năng này. Trong Hiệp định chung ACFTA, một nhân tố đóng vai trò quan trọng và tiên phong trong nỗ lực đưa ACFTA trở thành một khu vực thương mại tư do lớn nhất toàn cầu, Chương trình thu hoạch sớm chính là một bước đi đầu tiên, khẳng định lại thiện chí hợp tác của các bên tham gia, đồng thời là bước dột phá, khẳng định tầm quan trọng và tính tất yếu hình thành khu vực ACFTA. Tham gia cam kết thực hiện Chương trình thu hoạch sớm, phía Việt Nam sẽ được Bên Trung Quốc cắt giảm một lượng lớn thuế nhập khẩu đánh vào các mặt hàng nông thủy sản của Việt Nam nằm trong chương 1- 8 của danh mục hàng nằm trong Hiệp định khung giữa ASEAN và Trung Quốc. Tuy nhiên cùng với lợi ích đó, Việt Nam cũng phải cắt giảm thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng nông thủy sản của Trung Quốc theo lộ trình của Chương trình thu hoạch sớm mà Việt Nam đã cam kết. Việc tham gia chương trình thu hoạch sớm trước mắt sẽ mở ra một cơ hội lớn cho hàng hóa Việt Nam thâm nhập thị trường Trung Quốc, đặc biệt là những mặt hàng chúng ta có thế mạnh bao gồm hàng nông sản và thủy sản. Đứng trước những cơ hội và thách thức mà Chương trình thu hoạch sớm đặt ra với Việt Nam, đồng thời góp phần tạo động lực để thực hiện chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước trong quá trình thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, việc nghiên cứu Chương trình thu hoạch sớm và ảnh hưởng của nó tới hoạt động xuất khẩu hàng hóa, đặc biệt là những mặt hàng nông thủy sản (những đối tượng chính của Chương trình này) là một việc làm hết sức cần thiết và cấp bách. Chính vì lý do này mà chúng em đã quyết định chọn Đề tài nghiên cứu khoa học :” Thực trạng và giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc dưới tác động của Chương trình thu hoạch sớm” Ngoài lời mở đầu và kết luận, kết cấu của đề tài gồm 3 chương: CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU HÀNG HÓA VÀ TỔNG QUAN VỀ CHƯƠNG TRÌNH THU HOẠCH SỚM GIỮA AFTA VÀ TRUNG QUỐC CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HỌAT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA CHƯƠNG TRÌNH THU HOẠCH SỚM CHƯƠNG III: DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG THỦY SẢN VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA CHƯƠNG TRÌNH THU HOẠCH SỚM Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: hoạt động xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là: - Nghiên cứu hoạt động xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc dưới tác động của chương trình thu hoạch sớm, trong đó tập trung nghiên cứu các nhóm mặt hàng thuộc phạm vi của chương trình thu hoạch sớm gồm: thủy sản, rau quả, hạt điều, sữa và các sản phẩm sữa; - Thời gian nghiên cứu: các số liệu được nghiên cứu nằm trong giai đoạn từ năm 2000 đến hết năm 2005. Phương pháp nghiên cứu của đề tài là thống kê và dự báo kinh tế để có thể đưa ra những nhận định vè tình hình xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang thị trường TQ dưới tác động của chương trình thu hoạch sớm. Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và cung cấp tài liệu đầy đủ, nhiệt tình của giáo viên hướng dẫn, Ths. Ngô Thị Tuyết Mai. Chúng em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế cũng như của các bạn sinh viên để đề tài nghiên cứu được hoàn thiện hơn. CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU HÀNG HÓA VÀ TỔNG QUAN VỀ CHƯƠNG TRÌNH THU HOẠCH SỚM GIỮA AFTA VÀ TRUNG QUỐC 1.1 Lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa 1.1.1. Các quan điểm về thương mại quốc tế và xuất khẩu hàng hóa Thương mại có nghĩa là sự trao đổi hàng hóa giữa các bên. Nếu các bên tham gia trao đổi hàng hóa cùng cư trú trên một quốc gia thì gọi là thương mại nội địa. Nếu các bên tham gia trao đổi hàng hóa cư trú trên hai quốc gia khác nhau thì hoạt động thương mại này mang tính quốc tế. Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hóa dịch vụ giữa các nước thông qua mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa riêng biệt của các quốc gia. Trong đó, xuất khẩu hàng hóa dịch vụ là một khía cạnh trong quan hệ thương mại của một nước có mang tính chất quốc tế. Đó là việc hàng hóa và dịch vụ của quốc gia đó được đưa ra tiêu thụ ở nước ngoài hoặc sản xuất nhằm phục vụ mục đích tiêu dùng của người nước ngoài ở trong nước. Xuất khẩu được coi là hình thức thâm nhập thị trường nước ngoài ít rủi ro và chi phí thấp. Dưới giác độ kinh doanh, xuất khẩu là việc bán các hàng hóa và dịch vụ. Dưới giác độ phi kinh doanh như làm quà tặng hoặc viện trợ không hoàn lại thì hoạt động đó lại là việc lưu chuyển hàng hóa và dịch vụ qua biên giới quốc gia. Trong kinh doanh, hoạt động xuất khẩu diễn ra dưới hai hình thức là xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu gián tiếp. Những hình thức này sẽ được các nhà xuất khẩu sử dụng là công cụ để thâm nhập thị trường quốc tế. 1.1.2 Các lý thuyết về thương mại quốc tế Thương mại quốc tế đã ra đời cách đây hàng ngàn năm, nhưng phải đến thế kỷ 15 thì mới xuất hiện những nỗ lực nhằm giải thích nguồn gốc và lợi ích từ thương mại quốc tế. Ngày nay, những nỗ lực nhằm hoàn chỉnh và phát triển các lý thuyết về thương mại quốc tế vẫn đang được tiếp tục. Dưới đây là một số các lý thuyết thương mại quốc tế đã đưa ra những cơ sở lý luận để giải thích vấn đề này theo quá trình phát triển của thương mại quốc tế. Chủ nghĩa trọng thương khi bàn về thương mại quốc tế đã cho rằng một nước cần duy trì cán cân thương mại thặng dư để gia tăng lượng của cải (bao gồm vàng bạc và các kim loại quý khác) của mình. Để đạt được mục tiêu đó, chính phủ cần thi hành chính sách can thiệp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu và hạn chế hoạt động nhập khẩu của quốc gia. Theo lý thuyết lợi thế tuyệt đối của A.Smith, khả năng của một quốc gia có thể sản xuất một mặt hàng có hiệu quả cao hơn bất kỳ quốc gia nào khác được gọi là lợi thế tuyệt đối của quốc gia đó. Theo lý thuyết này thì một nước có thể tập trung sản xuất những mặt hàng mà mình có lợi thế tuyệt đối và sau đó trao đổi với các quốc gia khác nhằm thu về những hàng hóa mà mình không tự sản xuất ra. Thương mại tự do dựa trên lợi thế tuyệt đối sẽ giúp mang lại lợi ích cho tất cả các nước tham gia. Một nước có lợi thế so sánh khi nước đó không có được khả năng sản xuất một mặt hàng nào đó hiệu quả hơn các nước còn lại nhưng hiệu quả hơn so với các mặt hàng khác. Lý thuyết lợi thế so sánh của D. Ricardo cho rằng thương mại tự do luôn mang lại lợi ích cho các bên tham gia, ngay cả khi một nước tỏ ra kém lợi thế hơn trong việc sản xuất tất cả các mặt hàng. Lý thuyết (H-O) về tỷ lệ các yếu tố cho rằng quốc gia sẽ sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng sử dụng nhiều nguồn lực dồi dào sẵn có của quốc gia và nhập khẩu những mặt hàng đòi hỏi sử dụng nhiều nguồn lực khan hiếm của quốc gia đó, từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất, toàn dụng nguồn lực trong nước. Lý thuyết chu kì sống của sản phẩm phát biểu rằng ngay sau khi ra đời thì sản phẩm mới được sản xuất ngay tại nước phát minh ra nó. Khi một sản phẩm trải qua các giai đoạn khác nhau trong chu kỳ sống của nó thì công nghệ sản xuất ra nó ngày càng được phổ biến và quá trình sản xuất ra sản phẩm được phổ biến tới nhiều quốc gia khác nhau nhằm khai thác các yếu tố đầu vào cho sản xuất rẻ theo lợi thế của từng địa điểm sản xuất. Lý thuyết mới về thương mại cho rằng chuyên môn hóa sản xuất và hiệu quả tăng dần theo