Thực trạng và giải pháp thu hút FDI vào Hà Nội

MỤC LỤC MỞ ĐẦU Trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế quốc tế và cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ ĐTNN đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi nước, nhất là các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Quốc gia nào thu hút được nhiều và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn quốc tế thì quốc gia đó có cơ hội tăng trưởng kinh tế nhanh, rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế so với các nước công nghiệp. Luật ĐTNN ban hành năm 1987 được bổ sung và hoàn thiện

doc36 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1411 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp thu hút FDI vào Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sau 4 lần năm 1992,1996,1998 và 2000 cũng phần nào thể hiện những nỗ lực của Việt Nam trong vấn đề này. Không ai có thể phủ nhận rằng FDI ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của cả nước nói chung và của các địa phương nói riêng. Hà Nội là một trong những địa phương dẫn đầu cả nước về thu hút FDI trong nhiều năm qua. Vậy quá trình thu hút FDI của Hà Nội trong thời gian qua đã diễn ra như thế nào? kết quả ra sao? Và giải pháp nào để đẩy mạnh hoạt động thu hút FDI vào Hà Nội? Xuất phát từ những vấn đề trên, đề tài nghiên cứu của đề án là: Thực trạng và giải pháp thu hút FDI vào Hà Nội. Để hoàn thành đề án này, em đã tham khảo tài liệu của nhiều tác giả và đặc biệt là sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Ngọc Huyền. Qua đây, em xin cảm ơn sự giúp đỡ của thầy và mong nhận được những lời nhận xét quý báu từ thầy. I. CƠ SỞ LÍ LUẬN 1. Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) 1.1. Khái niệm Có nhiều khái niệm về nguồn vốn ĐTNN : Khái niệm do hiệp hội Luật Quốc Tế năm 1996 đưa ra là: ĐTNN là sự di chuyển vốn từ nước của người đầu tư sang nước của người sử dụng nhằm xây dựng ở đó xí nghiệp kinh doanh hoặc dịch vụ. Có thể thấy khái niệm này đã nêu được đặc điểm cơ bản của đầu tư quốc tế tuy nhiên về mục tiêu của quá trình đầu tư chưa được đề cập một cách đầy đủ. Theo luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam ban hành năm 1987 và được bổ sung hoàn thiện sau 4 lần sửa đổi ( 1992, 1996, 1998, 2000): ĐTNN là việc các tổ chức và cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hay xí nghiệp 100% vốn nước ngoài. Tuy nhiên có thể hiểu ĐTNN là quá trình di chuyển vốn từ quốc gia này sang quốc gia khác nhằm các mục tiểu nhất định. Khái niệm nguồn vốn FDI. Trên thực tế có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Khái niệm do Qũy tiền tệ quốc tế IMF đưa ra: FDI là nguồn vốn đầu tư được thực hiện nhằm thu hút về những lợi ích lâu dài cho doanh nghiệp hoạt động ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế thuộc đất nước của nhà đầu tư. Mục đích của nhà đầu tư là giành được quyền quản lý doanh nghiệp đó. Như vậy khái niệm này không nói đến có sự di chuyển của vốn giữa các quốc gia khác nhau mà nhấn mạnh nhiều hơn đến mục đích của hoạt động đầu tư khi chủ đầu tư mang vốn cảu mình đi đầu tư ở một nước khác. Theo luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam ( 12/11/1996) có nêu: FDI là việc nhà ĐTNN đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của luật này. Như vậy khái niệm này đề cập tới tính chất quốc tế của FDI thể hiện ở chủ đầu tư là người nước ngoài đồng thời cũng nêu được nguồn vốn được thể hiện dưới các hình thức khác nhau, nhưng mục đích của việc đầu tư thì khái niệm này chưa đề cập đến. