Thực trạng và giải pháp tạo việc làm cho người lao động ở huyện Mỹ Hào - Tỉnh Hưng Yên

LỜI CÁM ƠN Em xin chân thành cám ơn các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế lao động & dân số trường Đại học kinh tế quốc dân; các cán bộ, nhân viên trong Phòng Nội vụ – Lao động Thương binh và xã hội huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên; đặc biệt em xin cám ơn sự chỉ bảo tận tình của Tiến sỹ: Vũ Hoàng Ngân đã giúp em hoàn thiện báo cáo chuyên đề thực tập tốt nghiệp này. Em xin chân thành cám ơn ! MỤC LỤC DANH MỤC BIỂU BẢNG Bảng 2.1: Tình hình dân số huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001-2005 26 Bảng 2.2: Tình

doc65 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1969 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp tạo việc làm cho người lao động ở huyện Mỹ Hào - Tỉnh Hưng Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hình lao động của huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001-2005 30 Bảng 2.3: Trình độ văn hoá của người lao động ở huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001-2005 31 Bảng 2.4: Trình độ chuyên môn của người lao động ở huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001-2005 32 Bảng 2.5: Lao động phân theo khu vực nông thôn, xã, thị trấn ở huyện Mỹ Hào từ năm 2002 đến năm 2005 33 Bảng 2.6: Lao động phân theo ngành nghề ở huyện Mỹ Hào từ năm 2002 đến năm 2005 34 Bảng 2.7: Lao động theo giới tính ở huyện Mỹ Hào năm 2005 36 Bảng 2.8: Số lao động dư thừa ở huyện Mỹ Hào qua các năm 38 Bảng 2.9: Kết quả giải quyết việc làm ở huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001-2005 phân theo nhóm ngành kinh tế 39 Bảng 2.10: Kết quả giải quyết việc làm ở huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001-2005 phân theo thành phần kinh tế 41 Bảng 2.11: Kết quả giải quyết việc làm ở huyện Mỹ Hào - Hưng Yên giai đoạn 2001-2005 phân theo khu vực 44 Bảng 2.12: Kết quả giải quyết việc làm ở huyện Mỹ Hào - Hưng Yên giai đoạn 2001-2005 do sự hỗ trợ của quỹ QGGQVL 46 Bảng 3.1: Mục tiêu giải quyết việc làm cho người lao động ở huyện Mỹ Hào trong thời gian tới 53 LỜI MỞ ĐẦU Vấn đề việc làm là một vấn đề hết sức quan trọng đối với mỗi một địa phương, mỗi quốc gia. Vấn đề này không những mang tính kinh tế mà còn mang tính xã hội sâu sắc. Vì vậy trong thời gian qua thì vấn đề tạo việc làm cho người lao động luôn được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước. Hiện nay thì số lượng lao động có việc làm không ngừng tăng, số người thất nghệp và thiếu việc làm giảm đi; có sự chuyển biến tích cực trong cơ cấu và chất lượng lao động. Nhưng trong toàn quốc thì vấn đề tạo việc làm cho người lao động ở mỗi địa phương là rất khác nhau bởi còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của các địa phương, các vùng. Do đó không phải địa phương nào cũng có kết quả tạo việc làm cho người lao động đều tốt cả. Tỉnh Hưng Yên nói chung và huyện Mỹ Hào nói riêng mặc dù trong những năm gần đây tuy có những kết quả cao trong công tác tạo việc làm cho người lao động nhưng vẫn còn rất nhiều tồn tại. Số lao động được giải quyết việc làm ở huyện Mỹ Hào không ngừng tăng qua các năm nhưng tỷ lệ người thất nghiệp và người thiếu việc làm ở nông thôn còn khá cao. Sở dĩ có kết quả như vậy vì huyện Mỹ Hào còn gặp nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng còn yếu kém. Vì vậy trong thời gian tới Huyện uỷ – UBND huyện đưa vấn đề tạo việc làm cho người lao động lên hàng đầu. Nhận thấy được vai trò của việc tạo việc làm cho người lao động, trong thời gian thực tập tại phòng Nội vụ - Lao động Thương binh và xã hội huyện Mỹ Hào, bằng phương pháp nghiên cứu các tài liệu sẵn có, đi tìm hiểu thực tế em xin chọn đề tài : “Thực trạng và giải pháp tạo việc làm cho người lao động ở huyện Mỹ Hào – tỉnh Hưng Yên” làm đề tài cho báo cáo chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề thực tập này là vấn đề tạo việc làm cho người lao động ở huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn 2001 – 2005. Bằng cách phân tích thực trạng tạo việc làm cho người lao động ở huyện Mỹ Hào trong khoảng thời gian trên, mục đích nghiên cứu này là tìm hiểu được những tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại đó, từ đó xin đề xuất ra một số giải pháp tạo việc làm cho người lao động ở huyện Mỹ Hào. Chuyên đề thực tập của em gồm có ba phần : Chương 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG Chương 2 : PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG Ở HUYỆN MỸ HÀO TỈNH HƯNG YÊN Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG Ở HUYỆN MỸ HÀO – HƯNG YÊN CHƯƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG 1.1. Một số khái niệm 1.1.1. Lao động Theo Mác: “Lao động trước hết là quá trình diễn ra giữa con người và giới tự nhiên, là quá trình trong đó bằng hoạt động của mình con người làm trung gian và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên”. Trong bộ luật lao động nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quy định: “Lao động là hoạt động có mục đích của con người, là một hoạt động diễn ra giữa con người và giới tự nhiên”. Trong quá trình tác động vào giới tự nhiên, con người phải sử dụng công cụ, thiết bị để tác động nhằm biến đổi tự nhiên thành những vật thể nhằm đáp ứng nhu cầu của mình. Khi nói đến lao động không thể không nói đến sức lao động, sức lao động là toàn bộ thể chất và tinh thần của con người tồn tại trong một cơ thể, trong một người đang sống và được con người đó đem ra sử dụng mỗi khi sản xuất một giá trị sử dụng nào đó. Như vậy lao động chính là việc sử dụng sức lao động, quá trình lao động đồng thời là quá trình sử dụng sức lao động. 1.1.2. Nguồn lao động Nguồn lao động là nguồn lực về con người, trước hết là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển bình thường. Nguồn lao động là toàn bộ những người trong độ tuổi lao động và có khả năng tham gia lao động không kể đến trạng thái có tham gia lao động hay không. Nguồn lao động với tư cách là yếu tố cho sự phát triển kinh tế xã hội, là khả năng lao động của xã hội, được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, bao gồm những dân cư trong độ tuồi lao động, có khả năng lao động. Cũng có thể hiểu là sự tổng hợp cá nhân những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể yếu tố về thể chất và tinh thần được huy động vào quá trình lao động. Nguồn lao động được xem xét trên hai góc độ, đó là số lượng và chất lượng. Số lượng lao động được biểu hiện thông qua chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng dân số. Chất lượng lao động được đánh giá trên các mặt như sức khoẻ, trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn kỹ thuật, phẩm chất, đạo đức … Trong bộ luật lao động, giới hạn tuổi lao động trong độ tuổi lao động được quy định nam từ đủ 15 tuổi đến 60 tuổi, nữ từ đủ 15 tuổi đến 55 tuổi. Việc xác định độ tuổi lao động giữa các quốc gia là không thống nhất. Tuỳ vào điều kiện của từng nước mà người ta có thể quy định giới hạn trong độ tuổi lao động cho hợp lý. 1.1.3. Việc làm Việc làm là một khái niệm phức tạp, nó gắn với hoạt động thực tiễn của con người, vì vậy để hiểu rõ được khái niệm về việc làm thì chúng ta phải hiểu rõ khái niệm người có việc làm. Tại Hội nghị lần thứ 13 năm 1983 tổ chức lao động thế giới (ILO) đưa ra quan niệm : “Người có việc làm là những người làm một việc gì đó, có được trả công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật hoặc những người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vị lợi ích hay vì thu nhập gia đình, không nhận được tiền công hay hiện vật”. Người có việc làm là những người lao động ở tất cả các khu vực (công và tư) có thu nhập đem lại nguồn sống cho bản thân và gia đình, xã hội.Tại nhiều nước trên thế giới sử dụng khái niệm này. Khi điều tra thống kê về lao động và việc làm, khái niệm trên được cụ thể hoá bằng các tiêu thức khác nhau, tuỳ thuộc vào mỗi nước trên thế giới đặt ra. Trong đó có thể chia ra thành hai nhóm : Nhóm thứ nhất : Là nhóm có việc làm và đang làm việc, đó là những người đang làm bất cứ công việc gì được trả công hoặc làm việc trong các trang trại hay cơ sở sản xuất kinh doanh của gia đình. Nhóm thứ hai : Là những người có việc làm nhưng hiện không làm việc, đó là những người có việc làm nhưng hiện tại đang nghỉ ốm hoặc các lý do cá nhân khác. Những người không thuộc hai nhóm trên được gọi là những người không có việc làm. Theo điều 13 bộ luật lao động nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập, không bị pháp luật găn cấm đều được thừa nhận là việc làm”. Như vậy một hoạt động được coi là việc làm nếu nó đáp ứng được hai tiêu chuẩn : Thứ nhất, đó là hoạt động không bị pháp luật ngăn cấm. Thứ hai, hoạt động đó phải đem lại thu nhập cho người lao động. Việc chuẩn và lượng hoá khái niệm việc làm tạo cơ sở thống nhất trong lĩnh vực điều tra nghiên cứu và hoạch định chính sách về việc làm. Như vậy, việc làm là hoạt động được thể hiện trong ba dạng sau : Thứ nhất, hoạt động lao động để nhận tiền công hoặc tiền lương bằng tiền mặt hay hiện vật. Thứ hai, hoạt động lao động để thu lợi nhuận cho bản thân. Thứ ba, làm công việc cho hộ gia đình của mình, không được trả thù lao dưới mức tiền công, tiền lương cho công việc đó. Bao gồm sản xuất nhà nước trên ruộng đất do chủ hộ hoặc một thành viên trong hộ sở hữu, quản lý hay có quyền sử dụng hoặc hoạt động kinh tế ngoài nông nghiệp do chủ hộ hoặc một thành viên trong hộ làm chủ hoặc quản lý. Như vậy khái niệm việc làm được mở rộng và tạo ra khả năng to lớn giải phóng tiềm năng lao động, tạo việc làm cho người lao động. Việc làm còn có thể hiểu là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất hoặc phương tiện sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Theo quan niệm này thì việc làm bao gồm : Thứ nhất : Là sự biểu hiện của hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất. Thứ hai : Lấy lợi ích vật chất, tinh thần mà các hoạt động đó đem lại, xem xét hoạt động đó có phải là việc làm hay không. Từ đó ta có việc làm là trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất. Sự phù hợp đó thể hiện trên cả mặt số lượng và chất lượng thông qua tỷ lệ giữa chi phí ban đầu C và chi phí lao động V. Quan hệ tỷ lệ này phù hợp với trình độ công nghệ của sản xuất. Khi trinh độ kỹ thuật công nghệ thay đổi thì quan hệ này cũng thay đổi theo. VL C/V Trong đó : VL : việc làm C : tư liệu sản xuất V: lực lượng lao động. 1.1.4.Thất nghiệp Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO): “Thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số người trong độ tuổi lao động muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền công thịnh hành”. Như vậy người thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động trong tuần lễ điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu tìm việc làm và có đăng ký tìm việc theo quy định. Để xem xét và so sánh tình hình thất nghiệp người ta sử dụng các con số chủ yếu là tỷ lệ thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp là tỷ số giữa số người thất nghiệp với dân số hoạt động dân số. UR = U/LF Trong đó : UR: tỷ lệ thất nghiệp U : Số người thất nghiệp LF : Dân số hoạt động dân số. Thất nghiệp là một khái niệm vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội, nó mang nghĩa ngược với có việc làm. Nói đến thất nghiệp là nói đến sự khó khăn cho việc hoạch định chính sách của các quốc gia. Tuy nhiên trên thực tế tỷ lệ thất nghiệp ở mức hợp lý là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế. Vì vậy cần phải giữ mức tỷ lệ thất nghiệp sao cho hợp lý với trình độ phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. 1.1.5. Thiếu việc làm Thiếu việc làm là việc làm không tạo điều kiện, không đòi hỏi người lao động sử dụng hết thời gian lao động làm việc theo chế độ và mang lại thu nhập dưới mức tối thiểu. Người thiếu việc làm là người trong tuần lễ điều tra có số giờ làm việc dưới mức quy định chuẩn cho người có đủ việc làm và có nhu cầu làm thêm. Thiếu việc làm có hai dạng : Thiếu việc làm vô hình : Là khi thời gian sử dụng cho sản xuất kinh doanh không có hiệu quả dẫn đến thu nhập thấp, người lao động phải làm việc bổ sung thêm để tăng thu nhập. Người thiếu việc làm vô hình là người có thời gian làm việc tuy đủ hoặc vượt mức chuẩn quy định về đủ số giờ làm việc trong tuần lễ điều tra nhưng việc làm có năng suất thấp, thu nhập thấp, công việc không phù hợp với chuyên môn nghiệp vụ và họ có nhu cầu tìm việc làm thêm. Thiếu việc làm hữu hình : Là khi thời gian làm việc thấp hơn mức bình thường. Người thiếu việc làm hữu hình là người có việc làm nhưng số giờ làm việc trong tuần lễ điều tra ít hơn mức quy định chuẩn và họ có nhu cầu làm việc thêm. Vì khái niệm về thiếu việc làm khá rộng do đó việc xác định số người thiếu việc làm là rất khó khăn. Vì vậy nhất là khi việc xác định số người thiếu việc làm ở Việt Nam còn khó khăn nên chúng ta cần bám chắc khái niệm thiếu việc làm của ILO, từ đó chỉ xác định người thiếu việc làm ở dạng nhìn thấy còn những trường hợp khác nên đưa vào nhóm những người có việc làm nhưng không ổn định. Tình trạng thiếu việc làm hiện nay tồn tại ở rất nhiều nước nhất là ở những nước đang phát triển như Việt Nam. Việc giải quyết vấn đề này phải có sự kết hợp của nhiều cấp, nhiều ngành và mang tính rất lan giải. Từ những khái niệm trên có khái niệm về việc làm đầy đủ : Việc làm đầy đủ là sự thoả mãn nhu cầu về việc làm cho bất cứ ai có khả năng lao động trong nền kinh tế quốc dân hay việc làm đầy đủ là trạng thái mà mỗi người có khả năng lao động, muốn làm việc thì đều có thể tìm được việc làm trong một thời gian tương đối ngắn. 1.1.6. Tạo việc làm Tạo việc làm cho người lao động là đưa người lao động vào làm việc để tạo ra trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, tạo ra hàng hoá và dịch vụ theo yêu cầu thị trường. Vấn đề tạo việc làm cho người lao động là một vấn để rất phức tạp nhưng là rất cần thiết mà mỗi quốc gia, mỗi địa phương luôn phải quan tâm. Việc tạo việc làm cho người lao động chịu ảnh hưởng của không những là nền kinh tế xã hội mà còn chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác. Vì vậy khi xem xét để đưa ra chính sách tạo việc làm cho người lao động cần phải quan tâm đến rất nhiều nhân tố khác. Thực chất của tạo việc làm cho người lao động là tạo ra trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất gồm cả về chất lượng và cả số lượng. Chất lượng, số lượng của tư liệu sản xuất phụ thuộc vào vốn đầu tư, những tiến bộ khoa học kỹ thuật áp dụng trong sản xuất cũng như việc sử dụng và quản lý các tư liệu đó. Số lượng lao động phụ thuộc vào quy mô và cơ cấu dân số. Chất lượng lao động phụ thuộc vào kết quả đào tạo, phát triển của giáo dục và y tế. Ngoài ra vấn đề môi trường cho sự kết hợp giữa các yếu tố này là hết sức quan trọng, nó bao gồm các chính sách, điều kiện khuyến khích người lao động cũng như người sử dụng lao động trong công việc. Thị trường lao động chỉ có thể được hình thành khi người lao động với người sử dụng lao động gặp gỡ trao đổi đi đến nhất trí vấn đề sử dụng sức lao động, do vậy vấn để tạo việc làm phải được nhìn nhận ở cả người lao động và người sử dụng lao động đồng thời không thể không thể kể đến vai trò của Nhà nước. Người sử dụng lao động là người chủ yếu tạo ra chỗ làm việc cho người lao động, bao gồm các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong và ngoài nước. Để có quan hệ lao động thì giữa người lao động và người sử dụng lao động phải có những điều kiện nhất định. Đó là người sử dụng lao động cần phải có vốn, công nghệ, kinh nghiệm và thị trường tiêu thụ. Còn người lao động cần phải có sức khoẻ, trình độ, chuyên môn, kinh nghiệm phù hợp với công việc của mình. Để có được việc làm được trả công theo ý muốn của mình thì người lao động luôn phải học hỏi, trau dồi kiến thức cho mình để theo kịp sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Ngoài ra người lao động phải luôn tự đi tìm việc làm phù hợp với mình để đem lại thu nhập cho gia đình mình.Tuy nhiên khi nói đến quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động không thể không kể đến vai trò của Nhà nước. Nhà nước quản lý quan hệ lao động bằng các chính sách khuyến khích động viên nhằm đem lại lợi ích cho cả hai bên. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho cả người lao động và người sử dụng lao động để họ phát huy tối đa năng lực của mình. Ngoài ra Nhà nước cũng đưa ra các chiến lược đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo phân bổ nguồn nhân lực một cách hợp lý. Vì vậy, khi nghiên cứu tạo việc làm cần chú ý đến vấn đề đầu tư của Nhà nước cũng như tư nhân là các khu vực có thể tạo ra cơ hội việc làm cho người lao động. Hiện nay việc đầu tư của Nhà nước cũng như của các tư nhân đều tập trung ở thành thị và các khu công nghiệp vì ở những nơi này sẽ tạo ra được tỷ lệ lợi nhuận cao hơn và có khả năng liên kết với nhau hơn. Chính vì điều này sẽ gây ra hiện tượng người lao động từ nông thôn ra thành thị và cũng làm tăng tỷ lệ thất nghiệp ở nông thôn, do đó cần phải có chính sách tạo việc làm phù hợp cho cả người lao động ở thành thị và nông thôn. Khi nghiên cứu chính sách tạo việc làm cho người lao động không thể không để cập đến những yếu tố ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động. 1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình tạo việc làm cho người lao động. 1.2.1. Tư liệu sản xuất Tư liệu sản xuất ở đây bao gồm vốn, đất đai, máy móc, công cụ, kết cấu hạ tầng kỹ thuật, nguồn lực sinh học…Trong đó quan trọng nhất là yếu tố về vốn, đất đai, kết cấu hạ tầng kỹ thuật, các yếu tố còn lại có thể mua được bằng vốn. Trước tiên chúng ta nói đến vốn. Vốn có vai trò rất quan trọng, không thể thiếu được trong quá trình sản xuất. Vốn được biểu hiện bằng tiền của tư liệu sản xuất và đối tượng lao động được sử dụng vào trong quá trình sản xuất. Trong công nghiệp vốn có vai trò rất quan trọng, là yếu tố thiết yếu để ngành phát triển. Vốn trong công nghiệp được sử dụng rất nhiều và là yếu tố hàng đầu để cho ngành tồn tại, vốn được sử dụng rất nhiều ngay cả khi chưa hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn được dùng để xây dựng nhà xưởng, mua sắm thiết bị nguyên vật liệu, máy móc, vốn để dự trữ cho quay vòng. Càng có nhiều vốn để đầu tư, quy mô sản xuất ngày càng được nâng cao, hiệu quả sản xuất càng cao và số lao động thu hút làm việc sẽ ngày một nhiều hơn. Trong sản xuất nông nghiệp thì vốn cũng có vai trò hết sức quan trọng. Sự tác động của vốn đến hiệu quả kinh tế của sản xuất nông nghiệp không phải bằng cách trực tiếp mà thông qua cây trồng, vật nuôi, yếu tố kỹ thuật trong nông nghiệp. Cơ cấu chất lượng của vốn sản xuất phải phù hợp với từng loại đối tượng sản xuất, từng loại đất đai. Ngoài ra trong sản xuất nông nghiệp cần phải có một lượng vốn lưu động nhằm tránh tình trạng bị ứ đọng vốn do thời tiết xấu. Có thể nói vốn là một yếu tố rất quan trọng để phát triển sản xuất nông nghiệp, khi diện tích đất đai là không đổi thì vốn đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển chiều sâu. Do đó khi nguồn vốn được sử dụng trong nông nghiệp tăng thì càng tạo ra được nhiều chỗ làm việc cho người lao động trong nông thôn, nhất là khi mà lượng thiếu việc làm của người lao động nông thôn còn tồn tại rất nhiều. Vốn trong ngành thương mại dịch vụ có vai trò đặc biệt quan trọng. Chỉ có thể hoạt động sản xuất thương mại dịch vụ khi mà có vốn. Khi mà vốn tăng thì hoạt động dịch vụ sẽ được mở rộng và do đó sẽ tạo nhiều chỗ làm cho người lao động trong lĩnh vực này. Như vậy, trong bất cứ hoạt động nào thì yếu tố vốn cũng đóng vai trò quan trọng và gián tiếp ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động. Yếu tố thứ hai nhưng đóng vai trò quan trọng nhất trong tư liệu sản xuất đó là yếu tố đất đai. Đất đai là cơ sở tự nhiên, là tiền đề của mọi quá trình sản xuất. Sự ảnh hưởng của đất đai là khác nhau đối với các ngành khác nhau. Trong sản xuất nông nghiệp, đất đai không chỉ tham gia với tư cách là yếu tố thông thường mà là yếu tố tích cực không thể thay thế được. Nhưng sự tác động của đất đai tới sản xuất nông nghiệp là có hạn vì diện tích đất đai là không thể tăng được mà hiện nay trong quá trình công nghiệp hoá thì diện tích đất đai đang bị thu hẹp. Ngày nay, diện tích đất đai là có hạn, dân số thì gia tăng do đó diện tích đất trên đầu người giảm do đó vấn đề sử dụng đất trong nông nghiệp càng khó khăn hơn. Chúng ta đang khắc phục hạn chế trên bằng cách khai thác chiều sâu trong sản xuất nông nghiệp để tạo ra nhiều sản phẩm để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân. Ruộng đất có vị trí cố định gắn liền với các điều kiện kinh tế xã hội của mỗi vùng. Nó khác với các tư liệu sản xuất khác, bởi nó không bị hao mòn và đào thải khỏi quá trình nếu sử dụng đúng mục đích, hợp lý thì chất lượng của đất ngày càng tốt hơn, sức sản xuất của ruộng đất ngày càng cao hơn. Do đó để tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, nhất là lao động nông thôn thì vấn đề chú trọng công tác vừa chăm sóc đất, vừa kết hợp trồng lúa, hoa màu xen kẽ là hết sức cần thiết, tránh tình trạng nông nhàn cho người nông dân. Chúng ta cần phải chú trọng việc sử dụng đất trong nông nghiệp để cho người lao động trong khu vực nông nghiệp có việc làm tương đối đầy đủ. Có thể nói rằng ngành nông nghiệp không thể tồn tại được nếu như không có đất đai, tức là người lao động trong nông nghiệp không thể có chỗ làm việc. Vì vậy chúng ta cần khai thác và sử dụng đất hợp lý, đồng thời phải luôn chú trọng cải tạo đất. Trong công nghiệp thì đất đai đóng vai trò cũng rất quan trọng. Đất đai được dùng để xây dựng nhà máy, trụ sở, xí nghiệp và nó luôn là sự lựa chọn hàng đầu của các nhà đầu tư. Việc lựa chọn địa điểm để xây dựng nhà xưởng hiện nay là hết sức khó khăn bởi hoạt động sản xuất kinh doanh còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Các nhà đầu tư luôn lựa chọn địa điểm gần đường giao thông để dễ dàng cho việc buôn bán, trao đổi hàng hoá, và đồng thời họ cũng chọn chỗ thoáng mát, gần nguồn điện, nguồn nước…Nhưng việc lựa chọn mà họ quan tâm nhiều nhất là địa điểm đó phải có đông dân cư. Nơi có đông dân cư thì sẽ tạo ra một thị trường tiêu thụ lớn đồng thời việc tìm kiếm lao động ở nơi này sẽ dễ dàng hơn. Ngày nay thì việc lựa chọn địa điểm để hoạt động sản xuất kinh doanh là rất khó. Mặt khác thì đang có chiều hướng người lao động chuyển dần sang lĩnh vực hoạt động công nghiệp và ngành này đang là ngành tạo nhiều chỗ làm việc mới cho người lao động. Vì vậy chúng ta cần phải khai thác phát triển ngành công nghiệp để giải quyết việc làm cho nhiều người lao động đặc biệt là người lao động ở nông thôn. Trong hoạt động thương mại dịch vụ, đất đai không đóng vai trò quan trọng bằng ngành nông nghiệp và dịch vụ nhưng cũng không thể thiếu được. Như vậy thì trong bất cứ ngành nào thì đất đai cũng là một điều kiện tiền đề để ngành tồn tại và phát triển. Do đó chúng ta cần phải có một chính sách sử dụng đất hợp lý. Ngoài yếu tố vốn và đất đai thì yếu tố về cơ sở hạ tầng cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm cho người lao động. Các yếu tố đó là các hệ thống thuỷ lợi, giao thông, kho tàng, thông tin liên lạc, bến bãi…Các yếu tố này phát triển tốt là tạo điều kiện để phát triển kinh tế xã hội và do đó tạo điều kiện để phát triển các ngành khác và tạo thêm việc làm cho người lao động. Đồng thời khi phát triển yếu tố cơ sở hạ tầng thì cũng