Thực trạng và giải pháp quản lý chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn ở bảo hiểm xã hội Việt Nam (2005 - 2007).

Tài liệu Thực trạng và giải pháp quản lý chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn ở bảo hiểm xã hội Việt Nam (2005 - 2007).: ... Ebook Thực trạng và giải pháp quản lý chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn ở bảo hiểm xã hội Việt Nam (2005 - 2007).

doc64 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2682 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp quản lý chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội dài hạn ở bảo hiểm xã hội Việt Nam (2005 - 2007)., để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, có ý nghĩa chính trị, kinh tế, xã hội rất quan trọng, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Bản chất của BHXH không chỉ là sự tương trợ cộng đồng, sự đoàn kết đùm bọc chia sẻ rủi ro cho nhau, mà còn mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Vì vậy, BHXH ở nước ta đã thực sự trở thành chỗ dựa vững chắc của người lao động, góp phần tích cực trong sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chi trả các chế độ BHXH là một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngành BHXH. Làm tốt công tác chi trả góp phần đảm bảo ổn định cuộc sống của người tham gia BHXH, thực hiện an sinh xã hội. Thời gian qua, công tác chi trả các chế độ BHXH dài hạn trong cả nước đã đi vào nề nếp và không ngừng hoàn thiện. Hệ thống BHXH đã phục vụ ngày càng tốt hơn người tham gia và thụ hưởng các chính sách BHXH. Trong đó có sự đóng góp không nhỏ của BHXH Việt Nam trong việc quản lý chi trả các chế độ BHXH dài hạn. Xuất phát từ nhận thức trên, trong quá trình thực tập tại Ban Chi - Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã tạo cơ hội cho em chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp quản lý chi trả các chế độ BHXH dài hạn ở BHXH Việt Nam (2005 – 2007)”. Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được chia thành 3 chương: Chương I: Những vấn đề cơ bản về BHXH và công tác quản lý chi trả các chế độ BHXH dài hạn. Chương II: Thực trạng công tác quản lý và tổ chức chi trả các chế độ BHXH dài hạn ở BHXH Việt Nam. Chương III: Giải pháp áp dụng trong công tác quản lý chi trả các chế độ BHXH dài hạn ở Việt Nam. CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHI TRẢ CÁC CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI DÀI HẠN 1. Tổng quan về Bảo hiểm xã hội: 1.1. Bản chất và chức năng của BHXH: 1.1.1. Bản chất của BHXH: Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần bảo đảm an toàn xã hội. Với cách hiểu như trên, bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau: - BHXH là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hóa. BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hóa hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. - Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn ra giữa ba bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. - Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động , mất việc làm trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: Ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp… hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: Tuổi già, thai sản… Đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động. - Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do các bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. - Mục tiêu của BHXH là nhằm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này đã được tổ chức lao động quốc tế (ILO) cụ thể hóa như sau: + Đề bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ; + Chăm sóc sức khỏe và chống bệnh tật; + Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em. Với những mục tiêu trên, BHXH đã trở thành một trong những quyền con người và được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thừa nhận và ghi vào Tuyên ngôn Nhân quyền ngày 10/12/1948 rằng: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH, quyền đó được đặt cơ sở trên sự thỏa mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa, nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát triển con người”. 