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư trong đó người chủ đầu tư có quyền kiểm soát đối với hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như lợi ích của mình ở một hãng nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài do vậy bao gồm quyền sở hữu và quyền kiểm soát sản xuất kinh doanh ở nước ngoài. Có thể thấy ở các giác độ khác nhau, thì khái niệm FDI được đưa ra có những điểm khác nhau tuy nhiên có thể hiểu chung như sau: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động đầu tư do các tổ chức kinh tế và cá nhân nước ngoài tự mình hoặc cùng với các tổ chức kinh tế của nước sở tại bỏ vốn vào một đối tượng nhất định, trực tiếp quản lý và điều hành để thu lợi trong kinh doanh, đồng thời họ cũng chịu trách nhiệm về vốn cũng như kết quả kinh doanh của mình tại nước tiếp nhận đầu tư. 1.2. Tính tất yếu khách quan Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, việc mở cửa nền kinh tế ra thế giới bên ngoài là một tất yếu khách quan và là một yêu cầu cấp bách đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế của một quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển. thu hut FDI đã trở thành một hoạt động tất yếu của quá trình mở cửa này. 1.2.1.Thu hút FDI là phù hợp và đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế Ngày nay, do tác động của cách mạng khoa học và công nghệ, lực lượng sản xuất thế giới phát triển mạnh mẽ dẫn đến phá vỡ sự biệt lập của các quốc gia, tạo ra sự gắn kết sự tương tùy giữa các quốc gia, dân tộc trong sự vận động phát triển. Theo đó, thế giới hóa cũng có nghĩa là toàn cầu hóa và quốc tế hóa. Các quốc gia dù muốn hay không đều chịu tác động của quá trình này và đương nhiên để tồn tại và phát triển trong điều kiện đó không thể không tham gia quá trình toàn cầu hóa, buộc phải thực hiện mở cửa, khai thông, hội nhập kinh tế quốc tế khu vực và toàn cầu. Tham gia hội nhập, các quốc gia có cơ hội và điều kiện tiếp cận với dòng vốn, công nghệ, mở rộng thị trường, tiếp nhận kỹ năng và kinh nghiệm quản lý từ các nền kinh tế phát triển cao nhất. các nền kinh tế đang phát triển và kinh tế chuyển đổi, do đó sẽ có cơ hội để thực hiện mô thức phát triển và rút ngắn, nghĩa là thông qua hội nhập kinh tế quốc tế để đi tắt đón đầu và tiến tới phát triển cao hơn trên cơ sở thụ hưởng và vận dụng hiệu quả các nguồn lực ở bên ngoài đã được khai thông và kết nối với các nguồn lực bên trong. Trong tiến trình hội nhập, việc thu hút và sử dụng các nguồn lực từ bên ngoài, đặc biệt là thu hút FDI có ý nghĩa quan trọng đến tăng trưởng kinh tế bền vững, kể cả các nước đang phát triển cũng như các nước phát triển. với những lợi ích thu được từ FDI cho cả hai phía( bên đầu tư và bên nhận), FDI đã mở ra cơ hội hợp tác và hội nhập cho toàn bộ nền kinh tế, góp phần đảm bảo nguồn lực lâu dài và có hiệu quả cho tăng trưởng kinh tế bền vững. thực tế cho thấy, tốc đọ tăng trưởng GDP của các quốc gia tham gia vào quá trình toàn cầu hóa gần đây đã tăng từ 2,9%/năm trong thập kỉ 70 lên 3,7%/năm trong thập kỉ 80 và 5% trong thập kỉ 90. còn các quốc gia đang phát triển không nằm trong nhóm toàn cầu hóa thì tốc độ tăng trưởng GDP giảm từ 3,3 %/năm trong thập kỷ 70 xuống 0,8%/năm trong thập kỷ 80 và chỉ tăng lên mức 1,4%/năm trong thập kỷ 90. Vì vậy, thu hút FDI là phù hợp và đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. 1.2.2. Nhu cầu về vốn phát triển kinh tế rất lớn trong khi khả năng tích lũy trong nước hạn hẹp Vốn đầu tư là yếu tố vật chất quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Nhưng cần bao nhiều, từ đâu và vào đâu là các bài toán khó. Hầu hết các nước đang phát triển đều đứng trước hai vấn để quan trọng có liên quan đến vốn đầu tư để đảm bảo tốc độ tăng trưởng cao và bền vững. Một là, tỷ lệ huy động vốn trong nước thông qua kênh tiết kiệm và các khoản thu các nhà nước không đáp ứng đủ nhu cầu vốn đầu tư. Khoản thiếu hụt vốn nếu không tìm được nguồn vốn bổ sung thì sẽ tác động tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Hai là, tình trạng nhập siêu là không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa đất nước đã dẫn đến sự thiều hụt ngoại tệ trong thời gian dài. Cả hai vấn đề đó có thể được giải quyết bằng cách thu hút vốn nước ngoài, trong đso có FDI Một nước phát triển cao như Mỹ năm 1995 với tổng GNP là 7.233 tỷ USD và tổng vốn đầu tư là 1.029 tỷ USD, nhưng vẫn cần