cần một lượng lao động hoạt động trong lĩnh vực này. Do đó thì phát triển yếu tố này sẽ thúc đẩy các nền kinh tế phát triển và tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động. Nhưng yếu tố này cũng không phải là yếu tố không thể thay thế được mà nó có thể mua được bằng vốn. Yếu tố tư liệu sản xuất là yếu tố hàng đầu tác động đến quá trình tạo việc làm cho người lao động. Vì vậy các nhà đầu tư nên lựa chọn yếu tố này một cách kỹ lưỡng để người lao động có điều kiện làm việc thuận lợi nhất và tạo thêm nhiều chỗ làm cho người lao động. 1.2.2. Môi trường Môi trường có ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề tạo việc làm cho người lao động. Môi trường ở đây được hiểu là môi trường tự nhiên và môi trường kinh tế xã hội. Môi trường tự nhiên bao gồm vị trí địa lý, địa hình, tài nguyên thiên nhiên, khí hậu, đất đai…Như đã nói ở phần 1.2.1 thì đất đai là điều kiện tiền đề không thể thay thế được. Còn các yếu tố khác như vị trí địa lý, địa hình, khí hậu…có tác động để lựa chọn phương thức sản xuất. Người lao động sinh sống ở những nơi có điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ có điều kiện tìm được việc làm dễ hơn người lao động sinh sống ở những nơi có điều kiện khắc nghiệt. Mặt khác khi sản xuất những mặt hàng khác nhau thì không thể sản xuất ở một nơi nhất định mà mỗi loại mặt hàng sẽ phù hợp với một điều kiện cụ thể. Ví dụ khi sản xuất những mặt hàng như mây tre đan thì cần phải chọn địa điểm có nguồn nguyên liệu dồi dào nhưng đồng thời phải chọn nơi có khí hậu khô dáo. Do đó việc lựa chọn địa điểm để hoạt động sản xuất kinh doanh càng trở nên khó khăn hơn đối với các nhà đầu tư. Vì vậy thì môi trường tự nhiên cũng ảnh hưởng rất nhiều đến việc phát triển kinh tế của một địa phương và cũng gây ảnh hưởng đến việc tạo việc làm cho người lao động. Môi trường xã hội là các chính sách của địa phương, sự quan tâm của các cấp uỷ Đảng đối với người lao động cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc tạo việc làm cho người lao động. Được sự quan tâm của các cấp thì người lao động mới hăng say làm việc, người sử dụng lao động sẽ thoải mái hoạt động sản xuất kinh doanh. Người lao động sẽ an tâm hơn để làm việc để nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm khi được sự quan tâm của các đoàn thể, ban ngành. Một yếu tố rất quan trọng là chính sách phát triển kinh tế của địa phương sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến cơ cấu việc làm cho người lao động ở địa phương đó. Do đó mỗi địa phương cần dựa vào điều kiện của địa phương mình mà đưa ra chiến lược phát triển kinh tế cho phù hợp để tránh tình trạng người lao động không có việc làm. Ngoài ra môi trường xã hội còn bao gồm các chính sách cho vay vốn với lãi suất thấp, ra luật đầu tư tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động có khả năng tự tạo chỗ làm cho bản thân và gia đình đồng thời tạo việc làm cho người lao động ở lân cận. Các yếu tố như công tác tuyên truyền, giáo dục, đào tạo cho người dân sẽ nâng cao chất lượng lao động và sẽ tạo điều kiện dễ dàng cho họ tìm được công việc phù hợp. Việc xây dựng môi trường xã hội không những ở địa phương mà ngay cả ở nơi làm việc của người lao động cũng phải có một môi trường thuận lợi. Đó là việc xây dựng văn hoá trong doanh nghiệp để từ đó kích thích tâm lý người lao động, để nâng cao năng suất lao động. Đồng thời doanh nghiệp cũng phải đảm bảo các quyền lợi của người lao động để người lao động yên tâm làm việc. Môi trường kinh tế cũng tác động đến việc tạo việc làm cho người lao động. Đó chính là xu hướng phát triển của các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Đồng thời môi trường kinh tế cũng là sự vận động của thị trường hàng hoá diễn ra trong khu vực. Do đó thì môi trường kinh tế sẽ tác động đến sự phát triển của các ngành kinh tế nên sẽ ảnh hưởng đến việc tạo việc làm cho người lao động tại khu vực đó. Như vậy thì các yếu tố về môi trường đều tác động đến vấn đề tạo việc làm cho người lao động. Do vậy khi nghiên cứu chính sách tạo việc làm cho người lao động thì các nhà hoạch định không thể bỏ qua yếu tố môi trường. 1.2.3. Nguồn nhân lực Nguồn nhân lực có ảnh hưởng trực tiếp tới vấn đề tạo việc làm cho người lao động. ở những địa phương có nguồn nhân lực dồi dào thì ở đó nhu cầu về việc làm lớn và người sử dụng lao động sẽ dễ dàng tìm kiếm lao động ở những nơi này. Và cũng ở đây đòi hỏi phải có chương trình tạo việc làm cho người lao động có quy mô lớn hơn và gây áp lực rất nhiều cho các nhà ra chính sách. Bản thân người lao động có ảnh hưởng nhiều nhất đến vấn đề tạo việc làm cho người lao động. Trong đó đại diện là sức lao động của con người. Sức lao động là khả năng về thể lực và trí lực của con người, đó là tri thức, sức khoẻ, kỹ năng, kinh nghiệm của người lao động. Để đánh giá sức lao động của con người thì cần phải nói đến cả chất lượng và số lượng. Hiện nay dân số của nước ta không ngừng tăng và số người trong độ tuổi lao động không ngừng tăng cao. Trong khi đó thì việc tạo ra số chỗ làm việc mới không theo kịp tốc độ tăng của lực lượng lao động do đó vẫn còn tồn tại rất nhiều người thất nghiệp ở các thành thị và người thiếu việc làm ở nông thôn. Do đó chúng ta cần phải có một chính sách phát triển kinh tế xã hội đi đôi với chính sách dân số để đảm bảo cho mọi người lao động đều có việc làm. Về chất lượng của sức lao động thì cần phải xem xét trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, kỹ năng, kinh nghiệm của người lao động. Hiện nay thì lao động có trình độ chuyên môn cao tập trung nhiều ở các thành phố lớn như Hà Nội và Thành Phố Hồ Chí Minh…do vậy sẽ gây sức ép về việc làm cho lượng lao động ở các thành phố này đồng thời cũng gây khó khăn trong việc giải quyết việc làm cho lượng lao động có trình độ thấp ở vùng nông thôn. Như vậy vấn đề sức lao động của người lao động cũng gây ra sự mất cân đối về lực lượng lao động có trình độ khác nhau giữa các vùng, có những vùng thì lại rất thừa lao động có trình độ đại học, cao đẳng nhưng lại có những vùng rất thiếu lượng lao động này. Do đó gây khó khăn trong việc tạo việc làm cho người lao động ở những vùng khác nhau. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tạo việc làm cho người lao động mà trong đó đại diện là các yếu tố tư liệu sản xuất, môi trường, bản thân người lao động. Do vậy khi đưa ra chính sách tạo việc làm cho người lao động cần phải xem xét các điều kiện và nhu cầu về việc làm để đáp ứng được nhu cầu của người lao động và thị trường. 1.2.4. Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm cũng có ảnh hưởng đến việc tạo việc làm cho người lao động. Các hoạt động của chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm bao gồm các hoạt động chủ yếu được chia làm ba nhánh chính : phát triển kinh tế – xã hội tạo mở việc làm; Đẩy mạnh xuất khẩu lao động và chuyên gia; Tăng cường các hoạt động hỗ trợ trực tiếp để giải quyết việc làm cho người thất nghiệp, người thiếu việc làm và các đối tượng yếu thế trong thị trường lao động. Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm tạo điều kiện cho người lao động có nhiều cơ hội được làm việc và luôn hướng về việc phát triển kinh tế xã hội toàn diện. Vì thế mà hiện nay các địa phương trong cả nước đều dựa vào những thuận lợi hiện có của mình và thực hiện theo chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm để tạo việc làm cho người lao động. 1.3. Sự cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động Vào bất cứ thời điểm nào và tại bất cứ nơi nào thì việc tạo việc làm cho người lao động là hết sức cần thiết. Người lao động có việc làm không những có lợi cho chính bản thân họ và gia đình đồng thời cũng có lợi cho cả địa phương và quốc gia. Khi một quốc gia có tỷ lệ người thất nghiệp cũng như người thiếu việc làm cao thì chứng tỏ rằng quốc gia đó chưa khai thác và sử dụng hết nguồn lực của con người trong xã hội. Đối với người thất nghiệp thì họ không có việc làm nên không có thu nhập do đó khiến họ bắt buộc phải đi làm những công việc để kiếm thu nhập trang trải cuộc sống. Đôi khi vì mục đích kiếm tiền mà người lao động đã làm những công việc trái pháp luật mà bản chất họ không phải là như vậy. Còn đối với người thiếu việc làm thì họ luôn bị áp lực về kinh tế bởi có mức tiền công thấp v._.