1.1.2. Chức năng của BHXH: BHXH có những chức năng chủ yếu sau: - Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì suy cho cùng, mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người lao động khi hết tuổi lao động theo các điều kiện quy định của BHXH. Còn mất việc làm và mất khả năng lao động tạm thời làm giảm hoặc mất thu nhập, người lao động cũng sẽ được hưởng trợ cấp BHXH với mức hưởng phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời điểm và thời hạn được hưởng phải đúng quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế hoạt động của BHXH. - Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà cả những người sử dụng lao động. Các bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho một số người lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Số lượng những người này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số những người tham gia đóng góp. Như vậy, theo quy luật số đông bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc lẫn chiều ngang. Phân phối lại giữa những người lao động có thu nhập cao và thấp, giữa những người khỏe mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc… Thực hiện chức năng này có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội. - Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi khỏe mạnh tham gia lao động sản xuất, người lao động được chủ sử dụng lao động trả lương hoặc tiền công. Khi bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hoặc khi về già đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Do đó, người lao động luôn yên tâm, gắn bó tận tình với công việc, với nơi làm việc. Từ đó, họ sẽ tích cực lao động sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Chức năng này biểu hiện như một đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động cá nhân và kéo theo là năng suất lao động xã hội. - Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa người lao động với xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và người sử dụng lao động vốn có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động… Thông qua BHXH, những mâu thuẫn đó sẽ được điều hòa và giải quyết. Đặc biệt, cả hai giới này đều thấy nhờ có BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau. Đối với Nhà nước và xã hội, chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế, chính trị và xã hội được phát triển và an toàn hơn. 1.2. Những nguyên tắc cơ bản của BHXH: Trên cơ sở những khuyến nghị của ILO về BHXH, qua kinh nghiệm hoạt động về BHXH ở các nước trên thế giới, có thể tổng kết thành những nguyên tắc cơ bản của BHXH như sau: - Nguyên tắc tương trợ cộng đồng: Được thể hiện qua hình thức tham gia BHXH là một hình thức chia sẻ rủi ro và bắt buộc mọi người phải tham gia đóng góp vào quỹ theo nguyên tắc “lấy số đông bù số ít” và nguyên tắc “tiết kiệm chi tiêu” lúc có thu nhập để được hưởng trợ cấp tạm thời hoặc vĩnh viễn khi mất khả năng lao động, lúc về già… - Nguyên tắc phân phối trên cơ sở mức độ đóng góp: Cơ sở để tính mức đóng góp là tiền lương hoặc tiền công đóng BHXH. Tiền thu từ các khoản đóng góp được tập trung vào quỹ BHXH mà từ quỹ BHXH chỉ được lấy ra để chi cho các chế độ BHXH và các khoản chi hành chính cho hoạt động BHXH. Tỷ lệ đóng góp và mức hưởng trợ cấp có mối quan hệ chặt chẽ với thu nhập của người được bảo hiểm. - Nguyên tắc thực hiện cân đối thu chi BHXH: Để thực hiện được nguyên tắc này thì khi