đến nguồn vốn FDI vào khoảng 90 tỷ USD ( mặc dù Mỹ đầu tư ra bên ngoài một khối lượng vốn tương đương như vậy). FDI vào Mỹ chỉ chiếm khoảng hơn 8% tổng vốn đầu tư của Mỹ và 1,2% tổng GNP, nhưng lại giữ vai trò nguồn vốn bổ sung rất quan trọng đối với nền kinh tế Mỹ, làm tăng thêm nguồn sinh khí mới cho thị trường đầu tư của Mỹ và có vai trò to lớn đối với sự phát triển của kinh tế Mỹ. Trên thực tế, tỷ lệ tích lũy tài sản so với GDP của các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển, chẳng hạn của Việt Nam năm 1990 đạt 15,8%, năm 1995 đạt 27,14%; 1999 đạt 27,26% và năm 2002 đạt 32,08%. Tỷ lệ này ở Singapore là 35,9% năm 1990, 33,1% năm 1995 và 35,1% năm 1996; Hàn Quốc 36,9% năm 1990, 37,1% năm 1995 và 38,2% năm 1996. Vì vậy, muốn duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bền vững các nước đang phát triển sẽ phải dựa vào nguồn vốn từ bên ngoài để phá “ Cái vòng luẩn quẩn” ( nghèo – thiếu vốn – nghèo) và phát triển kinh tế 1.2.3. FDI có ưu thế hơn so với các nguồn vốn đầu tư nước ngoài khác Trong số các kênh bổ sung vốn từ bên ngoài, nguồn vốn FDI và ODA là quan trọng nhất. Nguồn vốn FDI không thay thế được vốn ODA, nhưng nó có những đặc trưng và thế mạnh riêng. Vốn ODA thường gắn liền với quan hệ chính trị giữa nước cấp vốn với nước nhận viện trợ; Các tổ chức tài chính quốc tế như IMF, WB, ADB cũng đòi hỏi các nước đi vay phải thực hiện nhiều cam kết, đôi khi khá ngặt nghèo về tái cơ cấu kinh tế, về cải cách hệ thống tài chính, tiền tệ… hơn nữa, chi phí ODA xét ra khá đắt cho nước nhận viện trợ vì buộc phải chịu những quy định khác về giải ngân và triển khai dự án ODA theo các điều kiện bất lợi như: Mua, bán thiết bị công nghệ theo các địa chỉ, đối tác chỉ định sẵn, trả lương cao cho chuyên gia…Thực tiễn thế giới cho thấy, nhiều trường hợp có tới 80% kinh phí ODA đã quay trở lại nước chủ nợ dưới nhiều kênh khác nhau. Chẳng hạn, các nước nhận viện trợ là những con nợ lớn như Braxin, Mehico, Ấn độ, Inddonexia, Achentina, Thổ nhĩ kì… Vì thế, phần lớn viện trợ lại được trả nợ cho IMF, WB hay cho các nước giầu có khác. Tín dụng ngắn hạn nước ngoài được quyết định bởi những tính toán đầu tư trên cơ sở chênh lệnh lãi suất quốc tế và những dự tính về tỉ giá hối đoái chứ ko phải là những tính toán dài hạn. Sự di chuyển của các dòng vố này thường là kết quả của hiệu ứng rủi ro đạo đức như sự đảm bảo ngầm đối với tỉ giá hối đoái hay sự sẵn sàng trợ giúp của chính phủ đối với hệ thống ngân hàng. Những dòng vốn đó sẽ rút chạy ngay lập tức khi tình hình bất ổn xảy ra và chính chúng là nguyên nhân của những chu kì bùng nổ - đổ vỡ trong thập kỉ 90. FDI là kênh đầu tư tương đối an toàn, do nhà ĐTNN tự chịu trách nhiệm về chi phí và hiệu quả đầu tư, chịu trách nhiệm về vay và trả nợ; Không để lại gánh nặng nợ nần cho ngân sách nhà nước như vay thương mại, không phải chịu sức ép ràng buộc các điều kiện kinh tế, chính trị như vay ODA, đồng thời tránh cho nước chủ nhà những biến động đầy rủi ro từ những thăng trầm trên thị trường chứng khoán. Rút bài học từ cuộc khủng hoàng kinh tế vừa qua, các nước trong khu vực đều thừa nhận vai trò tích cực, tính an toàn cảu FDI so với vay nợ thương mại và đầu tư gián tiếp, kể cả vay từ nguồn viện trợ tài tchinhs khẩn cấp của IMF ( chính Hàn Quốc và Thái Lan đã không cần ghiair ngân tiếp các khoản vay mà IMF cam kết, còn Malaysia thẳng thắn cự tuyệt những khoản vay đầy điều kiện ngặt nghèo này). Thực tế cho thấy, FDI nói chung và nhất là FDI từ TNCs có tác động kích thích các công ty khác tham gia tham gia đầu tư vào nước chủ nhà, và là một tác nhân để thu hút ODA từ các nước mà các tổ chức quốc tế, đồng thời gia tăng tốc độ phát triển kinh tế và do đó tăng thêm tỷ lệ huy động vốn trong nước. kinh nghiệm của nhiều nước châu Á chỉ ra rằng, các nhân tố được xác định là đầu tàu cho phát triển kinh tế gồm có: tiết kiệm trong nước là quan trọng nhất, tiếp đến ngoại thương và FDI, còn ODA cho dù quan trọng đến đâu cũng chỉ được coi là sự trợ giúp hay hỗ trợ, không phải là một đầu tàu cho sự tăng trưởng. nhiều nền kinh tế đang phát triển Đông Á đã từng tiếp nhận những khoản viện trợ lownstrong thập kỷ 50 và 60 ( thế kỷ 20) trong đó có Hàn Quốc, Thái Lan, Indonesia và Việt Nam nhưng đã không tăng trưởng tốt những năm đó. Chỉ đến khi hoạt động ngoại thương, FDI và tiết kiệm trong nước của các nước này tăng mạnh, vượt xa ODA thì nền kinh tế của họ mới tăng trưởng mạnh. Tóm lại, FDI là một đặc trưng nổi bật của nền kinh tế hiện đại, vừa là kết quả, vừa là công cụ và động lực quan trọng thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa. 2. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài 2.1. Thu hút vốn đầu tư Thu hút vốn đầu tư là tổng thể các biện pháp nhằm tập hợp các nguồn lực ( vốn, công nghệ…) để tiến hành các hoạt động đầu tư nhằm những mục tiêu nhất định. 2.2. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài Thu hút vốn ĐTNN là tổng thể các biện pháp nhằm di chuyển các nguồn lực từ nước ngoài vào trong nước để tiến hành các hoạt động đầu tư nhằm khai thác có hiệu quả nguồn lực trong nước và đạt được những mục tiêu khác. 2.3. Các phương thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào một quốc gia 2.3.1. Thu hút tập trung Thu hút vốn ĐTNN theo phương thức tập trung là hình thức mà theo đó các nguồn lực huy động được sẽ tập trung tại một số địa điểm nhất định như : các khu công nghệ cao, khu chế xuất… Ưu điểm của phương thức này là tận dụng được lợi thế theo quy mô, dễ quản lý…Tuy nhiên có nhược điểm có thể dẫn đến sự phát triển không đồng đều giữa các khu vực trong một quốc gia. 2.3.2. Thu hút phi tập trung Thu hút vốn ĐTNN theo phương thức phi tập trung là hình thức mà theo đó các nguồn lực huy động được không tập trung tại một số địa điểm nhất định như các khu công nghiệp, khu chế xuất…mà được phân bổ ra nhiều khu vực khác nhau. Phương thức này khắc phục được nhược điểm của phương thức trên tuy nhiên lại dẫn đến tình trạng khó quản lý, không tận dụng được lợi thế theo quy mô… 3. Điều kiện để cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài 3.1. Các điều kiện tự nhiên Điều kiện tự nhiên của một nước bao gồm: vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, khí hậu, đất đai…điều kiện tự nhiên cũng là một trong những điều kiện để cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài của một quốc gia. Vị trí địa lý thuận lợi tạo ra khả năng phát triển cá hoạt động du lịch, trung chuyển, tái xuất khẩu, chuyển khẩu hàng hóa qua các khu vực lân cận. những quốc gia biết phát huy lợi thế vị trí địa lý cuả mình bằng việc hiện đại hóa cảng biển, hạ thấp các mức thuế, giảm loại thuế so với các khu vực khác đã tạo ra sức hấp dẫn tối đa FDI. Tài nguyên thiên nhiên đa dạng, phong phú cho phép nước sở tại cá thể phát triển nền kinh tế với cơ cấu đa ngành và tham gia một cách tích cực vào phân công lao động thế giới. quốc gia có tài nguyên phong phú, gần nguồn nguyên liệu làm cho chin phí sản xuất trở nên rẻ hơn, là điểm đến của ĐTNN. Thực tế cho thấy, trong những thập kỷ gần đây, những nhân tố chính khuyến khích FDI vào châu Phi là có sự giàu có về tài nguyên thiên nhiên ( chẳng hạn như đầu tư vào công nhiệp dầu lửa ử Nigeria và Angola ) và ở một mức độ thấp hơn là qui mô của nền kinh tế nội địa.+ 3.2. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật Cơ sở hạ tầng là công cụ để thu hút FDI. Ngoại trừ đối với các nhà ĐTNN chuyên kinh doanh trong lĩnh vực hạ tầng, còn sự phát triển của cơ sở hạ tầng kĩ thuật của một quốc gia tiếp nhận FDI luôn là điều kiện vật chất hàng đầu để các chủ đầu tư có thể nhanh chóng thông qua các quyết định và triển khai trên thực tế các dự án đầu tư đã cam kết. Một tổng thể hạ tầng phát triển phải bao gồm: Một hệ thống giao thông vận tải phát triển với các cầu, cảng, đường xá, kho bãi và các phương tiện vận tải đủ sức bao phủ quốc gia và đủ tầm hoạt động quốc tế; Một hệ thống bưu điện thông tin liên lạc viễn