quy mô sẽ mang lại lợi ích, các công ty đầu tiên ra nhập thị trường nào đó có thể tạo ra rào cản đối với các công ty khác và chính phủ cần hỗ trợ các doanh nghiệp của nước mình trong quá trình tạo môi trường phát triển lành mạnh và thuận lợi. Lý thuyết lợi thế cạnh tranh của quốc gia lại cho rằng khả năng cạnh tranh của một ngành sản xuất của quốc gia phụ thuộc vào khả năng sáng tạo và đổi mới của ngành đó. Hình thoi Porter chỉ ra bốn nhóm nhân tố chính mà mỗi quốc gia bao gồm: Chiến lược, cơ cấu và cạnh tranh giữa các công ty; Điều kiện về các yếu tố sản xuất; Điều kiện cầu; Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan. Bốn nhóm nhân tố này đều tồn tại ở mỗi quốc gia với mức độ khác nhau và nhóm các nhân tố này hình thành nên khả năng cạnh tranh của quốc gia. Tóm lại, dưới giác độ nghiên cứu khác nhau, các lý thuyết trên đã chỉ ra cơ sở lý luận và các lợi ích của hoạt động thương mại quốc tế. 1.1.3. Vai trò của hoạt động xuất khẩu hàng hóa đối với một quốc gia 1.1.3.1. Vai trò của xuất khẩu đối với phát triển kinh tế Đóng góp lớn và dễ nhận thấy nhất của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân chính là xuất khẩu luôn đem lại một nguồn thu ngoại tệ chủ yếu, đáp ứng các nhu cầu nhập khẩu, cải tiến hạ tầng kỹ thuật , nâng cao sức sản xuất và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trên thực tế, nguồn vốn dùng để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn khác nhau như: vay nợ và viện trợ nước ngoài, vốn đầu tư nước ngoài, tiết kiệm ngoại tệ trong nước, thu từ các hoạt động xuất khẩu… Trong các nguồn thu nói trên, rõ ràng nguồn có thể chủ động tạo ra được và đóng vai trò quyết định của quốc gia chính là nguồn thu từ hoạt động xuất khẩu. Xuất khẩu cũng đóng vai trò thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng. Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã thay đổi một cách mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa phù hợp với sự chuyển dịch của nền kinh tế thế giới là một tất yếu đối với mọi quốc gia trên con đường phát triển. Trong bối cảnh đó người ta thiên về xu hướng coi trọng thị trường, đặc biệt là thị trường thế giới, đây là nhân tố quan trọng để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này thể hiện ở các mặt sau đây: Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác phát triển thuận lợi. Chẳng hạn khi phát triển ngành dệt, xuất khẩu sẽ tạo điều kiện và cơ hội đầy đủ cho việc phát triển ngành sản xuất nguyên liệu như ngành bông, sợi, hay thuốc nhuộm. Sự phát triển của ngành chế biến thực phẩm xuất khẩu có thể sẽ kéo theo sự phát triển của các ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ nó. Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào cho sản xuất, tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Thông qua xuất khẩu hàng hóa, quốc gia tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng, qua đó buộc các nhà sản xuất trong nước phải tổ chức lại sản xuất, liên tục đổi mới và hoàn thiện khâu quản lý sản xuất kinh doanh, cơ chế sản xuất thích nghi với thị trường. Hoạt động xuất khẩu đã khai thác triệt để lợi thế so sánh của từng quốc gia, đạt quy mô tối đa cho mỗi ngành sản xuất, tạo điều kiện xây dựng các ngành kinh tế mũi nhọn, nâng cao năng lực lao động và hạ giá thành sản phẩm, thúc đẩy các nhân tố phát triển theo chiều sâu, trao đổi và ứng dụng nhanh các công nghệ mới, thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài, nâng cao tốc độ tăng trưởng và hiệu quả của nền kinh tế quốc dân. 1.1.3.1 Vai trò của xuất khẩu về mặt xã hội Xuất khẩu có tác động tích cực tới giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống dân cư. Sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút nhiều lao động vào làm việc và có thu nhập không thấp, tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu, phục vụ đời sống và đáp ứng nhu cầu ngày một phong phú của xã hội. Hoạt động xuất khẩu đảm bảo sự phát triển bền vững và nhanh chóng đối với nền kinh tế quốc dân, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, tạo thêm việc làm, tăng thêm thu nhập và nguồn thu ngoại tệ cho nền kinh tế quốc dân, qua đó nâng cao đời sống dân cư. 1.1.3.3. Vai trò của xuất khẩu trong việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của quốc gia Xuất khẩu cũng là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của đất nước. Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại khác có tác động qua lại lẫn nhau. Thông thường hoạt động xuất khẩu xuất hiện sớm hơn các hoạt động kinh tế khác và tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn, hoạt động xuất khẩu thúc đẩu quan hệ đầu tư nước ngoài, mở rộng vận tải quốc tế… Mặt khác chính các hoạt động kinh tế đối ngoại này lại chính là tiền đề cho quá trình quay vòng mở rộng của hoạt động xuất khẩu. 1.1.4. Các hình thức xuất khẩu 1.1.4.1 Xuất khẩu trực tiếp Xuất khẩu trực tiếp là hoạt động bán hàng trực tiếp của một nhà xuất khẩu cho các khách hàng của mình ở thị trường nước ngoài. Việc các nhà xuất khẩu bán hàng sang thị trường của quốc gia khác một cách trực tiếp là phương thức được sử dụng chủ yếu trong xuất khẩu. Đặc biệt, khi các nhà xuất khẩu có kinh nghiệm kinh doanh quốc tế, phương thức xuất khẩu trực tiếp luôn được lựa chọn để đưa hàng hóa của mình ra thị trường tiêu thụ nước ngoài. Khách hàng của các nhà xuất khẩu này có thể đơn thuần chỉ là những người tiêu dùng, cũng có thể là những công ty, tổ chức có nhu cầu tiêu dùng sản phẩm nhập khẩu đó. Phương thức này có hai hình thức chủ yếu sau: - Đại diện bán hàng: đại diện bán hàng là hình thức bán hàng không mang danh nghĩa của mình mà lấy danh nghĩa của người ủy thác nhằm nhận lương và một phần hoa hồng trên cơ sở giá trị hàng hóa bán được. Trên thực tế, đại diện bán hàng hoạt động như là nhân viên bán hàng của nhà xuất khẩu ở thị trường nước ngoài. Nhà xuất khẩu sẽ ký hợp đồng trực tiếp với khách hàng ở thị trường nước đó. - Đại lý phân phối: đại lý phân phối là người mua hàng hóa của nhà xuất khẩu để bán theo kênh tiêu thụ ở khu vực mà nhà xuất khẩu phân định. Nhà xuất khẩu khống chế phạm vi phân phối, kênh phân phối ở thị trường nước ngoài. Đại lý phân phối chấp nhận mọi rủi ro liên quan đến việc bán hàng hóa ở thị trường đã phân định và thu lợi nhuận qua chênh lệch giữa giá mua và giá bán. 1.1.4.2. Xuất khẩu gián tiếp Xuất khẩu gián tiếp là hình thức bán hàng hóa và dịch vụ của nhà xuất khẩu ra thị trường nước ngoài thông qua trung gian. Các trung gian bán hàng chủ yếu trong kinh doanh xuất nhập khẩu là: Đại lý, công ty quản lý xuất nhập khẩu và công ty kinh doanh xuất nhập khẩu. Các trung gian mua bán này không chiếm hữu hàng hóa của nhà xuất khẩu nhưng trợ giúp nhà xuất khẩu thực hiện hoạt động xuất khẩu và tiêu thụ hàng hóa tại thị trường nước ngoài. - Đại lý: đại lý là các cá nhân hay tổ chức đại diện cho nhà xuất khẩu thực hiện một hay một số hoạt động nào đó ở thị trường nước ngoài. Đại lý chỉ thực hiện một công việc nào đó cho công ty ủy thác và nhận thù lao. Đại lý không chiếm hữu và sở hữu hàng hóa. Đại lý là người thiết lập quan hệ hợp đồng giữa nhà xuất khẩu và khách hàng ở thị trường nước ngoài. - Công ty quản lý xuất khẩu: công ty quản lý xuất khẩu là các công ty nhận ủy thác và quản lý công tác xuất khẩu hàng hóa. Công ty quản lý xuất khẩu hàng hóa hoạt động trên danh nghĩa của nhà xuất khẩu nên là nhà xuất khẩu gián tiếp. Công ty quản lý xuất khẩu đơn thuần làm các thủ tục xuất