xây dựng các chế độ trợ cấp phải tính toán, dự báo được số tiền phải chi tiêu để từ đó huy động các nguồn đóng góp bảo đảm đủ chi. Đồng thời số tiền tạm thời nhàn rỗi phải thực hiện đầu tư để bảo toàn giá trị và tăng trưởng quỹ. Như vậy số dư của quỹ hàng năm tạm thời chưa sử dụng hết được đem đi đầu tư để tăng thu cho quỹ BHXH. - Nguyên tắc phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội: BHXH bao gồm nhiều chế độ trợ cấp khác nhau. Tổng hợp chung của các nước trên thế giới có 9 loại chế độ BHXH, nhưng trong quá trình thực hiện cần nghiên cứu tình hình thực tế của từng nước để có những chế độ BHXH phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của mỗi nước. Đồng thời các mức trợ cấp BHXH cũng phải có tương quan thích hợp với mức thu nhập trong cộng đồng xã hội. 1.3. Quỹ BHXH: Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà nước, được hình thành từ đóng góp của các bên tham gia BHXH và các nguồn thu khác, sử dụng để bù đắp , hoặc thay thế thu nhập cho người tham gia bảo hiểm khi họ gặp phải những biến cố rủi ro làm suy giảm sức khỏe, mất khả năng lao động, mất việc làm, chết; nhằm ổn định đời sống cho gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn xã hội và phát triển kinh tế của đất nước. - Quỹ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau đây: + Quỹ ra đời, tồn tại và phát triển gắn với mục đích đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi gặp các biến cố, rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập từ lao động. Hoạt động của quỹ không nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời. Vì vậy, nguyên tắc quản lý quỹ BHXH là: Cân bằng thu - chi. + Phân phối quỹ BHXH vừa mang tính chất hoàn trả vừa mang tính chất không hoàn trả. Tính chất hoàn trả thể hiện ở chỗ, người lao động là đối tượng tham gia và đóng góp BHXH đồng thời họ cũng là đối tượng được nhận trợ cấp, được chi trả từ quỹ BHXH cho dù chế độ, thời gian trợ cấp và mức trợ cấp của mỗi người sẽ khác nhau, tùy thuộc vào những biến cố hoặc rủi ro mà họ gặp phải, cũng như mức đóng góp và thời gian đóng góp BHXH của họ. Tính không hoàn trả thể hiện ở chỗ, cùng tham gia và đóng góp BHXH, nhưng có người được hưởng trợ cấp nhiều lần và nhiều chế độ khác nhau, nhưng cũng có những người được ít lần hơn, thậm chí không được hưởng. Chính từ đặc điểm này nên một số đối tượng được hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH thường lớn hơn nhiều so với mức đóng góp của họ và ngược lại. Điều đó thể hiện tính chất xã hội của toàn bộ hoạt động BHXH. + Quá trình tích lũy để bảo tồn giá trị và bảo đảm an toàn về tài chính đối với quỹ BHXH là một vấn đề mang tính nguyên tắc. Đặc điểm này xuất phát từ chức năng cơ bản nhất của BHXH là bảo đảm an toàn về thu nhập cho người lao động. Vì vậy, đến lượt mình, BHXH phải tự bảo vệ mình trước nguy cơ mất an toàn về tài chính. Nhiều nhà kinh tế cho rằng: Quỹ BHXH là “Của để giành” của người lao động phòng khi ốm đau, tai nạn hoặc tuổi già… Nguồn quỹ này được đóng góp và tích lũy lại trong suốt quá trình lao động. Nếu xem xét tại một thời điểm cụ thể nào đó, quỹ BHXH luôn tồn tại một lượng tiền tạm thời nhàn rỗi để chi trả trong tương lai. Lượng tiền này có thể tăng hoặc giảm do mất an toàn, giảm giá trị do yếu tố lạm phát. Do đó, bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH đã trở thành yêu cầu mang tính nguyên tắc trong quá trình hoạt động của BHXH. + Quỹ BHXH là hạt nhân, là nội dung vật chất của tài chính BHXH. Nó là khâu tài chính trung gian cùng với NSNN và tài chính doanh nghiệp hình thành nên hệ thống tài chính quốc gia. Tuy nhiên mỗi khâu tài chính được tạo lập, sử dụng cho một mục đích riêng và gắn với một chủ thể nhất định, vì vậy chúng luôn độc lập với nhau trong quản lý và sử dụng. Thế nhưng tài chính