thông với các phương tiện nghe – nhìn hiện đại, có thể nối mạng thống nhất toàn quốc và toàn cầu; Hệ thống điện nước dồi dào và phân bổ tiện lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như đời sống và một hệ thống mạng lưới cung cấp các loại dich vụ khác phát triển rộng khắp đa dạng và có chất lượng cao ( y tế, giáo dục, giải trí, các dịch vụ, hải quan, tài chính, ngân hàng, thương mại, quảng cáo...) Trong các điều kiện và chính sách hạ tầng phục vụ FDI, chính sách đất đai và bất động sản có sức chi phối mạnh mẽ đến nguồn vốn FDI đổ vào một nước. Càng tạo cho các chủ đầu tư nước ngoài sự an tâm về sở hữu và quyền chai…) 3.3. Cơ sở hạ tầng kinh tế Hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế bao gồm hệ thống pháp luật về đầu tư và các chính sách quan trọng như chính sách thương mại, chính sách tiền tệ, các mức ưu đãi tài chính – tiền tệ Hệ thống pháp luật đầu tư là thành phần quan trọng của môi trường đầu tư bao gồm các văn bản luật, các văn bản quản lí hoạt động đầu tư ( như hướng dẫn đầu tư, đánh giá, thẩm định dự án và quản lí các hoạt động đầu tư…) nhằm tạo lên hành lang pháp lí đồng bộ thuận lợi nhất cho hoạt động FDI. Các quy định trong hệ thống pháp luật đầu tư của nước sở tại phải đảm bảo sự an toàn về vốn và cuộc sống cá nhân cho nhà đầu tư khi hoạt động đầu tư đó của họ không làm phương hại đến an ninh quốc gia ( đảm bảo pháp lí đối với tài sản tư nhân và môi trường cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo việc di chuyển lợi nhuận về nước cho các nhà đẩu tư được dễ dàng ). Nội dung của hệ thống của luật ngày càng đồng bộ chặt chẽ, không chồng chéo, phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế thì khả năng hấp dẫn FDI càng cao. Chính sách thương mại cần thông thoáng theo hướng tự do hóa, để đảm bảo khả năng xuất nhập khẩu các mày móc thiết bị, nguyên liệu sản xuất cũng như sản phẩm tức đảm bảo sự thuận lợi, kết nối liên tục các công đoạn hoạt động đầu tư thực sự trở thành mối quan tâm của các nhà ĐTNN Chính sách tiền tệ phải giải quyết được các vấn đề chống lạm phát và ổn định tiền tệ. Chính sách lãi suất và tỉ giá tác động trực tiếp đến dòng chày của FDI với tư các là các yếu tố quyết định giá trị đẩu tư vào mức lợi nhuận thu được tại một thị trường xác định. Việc xem xét sự vận động của dòng vốn nước ngoài ở các nước trên thế giới cho thấy, dòng vốn đầu tư dài hạn, nhất là FDI đổ vào một nước thường tỉ lệ thuận với sự gia tăng lòng tin của các chủ đẩu tư, đồng thời lại tỉ lệ nghịch với độ chênh lệch lãi suất trong – ngoài nước, trong – ngoài khu vực. Nếu độ chênh lệch lãi suất đó càng cao tư bản nước ngoài càng ưa đầu tư theo kiểu cho vay ngắn hạn, ít chịu rui ro và hưởng lãi ngay trên chỉ số chênh lệch lãi suất đó. Hơn nữa, khi mức lãi suất trong nước cao hơn mức lãi suất quốc tế thì sức hút với dòng vốn chảy vào càng mạnh. Tuy nhiên, đồng nghĩa với lãi suất cao là chi phí trong đẩu tư cao làm giảm đi lợi nhuận của các nhà đầu tư. Một tỉ giá hối đoái linh hoạt phù hợp với tình hình phát triển kinh tế ơ từng giai đoạn, thì khả năng thu lợi nhuận từ xuất khẩu càng lớn, sức hấp dẫn với vốn nước ngoài càng lớn. Một nước có mức tăng trưởng xuất khẩu cao sẽ làm yên lòng các nhà đẩu tư vì khả năng trả nợ của nước đó được bảo đảm hơn, độ mạo hiểm trong đầu tư sẽ giảm xuống Các mức ưu đãi tài chính – tiền tệ dành cho đầu tư nước ngoài trước hết phải bảo đảm cho các chủ đầu tư tìm kiếm được lợi nhuận cao nhất trong điều kiện kinh doanh chung của khu vực, của mỗi nước để khuyến khích họ đầu tư vào trong nước và vào những nơi mà chính phủ muốn khuyến khích đầu tư. Những ưu đãi về thuế chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong số các ưu đãi tài chính dành cho đầu tư nước ngoài. Mức ưu đãi thuế cao hơn luôn được dành cho các dự án đầu tư có tỉ lệ vốn nước ngoài cao 3.4. Cơ sở hạ tầng xã hội Các yếu tố về ngôn ngữ, tôn giáo, phong tục tập quán, thị hiếu thẩm mĩ, đạo đức… là những yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng xã hội, chúng có tác động không nhỏ đến hoạt động thu hút vốn ĐTNN. Sự bất đông về ngôn ngữ và văn hoá trong một số trường hợp đã mang lại những hậu quả khôn lường trong kinh doanh. Tinh thần tự trọng dân tộc quá cao cùng với thái độ bài ngoại sẽ là rào cản lớn đối với các nhà ĐTNN. Các nhà ĐTNN sẽ không muốn đàu tư vào một nước có quá nhiều phong tục tập quán khác nhau, nhiều lễ hội, nhiều điều kiêng kỵ bởi điều này khiến cho họ khó hoà nhập và không thuận lợi trong hoạt động kinh doanh. Thẩm mỹ dân tộc của nước chủ nhà là yếu tố quan trọng để chủ ĐTNN chọn các hình thức quảng cáo và bao bì sản phẩm. Một ngân hang của Anh thiết kế màu xanh lá cây trong biểu tượng của mình, nhưng khi đặt chi nhánh tại Singapore đã phải thay đổi màu bởi ở nước này màu xanh lá cây bị coi là màu tang tóc. 4. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư nước ngoài của một số nước 4.1. Kinh nghiệm thu hút vốn của Trung Quốc Trung quốc có diện tích 9,6 triệu km2, dân số đến năm 2006 là 1300 triệu người. trước đây, nền kinh tế trung quốc rất thấp kém và khủng hoảng trầm trọng nhưng từ năm 1987 bắt đầu thực hiện cải cách và mở cửa nền kinh tế trong đó đặc biệt coi trong thu hút FDI nên đã có những bước phát triển với tốc độ cao. Sau gần 30 năm cải cách và mở cửa Trung Quốc đã đạt được những thành tựu thu hút FDI khiến thế giới phải chú ý, nhất là sau khi trớ thành thành viên của WTO. Để làm được điều đó Trung Quốc đã có nhiều biện pháp nhằm cải thiện môi trường trong nước thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Đó là: a. Hoàn thiện hệ thống pháp luật đảm bảo đồng bộ, minh bạch, thông thoáng. Năm 1979 bộ luật đầu tư hợp tác quốc tế được ban hành. Luật lien doanh nước ngoài, luật doanh nghiệp hợp tác nước ngoài và nhiều văn bản quy đinh, hướng dẫn được ban hành. Năm 2000 Trung Quốc đã sửa đổi luật đầu tư nước ngoài, thường xuyên rà soát và tiến hành bãi bỏ hoặc sửa đổi những văn bản không còn phù hợp. các văn bản pháp luật được sửa đổi bổ sung hay ban hành mới đều đảm bảo tính thực thi nghiêm túc, dễ hiểu,và thống nhất cả về từ ngữ và dịch thuật ra tiếng nước ngoài; đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài không bịn thay đổi hoặc bất lợi theo quy định mới; thực hiện tốt công tác tuyên truyền pháp luật; xóa bỏ những quy định có tính chất nội bộ, trái với quy định chung của nhà nước. Trung Quốc cũng phân chia ngành nghề đầu tư thành bốn loại: khuyến khích, được phép, hạn chế và cấm. đến nay danh mục các ngành nghề được khuyến khích mở rộng từ 186 lên 262 khoản mục, trong khi đó ngành nghề hạn chế giảm từ 112 xuống còn 75. dặc biệt Trung Quốc tập chung thu hút đầu tư vào công nghệ phục vụ nông nghiệp, công nghệ cao, vận tải, năng lượng, vật liệu mới, các ngành cơ bản, bảo vệ môi trường… b. Tăng cường các ưu đãi tài chính, tiền tệ. Trung Quốc thực hiện chính sách ưu đãi thuế có khuyến khích cao. Tỉ lệ thuế thu nhập áp dụng chung cho doanh nghiệp FDI là 33%, nhưng nếu đầu tư vào đặc khu kinh tế, khu CNC và khu vực ưu tiên khác thì chỉ 15%; đầu tư vào khu vực miền tây và miền trung được miễn trong 2 năm sau khi có lãi, và chỉ nộp 50% trong 6 năm tiếp theo; doanh nghiệp có công nghệ cao xuất khẩu vượt tỉ lệ quy định được giảm một nửa. doanh nghiệp mua thiết bị trong nước hoặc nếu thiết bị nhập khẩu thuộc danh sách miễn thuế thì cũng được giảm thuế thu nhập. từ 1/1/1994 doanh nghiệp FDI được áp dụng thuế doanh thu, thuế tiêu thụ và thuế kinh doanh tương tự như đối với doanh nghiệp trong nước. từ 1991 đến 2001, tỷ lệ thuế nhập khẩu đã được giảm 8 lần, chỉ còn 16,5 %. Chính sách tiền tệ: doanh nghiệp FDI được cấp giấy chứng nhận quản lý ngoại hối để mở tài khoản ngoại tệ ở các ngân hang trong nước hay các tổ chức tài chính ở ngoài lãnh thổ Trung Quốc. doanh nghiệp FDI được quyền vay vốn từ các ngân hang trong nước với sự bảo lãnh của các cổ đông nước ngoài, bãi bỏ yêu cầu sử dụng ngoại tệ hoặc bảo lãnh bằng