khẩu và thu phí dịch vụ xuất khẩu, bản chất của nó là làm các dịch vụ quản lý và thu được một khoản thù lao nhất định từ các hoạt động đó. - Công ty kinh doanh xuất khẩu: công ty kinh doanh xuất khẩu là các công ty hoạt động như nhà phân phối độc lập có chức năng kết nối các khách hàng nước ngoài với các nhà xuất khẩu trong nước để đưa hàng hóa ra nước ngoài tiêu thụ. Ngoài việc thực hiện các hoạt động liên quan trực tiếp đến xuất khẩu, các công ty này còn cung ứng các dịch vụ xnk và thương mại đối lưu, thiết lập và mở rộng các kênh phân phối, tài trợ các dự án thương mại và đầu tư… Các công ty kinh doanh xuất khẩu có nhiều vốn, mối quan hệ và cơ sở vật chất tốt nên có thể làm các dịch vụ bổ trợ cho hoạt động xuất khẩu của nhà xuất khẩu. Các công ty này có nguồn thu từ các dịch vụ xuất khẩu và tự bỏ chi phí cho hoạt động của mình. Các công ty này cũng có thể cung cấp các chuyên gia xuất khẩu cho các nhà xuất khẩu. - Đại lý vận tải: đại lý vận tải là các công ty thực hiện dịch vụ thuê vận chuyển và những hoạt động có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hóa như khai báo hải quan, áp biểu thuế quan, thực hiện giao nhận chuyên chở và bảo hiểm. Các đại lý vận tải cũng thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu và phát triển nhiều loại hình dịch vụ giao nhận hàng hóa đến tận tay người nhận. Khi các nhà xuất khẩu thông qua các đại lý vận tải thì các đại lý cũng phải làm các dịch vụ liên quan đến hàng hóa đó. Bản chất của các đại lý vận tải hoạt động như các công ty kinh doanh dịch vụ giao nhận vận chuyển và dịch vụ xuất nhập khẩu, thậm chí cả dịch vụ bao gói hàng hóa cho phù hợp với phưng thức vận chuyển, mua bảo hiểm hàng hóa cho hoạt động của họ. 1.1.4.3 Tái xuất khẩu và chuyển khẩu Trong hoạt động tái xuất khẩu, nhà xuất khẩu trong giai đoạn đầu đóng vai trò là nhà nhập khẩu, tạm nhập hàng về từ bên ngoài sau đó thực hiện hoạt động xuất khẩu hàng ra nước ngoài ( thường là nước thứ ba). Như vậy, ở đây có cả hành động mua và hành động bán nên mức độ rủi ro có thể cao hơn và lợi nhuận vì thế cũng sẽ cao hơn. Trong khi đó, hoạt động chuyển khẩu không có hành vi mua bán nào mà ở đây chỉ thực hiện các dịch vụ như vận tải quá cảnh, lưu trú, lưu kho, lưu bãi hàng hóa, bảo quản hàng hóa… 1.1.4.4 Xuất khẩu tại chỗ Trong trường hợp xuất khẩu tại chỗ, hàng hóa và dịch vụ có thể chưa vượt ra khỏi biên giới quốc gia nhưng ý nghĩa kinh tế của nó tương tự như hoạt động xuất khẩu. Đó là việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho các ngoại giao đoàn, cho khách du lịch quốc tế… Hoạt động xuất khẩu tại chỗ có thể đạt được hiệu quả cao do giảm bớt chi phí vận chuyển, đóng gói, chi phí bảo quản, kho bãi, thời gian thu hồi vốn nhanh, trong khi vẫn có thể thu ngoại tệ. 1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu - Yếu tố văn hóa: tập quán và văn hóa tiêu dùng của người dân nước nhập khẩu là một nhân tố quan trọng đánh giá tiềm năng của thị trường nhập khẩu, là yếu tố ảnh hưởng hàng đầu tới kết quả kinh doanh của nhà xuất khẩu. Quá trình toàn cầu hóa đòi hỏi mọi người tham gia vào kinh doanh phải có một mức độ am hiểu nhất định về văn hóa, đó là sự hiểu biết về một nền văn hóa cho phép con người sống và làm việc trong đó. Am hiểu văn hóa sẽ giúp cho việc nâng cao khả năng quản lý nhân công, tiếp thị sản phẩm, và đàm phán ở các nước khác. - Sự phù hợp của sản phẩm với sở thích của người tiêu dùng: Một sản phẩm cần phải phù hợp với sở thích của người tiêu dùng địa phương. Muốn đạt được điều này không còn cách nào khác là phải tìm hiểu văn hóa địa phương. Am hiểu văn hóa địa phương giúp công ty gần gũi hơn với nhu cầu và mong muốn của khách hàng, và do đó sẽ nâng cao sức cạnh tranh của công ty. Từ những khách hàng đơn lẻ và những doanh nhân cho đến các tập đoàn kinh doanh toàn cầu, hạt nhân của các hoạt động kinh doanh đều là con người. Khi người mua và người bán ở khắp nơi trên thế giới gặp gỡ nhau, họ mang theo những nền tảng giá trị, kỳ vọng và cách thức giao tiếp khác nhau. Sự khác nhau này mang đến các xung đột về văn hóa và do đó gây ra những cú sốc trước khi có thể thích nghi được với một nền văn hóa mới. Hiểu nền văn hóa là quan trọng khi công ty kinh doanh trong nền văn hóa đó. Điều đó càng trở nên quan trọng hơn khi công ty hoạt động ở nhiều nền văn hóa khác nhau. - Quy mô thị trường: yếu tố này cho biết quy mô thị trường tại các thời điểm khác nhau. Nó không dự báo nhu cầu về một sản phẩm cụ thể, mà là quy mô của toàn bộ nền kinh tế. Dữ liệu về quy mô thị trường cho phép các nhà kinh doanh sắp xếp các thị trường theo trật tự từ lớn nhất đến nhỏ nhất về nhu cầu một loại sản phẩm nào đó, từ đó đánh giá được tiềm năng của thị trường, xác định khối lượng và mức giá cả của hàng hóa xuất khẩu vào thị trường đó. - Tốc độ tăng trưởng thị trường: cùng với quy mô thị trường, tốc độ tăng trưởng thị trường cũng là một nhân tố quan trọng. Nó giúp cho các nhà xuất khẩu tránh các thị trường quy mô lớn, nhưng lại không tăng trưởng, hoặc tăng trưởng rất chậm, gây ra thất thoát và giảm hiệu quả của kinh doanh. Nó được dự báo chủ yếu thông qua tăng trưởng GDP hoặc tăng trưởng nhu cầu tiêu dùng năng lượng. - Sức mạnh thị trường: yếu tố này phản ánh sức mua thị trường, bao gồm cả khu vực tư nhân và tập thể. Nhân tố này được tính từ GDP bình quân đầu người và thuyết ngang bằng sức mua. Nhân tố này quyết định mức tiêu dùng và giá cả của hàng hóa mà thị trường đó chấp nhận, từ đó tác động tới phương án kinh doanh và tiếp thị tại thị trường. - Khả năng tiêu dùng của thị trường: mục tiêu của yếu tố này là xác định khả năng tiêu dùng. Nó được tính toán từ việc xác định từ số dân thuộc tầng lớp trung lưu, vì đây là lực lượng tiêu dùng chính trong thị trường. Lực lượng tiêu dùng chính này sẽ quyết định tới thị hiếu và thói quen tiêu dùng, mức độ yêu cầu về chất lượng, mẫu mã và giá thành của hàng hóa xuất khẩu. - Cơ sở hạ tầng thương mại: yếu tố này đánh giá các kênh phân phối và thông tin. Bao gồm số điện thoại, tivi máy fax máy vi tính tính trên đầu người; mật độ giao thông hoặc số dân trên thị trường bán lẻ. Đối với các công ty kinh doanh sử dụng Internet cần phải thường xuyên sử dụng thông tin cập nhật về số người nối mạng internet. Việc này sẽ quản lý được sự khuyếch trương thương hiệu của doanh nghiệp, đồng thời đảm bảo tính hiệu quả trong quá trình xây dựng và phát triển hình ảnh của sản phẩm xuất khẩu và công ty. - Mức độ tự do của nền kinh tế: yếu tố này phản ánh mức độ điều tiết của thị trường, nó tổng kết các chính sách thương mại của chính phủ, các chính sách về kinh doanh, hiệu lực của quyền sở hữu trí tuệ, và sức mạnh của các thị trường đen. Các thông tin về yếu tố này sẽ giúp cho nhà xuất khẩu tiến hành hoạt động xuất khẩu hàng hóa vào thị trường mới mà không bị vướng mắc vào các ràng buộc về hành chính và gian lận trong thương mại, qua đó tăng cường hiệu quả của hoạt động xuất khẩu. 1.2. Tổng quan về chương trình thu hoạch sớm kí kết giữa AFTA và Trung Quốc 1.2.1 Giới thiệu chung về ACFTA và EHP Các nước ASEAN và Trung Quốc trong một thời gian dài đã cùng nhau xây dựng một Hiệp định về hợp tác kinh tế toàn diện nhằm: thúc đẩy mối quan hệ kinh tế gần gũi hơn trong thế kỷ 21; giảm thiểu các rào cản và liên kết kinh tế sâu hơn giữa các Bên; giảm chi phí, tăng thương mại và đầu tư trong khu vực; tăng hiệu quả kinh tế; tạo ra một thị trường rộng lớn hơn với những cơ hội lớn hơn và quy mô kinh tế lớn hơn cho các doanh