BHXH, NSNN và tài chính doanh nghiệp lại có quan hệ chặt chẽ với nhau và đều chịu sự chi phối của pháp luật Nhà nước. + Sự ra đời, tồn tại và phát triển quỹ BHXH phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của từng quốc gia và điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ nhất định của đất nước. Kinh tế - xã hội ngày càng phát triển thì ngày càng có điều kiện thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH, nhu cầu thỏa mãn về BHXH đối với người lao động càng được nâng cao. Đồng thời khi kinh tế - xã hội phát triển, người lao động và người sử dụng lao động sẽ có thu nhập cao hơn, do đó họ càng có điều kiện tham gia và đóng góp BHXH… 1.4. Hệ thống các chế độ BHXH: Chính sách BHXH là một trong những chính sách xã hội cơ bản nhất của mỗi quốc gia. Nó là những quy định chung, rất khái quát về cả đối tượng, phạm vi, các mối quan hệ và những giải pháp lớn nhằm đạt được mục tiêu chung đã đề ra đối với BHXH. Chế độ BHXH là sự cụ thể hóa chính sách BHXH, là hệ thống các quy định cụ thể và chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện BHXH đối với người lao động. Theo khuyến nghị của ILO đã nêu trong công ước số 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ, hệ thống các chế độ BHXH bao gồm: Chăm sóc y tế Trợ cấp ốm đau Trợ cấp thất nghiệp Trợ cấp tuổi già Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp Trợ cấp gia đình Trợ cấp sinh đẻ Trợ cấp khi tàn phế Trợ cấp cho người còn sống (trợ cấp mất người nuôi dưỡng) Chín chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tùy điều kiện kinh tế - xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được 3 chế độ. Trong đó ít nhất phải có một trong năm chế độ: (3); (4); (5); (8); (9). Hệ thống các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau đây: + Các chế độ được xây dựng theo luật pháp mỗi nước; + Hệ thống các chế độ mang tính chất chia sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính; + Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các bên tham gia BHXH và quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư có hiệu quả và an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định; + Phần lớn các chế độ là chi trả định kỳ và đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh quyết toán. Chi trả BHXH như là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH; + Các chế độ BHXH thường được điều chỉnh định kỳ để phản ánh hết sự thay đổi của điều kiện kinh tế - xã hội. Toàn bộ hệ thống cũng như mỗi chế độ BHXH trong hệ thống trên khi xây dựng đều phải dựa vào những cơ sở kinh tế - xã hội như: Cơ cấu ngành kinh tế quốc dân, tiền lương và thu nhập của người lao động, hệ thống tài chính của quốc gia… Đồng thời tùy từng chế độ khi xây dựng còn phải tính đến các yếu tố sinh học, yếu tố môi trường như: Tuổi thọ bình quân của người lao động, nhu cầu dinh dưỡng, xác suất tai nạn lao động và tử vong, độ tuổi sinh đẻ của lao động nữ, môi trường lao động… Theo khuyến nghị của ILO, BHXH bao gồm hệ thống 9 chế độ, song không phải nước nào cũng thực hiện đầy đủ. Bởi vì điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi nước khác nhau, thậm chí ngay trong một nước những điều kiện đó cũng khác nhau giữa các thời kỳ nên việc thực hiện được cả 9 chế độ nêu trên là rất khó. Chính vì vậy, cho đến năm 2005 trên thế giới chỉ có 43 nước thực hiện được cả 9 chế độ BHXH, 92 nước chưa thực hiện được chế độ trợ cấp thất nghiệp, 9 nước chưa thực hiện được chế độ trợ cấp gia đình, 13 nước chưa thực hiện được 3 chế độ: Trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp gia đình và trợ cấp tai nạn lao động. 2. Nội dung các hình thức trợ cấp dài hạn theo quy định của ILO: 2.1. Phân loại các hình thức trợ cấp bảo đảm xã hội Theo quy định tại Công ước quốc tế số 102 của ILO, căn cứ trên cơ sở thời gian và hình thức chi trả đã phân loại các loại hình bảo đảm xã hội nói chung thành ba hình thức trợ cấp như sau: - Các loại trợ cấp dài hạn; - Các loại trợ cấp ngắn hạn; - Các khoản trợ giúp gia đình. Nội dung cụ thể của hình thức trợ cấp dài hạn bao gồm: a. Trợ cấp tuổi già: Hình thức trợ cấp này liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi cho người lao động đã cao tuổi không đủ khả năng lao động. Mục đích của trợ cấp tuổi già là thay thế một phần thu nhập đã mất do không đủ khả năng lao động. Thu nhập đó thường được thay thế thông qua việc thanh toán hàng kỳ. Tuy nhiên nếu hoạt động theo cơ chế của Quỹ dự phòng thì khoản trợ cấp có thể được thanh toán cùng một lúc theo quy định. Theo công ước mà ILO đưa ra thì tuổi có thể được hưởng trợ cấp tuổi già thường là hơn 55 tuổi. b. Trợ cấp tàn tật: Hình thức này dùng để chi cho những người đã bị mất vĩnh viễn một phần cơ thể và không có đủ khả năng lao động. c. Trợ cấp nuôi dưỡng: Khoản trợ cấp này dùng để trợ cấp cho người còn sống nhưng sống nhờ vào người đã mất, nay cần được cung cấp về tài chính do người lao động chính được bảo hiểm đã chết. Thường hình thức này được thực hiện dưới phương thức hoạt động của BHXH. 2.2. Các hệ thống trợ cấp dài hạn công cộng (Trợ cấp hưu trí) Các hệ thống trợ cấp dài hạn công cộng của các quốc gia trên thế giới thực hiện trợ cấp tuổi già, trợ cấp tàn tật, trợ cấp nuôi dưỡng, có ý định để bảo vệ một phạm vi rộng lớn ngững người bị tàn tật và người cao tuổi hoặc những gia đình sống thiếu thốn do người lao động chính bị chết. Trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau, đã xuất hiện hình thức lập quỹ BHXH dài hạn như: Các quỹ nghỉ hưu nghề nghiệp, các hệ thống hưu trí không phải đóng góp và các hình thức trợ giúp, bảo hiểm tự nguyện, trợ giúp tương hỗ… Các hệ thống bảo đảm xã hội của các quốc gia này cho đến nay chủ yếu thực hiện theo hình thức bắt buộc và phụ thuộc vào các ý tưởng phục vụ cho các mục đích hoặc kinh tế của tầng lớp lãnh đạo quốc gia. Có nhiều cách thực hiện việc bảo vệ người lao động trong các hệ thống công cộng nhưng có thể tổng kết thành ba cơ chế hình thành các tổ chức quản lý cơ bản phục vụ cho việc thực hiện các trợ cấp dài hạn này: - Các hệ thống BHXH; - Các hệ thống trợ cấp không phải đóng góp; - Các quỹ dự phòng quốc gia. a. Các hệ thống BHXH: Hiện tại, phần lớn các nước trên thế giới thực hiện bảo hiểm về người lao động theo nguyên tắc của hoạt động BHXH. Hoạt động BHXH được tài trợ bằng các khoản đóng góp từ người chủ sử dụng lao động và đa số các nước người lao động cũng phải đóng góp, ngoài ra có thể có hoặc không có sự tài trợ của Nhà nước. Các thành phần tham gia thực hiện bắt buộc có liên quan đến các loại hình nghề nghiệp và một số nước còn thực hiện cả đối với toàn bộ công dân trong độ tuổi lao động nói chung. Quyền được nghỉ hưu và số tiền trợ cấp hưu được xác định bởi quá trình làm việc được hưởng trợ cấp (các giai đoạn đóng góp hoặc giai đoạn làm việc) và bởi những khoản thu nhập của người hưởng trợ cấp thông qua thời gian làm việc của họ. b. Các hệ thống trợ cấp không phải đóng góp: Hệ thống trợ cấp này được Chính phủ tài trợ thông qua thuế, đối với tất cả các công dân trong quốc gia. Phần lớn các nước thông qua mô hình trợ cấp này đã thực hiện giống như hình thức trợ giúp xã hội, và hiện tại các nước này thực hiện phân phối toàn bộ hoặc một phần trợ cấp hưu trên cơ sở thử nghiệm trung bình. c. Các quỹ dự phòng: Trong một số nước đang phát triển ở Châu Á cũng như Châu Phi, các nước thuộc vùng Thái Bình Dương và vùng Caribê, luật pháp chấp nhận bảo vệ người lao động bằng hình thức của các “quỹ dự phòng quốc gia” (Quỹ này thực hiện bảo hiểm cho các hình thức rủi ro đối với người cao tuổi, người tàn tật, hoặc trường hợp bị mất người