ngoại tệ của các ngân hàng khi giải quyết vay vốn của các doanh nghiệp FDI. c. Đa dạng hóa các ngành, lĩnh vực vùng kinh tế trong thu hút FDI. Giai đoạn đầu Trung Quốc chủ yếu mở cửa thu hút FDI vào các ngành công nghiệp nhẹ, ngành dệt, sau đó từng bước mở rộng sang lĩnh vực năng lượng, nguyên liệu thô, xây dựng cơ sở hạ tầng lĩnh vực dịch vụ mới như bán lẻ, ngoại thương, bảo hiểm, du lịch, tài chính được mở cửa. Trung Quốc liên tục mở rộng các ngành được khuyến khích thu hút FDI, tận dụng cơ hội gia nhập WTO để tăng thu hút FDI, trong đó chú trọng thu hút các TNCs đầu tư vào các ngành công nghệ cao, cơ sở hạ tầng, nghiên cứu và triển khai (R & D) Để giải quyết tình trạng thiếu cân đối giữa các vùng, Trung Quốc có chính sách khuyến khích đầu tư vào các vùng khó khăn như miền Trung và miền Tây. Ngoài ra, Trung Quốc ưu tiên xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển đô thị trong khu vực này, cho phép các địa phương được sử dụng các biện pháp phù hợp để thu hút FDI. Nhằm giảm bớt rủi ro Trung Quốc thực hiện mở cửa từng bước và vững chắc từng khu vực. lúc đầu thành lập 5 đặc khu kinh tế Thẩm Quyến, Chu lai, Hải Nam, Hạ Môn và Sán Đầu ở tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến. Năm 1984, tiếp tục mở của 14 thành phố duyên hải, đầu những năm 1990 Phố Đông của Thượng Hải và một số thành phố của vùng châu thổ sông Hoàng Hà, Gia Đông và vùng phía trong lục địa cũng từng bước được mở cửa. tại các khu kinh tế Trung Quốc đầu xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển đô thị, nhà ở, trường học, bệnh viện, trung tâm công cộng. cho phếp mọi địa phương khai thác mọi khả năng để có vốn đầu tư cơ sở hạ tầng. d. Khuyến khích tham gia vào quá trình tái cơ cấu, đổi mới doanh nghiệp nhà nước Để đẩy mạnh việc tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước, Trung Quốc cho phép bán một phần cổ phiếu các doanh nhiệp nhà nước cho các nhà đầu tư nước ngoài, kể cả doanh nghiệp nhà nước chủ chốt, trừ những doanh nghiệp đặc biệt quan trọng đối với an ninh quốc gia và kinh tế. ví dụ: ngân hàng Hoa Kỳ đã mua 9% của ngân hàng xây dựng Trung Hoa với số tiền 2,5 tỉ đô la Mỹ; ngân hàng hoàng Gia Scotlan mua 15% cổ phần của ngân hàng Trung Hoa lớn thứ hai Trung Quốc. e. Tăng cường phân cấp và phát triển dịch vụ doanh nghiệp Công tác quản lí doanh nghiệp FDI thực hiện theo từng cấp từ trung ương tới các tỉnh, thành phố, khu tự trị. Trung Quốc có các biện pháp ngăn ngừa các khoản chi phí bất hợp lí cho các doanh nghiệp, nghiêm cấm các hoạt động thanh tra trái phép, thu lệ phí hoặc áp đặt thuế hay xử phạt sai quy định. Thủ tục đầu tư được cải tiến đơn giản, từ chỗ phải có vài chục con dấu trước kia đến nay chỉ còn một dấu. quyền hạn cấp phép của cấp tỉnh cũng được mở rộng, chẳng hạn dự án thuộc loại khuyến khích và cho phếp trước đây cấp tỉnh chỉ được cấp phép với dự án không quá 10 triệu đô la Mỹ, sau nâng lên 30 triệu đô la Mỹ và hiện nay là 100 triện đô la Mỹ. Các tỉnh, thành phố, khu tự trị thành lập ác trung tâm dịch vụ đầu tư nước ngoài theo cơ chế một cửa, từ tư vấn pháp lý, phê chuẩn dự án, thành lập doanh nghiệp với thủ tục khá đơn giản. nhiều địa phương đưa ra các biện pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư; cải cách quản lý nâng cao hiệu quả thông quan; tăng cường hiệu quả thu thuế và dịch vụ chuyển ngoại tệ; cải thiện cơ chế giải quyêt khiếu nại từ các doanh nghiệp FDI; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp thuộc các hình thức sở hữu khác nhau. 4.2. Kinh nghiệm thu hút FDI của Đài Loan Đài loan là một trong bốn con rồng châu Á, quá trình phát triển kinh tế đã có những thành tựu nổi bật: từ năm 1953 đến 1997 bình quân tăng trưởng kinh tế hàng năm 8,7%. Trong quá trình xây dựng phát triển kinh tế, Đài Loan cũng đã từng thu hút mạnh vốn ĐTNN. ĐTNN vào Đài Loan có những đặc điểm sau: - Thương gia nước ngoài đầu tư vào Đài Loan có Hoa Kiều và người nước ngoài. Ngay từ năm 1952 đã có Hoa Kiều và đến năm 