nghiệp của các Bên; và nâng cao tính hấp dẫn của các Bên đối với các nguồn vốn và tài năng; đồng thời sẽ tạo nên mối quan hệ đối tác giữa các bên, và tạo ra một cơ chế quan trọng để củng cố hợp tác và hỗ trợ sự ổn định kinh tế ở Đông Á. Hiệp định này công nhận vai trò và sự đóng góp quan trọng của khối doanh nghiệp trong việc tăng cường thương mại và đầu tư giữa các Bên và sự cần thiết phải thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho hợp tác và tận dụng các cơ hội kinh doanh lớn hơn do KVMDTD ASEAN-Trung Quốc đem lại; Hiệp định cũng thừa nhận trình độ phát triển kinh tế khác nhau giữa các nước thành viên ASEAN và sự cần thiết có linh hoạt, cụ thể là cần tạo thuận lợi để các nước thành viên mới của ASEAN tăng cường tham gia vào hợp tác kinh tế ASEAN-Trung Quốc và mở rộng xuất khẩu của mình, kể cả thông qua việc nâng cao nội lực, tính hiệu quả và khả năng cạnh tranh. Hiệp định còn khẳng định lại các quyền, nghĩa vụ và các cam kết của các Bên trong Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), cũng như trong các hiệp định và thỏa thuận đa phương, khu vực và song phương khác cũng như thừa nhận các thoả thuận thương mại khu vực có vai trò xúc tác đóng góp cho việc thúc đẩy tự do hoá khu vực và toàn cầu và là các khối kết cấu trong khung khổ hệ thống thương mại đa phương. Qua một quá trình đàm phán khá dài, ngày 4/11/2002, Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện giữa ASEAN và Trung Quốc đã được nguyên thủ của 10 nước ASEAN và Trung Quốc ký kết tại Campuchia, tạo tiền đề thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) vào năm 2010 đối với các nước ASEAN-6 và 2015 đối với các nước CLMV (Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanmar). Khi được thành lập, đây sẽ là khu vực mậu dịch tự do lớn nhất thế giới với khoảng 1,8 tỷ người tiêu dùng có tổng thu nhập quốc dân (GDP) hiện tại khoảng 2 nghìn tỷ USD và tổng kim ngạch thương mại khoảng 1,23 nghìn tỷ USD. Nhằm thúc đẩy việc thực thi Hiệp định này, các Bên đồng ý thực hiện Chương trình Thu hoạch sớm (là phần không thể tách rời của KVMDTD ASEAN - Trung Quốc). ASEAN và Trung Quốc đã hoàn tất đàm phán danh mục này cùng với nội dung Hiệp định khung. Hiện nay đã có 4 nước hoàn thành các thủ tục pháp lý trong nước và đã triển khai thực hiện EHP: Malaysia, Thái Lan, Trung Quốc và Việt Nam. Danh mục Thu hoạch sớm của Việt Nam bao gồm các mặt hàng nông sản và thủy sản thuộc phân loại hàng hóa từ Chương 1 đến Chương 8 của Biểu thuế nhập khẩu (Bảng 1.1). Danh mục Thu hoạch sớm được thực hiện tự do hoá thương mại sớm hơn các danh mục khác. Bảng 1.1. Bảng mô tả danh mục hàng thuộc EHP Chương Mô tả 011101 01 Động vật sống 02 Thịt và nội tạng động vật 03 Cá 04 Sữa và các sản phẩm từ sữa 05 Các sản phẩm khác từ động vật 06 Cây sống 07 Rau ăn được 08 Quả và hạt ăn được Nguồn: Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện giữa Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á và cộng hòa nhân dân Trung Hoa Chương trình Thu hoạch sớm này sẽ bắt đầu và kết thúc theo khung thời gian quy định trong đó có quy định rõ về: - Phạm vi sản phẩm được áp dụng Việt Nam có 484 mặt hàng dành thuế suất ưu đãi cho Trung Quốc các nước ASEAN khác trong Chương trình Thu hoạch sớm, bao gồm các sản phẩm nông sản và thủy sản nằm trong Chương 1 đến Chương 8 của Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi hiện hành (ban hành theo Quyết định số 110/2003/QĐ-BTC ngày 25/7/2003 của Bộ Tài chính). Ngày 25/2/2004, Chính phủ đã ký Nghị định số 99/2004/NĐ-CP ban hành lộ trình giảm thuế nhập khẩu cho danh mục EHP của Việt Nam giai đoạn 2004-2008. Ngày 10-3-2004, Bộ Tài chính cũng đã có thông tư số 16/2004/TT-BTC để hướng dẫn thực hiện Nghị định này. Sau khi tham khảo ý kiến với các Bộ, ngành hữu quan, Việt Nam loại trừ 15 mặt hàng nằm trong Chương 1 đến Chương 8 của Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi không tham gia vào Chương trình Thu hoạch sớm gồm: gia cầm giống vịt, ngan, ngỗng, gà tây, thịt và các bộ phận nội tạng của gia cầm, trứng chim và trứng gia cầm, và các quả có múi như: chanh, bưởi. Mục đích của việc loại trừ các sản phẩm này trong Chương trình Thu hoạch sớm là nhằm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng và bảo hộ sản xuất trong nước. Trung Quốc có 531 mặt hàng dành thuế suất ưu đãi cho Việt Nam (và các nước ASEAN khác) trong Chương trình Thu hoạch sớm, bao gồm các sản phẩm nông sản và thủy sản nằm trong Chương 1 đến Chương 8 của Biểu thuế XNK của Trung Quốc. - Lộ trình và mức cắt giảm thuế quan Đối với Trung Quốc(và các nước ASEAN 6): Chương trình Thu hoạch sớm được thực hiện trong vòng 3 năm. Theo đó, việc cắt giảm thuế sẽ bắt đầu từ 1/1/2004 và hoàn thành không muộn hơn 1/1/2006 (mức thuế suất vào thời điểm hoàn thành chương trình là 0%) (Bảng 1.2). Đối với các nước thành viên mới của ASEAN (CLMV) thời gian cắt giảm thuế sẽ chậm hơn với cách thức cắt giảm thuế linh hoạt hơn. Việt Nam bắt đầu thực hiện cắt giảm thuế từ 1/1/2004 nhưng hoàn thành không muộn hơn 1/1/ 2008 (Bảng 1.3). Bảng 1.2: Lộ trình cam kết cắt giảm thuế của Trung Quốc (và các nước ASEAN 6) trong Chương trình Thu hoạch sớm Nhóm mặt hàng Không muộn hơn ngày 1/1/2004 1/1/2005 1/1/2006 Nhóm 1: Các dòng thuế có thuế suất trên 15% 10% 5% 0% Nhóm 2: Các dòng thuế có thuế suất từ 5-15% 5% 0% 0% Nhóm 3: Các dòng thuế có thuế suất dưới 5% 0% 0% 0% Nguồn: Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện giữa Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á và cộng hòa nhân dân Trung Hoa Bảng 1.3: Lộ trình cam kết cắt giảm thuế của Việt Nam trong Chương trình Thu hoạch sớm Nhóm mặt hàng Không muộn hơn ngày 1/1/2004 1/1/2005 1/1/2006 1/1/2007 1/1/2008 Nhóm 1: Các mặt hàng có thuế suất cao hơn 30% 20% 15% 10% 5% 0% Nhóm 2: Các mặt hàng có thuế suất từ 15% đến 30% 10% 10% 5% 5% 0% Nhóm 3: Các mặt hàng có thuế suất dưới 15% 5% 5% 0-5% 0-5% 0% Nguồn: Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện giữa Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á và cộng hòa nhân dân Trung Hoa - Quy tắc về xuất sứ tạm thời đối với các loại hàng hóa được áp dụng của các bên tham gia chương trình Nhóm đàm phán về cơ chế giải quyết tranh chấp giữa ASEAN và Trung Quốc đã gần tiến tới thoả thuận về một số nội dung chính trong Hiệp định về giải quyết tranh chấp như cách thức thực hiện hòa giải, thủ tục thiết lập cơ quan xét xử, chỉ định ban trọng tài. Hiện ._.còn nhiều vấn đề khác còn đang được các bên tranh cãi như mối quan hệ giữa cơ chế giải quyết tranh chấp ASEAN-Trung Quốc với các cơ chế khác, điều khoản bồi thường, khung thời gian cho các thủ tục pháp lý, tranh chấp khi có nhiều bên tham gia đồng thời .... Các bên nhất trí sẽ tiếp tục thảo luận vấn đề này trong các phiên TNC sắp tới để hoàn thiện dự thảo Hiệp định trong năm 2004. ASEAN đề xuất áp dụng thêm quy tắc xuất xứ đặc thù, bên cạnh các quy tắc xuất xứ đã được các bên áp dụng là quy tắc xuất thuần túy và quy tắc xuất xứ theo giá trị gia tăng. Với quy tắc xuất xứ đặc thù, mục tiêu của ASEAN là mở rộng các cơ hội trao đổi cho các hàng hoá của hai bên, đặc biệt là với những sản phẩm khó đáp ứng được yêu cầu về giá trị gia tăng. Trung Quốc tỏ ra thận trọng với vấn đề mở rộng quy tắc xuất xứ vì ngại mất thời gian, nhưng sẵn sàng cùng ASEAN nghiên cứu tính khả thi của đề xuất này. Như vậy, nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại giữa các bên, Chương trình thu hoạch sớm được coi như tiền đề, như điều kiện đầu tiên cho việc tiến tới hình thành một khu vực mậu dịch tự do ACFTA lớn nhất thế giới. Chúng cùng bổ sung và hỗ trợ lấn nhau trong quá trình tự do hóa thương mại và hợp tác kinh tế trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt từ bên ngoài khối. 1.2.2. Những thuận lợi do EHP mang lại cho Việt Nam 1.2.2.1. Lợi thế về mặt thuế quan Theo thống kê, hiện nay trong 531 dòng thuế Trung Quốc dành ưu đãi cho ta trong Chương trình Thu hoạch sớm, Việt Nam có 206 dòng thuế xuất khẩu sang Trung Quốc. Trong đó: + Chỉ có 7 dòng thuế có thuế suất MFN 0% (tức là Trung Quốc không phải cắt giảm) +123 dòng thuế có thuế suất trên 15% thuộc Nhóm 1,2/ Bảng 1 và 76 dòng thuế có thuế suất từ 5-15% thuộc Nhóm 3/ Bảng 1, Trung Quốc sẽ phải cắt giảm theo lộ trình giảm thuế của Chương trình Thu hoạch sớm. Theo Lộ trình cắt giảm thuế của EHP, phía Trung Quốc sẽ phải cắt giảm mạnh và nhanh. Cụ thể, ngay trong năm nay, đối với 123 mặt hàng có thuế suất trên 30% và từ 15-30%, Trung Quốc lần lượt sẽ phải cắt giảm xuống 20% và 10%, còn đối với 76 mặt hàng có thuế suất từ 5-15%, Trung Quốc sẽ phải cắt giảm xuống 5% . Do đó, Việt Nam sẽ hưởng lợi rất nhiều do phần lớn các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc sẽ được cắt giảm thuế quan. Cũng theo các cam kết trong Chương trình Thu hoạch sớm, thuế nhập khẩu của Việt Nam sẽ giảm dần từ năm 2004 và đạt 0% vào năm 2008. Hiện nay, thuế suất nhập khẩu MFN bình quân của tất cả các dòng thuế trong Chương 1 đến chương 8 của ta là 27,4%. Năm 2001, kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng từ Trung Quốc trong các chương 1 đến chương 8 đạt 28 triệu USD. Số thu thuế trên giá trị nhập khẩu năm 2001 là 8,44 triệu USD chỉ bằng 14% số thuế nhập khẩu tương ứng mà Trung Quốc đánh vào hàng xuất khẩu của Việt Nam (73,5 triệu USD). Do vậy, cùng với quá trình cắt giảm thuế quan, thiệt hại của ta vẫn thấp hơn so với Trung Quốc. Những thiệt hại trên có thể được cân bằng với giá trị hàng xuất khẩu sang Trung Quốc tăng, các khoản thu về thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp để bù lại khoản giảm thu thuế nhập khẩu tính trực tiếp trên hàng nhập khẩu. 1.2.2.2. Lợi ích cụ thể theo các nhóm mặt hàng + Nhóm 1 (các dòng thuế trên 15%): Số lượng các sản phẩm mà ta xuất khẩu trong nhóm này chiếm tỷ trọng cao nhất (có 123 mặt hàng trong tổng số 206 mặt hàng có kim ngạch). Số thuế nhập khẩu của Trung Quốc đánh trên hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ giảm dần. Năm 2001 thuế nhập khẩu của Trung Quốc đánh vào các sản phẩm xuất khẩu của nước ta trong Nhóm 1 là 66,6 triệu USD, đến năm 2004, khoản thuế này giảm xuống còn 32,7 triệu USD và chỉ còn 16,3 triệu USD vào năm 2005. Đến năm 2006, thuế nhập khẩu của Trung Quốc đối với các mặt hàng này sẽ không còn nữa. Đây là lợi thế quan trọng đối với hàng hoá Việt Nam để mở rộng hơn nữa khả năng thâm nhập thị trường Trung Quốc. Tiềm năng xuất khẩu của nước ta đối với các sản phẩm thuộc Nhóm 1 là rất khả quan. Những mặt hàng được hưởng lợi nhất trong nhóm này là các loại hoa quả sơ chế (nhãn khô, hạt điều bóc vỏ), các loại quả tươi (như dâu tây, dưa hấu, chanh, quýt), các loại thuỷ sản thân mềm (như mực, lươn), các loại động vật thân giáp (như tôm, cua). + Nhóm thứ 2 ( các dòng thuế từ 5- 15%): Số lượng các mặt hàng trong Nhóm 2 là 76 mặt hàng trong số 206 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc. Theo tính toán, năm 2001 số thuế nhập khẩu của Trung Quốc là 6,9 triệu USD. Dự kiến, năm 2004, thuế nhập khẩu của Trung Quốc đánh trên hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ chỉ còn 3 triệu USD. Đến năm 2005, khoản thuế này sẽ không còn nữa. Ta đang khai thác các mặt hàng trong Nhóm này một cách tích cực. Nếu như năm 1999, ta xuất khẩu chỉ có 15 mặt hàng thì năm 2000 con số này là 24 và 2001 là 76 nhóm mặt hàng. Mức tăng trưởng như vậy là rất khả quan. Các mặt hàng chủ yếu trong Nhóm này bao gồm như các loại củ và hạt (như sắn lát, ngô sơ chế, đậu hà lan, khoai lang), các loại rau tươi (như nấm, măng, ớt, hành tỏi..), cá loại thuỷ hải sản khác + Đối với Nhóm 3 ( Các dòng thuế từ 0-5%): Các mặt hàng thuộc nhóm này sẽ có thuế suất bằng 0% ngay khi thực hiện nên không có tác động cụ thể nào đối với nước ta. Bản thân ta xuất khẩu cũng rất ít với 7 nhóm hàng có kim ngạch không lớn (khoảng 3 triệu USD) như các loại động vật sống hoặc làm giống, đậu hà lan... 1.2.3. Những thách thức từ việc thực hiện EHP đối với Việt Nam - Hàng hóa hai nước Việt - Trung có nhiều chủng loại trùng hợp nhau, nhưng sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam tương đối yếu về giá cả, cơ cấu hàng xuất khẩu và mẫu mã, chủng loại, do đó muốn mở rộng xuất khẩu sang Trung Quốc, Việt Nam vẫn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn. - Tính chủ động sáng tạo của doanh nghiệp tương đối yếu, có tư tưởng ỷ lại nghiêm trọng, mang tâm lý dựa vào cơ quan chủ quản tương đối phổ biến.v.v. Chính vì thế, tuy Chương trình thu hoạch sớm khi đi vào có hiệu lực nhưng thực sự chuẩn bị để đương đầu và tiếp nhận nó của hầu hết các doanh nghiệp vẫn là rất thờ ơ và tỏ ra rất thiếu những hiểu biết cần thiết về chương trình quan trọng này. - Các bộ ngành liên quan của chính phủ và các ngành nghề triển khai nghiên cứu thị trường thế giới nói chung cũng như thị trường Trung Quốc nói riêng chưa sâu. Thông tin về thị trường Trung Quốc khổng lồ vẫn luôn là một thách thức đối với các doanh nghiệp xuất khẩu khi muốn thâm nhập vào thị trường này. Những thông tin đáng tin cậy về thị trường Trung Quốc chưa có một cách đầy đủ, và độ dễ dàng trong tiếp cận với những thông tin này là chưa cao do tính thiếu phổ biến của nó. - Doanh nghiệp Việt Nam chưa xây dựng được mạng lưới quan hệ tiêu thụ mang tính lâu dài và ổn định tại thị trường Trung Quốc, trong giao dịch mậu dịch thường rơi vào thế bị động. Điều này xuất phát từ các thức buôn bán giao thương theo con đường tiểu ngạch biên mậu (chiếm khoảng 60% các giao dịch) đã quá ăn sâu vào tư tưởng của các doanh nghiệp cũng như các nhà xuất khẩu đơn lẻ của Việt Nam. - Thêm vào đó, sự cạnh tranh của các nước trong khu vực trên thị trường đầy tiềm năng như Trung Quốc luôn rất khốc liệt. Điểm quan trọng nhất khi Việt Nam tham gia vào ACFTA và chương trình thu hoạch sớm khi chính là những ưu đãi về mặt thuế quan. Tuy nhiên với việc Trung Quốc đi trước Việt Nam một bước trong tiến trình ra nhập WTO và quá trình tham gia hội nhập vào thương mại tự do với các nước trong khu vực như Thái Lan và Singapore thì đây cũng lại chính là những thách thức đáng kể nhất của hàng hóa Việt Nam trên thị trường này, đặc biệt khi cơ cấu hàng xuất khẩu sang Trung Quốc của các đối thủ phong phú và có tình tương thích đối với thị trường Trung Quốc là cao hơn chúng ta. - Thêm vào đó, việc ra nhập ACFTA và EHP cũng gây cho Việt Nam phải đối mặt với nguy cơ bị tràn ngược hàng từ Trung Quốc sang. Đây là điều rất đáng lưu tâm. Thị trường Việt Nam đã không ít lần chứng kiến các cơn bão hàng Trung Quốc giá rẻ đánh bật rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam ngay trên sân nhà. Do đó đảm bảo vị thế trên sân nhà của các doanh nghiệp Việt Nam cũng là một thách thức không nhỏ. 1.2.4. Tác động của Chương trình Thu hoạch sớm với quan hệ thương mại Việt Nam-ASEAN Chương trình Thu hoạch sớm có ảnh hưởng không đáng kể đến quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN vì giữa các nước ASEAN đang thực