lao động chính của gia đình). Theo quy định chung các quỹ này được tài trợ bởi các khoản tiền đóng góp của những người chủ sử dụng lao động và người lao động phải do Nhà nước quản lý, thanh toán một khoản tiền cho người được hưởng khi người đó đủ tuổi nghỉ hưu và có đầy đủ các điều kiện cần thiết theo quy định. Số tiền được thanh toán trong phần lớn các trường hợp bằng với số tiền đã đóng góp, có thể tăng lên do các khoản lãi được tích lũy bổ sung vào tài khoản cho người lao động. Trong một số nước có điều khoản cho phép chuyển việc chi một lần toàn bộ số tiền đóng góp sang chi trả theo năm . Với cách dự trữ như vậy của quỹ dự phòng có thể không đảm bảo an toàn cho quỹ, như ILO yêu cầu các chuẩn mực quốc tế về trợ cấp cho người lao động, người tàn tật và trợ cấp nuôi dưỡng, khoản thanh toán trợ cấp được thực hiện dưới hình thức thanh toán hàng kỳ. Tuy nhiên không có sự cộng đồng trách nhiệm rủi ro giữa những người tham gia, như trong trường hợp BHXH. Trong phương diện này, hệ thống dự phòng bảo hiểm với các khoản trợ cấp được đặt trên cơ sở tài khoản cá nhân của mỗi người tham gia, gần với hình thức tiết kiệm hưu trí bắt buộc đang được hình thành ở một số nước Châu Mỹ Latinh. Ngoài ra có một số nước áp dụng các biện pháp kết hợp bảo vệ người lao động. Chẳng hạn ở một số nước luật pháp tiến hành phối hợp cả hai hệ thống nói trên, một hệ thống cung cấp trợ cấp hưu trí chính thức cơ bản cho tất cả mọi người và hình thức khác thì bảo vệ quyền lợi bổ sung có liên quan đến thu nhập cho tất cả hoặc gần như tất cả người lao động, kể cả người lao động tại gia. Mức độ thứ hai của việc bảo vệ người lao động được thực hiện trong các hình thức hưu trí bổ sung. 3. Công tác quản lý chi trả các chế độ BHXH dài hạn 3.1. Quản lý đối tượng được trợ cấp Đối tượng được trợ cấp BHXH là những người lao động đã tham gia BHXH có quyền nhận trợ cấp BHXH hoặc những người phụ thuộc có quyền được nhận trợ cấp BHXH khi người được bảo hiểm tử vong. Những người phụ thuộc là những người có mối quan hệ với người được bảo hiểm và có thể được nhận trợ cấp nếu hội tụ đủ các điều kiện để được hưởng trợ cấp. Việc các định đối tượng được hưởng BHXH đúng và đầy đủ sẽ đảm bảo quyền lợi của người lao động và gia đình họ, đồng thời giúp cho hoạt động quản lý BHXH chặt chẽ hơn, đảm bảo chi trả đúng đối tượng, từ đó đảm bảo được công bằng giữa những người tham gia BHXH. Tuy nhiên, tùy từng chế độ khác nhau mà quyền được hưởng khác nhau, tùy theo tuổi, thời gian đóng bảo hiểm, mức độ giảm khả năng lao động… để thực hiện chi trả BHXH cho phù hợp. Quản lý trợ cấp BHXH yêu cầu phải quản lý được đối tượng hưởng theo từng loại, theo tình hình biến động tăng giảm và kiểm tra xác định đúng đối tượng hưởng. Các chế độ BHXH dài hạn có thể được trợ cấp một lần hay định kỳ được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật về BHXH. Phân loại theo đặc điểm tính chất của chế độ bảo hiểm thì BHXH dài hạn gồm có các chế độ: + Hưu, tuổi già + Tàn tật + Mất sức lao động + Tử tuất Các chế độ này chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như: lãi suất, mức tăng lương, giá cả sinh hoạt, tỷ lệ tử vong… So với chi ngắn hạn, chi cho các chế độ BHXH dài hạn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi trợ cấp BHXH. Để thực hiện quản lý đối tượng hưởng cơ quan BHXH phải đảm bảo tốt các yêu cầu sau: + Phải quản lý tốt những người phụ thuộc của người lao động tham gia BHXH. + Phải lập ghi chép các báo cáo thống kê định kỳ về đối tượng hưởng riêng cho từng loại trợ cấp (định kỳ hay một lần) và chi tiết theo từng chế độ BHXH, từng nhóm nghề nghiệp và từng nguồn tài chính. + Phải đảm bảo thiết kế, cải tiến và sửa đổi thủ tục xét thưởng sao cho vừa đơn giản, nhưng vừa khoa học và chặt chẽ. + Kiểm tra chặt chẽ các điều kiện hưởng BHXH để