1954 chính phủ Đài Loan tuyên bố “điều lệ ĐTNN”. Năm 1955 ban bố “điều lệ đầu tư Hoa Kiều”. Hơn nửa thế kỉ qua, vốn đầu tư vào Đài Loan tăng nhanh nhất là thập kỷ 70-80. Qua thực tế ở Đài Loan thấy quan hệ giữa quy mô vốn kinh doanh của người nước ngoài và quy mô đầu tư của họ chịu sự ảnh hưởng của đặc điểm kỹ thuật cảu ngành sản xuất, kỹ thuật sản xuất được sử dụng và mức không chế cổ phần của họ. Nhà ĐTNN vào Đài Loan mục đích chung là thu lợi nhuận nhưng mỗi thời kỳ thể hiện khác nhau. Nhìn chung Đài Loan có nhiều thuận lợi, hấp dẫn đầu tư, ít rủi ro kể cả rủi ro về chính trị. - Hai yếu tố tiền lương và mức thu nhập quốc dân ở Đài Loan là lợi thế cho các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư vào Đài Loan vừa lợi dụng được cả hai yếu tố đó ở mức độ khác nhau trong từng thời kỳ phát triển khác nhau. Vốn ĐTNN đã có những tác động ảnh hưởng trên một số mặt với mức độ khác nhau trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế ở Đài Loan. - Quá trình phát triển kinh tế của Đài Loan là không lệ thuộc vào vốn nước ngoài,vốn nước ngoài chỉ bổ sung một phần nhỏ nguồn vốn. - Năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh của vốn nước ngoài cao hơn trong nước, sức cạnh tranh cao hơn, đã có tác động lớn đối với xuất khẩu, tạo việc làm cho Đài Loan. II.  THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THU HÚT FDI VÀO HÀ NỘI 1. Giới thiệu sự phát triển kinh tế xã hội của Hà Nội Hà Nội là thủ đô và là trung tâm kinh tế chính tri lớn nhất trong cả nước. Theo số liệu thống kê năm 2007 Hà Nội có diện tích 920,97 km2, dân số là 3444,8 (nghìn người). Trong giai đoạn 2000-2005, kinh tế đối ngoại của Hà Nội liên tục phát triển. Xuất khẩu tăng bình quân 15,3%/năm so với 11-12% trong 10 năm trước đó. Tổng kim ngạch đạt 10 tỷ USD, riêng năm 2005 tăng 23% lên 2,8 tỷ USD. Hà Nội đã mở quan hệ giao thương với trên 180 quốc gia và vùng lãnh thổ.. Thành phố đã dặt ra mục đích tăng trưởng xuất khẩu 15-17%/năm cho giai đoạn 2006-2010. Năm 2007 GDP : 42.695 tỷ đồng. Tốc độ tăng GDP 12,08%( cả nước là 8,44%), GDP bình quân đầu người 31,8 triệu đồng ( cả nước là 13,4 triệu đồng) Trong đó phải kể đến sự đóng góp quan trọng của các doanh nghiệp FDI. Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Đơn vị Tổng thu ngân sách nhà nước -trong nước -ĐTNN 30748 27658 3090 38613 35148 3465 54441 48536 5905 tỷ đồng FDI đóng góp vào GDP Cơ cấu đóng góp 13.522 17,8 17.551 19,3 21.010 19,5 tỷ đồng % Các ngành dịch vụ, du lịch và bảo hiểm giữ vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế của thành phố. Trong lĩnh vực công nghiệp, Hà Nội đã xây hoàn chỉnh 9 khu công nghiệp và 11 cụm công nghiệp vừa và nhỏ( Năm 2005). Nhiều sản phẩm công nghiệp trong đó có một số sản phẩm mới như công nghiệp điện tử, công nghiệp phần mềm, chế tạo khuôn mẫu..., đã đứng vững trên thị trường. Trong khi tốc độ đô thị hóa tăng nhanh, nông nghiệp phải chuyển dịch cơ cấu để tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả. Giá trị sản xuất nông-lâm-thủy sản tăng, ước tính đạt 56,2 triệu đồng/ha, thúc đẩy phát triển nông thôn và đời sống của nông dân. Đầu tư tăng cho xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị, mở rộng các tuyến đường, nút giao thông quan trọng. Những năm qua, Hà Nội dẫn đầu cả nước về chỉ số phát triển con người, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống mức thấp nhất (hiện còn dưới 1%) và cũng hoàn thành xóa hộ nghèo diện chính sách, thực hiện xóa phòng học cấp 4, phổ cập trung học cơ sở, chính sách khuyến học, khuyến tài được coi trọng. Năm 2005 Hà Nội có 54 trường đại học, cao đẳng; năm 2006 là 58 và 2007 là 58. Với số lượng đó hiện Hà Nội đang nắm giữ một lượng lớn lao động có trình độ tay nghề cao. Thời gian tới, thành phố Hà Nội sẽ tiếp tục chuyển mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ-công nghiệp-nông nghiệp, phát triển các._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22383.doc
Tài liệu liên quan