hiện Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) với lộ trình cắt giảm thuế nhanh hơn. Thậm chí, trong các mặt hàng từ Chương 1 đến 8, ta đang xuất siêu với các nước ASEAN với giá trị trên 35 triệu USD. Đây là một lợi thế rất lớn đối với Việt nam. Theo cam kết CEPT/AFTA của Việt Nam, tất cả các mặt hàng từ Chương 1-8 thuộc danh mục IL và TEL sẽ phải giảm xuống 0-5% vào năm 2006, tổng cộng là 341 mặt hàng. Trong khi đó trong Chương trình Thu hoạch sớm, những dòng thuế có thuế suất cao từ 30% đến 50% trong Chương 1-8 sẽ cắt giảm xuống 10% năm 2006 và giảm dần xuống 0% vào năm 2008. Về mức độ cắt giảm thuế, hiện nay, trong Chương trình CEPT 2002, ta đã cắt giảm 308 dòng thuế từ Chương 1-8 xuống thấp hơn và bằng 20%, trong khi đó, Chương trình Thu hoạch sớm vẫn còn duy trì thuế suất MFN cao, khoảng 219 dòng thuế bằng và lớn hơn 20%. (Bảng 1.4) Bảng 1.4. So sánh Lộ trình cắt giảm thuế Chương trình EH với Chương trình CEPT/AFTA của Việt nam Lộ trình cắt giảm Chương trình EH Chương trình CEPT Thuế suất 20% 15% 10% 0-5% Tổng cộng 20% 15% 10% 0-5% Tổng cộng 2004 219 0 71 76 366 0 68 64 209 341 2005 0 219 71 76 366 0 0 132 209 341 2006 0 0 219 147 366 0 0 0 341 341 Nguồn: Cục xúc tiến thương mại – Bộ thương mại Tóm lại, chương trình Thu hoạch sớm ít ảnh hưởng đến quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN vì giữa các nước ASEAN đang thực hiện Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) trong khuôn khổ AFTA với lộ trình cắt giảm thuế nhanh hơn. Thực tế là nước ta vẫn xuất siêu sang các nước ASEAN nhưng giá trị nhỏ, khoảng trên 35 triệu USD. Do đó, lợi ích của Chương trình Thu hoạch sớm đối với các doanh nghiệp Việt Nam sẽ chủ yếu nhờ vào khai thác các mối quan hệ thương mại với Trung Quốc. 1.3. Vai trò của thị trường Trung Quốc đối với hàng nông thủy sản xuất khẩu của Việt Nam Thị trường Trung Quốc là một thị trường có sức tiêu thụ rất lớn và tiềm năng với tất cả các nước trong đó có Việt Nam. Nước ta lại có lợi thế về vị trí địa lý gần gũi khi xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc. Sau khi quan hệ hai nước được bình thường hóa năm 1991, quan hệ thương mại Việt-Trung có nhiều khởi sắc. Việt Nam bắt đầu tăng cường xuất khẩu các mặt hàng sang Trung Quốc như nông sản, thủy hải sản, cao su, dầu thô, khoáng sản, v.v. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc thường không ổn định, trong cơ cấu mặt hàng chủ yếu là nguyên liệu thô, giá cả bấp bênh, trong khi đó Trung Quốc lại nhập khẩu nguyên liệu thô của ta và xuất sang Việt Nam hàng tiêu dùng với chất lượng trung bình và giá rẻ và các mặt hàng máy móc có giá trị cao. Khu vực thị trường thu hút nhiều hàng hóa xuất khẩu nhất với Việt Nam chính là vùng Tây Nam, giáp biên giới Việt Trung. Vùng này bao gồm 12 tỉnh, thành phố với diện tích hơn 5 triệu km2 ( chiếm trên 60 % diện tích toàn Trung Quốc), dân số hơn 300 triệu người. Đây là vùng miền núi, nhiều dân tộc, trình độ sản xuất và mức sống của nhân dân chưa phát triển bằng vùng duyên hải của Trung Quốc như Quảng Đông, Phúc Kiến, Thượng Hải... Để cải thiện đời sống nhân dân, rút ngắn khoảng cách chênh lệch về giàu nghèo giữa miền Đông và miền Tây, trong những năm gần đây Đảng và Chính phủ Trung Quốc đã triển khai chính sách “đại khai phá miền Tây”, với nhiều chủ trương, chính sách ưu đãi, tập trung nguồn vốn lớn để xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế thương mại... cho vùng nay, do vậy nhu cầu về hàng hoá ở đây rất đa dạng, yêu cầu về tiêu chuẩn, chất lượng hàng hoá không cao, phù hợp với trình độ sản xuất, hàng hoá hiện có của Việt nam, là một trong những thị trường giàu tiềm năng đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Trong các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, nổi lên 2 mặt hàng có tốc độ tăng trưởng khá nhanh về kim ngạch là thủy sản và nông sản. Đây cũng chính là 2 mặt hàng có lợi thế xuất khẩu của nước ta. Trung Quốc là một nước xuất khẩu thuỷ sản rất lớn trên thế giới, nhưng đồng thời cũng là thị trường tiêu thụ thủy sản lớn ước đạt 32,7 kg/người/ năm (so với mức bình quân thế giới là 20 kg/người/ năm). Gần đây, Trung Quốc đang thực hiện chính sách đóng cửa biển 2 đến 3 tháng mỗi năm để bảo vệ nguồn lợi thủy sản trong nước, nên càng làm tăng lượng thuỷ sản nhập khẩu vào Trung Quốc. Thị trường Trung Quốc lại có nhiều điều kiện thuận lợi cho hàng thủy sản của Việt Nam như sức tiêu thụ lớn, chi phí vận chuyển thấp, yêu cầu tiêu chuẩn chất lượng đặt ra không quá cao (so với các nước Liên minh Châu Âu). Nhiều doanh nghiệp Hồng Kông và Đài Loan đầu tư vào Trung Quốc muốn nhập hải sản của Việt Nam để chế biến và tái xuất sang thị trường thứ 3. Mặt hàng rau quả cũng có điều kiện rất tốt để thâm nhập vào thị trường Trung Quốc. Việc Trung Quốc gia nhập WTO về ngắn hạn sẽ không làm thay đổi vị thế cạnh tranh của rau quả Việt Nam. Về dài hạn, rau quả Việt Nam sẽ phải cạnh tranh gay gắt với rau quả của Trung Quốc nhưng cũng có nhiều cơ hội để thâm nhập thị trường này. Theo thống kê, hiện nay tiêu thụ rau quả của Trung Quốc chiếm tới 36% tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam, tiếp theo là Đài Loan (17%), Nhật Bản (12%), Mỹ (7%), Nga (4%)... 1.4. Những lợi thế và hạn chế của hàng nông thủy sản Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc 1.4.1. Những lợi thế của hàng nông thủy sản Việt Nam khi cạnh tranh trên thị trường Trung Quốc Thứ nhất: So với các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu như hàng dệt may, giầy da hay cơ khí, điện tử lắp ráp…thì trong cùng một lượng kim ngạch xuất khẩu thu về như nhau, tỷ lệ chi phí sản xuất có nguồn gốc ngoại tệ của hàng nông sản rất thấp, do đó thu nhập ngoại tệ ròng của hàng nông sản xuất khẩu sẽ cao hơn nhiều. Ví dụ: Chi phí sản xuất hạt điều xuất khẩu có nguồn gốc ngoại tệ (phân bón, thuốc sâu bệnh và các loại hóa chất, xăng dầu…) chỉ chiếm từ 27 đến 73% giá trị kim ngạch xuất khẩu hạt điều. Điều đó có nghĩa là xuất khẩu hạt điều đã tạo ra từ 27 đến 73% thu nhập ngoại tệ thuần cho đất nước, chỉ số này đối với hàng dệt may xuất khẩu là khoảng 15 đến 20%. Đây là lợi thế ban đầu của các nước nghèo, khi chưa có đủ nguồn ngoại tệ để đầu tư xây dựng các nhà máy lớn, khu công nghiệp để sản xuất - kinh doanh những mặt hàng đòi hỏi nhiều ngoại tệ. Thứ hai: Ngành nông thủy sản là ngành sử dụng nhiều lao động vào quá trình sản xuất - kinh doanh. Đây là một ưu thế quan trọng hiện nay của ngành, vì hàng năm nước ta phải giải quyết thêm việc làm cho 1,4 triệu người bước vào tuổi lao động. Ví dụ, để trồng và chăm sóc 1 ha dứa hay 1 ha dâu tằm mỗi năm cần sử dụng tới 20 lao động. Trong khi đó, giá nhân công Việt Nam rẻ hơn các nước khác trong khu vực, phổ biến với mức 1- 1,2 USD/ngày công lao động như trong sản xuất lúa, cà phê. Hiện nay, một số công việc nặng nhọc như đánh bắt cá ngừ, thu hoạch mía hay thu hoạch lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) với giá nhân công cao cũng mới chỉ là 2-2,5 USD/ngày công lao động, nhưng vẫn còn rẻ hơn so với Thái Lan từ 2-3lần. Tất nhiên lợi thế này sẽ không tồn tại lâu do sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và thế giới. Thứ ba: Điều kiện sinh thái tự nhiên của nhiều vùng nước ta rất thuận lợi cho việc phát triển sản xuất một số loại rau quả vụ đông có hiệu quả như cà chua, bắp cải, tỏi, khoai tây… Trong khi cũng vào thời gian này ở Trung Quốc đang bị tuyết dày bao phủ không thể trồng trọt được gì, nhưng những nơi