à có khả năng bị mất việc làm. Hiện nay số người thất nghiệp ở thành thị còn tồn tại rất nhiều và đây cũng là nguyên nhân chủ yếu gây ra những tệ nạn xã hội như mại dâm, ma tuý…Đối với xã hội thì thất nghiệp và thiếu việc làm gây ra sự lãng phí nguồn lực xã hội. Thất nghiệp không những làm giảm thu nhập của người lao động mà còn làm giảm thu nhập của toàn xã hội và xã hội phải bỏ chi phí trợ cấp thất nghiệp do đó đời sống xã hội giảm. Thất nghiệp làm thiệt hại cho nền kinh tế, gây khó khăn cho gia đình và xã hội dẫn đến tiêu cực trong xã hội. Do đó tạo việc làm là hết sức cần thiết đối với mỗi quốc gia và là yêu cầu của phát triển kinh tế. Tạo việc làm là một chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm giải quyết những vấn đề xã hội. Mọi người lao động đều có việc sẽ rút ngắn được khoảng cách giàu nghèo trong xã hội làm cho xã hội công bằng hơn. Mặt khác khi có việc làm thì người lao động an tâm hơn, phát huy được khả năng sáng tạo của mình trong công việc. Việc làm và thu nhập giúp người lao động có điều kiện học hỏi và nâng cao trình độ dân trí, chăm sóc sức khoẻ tốt hơn, nâng cao đời sống tinh thần. Như vậy nếu tạo việc làm cho người lao động sẽ làm cho xã hội ổn định hơn, văn minh hơn. Tạo việc làm cho người lao động được quan tâm đúng mức sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển, xoá bỏ tình trạng nghèo đói. Nhưng mỗi quốc gia, mỗi địa phương cần phải quan tâm đến điều kiện thuận lợi của mình mà có một chính sách tạo việc làm cho phù hợp. Mọi người lao động đều có việc làm chứng tỏ quốc gia đó khai thác triệt để nguồn lực con người sẵn có và tạo ra một nền sản xuất phát triển. Tóm lại thì tạo việc làm cho người lao động không những có lợi cho chính bản thân người lao động mà còn thúc đẩy sự phát triển của toàn xã hội. Tạo việc làm cho người lao động góp phần ổn định xã hội, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đưa đất nước đi lên trong xu thế hội nhập. CHƯƠNG 2 : PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG Ở HUYỆN MỸ HÀO - HƯNG YÊN 2.1. Một số đặc điểm kinh tế xã hội ảnh hưởng đến việc tạo việc làm cho người lao động ở huyện Mỹ Hào – Hưng Yên 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên Hưng Yên là một tỉnh mới được tái lập từ 01/01/1997, được tách ra từ tỉnh Hải Hưng (bao gồm tỉnh Hưng Yên và tỉnh Hải Dương). Mặc dù mới được thành lập gặp nhiều khó khăn nhưng trong những năm qua thì tỉnh Hưng Yên đã đạt những thành tích đáng kể trong việc phát triển kinh tế, ổn định xã hội. Một trong những huyện đi đầu trong việc phát triển kinh tế của tỉnh là huyện Mỹ Hào. Huyện Mỹ hào là huyện nằm trọn ở châu thổ đồng bằng sông hồng, là cái nôi của nền văn minh lúa nước. Với vị trí dọc theo quốc lộ 5 (Hà Nội – Hải Phòng), phía bắc giáp tỉnh Bắc Ninh, phía đông giáp Hải Dương, phía nam giáp huyện Mỹ Hào. Toàn huyện có 13 xã, thị trấn với diện tích tự nhiên là 79,1 km2 diện tích đất canh tác là 9859 ha với dân số là 84655 người. Do vị thế nằm ở vị trí trung tâm kinh tế trọng điểm phía Bắc (Hà Nội – Hải Phòng - Quảng Ninh) cho nên hiện nay có rất nhiều công ty được thành lập dọc theo quốc lộ 5 làm cho ngành công nghiệp của huyện phát triển mạnh thu hút nhiều lao động làm việc trong lĩnh vực này. Đồng thời vị trí thuận lợi nên dễ dàng giao lưu buôn bán với các tỉnh khác. Ngoài ra huyện còn nằm ở đồng bằng Châu thổ sông Hồng hàng năm được lượng phù sa bồi đắp cho nên rất thích hợp cho việc sản xuất nông nghiệp – cũng là một trong những thế mạnh của huyện. Vì có vị trí thuận lợi như vậy cho nên ngành nông nghiệp của huyện có nhiều loại cây trồng có giá trị kinh tế cao, thu hút được một lượng lao động lớn không có trình độ chuyên môn tham gia vào sản xuất, giải quyết được tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn. Mỹ Hào nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa nên khí hậu chia làm bốn mùa rõ rệt, độ ẩm trung bình là 85% với lượng mưa trung bình 1500mm/năm.Với điều kiện khí hậu thuận lợi như vậy đã tạo điều kiện cho việc phát triển nông nghiệp với những loại cây ngắn ngày có giá ttị kinh tế cao, đã thu hút một lực lượng lao động lớn vào làm việc, giảm bớt số lao động nhàn dỗi trong ngành nông nghiệp. Ngoài ra huyện Mỹ Hào còn có hệ thống sông Hồng chảy qua nên rất dồi dào về nguồn nước, huyện đã xây dựng các công trình thuỷ lợi, trạm tưới tiêu nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Hệ thống mạch nước ngầm với trữ lượng rất phong phú đã đáp ứng được đầy đủ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh và sinh hoạt của người dân. Hệ thống giao thông có thể nói là một lợi thế lớn nhất của huyện Mỹ Hào. Nằm trên trục quốc lộ 5 do đó được Nhà nước cũng như những nhà đầu tư quan tâm rất nhiều. Hiện nay các công ty đã mọc rất nhiều ở hai bên đường 5 và đã tạo thêm rất nhiều việc làm cho lượng lao động trong huyện và các huyện khác. Ngoài ra hệ thống giao thông rất thuận tiện cho việc giao lưu buôn bán với các tỉnh khác như Bắc Ninh, Hải Dương, Hà Nội…Hệ thông đường giao thông trong toàn huyện đều được giải nhựa và mở thành hai làn đường cho xe chạy nên hàng hoá được luân chuyển trong toàn huyện rất dễ dàng. Tóm lại thì phần lớn điều kiện tự nhiên đều rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế của huyện do vậy mà việc tạo việc làm cho người lao động sẽ trở nên dễ dàng hơn. 2.1.2. Đặc điểm kinh tế Tỉnh Hưng Yên còn gặp nhiều khó khăn trong việc phát triển kinh tế vì tỉnh mới được tái lập theo đơn vị hành chính. Nhưng trong những năm gần đây thì nền kinh tế của tỉnh đều có những bước phát triển. Một trong những huyện đi đầu về phát triển kinh tế là huyện Mỹ Hào. Trong các năm vừa qua thì tốc độ phát triển kinh tế của năm sau cao hơn năm trước. Riêng năm 2005 là năm hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị – kinh tế – xã hội, phát triển toàn diện, an ninh quốc phòng ổn định giữ vững, tốc độ tăng trưởng kinh tế là 27,4% tăng 2,4% so với kế hoạch. Cơ cấu kinh tế năm 2005 là 22% - 56%- 22%, giá trị bình quân đầu người đạt 797 USD/năm, tổng thu ngân sách đạt khá, các chỉ tiêu kinh tế đều tăng so với năm 2004. Cụ thể là: 2.1.2.1.Về sản xuất nông nghiệp Trong năm 2005 huyện đã tập trung cao trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Tổng giá trị xản xuất nông nghiệp đạt 241 tỷ tăng 5% so với năm 2004. Tổng diện tích gieo trồng cả năm là 9549 ha giảm 3,5% so với năm 2004, hệ số quay vòng đất 2,2 lần. Diện tích trồng lúa đạt 8623 ha giảm 3,4% so với năm 2004. Cây vụ đông đạt 480 ha đạt 73,8% so với kế hoạch. Công tác chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp tiếp tục được quan tâm, các mô hình chuyển đổi diện tích từ lúa kém hiệu quả sang đào ao nuôi trồng thuỷ sản kết hợp với chăn nuôi, trồng cây có giá trị kinh tế cao đi vào hoạt động ổn định và có bước phát triển tốt. Đến nay toàn huyện có 136 mô hình kinh tế trang trại trong đó có 24 mô hình đạt tiêu chí theo quy định tại Quyết định số 46/2005/QĐ - UB của UBND tỉnh Hưng Yên. Đàn lợn tiếp tục tăng, tổng số đàn lợn 47.210 con tăng 6,8% so với năm 2004 (đàn lợn nạc 30.660 con chiếm 65% so với tổng số đàn lợn); đàn bò, bê 1.639 con bằng 132,8%so với năm 2004 (trong đó bò lai Sind, bò sữa là 1.310 con chiếm 80% tổng đàn bò); đàn gia cầm 517.000 con bằng 101,9%so với năm 2004. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản được duy trì và ổn định, sản lượng cá thịt đạt 900 tấn bằng 138,4% năm 2004, sản lượng cá giống đạt 25 triệu con. Như vậy thì nền sản xuất nông nghiệp của huyện Mỹ Hào tuy diện tích gieo trồng có giảm 3,5% nhưng tổng giá trị sản xuất nông nghiệp vẫn tăng 5%. Sở dĩ có sự tăng này là do chăn nuôi trong huyện phát triển và thay đổi cơ cấu chăn nuôi, mặt khác ngành trồng trọt đã đi sâu vào việc khai thác chiều sâu của đất đai, đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Mặc dù như vậy thì diện tích đất trồng trọt giảm khiến người lao động trong nông nghiệp đã thiếu việc làm lại càng thiếu hơn. UBND huyện đã khuyến khích cho người lao động vay vốn để mở trang trại để tạo việc làm cho bản thân và gia đình nhưng lượng lao động nhàn dỗi trong khu vực này vẫn còn rất nhiêu. Chúng ta cần phải có chính sách tạo việc làm cho lượng lao động trong lĩnh vực này. 2.1.2.2. Về công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và xây dựng cơ bản Sản lượng ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp tăng cao dần trong những năm gần đây và đóng một tỷ lệ rất cao vào tổng giá trị sản lượng của toàn kinh tế. Năm 2004 giá trị sản lượng ngành sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp tăng 19,7% so với năm 2003 nhưng năm 2005 tăng 28,3% so với năm 2004. Giá trị sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp năm 2005 đạt 603,1 tỷ đồng, trong đó khu vực hợp tác xã công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp 436 triệu đồng; công ty cổ phần, công ty TNHH 539 tỷ 604 triệu đồng; doanh nghiệp tư nhân 13 tỷ 160 triệu đồng, khu vực hộ gia đình cá thể là 49 tỷ 900 triệu đồng. Như vậy thì giá trị sản xuất của công ty cổ phần và công ty TNHH đóng góp lớn nhất trong tổng giá trị sản suất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp (89,47%). Giá trị hàng xuất khẩu 5,5 triệu USD tăng 22,2% so với năm 2004 tập trung ở hàng may mặc và thiết bị điện. Các loại hình doanh nghiệp này đã tạo việc làm cho rất nhiều lao động trong huyện. Về xây dựng cơ bản, năm 2005 đã hoàn thành đường 210; đường điện chiếu sáng đường 196 công trình chào mừng đại hội đảng bộ huyện Mỹ Hào lần thứ 23; đường cụm công nghiệp Dị Sử; đấu giá khu tái định cư đường 5A đảm bảo thu ngân sách tỉnh giao. Công tác xây dựng cơ bản là công việc giúp đỡ rất nhiều cho việc phát triển kinh tế và cũng thu hút được nhiều lao động vào làm việc trong lĩnh vực này. Về tiếp nhận dự án đầu tư vào địa bàn huyện năm 2005 có 10 dự án đầu tư, tính đến nay toàn huyện có 128 dự án, trong đó 52 dự án đi vào sản xuất thu hút trên 12.000 lao động vào làm việc, trong đó số lao động trong huyện chiếm trên 50%. Giá trị dịch vụ, thương mại đạt 239 tỷ đồng tăng 39,8% so với năm 2004, tăng 19,8% so với kế hoạch đề ra. Các loại hình dịch vụ có bước phát triển đáng kể, cơ bản đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nhân dân và khu vực. Hiện nay đất nước ta đang quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, ngành công nghiệp dịch vụ phát triển mạnh. Ngành sản xuất công nghiệp của huyện Mỹ Hào đang ngày càng phát triển và đã tạo việc làm cho hàng nghìn lao động trên địa bàn. Vì chúng ta có một vị trí rất thuận lợi nên cần phải khai thác thế mạnh này để thu hút các nhà đầu tư để tạo thêm việc làm cho người dân và tăng thu nhập để xoá đói giảm nghèo. Đây cũng là một biện pháp hữu hiệu trong công tác tạo việc làm cho người lao động. 2.1.3. Đặc điểm xã hội Đến năm 2005, dân số huyện Mỹ Hào là 84655 người, chiếm 7,83% dân số của cả tỉnh, mật độ dân số là 1070 người/km2. Trong đó số người trong độ tuổi lao động chiếm 43,8% dân số. Điều này cho thấy huyện Mỹ Hào có một nguồn lao động dồi dào và do đó cần phải có một chương trình tạo việc làm cho lượng lao động này. Bảng 2.1 : Tình hình dân số huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001-2005 ĐVT: người. Năm 2001 2002 2003 2004 2005 Tổng dân số 81.343 82.156 82.997 83.827 84.655 Tốc độ tăng dân số tự nhiên(%) 0,99 1,02 1,00 0,98 0,97 (Báo cáo tình hình dân số huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001 - 2005) Như vậy biến động tự nhiên dân số của huyện không đều qua các năm và có xu hướng giảm nhưng không đáng kể: năm 2003 so với năm 2002 tăng nhiều hơn so với năm 2002 so với năm 2001 và giảm đều ở những năm 2004 và 2005. Điều này chứng tỏ nhận thức của người dân đã có chuyển biến tốt, do đó đời sống của người dân đã bớt khó khăn hơn và họ có thời gian để đi làm để nâng cao đời sống của mình. Đây là một yếu tố tích cực cho công tác tạo việc làm cho người lao động. * Đặc điểm về văn hoá, giáo dục, y tế: Phong trào văn hoá, văn nghệ trong huyện luôn được sự quan tâm của các cấp uỷ đảng, của quần chúng nhân dân. Đặc biệt trong những ngày lễ lớn của dân tộc thì nhân dân trong huyện tham gia các phong trào văn hoá văn nghệ quần chúng rất sôi nổi, hưởng ứng và tuyên truyền đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Các hoạt động thể dục thể thao được duy trì thường xuyên, 100% các trường tổ chức hội khoẻ phù đổng và được các học sinh tham gia hưởng ứng tích cực. Năm 2005 toàn huyện có 09 làng được công nhận là làng văn hoá, đưa tổng số làng được công nhận làng văn hoá lên 53/77 đạt 68,8%; 57/77 thôn có nhà văn hoá; 15.366 hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá đạt 75%; 50 cơ quan, đơn vị được thẩm định và đề nghị công nhận cơ quan, đơn vị văn hoá. Qua những số liệu trên cho thấy sự nhận thức và tuân thủ đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước của nhân dân trong huyện là cao, do đó vấn đề ra chính sách tạo việc làm cho người lao động trong huyện cũng được nhân dân ủng hộ. Về giáo dục: Trên địa bàn huyện có 41 trường từ cấp tiểu học đến THPT thu hút trên 29.455 học sinh. Chất lượng giáo dục được nâng cao. 100% các cháu đến tuổi đi học được đến trường và huyện đã hoàn thành được mục tiêu phổ cập tiểu học. Phong trào thi đua dạy tốt, học tốt trong các cấp học, ngành học được đẩy mạnh, trong năm học 2004 - 2005 có 01 trường được Chính phủ tặng bằng khen, 02 trường được Bộ giáo dục và đào tạo tặng bằng khen, đạt 02 giải ba và 01 giải khuyến khích quốc gia toán trên máy tính, UBND huyện công nhận 34 tập thể và cá nhân tiên tiến xuất sắc; 7 tập thể tiên tiến, 74 chiến sỹ thi đua cấp cơ sở; 04 giáo viên giỏi cấp tỉnh, 06 học sinh giải cấp tỉnh. Thi tốt nghiệp các cấp: THCS đạt 99,3%, THPT Mỹ Hào đạt 99,3%, THPT Nguyễn Thiện Thuật và Trung tâm giáo dục thường xuyên đạt 88%. Học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng tăng: đại học 205 em, cao đẳng 72 em. Công tác xã hội hoá giáo dục, khuyến học, khuyến tài tiếp tục phát triển đều khắp trong huyện. Công tác xây dựng trường chuẩn quốc gia : 02 trường THCS và 01 trường mầm non. Như vậy thì sự nghiệp giáo dục ở huyện Mỹ Hào ngày được chú trọng hơn và đạt được nhiều thành tích khích lệ. Điều này hứa hẹn chúng ta sẽ có một lực lượng lao động có trình độ cho sau này. Về y tế : Được xây dựng và duy trì hoạt động từ huyện đến xã, sức khoẻ của nhân dân luôn được quan tâm và chữa trị kịp thời. Thường xuyên chăm lo, quan tâm đến việc phòng, khám chữa bệnh và chăm lo sức khoẻ cho nhân dân, không để dịch lớn xảy ra trên địa bàn. Chất lượng khám chữa bệnh được nâng lên, tinh thần phục vụ người bệnh tốt hơn. Năm 2005 thực hiện khám chữa bệnh cho 30.994 lượt người, điều trị nội trú cho 4.950 bệnh nhân; thực hiện 314 ca phẫu thuật, mổ đục thuỷ tinh thể cho 105 người, tiêm chủng vacxin cho 1078 cháu, 1097 cháu được tiêm viêm gan B ba mũi, 5525 cháu được uống Vitamin A và 7482 cháu được tiêm vacxin viêm não Nhật Bản. Bước đầu thực hiện việc khám, điều trị miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi có hiệu quả. Mang lưới y tế cơ sở được quan tâm phát triển, đã có 3 xã, thị trấn được công nhận xã chuẩn quốc gia về y tế. Công tác phòng chống dịch bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm được quan tâm, trên địa bàn huyện không có dịch bệnh lớn xảy ra. Chú trọng bảo vệ, chăm sóc trẻ em; công tác tuyên truyền tư vấn kiến thức dân số kể hoạch hoá gia đình được đẩy mạnh, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cộng tác viên dân số được nâng cao. Tiến hành cấp trên 8.000 thẻ khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi. Năm 2005 tổng số sinh là 1.341. Vì sức khoẻ của nhân dân được quan tâm chu đáo do đó lực lượng lao động của huyện Mỹ Hào có sức khoẻ tốt, điều này cũng góp phần làm cho công tác tạo việc làm cho người lao động được thuận lợi hơn. Tóm lại tuy còn gặp nhiều khó khăn nhưng trong những năm gần đây thì công tác giáo dục, y tế, văn hoá xã hội trong huyện luôn được chú trọng và không ngừng phát triển. Do đó người lao động trong huyện sẽ thoải mái hơn để làm việc. Đây cũng là một yếu tố tích cực trong công tác tạo việc làm cho người lao động ở huyện Mỹ Hào. 2.1.4. Đặc điểm nguồn nhân lực Nguồn nhân lực của huyện Mỹ hào tương đối dồi dào. Nguồn lao động không ngừng tăng qua các năm: năm 2001 là 34664 người chiếm 42,6% so với tổng dân số và đến năm 2002 là 35245 người chiếm 42,9%, năm 2003 là 35855 người chiếm 43,2%; năm 2004 là 36464 người chiếm 43,5%; năm 2005 là 37079 người chiếm 43,8%. Tình hình tăng nguồn nhân lực của huyện Mỹ Hào đều qua các năm và chiếm một tỷ lệ rất cao trong tổng dân số. Điều này chứng tỏ nguồn nhân lực của huyện Mỹ Hào là rất dồi dào đòi hỏi phải tạo nhiều việc làm cho nguồn nhân lực này. Trong đó lao động có khả năng lao động chiếm tỷ lệ rất lớn (trên 95%) và tăng qua các năm nhưng lao động không có khả năng lao động vẫn còn rất nhiều mặc dù đang có xu hướng giảm. Lao động ngoài độ tuổi lao động nhưng có tham gia lao động còn nhiều và vẫn tăng qua các năm. Những lao động ngoài độ tuổi lao động là lao động dưới và trên độ tuổi lao động. Điều này chứng tỏ đời sống của nhân dân huyện Mỹ Hào vẫn còn gặp nhiều khó khăn và trẻ em, người già vẫn phải tham gia vào lao động để tăng thêm thu nhập cho gia đình, đây cũng là một khó khăn của huyện Mỹ Hào. Một đặc điểm đáng chú ý là lao động của huyện Mỹ Hào tăng dần qua các năm: năm 2003 là 3986 người, năm 2004 là 4501 người và đến năm 2005 con số này là 5170 người. Điều này chứng tỏ huyện Mỹ Hào luôn chú trọng việc đào tạo nghề cho người lao động và lực lượng lao động của huyện ngày càng có chất lượng cao. Bảng 2.2: Tình hình lao động của huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001 - 2005 ĐVT: người Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 Tổng dân số 81.343 82.156 82.997 83.827 84.655 Lao động trong độ tuổi 34.664 35.245 35.855 36.464 37.079 % so với dân số 42,6 42,9 43,2 43,5 43,8 Trong đó:+ Lao động có khả năng lao động 33.749 34.434 35.138 35.844 36.522 % so với lao động trong độ tuổi 97,4 97,7 98,0 98,3 98,5 +Lao động không có khả năng lao động 915 811 717 620 557 Ngoài tuổi lao động nhưng có tham gia lao động 5.465 5.500 5.595 5.610 5.637 Lao động qua đào tạo 3.291 3.525 3.986 4.501 5.170 Tổng nguồn lao động có khả năng lao động 39.214 40.745 41.450 42.074 43.652 (Báo cáo chương trình việc làm huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001-2005) Qua các số liệu trên cho thấy tổng nguồn có khả năng lao động của huyện Mỹ Hào là rất lớn và tăng dần qua các năm. Do đó nhu cầu được làm việc của lượng lao động này là rất cao và phải cần có một chương trình tạo việc làm phù hợp. *Về chất lượng lao động của huyện Mỹ Hào: Mặc dù lực lượng lao động của huyện Mỹ Hào đã được nâng cao về chất lượng qua các năm nhưng vẫn còn thấp. Về trình độ văn hoá : Trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2005 thì trong huyện Mỹ Hào không có lao động chưa biết chữ. Số lượng lao động có trình độ tiểu học có xu hướng giảm trong 5 năm, từ 5026 người (năm 2001) xuống thành 3819 người (năm 2005). Các đối tượng lao động có trình độ tiểu học chủ yếu là những lao động có độ tuổi cao và những lao động trên độ tuổi lao động. Đối tượng này do điều kiện học tập trước đây không được chú trọng và cũng do điều kiện kinh tế khó khăn. Bảng 2.3: Trình độ văn hoá của người lao động ở huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001 - 2005 Chỉ tiêu Năm Số lao động trong độ tuổi Trình độ tiểu học Trình độ THCS Trình độ THPT Số lượng (đv: người) % so với lao động trong độ tuổi Số lượng (đv: người) % so với lao động trong độ tuổi Số lượng (đv: người) % so với lao động trong độ tuổi 2001 34.664 5.026 14,5% 17.679 51% 11.959 34,5% 2002 35.245 4.758 13,5% 18.151 51,5% 12.336 35% 2003 35.855 4.374 12,2% 18.752 52,3% 12.729 35,5% 2004 36.464 4.011 11% 19.277 52,7% 13.236 36,3% 2005 37.079 3.819 10,3% 19.652 53% 13.608 36,7% (Báo cáo tình hình lao động huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001 - 2005) Số lao động có trình độ THCS vẫn chiếm tỷ lệ lớn nhất trong số lao động trong độ tuổi (trên 50%) và tăng dần qua các năm. Lao động tốt nghiệp THPT tăng nhanh và ngày càng chiếm một tỷ lệ lớn trong số lao động trong độ tuổi : năm 2001 là 11959 người và đến năm 2005 là 13608 người. Điều này chứng tỏ trình độ văn hoá của người lao động của người lao động ở huyện Mỹ Hào ngày càng được nâng cao, đó là điều kiện đầu tiên để nâng cao trình độ chuyên môn của người lao động. Về trình độ chuyên môn : Tổng số lao động có trình độ chuyên môn của huyện Mỹ Hào không ngừng tăng qua các năm, cụ thể qua bảng số liệu sau : Bảng 2.4 : Trình độ chuyên môn của người lao động ở huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001 - 2005 Chỉ tiêu Số lao động có chuyên môn Trên ĐH Đại học CĐ + TH CNKT, NVNV có chứng chỉ SL (đv: người) % so với LĐ trong độ tuổi SL (đv: người) SL (đv: người) % so với LĐ trong độ tuổi SL (đv: người) % so với LĐ trong độ tuổi SL (đv: người) % so với LĐ trong độ tuổi 2002 2.890 8,2% 06 458 1,3% 1.269 3,6% 1.163 3,3% 2003 3.048 8,5% 07 484 1,35% 1.309 3,65% 1.219 3,4% 2004 3.172 8,7% 07 518 1,42% 1.349 3,7% 1.287 3,53% 2005 4.311 9,2% 08 537 1,45% 1.390 3,75% 1.335 3,6% (Báo cáo tình hình lao động huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001-2005) Năm 2002 là 2890 người chiếm 8,2% so với lao động trong độ tuổi; năm 2003 là 3048 người chiếm 8,5%; năm 2004 là 3172 người chiếm 8,7%; đặc biệt đến năm 2005 thì lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao tăng nhanh, số lượng lao động có trình độ chuyên môn là 3411 người chiếm 9,2% so với số lao động trong độ tuổi. Điều này chứng tỏ lực lượng lao động của huyện Mỹ Hào có chất lượng ngày càng cao Qua bảng số liệu trên cho thấy số lao động có chuyên môn của huyện Mỹ Hào tăng từ năm 2002 đến năm 2005. Trong đó số lao động có trình độ cao đẳng và trung học vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất: năm 2002 chiếm 3,6%; năm 2003 chiếm 3,65%; năm 2004 chiếm 3,7%; năm 2005 chiếm 3,75%. Số lao động có trình độ đại học đều tăng qua các năm, đặc biệt năm 2004 tăng 34 người so với năm 2003. Hiện nay người lao động có xu hướng nâng cao trình độ chuyên môn của mình vì một mặt sau khi học xong thì họ có cơ hội làm việc nhàn hơn, mức tiền công cao hơn, mặt khác do hiện nay điều kiện của sản xuất đòi hỏi người lao động phải nâng cao trình độ bản thân mình. Khi khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thì bắt buộc người lao động phải không ngừng trao dồi kiến thức để theo kịp tiến trình sản xuất. Nhưng do điều kiện kinh tế của huyện Mỹ Hào còn khó khăn do đó người lao động ít có khả năng đi học cao mà chỉ dừng lại ở tốt nghiệp THPT. Trong huyện hàng năm cũng có một số sinh viên tốt nghiệp ở một số trường đại học, cao đẳng nhưng có một tỷ lệ rất ít về quê làm việc mà họ kiếm việc ở những thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng… Do đó chúng ta phải có một chương trình việc làm thích hợp để thu hút số lao động này để