thực hiện quản lý đúng các đối tượng được hưởng và cắt giảm, loại bỏ các đối tượng hưởng không đúng quy định. +Thực hiện thu hồi số tiền chi sai trong những trường hợp xác định được có gian lận BHXH trong chi trả trợ cấp. + Tiến hành kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất đối với các cơ quan BHXH cấp dưới và đối với các cơ quan sử dụng lao động trong quá trình thực hiện chi trả trợ cấp. 3.2. Quản lý chi trả 3.2.1. Nguyên tắc chung - Đảm bảo chi trả đúng, đủ, kịp thời - Đảm bảo an toàn tiền mặt: Mức độ thực hiện nguyên tắc này phụ thuộc mức trợ cấp - Phải tuân thủ các chế độ kế toán và nguyên tắc thống kê - Thực hiện quản lý chi trợ cấp theo phân cấp. Theo đó, cơ quan BHXH cấp trên sẽ có nhiệm vụ hướng dẫn, kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện chi trả BHXH của cơ quan BHXH cấp dưới, của đại diện chi trả và người sử dụng lao động. Ngược lại cơ quan BHXH cấp dưới có trách nhiệm tổ chức chi trả trợ cấp và báo cáo lên cơ quan BHXH cấp trên theo quy định. 3.2.2. Tổ chức chi trả Bao gồm BHXH tỉnh và BHXH huyện - BHXH tỉnh: + Phải chịu trách nhiệm toàn diện về tổ chức thực hiện chi trả trên địa bàn quản lý. + Trả các trợ cấp ốm đau, thai sản, chi dưỡng sức phục hồi sức khỏe và trợ cấp một lần cho các đối tượng thuộc các đơn vị sử dụng lao động mà BHXH tỉnh đã trực tiếp thu. - BHXH huyện: + Chi trả ốm đau, thai sản, chi dưỡng sức phục hồi sức khỏe và trợ cấp một lần cho những đối tượng thuộc đơn vị sử dụng lao động mà BHXH huyện đã trực tiếp thu. + Chi trợ cấp định kỳ hàng tháng. 3.2.3. Phương thức chi trả Có nhiều phương thức thanh toán: a. Chi trả trực tiếp qua cán bộ BHXH chuyên trách: Thường áp dụng đối với các chi trả trợ cấp định kỳ. - Ưu điểm: Cơ quan BHXH có thể nắm bắt nhanh các thông tin về đối tượng hưởng, về những yêu cầu mong muốn của người được hưởng để kịp thời giải quyết. - Nhược điểm: + Mức độ an toàn tiền mặt không cao + Đòi hỏi lượng cán bộ BHXH lớn, như vậy sẽ làm tăng chi phí về nhân sự. b. Thanh toán trực tiếp qua tài khoản Ngân hàng: Thường áp dụng đối với các chi trả trợ cấp định kỳ. - Ưu điểm: Nhanh và tiết kiệm chi phí, khắc phục được yếu tố mất an toàn tiền mặt trong quá trình chi trả. - Nhược điểm: Tuy nhiên đòi hỏi một hệ thống tài chính phát triển và khả năng quản lý của cơ quan quản lý BHXH theo mô hình hiện đại. c. Chi trả gián tiếp qua các Đại lý: Đây là phương thức chi trả truyền thống, theo đó cơ quan BHXH ủy quyền cho Đại lý đại diện trên cơ sở các hợp đồng đã ký kết với các điều kiện ràng buộc trách nhiệm của mỗi bên. Mỗi một hệ thống BHXH có thể áp dụng các phương thức chi trả khác nhau phụ thuộc vào các điều kiện thuận lợi có được khi áp dụng phương thức thanh toán chi trả đó, miễn là phương thức thanh toán chi trả sẽ mang lại hiệu quả cao nhất. Nhìn chung, khi lựa chọn phương thức thanh toán phải cân nhắc một số nhân tố như sau: + Sự phát triển của hệ thống hạ tầng cơ sở của một nước ảnh hưởng đến phương thức thanh toán. + Sự thuận tiện đối với cơ quan BHXH và người nhận trợ cấp. + Chi phí sử dụng phương thức đó. + Độ an toàn khi sử dụng phương thức đó. 3.2.4. Chi trợ cấp các chế độ BHXH dài hạn Về cơ bản mức chi trợ cấp các chế độ BHXH dài hạn có thể tính theo công thức: A = L x Ā Trong đó: A: Mức chi trợ cấp của một chế độ BHXH trong năm L: Số trường hợp được chi trả Ā: Mức chi trợ cấp bình quân một trường hợp CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÔNG TÁC CHI TRẢ CÁC CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI DÀI HẠN Ở BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM 1. Vài nét về BHXH Việt Nam BHXH Việt Nam được thành lập theo Nghị định 19/CP ngày 16/02/1995 của Thủ tướng Chính phủ. “BHXH Việt Nam được thành lập trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH hiện nay ở Trung ương và địa phương do hệ thống Lao động - Thương binh và xã hội và Tổng liên đoàn lao động Việt Nam đang quản lý để giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, quản lý quỹ BHXH và thực hiện các chế độ, chính sách BHXH theo pháp luật của Nhà nước. BHXH Việt Nam đặt dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, chịu sự quản lý Nhà nước của Bộ lao động – Thương binh và xã hội, các cơ quan Nhà nước về lĩnh vực có liên quan và sự giám sát của tổ chức công đoàn”. 