này lại là thị trường tiêu thụ lớn và tương đối dễ tính. Các đối thủ cạnh tranh như Thái Lan, Philipin lại kém lợi thế hơn so với Việt Nam cả về điều kiện tự nhiên sinh thái, cả về kỹ năng, kinh nghiệm sản xuất và tính cần cù lao động của người nông dân trong việc trồng trọt các loại rau quả đó. Thứ tư: Một số ít nông sản được thị trường Trung Quốc ưa chuộng như nhân hạt điều, dứa, lạc lại có thể trồng ở Việt Nam trên các đất bạc màu, đồi núi trọc (như điều) hay trên đất phèn, mặn (như dứa), lạc vụ 3 xen canh, nên không bị các cây trồng khác cạnh tranh, mà trên thực tế vẫn còn có khả năng mở rộng sản xuất. Thứ năm: Trung Quốc vốn là thị trường truyền thống với quy mô lớn và tương đối dễ tính đối với các mặt hàng nông sản của Việt Nam. Mặt khác, trên các nước này hiện có một lượng doanh nhân và doanh nghiệp Việt Nam đang làm ăn phát đạt ở đó. Đây là một lợi thế lớn để nối lại thị trường tiêu thụ mà bấy lâu nay nước ta đã bỏ qua chưa khai thác có hiệu quả. Thứ sáu: Nhiều tư liệu sản xuất dùng trong quá trình sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản vẫn còn phải nhập khẩu, mà phần lớn lại nhập với giá cao hơn giá thế giới, chi phí để sản xuất các loại tư liệu đó trong nước rất cao. Do vậy mở cửa hội nhập kinh tế, tự do hóa thương mại sẽ làm cho giá nhập khẩu mặt hàng này rẻ hơn, làm cho giá thành sản xuất và chế biến các loại hàng nông, lâm, thủy sản của nước ta giảm xuống một lượng đáng kể do đó sẽ tạo thêm ưu thế cạnh tranh. Thứ bảy: Thể chế chính trị ổn định, môi trường đầu tư và hệ thống pháp luật của Việt Nam ngày càng được cải thiện và điều chỉnh thích ứng dần với tiến trình tự do hóa thương mại trong khu vực và toàn cầu. 1.4.2. Những bất lợi của hàng nông thủy sản Việt Nam khi cạnh tranh trên thị trường Trung Quốc Thứ nhất: Nhìn chung, tuy Việt Nam đã bước đầu hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung nhưng khối lượng hàng hóa còn nhỏ bé, thị phần trên thế giới thấp, chất lượng chưa đồng đều và ổn định. Việt Nam chưa hình thành được các vùng chuyên canh sản xuất hàng tươi sống và vùng nguyên liệu tập trung cho các nhà máy chế biến lớn theo yêu cầu kỹ thuật và kinh tế. Gạo của Việt Nam chưa đảm bảo độ đồng nhất về quy cách chất lượng ngay trong từng lô gạo, bao bì đóng gói kém hấp dẫn và chưa có nhãn thương hiệu của doanh nghiệp mình trên vỏ bao bì. Điều đó làm cho giá xuất khẩu của nông sản Việt Nam thấp hơn các nước khác. Thứ hai: Phần lớn các loại giống cây con hiện đang được nông dân sử dụng có năng suất và chất lượng thấp hơn so với các nước trên thế giới và các đối thủ cạnh tranh trong khối ASEAN. Trên địa bàn cả nước chưa hình thành được một hệ thống cung ứng giống cây con tốt cho người sản xuất, từ giống tác giả, giống nguyên chủng cho đến giống thương phẩm. Hầu hết người nông dân đã tự sản xuất giống cây con cho mình từ vụ thu hoạch trước hoặc mua giống trên thị trường trôi nổi mà không có sự đảm bảo về chất lượng, đặc biệt là giống các loại cây ăn quả, cây lương thực, cây rau… Năng suất lúa của Việt Nam chỉ bằng 61% năng suất lúa của Trung Quốc và thấp thua nhiều so với lúa của Nhật Bản, Italia, Mỹ. Năng suất cà chua của ta chỉ bằng 65% năng suất cà chua thế giới, cao su Việt Nam mới đạt năng suất 1,1 tấn/ha, so với năng suất thế giới là 1,5 - 1,8 tấn/ha - thấp hơn tới 30-40%. Thứ ba: So với các đối thủ cạnh tranh, Việt Nam có công nghệ chế biến lạc hậu, chưa đảm bảo chất lượng sản phẩm theo yêu cầu tiêu dùng của các thị trường khó tính như Nhật Bản, EU, Bắc Mỹ. Mặt khác, kết cấu hạ tầng phục vụ cho việc vận chuyển, bảo quản dự trữ, bốc xếp hàng hóa nông sản, nhất là hàng tươi sống rất yếu kém nên giá thành sản phẩm và phí gián tiếp khác tăng nhanh. Ví dụ: Do công suất bốc xếp ở cảng Sài Gòn là 1000 tấn/ngày chỉ bằng 1/2 công suất cảng Băng Cốc (Thái Lan), cho nên cảng phí cho 1 tàu chở gạo 10000 tấn ở Việt Nam là 40000 USD, còn ở cảng Băng Cốc là 20000 USD, như vậy là chi phí tại cảng trong khâu bốc xếp của Việt Nam đã cao hơn gấp đôi so với cảng Băng Cốc. Thứ tư: Năng lực quản lý sản xuất kinh doanh, chế biến và xuất khẩu nông sản chưa đáp ứng được yêu cầu trong điều kiện tự do hóa thương mại, đặc biệt là khâu marketing, dự tính dự báo thị trường. Mối liên kết kinh tế giữa các khâu sản xuất - chế biến - xuất khẩu, giữa khâu cung ứng vật tư đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra, giữa khâu kỹ thuật với khâu kinh tế... chưa thiết lập được một cách vững chắc để đảm bảo sự ổn định về số lượng và chất lượng cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh hàng nông sản xuất khẩu theo yêu cầu của thị trường. Thứ năm: Tuy chủng loại hàng hóa xuất khẩu của ta đa dạng hơn nhưng nhìn chung thì diện mặt hàng vẫn còn khá đơn điệu, chưa có sự thay đổi đột biến về chủng loại, về chất lượng, xuất khẩu chủ yếu vẫn dựa vào một vài mặt hàng chủ lực, truyền thống như gạo, cà phê, cao su, hải sản… mà phần lớn chúng đều tiềm ẩn nguy cơ tăng trưởng chậm dần do gặp phải những hạn chế mang tính cơ cấu như diện tích có hạn, năng suất có hạn, khả năng khai thác có hạn… và khả năng cạnh tranh ngày càng giảm dần. Thứ sáu: Bộ máy quản lý hành chính Nhà nước vẫn còn quan liêu, trì trệ, chưa thông thoáng và bảo thủ đã làm nản lòng các nhà đầu tư kinh doanh trong và ngoài nước và làm tăng giá thành sản xuất và giá thành sản phẩm xuất nhập khẩu. Do vậy, lợi thế tiềm năng không thể phát huy hết được. Thứ bảy: Trong quá trình tự do hóa thương mại, một số doanh nghiệp kinh doanh hàng nông, lâm, thủy sản làm ăn thua lỗ, không có khả năng cạnh tranh sẽ bị phá sản theo quy luật. Điều bất lợi này Việt Nam cũng phải chấp nhận một cách tự nhiên, bình thường theo vận hành của quy luật kinh tế thị trường. Một số mặt hàng nông sản tiêu thụ nội địa trong nhiều năm qua sẽ bị cạnh tranh và giảm dần hoặc mất thị trường ngay trên quê hương mình. Điều đó cũng dễ hiểu và chúng ta phải tiếp nhận nó như một việc bình thường, không phải chỉ đối với nước ta mà đối với tất cả các nước khác. Nhưng trước mắt, điều bất lợi này sẽ gây ra những tác động tiêu cực tạm thời cả trên lĩnh vực kinh tế - xã hội và chính trị. Những bất lợi phân tích trên đây phần lớn do nguyên nhân chủ quan gây ra nên có thể khắc phục được trong tương lai gần nếu chúng ta có quyết tâm và có các giải pháp kịp thời, đúng đắn. Nếu khắc phục tốt thì những bất lợi này có thể lại trở thành các lợi thế tiềm ẩn của hàng hóa nông sản xuất khẩu của nước ta nói riêng và cho tất các loại nông sản phẩm khác nói chung trong bối cảnh tự do hoá thương mại toàn cầu. Tóm lại, xét về tổng thể, hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam tuy đã đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ và có nhiều lợi thế cần được khai thác, nhưng vẫn còn nhiều tồn tại và bất lợi. Những tồn tại và bất lợi này đều có sự liên quan chặt chẽ với nhau, vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của nhau, đòi hỏi phải được xử lý một cách dứt điểm, đồng bộ và toàn diện. Nền nông nghiệp Việt Nam đang trên đà phát triển và hòa nhập vào xu thế chung của nông nghiệp các nước trong khu vực và toàn cầu, tuy nhiên tiến trình này về mức độ và hiệu quả không chỉ phụ thuộc vào bản thân sự cố gắng của phía Việt Nam, mà còn phụ thuộc vào xu thế chung của thị trường hàng hóa nông sản thế giới. Trong định hướng phát triển nông nghiệp của mình vấn đề quan trọng được đặt ra là khả năng thực sự về mức độ đáp ứng của sản xuất - xuất khẩu đối với nhu cầu thế giới đến đâu, không