nâng cao chất lượng cho nguồn lao động ở huyện Mỹ Hào. Như vậy thì so với các địa phương khác thì lực lượng lao động có trình độ chuyên môn của huyện Mỹ hào còn thấp và mất cân đối. Tâm lý người dân không muốn đi học nghề mà chỉ muốn đi học tại các trường đại học, cao đẳng. Số lao động học nghề chủ yếu tại các địa phương khác chuyển đến và cùng với số lao động mà họ không có khả năng thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng. Tóm lại thì nếu người lao động mà không có trình độ chuyên môn thì sẽ gây cản trở rất lớn cho việc tạo việc làm cho người lao động hiện nay. Vì vậy chúng ta cần phải quan tâm đến việc đào tạo nghề cho người lao động trong giai đoạn hiện nay. Bảng 2.5: Lao động phân theo khu vực nông thôn, xã, thị trấn ở huyện Mỹ Hào từ năm 2002 đến năm 2005 (ĐVT : người) Khu vực 2002 2003 2004 2005 Nông thôn 29.662 29.670 20.650 20.550 Thị trấn 5.583 6.185 15.814 16.529 Cộng 35.245 35.855 36.464 37.079 (Báo cáo tình hình lao động huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001-2005) Qua số liệu trên cho thấy: lao động trong khu vực nông thôn năm 2003 tăng 8 người so với năm 2002 nhưng cho đến năm 2004 thì lượng lao động này đã giảm chỉ còn 20650 người và đến năm 2005 giảm 100 người còn 20550 người làm việc ở khu vực nông thôn. Lao động ở thị trấn qua những năm qua đều tăng mạnh, đặc biệt là năm 2004 lượng lao động làm việc tại khu vực thị trấn tăng rất nhanh (tăng 9629 người so với năm 2003). Người lao động đang có xu hướng chuyển từ nông thôn ra thị trấn. Số người lao động làm việc ở nông thôn chủ yếu là làm nông nghiệp. Sở dĩ có hiện tượng này là do gần đây trên địa bàn huyện Mỹ Hào có nhiều doanh nghiệp được đầu tư xây dựng và đi vào sản xuất kinh doanh do đó thu hút được nhiều lao động. Mặt khác các doanh nghiệp này thường tập trung ở khu vực thị trấn vì ở đây có dân cư đông đồng thời thuận tiện đường giao thông. Trong khi đó thì diện tích ruộng canh tác của các hộ nông dân ngày càng bị thu hẹp khiến hiện tượng thiếu việc làm của người lao động ở nông thôn gia tăng dẫn đến người lao động ở nông thôn ra thị trấn tìm kiếm việc làm tăng cao. Đây cũng là hiện tượng di chuyển của người lao động ở các địa phương khác và trên toàn quốc. Về tình hình lao động phân theo ngành nghề: Qua bảng số liệu cho thấy cơ cấu lao động trong các ngành nghề của huyện Mỹ Hào tương đối phức tạp. Lượng lao động trong hầu hết tất cả các ngành đều tăng qua tất cả các năm. Bảng 2.6 : Lao động phân theo ngành nghề ở huyện Mỹ Hào từ năm 2002 đến năm 2005 (ĐVT : người ) Ngành nghề 2002 2003 2004 2005 Tổng số lao động trong độ tuổi 35.245 35.855 36.464 r37.079 CN – TTCN 3.812 4.010 4.650 5.146 XDCB 256 258 310 400 TN – sửa chữa 702 785 950 995 Khách sạn, nhà hàng 234 236 250 295 Vận tải, kho bãi 500 513 585 650 Tài chính tín dụng 61 62 65 82 QLNN – ANQP 212 219 220 223 Giáo dục đào tạo 733 735 742 751 Y tế 124 128 134 142 Văn hoá - TDTT 16 18 20 23 Đảng - Đoàn thể 135 138 142 150 Các ngành KTQD khác 401 412 396 520 Số lao động sử dụng trong nông nghiệp 28.079 38.341 28.000 27.702 (Báo cáo tình hình lao động huyện Mỹ Hàog giai đoạn 2001-2005) Trong ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp thì lượng lao động tăng là cao nhất, đặc biệt là năm 2004 tăng 640 người so với năm 2003, năm 2005 tăng 496 người so với năm 2004. Số lượng lao động trong ngành này tăng cao như vậy bởi vì trong những năm gần đây thì một số doanh nghiệp trên địa bàn huyện đã đi vào hoạt động và thu hút được nhiều lao động trong huyện. Các ngành khác cùng với sự phát triển của ngành công nghiệp cũng phát triển theo và thu hút nhiều lao động hơn trước kia. Đó là ngành xây dựng cơ bản để phục vụ cho tiến trình công nghiệp hoá (năm 2005 thu hút 400 lao động vào làm việc cao hơn năm 2004 là 90 người). Các ngành tài chính tín dụng, vận tải kho bãi cũng ngày càng thu hút được nhiều lao động vào làm việc hơn. Số lượng y bác sỹ, người phục vụ trong ngành y tế tăng cao chứng tỏ sự quan tâm sức khoẻ cho người dân ở huyện Mỹ Hào được chú trọng hơn, đảm bảo cho nguồn lao động có sức khoẻ tốt. Lượng lao động trong linh vực giáo dục đào tạo, văn hoá - TDTT, Đảng - đoàn thể tăng tương đối ổn định qua các năm cùng với sự tăng lên của số lao động trong độ tuổi. Số lao động làm việc trong những ngành KTQD khác biến động không đều (giảm ở năm 2004 nhưng lại tăng rất cao vào năm 2005) các ngành này chủ yếu là buôn bán, kinh doanh tại nhà… Lượng lao động hoạt động trong ngành nông nghiệp ngày càng giảm, điều này chứng tỏ có sự di chuyển lao động từ ngành nông nghiệp sang các ngành khác. Sự di chuyển này cũng phù hợp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do vậy chúng ta cần phải có chương trình tạo việc làm phù hợp với các ngành nghề. Qua số liệu bảng 2.7 ta thấy được tình hình lao động phân theo giới tính của huyện Mỹ Hào cũng khác nhau, cụ thể như sau : lượng lao động nam làm việc nhiều hơn lao động nữ, năm 2005 tổng số lao động nam làm việc tại các thành phần kinh tế là 1845 người, nữ là 1566 người. Sở dĩ số lao động nam làm việc nhiều hơn số lao động nữ bởi vì trên địa bàn huyện vẫn còn nhiều lao động nữ làm công việc tại nhà và chăm sóc con cái, mặt khác thì phụ nữ có sức khoẻ kém so với nam giới nên chỉ làm những công việc nhẹ. Ngoài ra chúng ta vẫn còn giữ quan niệm cho rằng người phụ nữ chủ yếu là chăm lo việc nhà còn đàn ông đi kiếm tiền là chủ yếu. Trên đây cũng cho thấy được số lượng lao động nam có trình độ chuyên môn đại học và trên đại học nhiều hơn so với nữ giới. Điều này chứng tỏ nam giới được chú trọng và có điều kiện học hành hơn nữ giới. Lao động nam có trình độ công nhân kỹ thuật là 701 người trong khi đó ở nữ là 443 người. Bởi vì nữ giới có sức khoẻ yếu hơn nam giới nên khi có trình độ chuyên môn là CNKT thì sẽ làm những công việc nặng nhọc, do đó sẽ phù hợp với lao động nam hơn. Lao động nữ chủ yếu là làm ở khu vực kinh tế Nhà nước (1329 người) trong khi đó số lượng này ở nam giới là 936 người. Nam giới làm việc dải dác đều hơn ở các thành phần kinh tế khác nhau so với nữ giới bởi vì tâm lý người lao động nữ muốn làm việc tại những chỗ ổn định, nhàn để chăm lo cho gia đình nhiều hơn, trong khi đó người lao động nam thì muốn thử thách chính mình, muốn làm ở những nơi có thu nhập cao. Như vậy cho thấy lao động phân theo thành phần giới tính ở huyện Mỹ Hào là không cân đối, lao động nam làm việc vẫn có tính cơ động hơn lao động nữ. Bảng 2.7: Lao động phân theo giới tính ở huyện Mỹ Hào năm 2005 (ĐVT: người ) Thành phần kinh tế, giới tính Tổng số CNKT THCN Cao đẳng Đại học Thạc sỹ Nam 1.845 701 637 169 330 08 Khu vực Nhà nước 936 195 374 105 255 07 Tập thể 460 236 162 25 36 01 Tư nhân 64 35 15 06 08 - Cá thể 350 220 75 25 30 - Hỗn hợp 28 12 09 06 01 - Nước ngoài 07 03 02 02 - - Nữ 1.566 443 623 362 135 03 Khu vực Nhà nước 1.239 300 475 339 123 02 Tập thể 247 108 117 15 06 01 Tư nhân 05 03 02 - - - Cá thể 65 26 25 08 06 - Hỗn hợp 10 06 04 - - - Cộng 3.411 1.144 1.206 531 465 11 (Báo cáo chương trình việc làm huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001-2005) Như vậy vấn đề tạo việc làm cho lao động ở huyện Mỹ Hào còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Vì vậy khi ra chương trình tạo việc làm cho người lao động cần phải chú trọng đến các yếu tố này phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế của huyện Mỹ Hào đồng thời phù hợp với đặc điểm nguồn nhân lực tại huyện. 2.2. Phân tích thực trạng tạo việc làm cho người lao động ở huyện Mỹ Hào 2.2.1. Phân tích những kết quả giải quyết việc làm cho người lao động ở huyện Mỹ Hào giai đoạn 2001 – 2005 Với sự cố gắng của UBND huyện Mỹ Hào, các đơn vị đoàn thể, toàn thể nhân dân, các nhà đầu tư…thì qua các năm qua huyện Mỹ Hào đã giải quyết đư._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5459.doc
Tài liệu liên quan