chỉ về số lượng mà còn yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm, đẹp về hình thức, phong phú và đa dạng về chủng loại và giá cả hợp lý nhằm tăng sức hấp dẫn đối với người tiêu dùng. Do vậy, nâng cao khả năng sản xuất, phát huy các lợi thế cạnh tranh của nông sản hàng hóa Việt Nam trên thị trường là vấn đề cốt lõi trong chiến lược phát triển nông nghiệp hướng ra xuất khẩu của Việt Nam, trước hết có thể tập trung vào các mặt hàng nông sản chủ yếu có nhiều lợi thế nhất. 1.5. Kinh nghiệm xuất khẩu nông thủy sản hàng hóa của Thái Lan sang Trung Quốc Giữa năm 2003, Thái Lan và Trung Quốc đã ký một bản thỏa thuận đẩy nhanh việc thực hiện EHP đối với hàng rau quả (nằm trong chương 7 và 8 của Biểu thuế xuất nhập khẩu). Theo thỏa thuận này, Trung Quốc và Thái Lan cắt giảm thuế quan đối với hàng rau quả xuống còn 0% kể từ ngày 1-10-2003 Sau đó, Thái Lan và Trung Quốc đã thống nhất việc tăng số lượng các mặt hàng cắt giảm thuế xuống còn 0% theo chương trình thu hoạch sớm của FTA Thái Lan-Trung Quốc sau khi chính thức thực hiện cắt giảm thuế quan đối với nông thủy sản từ 1/10/2003. Vì vậy, hàng nông thủy sản của Thái Lan bước đầu đã có lợi thế so với Việt Nam, đến khi thuế suất giảm xuống còn 0% cho hàng nông thủy sản Việt Nam vào năm 2006 thì hàng Thái Lan đã tràn ngập và có chỗ đứng vững chắc trên thị trường Trung Quốc.   Cuối năm 2003, Phó Thủ tướng Thái Lan Somkid đã dẫn một đoàn doanh nghiệp tới các đặc khu kinh tế ở phía Đông và Tây Trung Quốc để xúc tiến việc thâm nhập sản phẩm rau quả vào thị trường này. Theo đó, nước này muốn thực thi các thoả thuận tự do thương mại vùng với Trung Quốc về các mặt hàng nông thủy sản. Hai bên cũng đã ký thoả thuận tiêu chuẩn hoá về sản phẩm nông nghiệp, theo đó phía doanh nghiệp Thái Lan cam kết cung ứng hàng chất lượng cao thường xuyên cho Trung Quốc nhờ tiến trình công nghệ hoá sản phẩm. Để hàng tới các vùng phía Tây Trung Quốc có sức cạnh tranh hơn hàng Việt Nam và Myanmar, phía Thái Lan đã xây dựng, cải tạo tuyến đường thủy trên sông Mê Kông, nhờ đó giảm được chi phí vận chuyển so với vận tải đường bộ, Thái Lan cũng đã nghiên cứu phương án chuyên chở sản phẩm không chỉ bằng đường thuỷ mà bằng cả đường hàng không. Phía hàng không Thái Lan cũng đã có quyết định giao cho tư nhân tự đảm nhận vai trò chuyên chở hàng. Như vậy, các hình thức vận chuyển hàng nông thủy sản xuất khẩu của Thái Lan sang thị trường Trung Quốc rất linh hoạt, đáp ứng mọi yêu cầu vận chuyển các loại hàng hóa: mặt hàng tươi sống có thể vận chuyển nhanh chóng qua đường hàng không, còn những mặt hàng bảo quản lâu ngày có thể vận chuyển qua đường bộ và đường thủy. Trong khi đó, hình thức vận chuyển chủ yếu của các nhà xuất khẩu nông thủy sản Việt Nam chủ yếu vẫn là đường bộ, chi phí cao, không chủ động trong việc giao hàng. Về công tác xúc tiến xuất khẩu, tìm thị trường mới, Chính phủ Thái Lan đã có những hoạt động mạnh mẽ, quyết liệt, khẩn trương. Ngay từ cuối năm 2003, Thái Lan đã triệu tập các tham tán thương mại (ở 54 nước) hoạch định chiến lược xuất khẩu tới sáu khu vực trọng yếu là Mỹ La-tinh, châu Phi, Ấn Độ, Trung Đông, Đông Âu và Trung Quốc. Các tham tán thương mại phải liệt kê cho được 10 sản phẩm có tiềm năng xuất khẩu lớn ở các thị trường cũ và mới. Thủ tướng Thái Lan ông Thasksin Shinawatra đã đưa ra định hướng xuất khẩu là nhắm vào thị trường sơ khai đông dân và đối phó với rào cản phi thức thuế quan đang bùng phát, yêu cầu phải kiểm soát chặt chẽ hơn về tiêu chuẩn và chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Cục Xuất khẩu Thái Lan còn hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân chi phí đi nước ngoài ký kết các hợp đồng thương mại, nhất là các thị trường trọng yếu dưới hai dạng hỗ trợ tham dự hội chợ quốc tế ở nước ngoài và tổ chức khảo sát thị trường. Đặc biệt, Thái Lan rất coi trọng công tác xúc tiến xuất khẩu qua hệ thống câu lạc bộ doanh nghiệp. Thí dụ: Câu lạc bộ doanh nghiệp ngành thực phẩm có khoảng 100 thành viên xác định chiến lược nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu theo tiêu chuẩn quốc tế. Họ lên kế hoạch lập các trung tâm bán hàng tại Trung Quốc, Ấn Độ và Trung Đông, đồng thời đã trực tiếp bán hàng tại Vân Nam, Trung Quốc. Họ đã lập hệ thống kho hàng ở Chiang Rai, quận nằm sát Trung Quốc, và sang năm nay xây kho hàng tại Vân Nam. Vấn đề họ lo giải quyết là hậu cần tại chỗ để giảm phí vận chuyển, hoặc chung nhau mua nguyên liệu để chế biến và bán tại chỗ thì có lợi hơn. Về hỗ trợ sản xuất, Chính phủ Thái Lan đã thông qua kế hoạch thành lập công ty liên doanh nhằm bổ sung nguồn vốn và hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi. Công ty này có chức năng hỗ trợ nông dân về tài chính trong quá trình canh tác, chăn nuôi, quản lý kinh doanh sản xuất và tiếp thị. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG TRUNG QUỐC DƯỚI LỘ TRÌNH THỰC HIỆN CỦA CHƯƠNG TRÌNH THU HOẠCH SỚM 2.1. Tình hình xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang Trung Quốc 2.1.1. Kim ngạch xuất khẩu Trong giai đoạn 2000 – 2005, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc có xu hướng giảm xuống, không ổn định. Mặc dù chương trình EHP được mong đợi sẽ thúc đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng nông thủy sản nhưng thực tế tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng này so với trước khi thực hiện EHP (trước 2004) tăng không đáng kể, tuy chưa đạt được mức xuất khẩu cao nhất vào năm 2001 (436,429 triệu USD) nhưng có dấu hiệu phục hồi so với mức thấp nhất vào năm 2003 (218,372 triệu USD). Kim ngạch hiện đang ổn định ở mức khoảng 260 triệu USD trong 2 năm 2004 và 2005 nhưng nhìn chung vẫn thấp hơn mức trung bình giai đoạn 2000-2005 là hơn 311 triệu USD.(Bảng 2.1 và Biểu đồ 2.1) Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu hàng nông thủy sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Kim ngạch xuất khẩu nông thủy sản sang Trung Quốc 413.161 436.429 286.094 218.372 262.262 255.528 Tổng kim ngạch xuất khẩu nông thuỷ sản 1.902.336 2.354.987 2.504.973 2.754.608 3.008.940 3.471.000 Tỷ lệ (%) 21,72 18,53 11,42 7,93 8,72 7,36 Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Trung Quốc 1.536.391 1.417.415 1.518.330 1.883.112 2.735.496 3.256.000 Tỷ lệ (%) 26,89 30,79 18,84 11,60 9,59 7,85 Nguồn: trang thông tin thương mại – Bộ Thương mại Biểu đồ 2.1: Sự biến động của hàng nông thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc Nguồn: trang thông tin thương mại – Bộ Thương mại Tác động của EHP dường như không lớn nếu xét tới tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc của nông thủy sản Việt Nam, giảm tới gần 3 lần, từ 21,72% vào năm 2000 xuống còn 7,36 % vào năm 2005. Lý do dễ thấy nhất là tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng này liên tục tăng qua các năm nhưng kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc lại không tăng, thậm chí năm 2004 còn giảm so với 2003 điển hình như mặt hàng thủy sản: kim ngạch xuất khẩu các năm 2004 và 2005 tương ứng 48 và 60 triệu USD, giảm đi rất nhiều so với năm cao nhất là 2001 (243,5 triệu USD). Điều đó chứng tỏ EHP chưa thực sự hấp dẫn các nhà xuất khẩu nông thủy sản của Việt Nam vào thị trường Trung Quốc hơn các thị trường khác như Nhật Bản, Hoa Kỳ, EU… (Bảng 2.1) Cũng như trên, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu nông thủy sản tron._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9732.doc
Tài liệu liên quan