1.1. Quá trình hình thành và phát triển của BHXH Việt Nam Trên thế giới, bảo hiểm xã hội (BHXH) đã xuất hiện cách đây hàng trăm năm. Ngày nay,BHXH đã trở thàng một công cụ hữu hiệu, mang tính nhân văn sâu sắc để giúp con người vượt qua những khó khăn, rủi ro phát sinh trong cuộc sống và trong quá trình lao động như bị ốm đau, chăm sóc y tế, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, mất khả năng lao động, già cả hoặc bị chết, bằng việc lập các quỹ BHXH từ sự đóng góp của các bên tham gia BHXH và Nhà nước để trợ giúp cho họ khi gặp các rủi ro trên. Vì thế BHXH ngày càng trở thành nền tảng cơ bản cho an sinh xã hội của mỗi quốc gia, của mọi thể chế Nhà nước và được thực hiện ở hầu hết các nước trên thế giới. 1.1.1. Giai đoạn trước năm 1945 Ở nước ta, Đảng và Chính phủ luôn xác định chính sách BHXH là chính sách có tính chất nhân văn sâu sắc, có tầm quan trọng và vai trò to lớn đối với cuộc sống con người. Đảng và Chính phủ đã luôn quan tâm đến việc hình thành và phát triển chính sách BHXH. Ngay từ khi thành lập (năm 1929), trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Đông Dương (tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay) đã nêu: “ Tổ chức tất cả vô sản giai cấp vào công hội thực hành bảo hiểm cho thợ thuyền; giúp đỡ thợ thuyền thất nghiệp…” Sau đó, tại Hội nghị Trung ương tháng 11 năm 1940, Đảng ta đã ra Nghị quyết sẽ đặt ra Luật BHXH khi thiết lập được chính quyền cách mạng và tạo lập quỹ hưu bổng cho người già. Để cụ thể hóa chủ trương này, năm 1941 trong Chương trình Việt Minh đã đề ra chính sách xã hội đối với những người làm công ăn lương: Đối với công nhân thực hiên cứu tế thất nghiệp; xã hội bảo hiểm; công nhân già có lương hưu trí… Đây là một trong những chủ trương thể hiện tầm nhìn chiến lược sâu sắc của Đảng ta trong suốt 75 năm lịch sử vẻ vang xây dựng và trưởng thành. Từ đây, chính sách BHXH đã có mầm mống hình thành và ngày càng phát triển theo nhiều giai đoạn phù hợp với tiến trình phát triển của lịch sử nước nhà. 1.1.2. Giai đoạn từ năm 1945-1954 - Tháng 8 năm 1945 Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Và sau đó tháng 12 năm 1946 Quốc hội đã thông qua Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước dân chủ nhân dân. Trong hiến pháp có nêu rõ quyền được trợ cấp của người tàn tật và người già. - Ngày 12 tháng 3 năm 1947 Chủ tịch nước Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 29/SL quy định chế độ trợ cấp cho công nhân. - Ngày 20 tháng 5 năm 1950 Hồ Chủ Tịch ký sắc lệnh số 76/SL và 77/SL Quy định thực hiện các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí cho cán bộ, công nhân viên chức. Đặc điểm của chính sách pháp luật BHXH ở thời kỳ này là do trong hoàn cảnh kháng chiến gian khổ nên việc thực hiện BHXH rất hạn chế. Tuy nhiên, đây là thời kỳ đánh dấu sự quan tâm rất lớn của Đảng và Nhà nước về chính sách BHXH. Đồng thời những quy định về BHXH của Nhà nước ở thời kỳ này là cơ sở cho sự phát triển BHXH sau này. 1.1.3. Giai đoạn 1954 đến 1975 Miền Bắc được giải phóng, xây dựng CNXH nên Pháp luật về BHXH được phát triển mở rộng nhanh. Điều lệ BHXH ban hành ngày 27/12/1961 có thể coi là văn bản gốc về BHXH quy định đối tượng là cán bộ công nhân viên chức Nhà nước, hệ thống 6 chế độ trợ cấp BHXH, quỹ BHXH nằm trong ngân sách Nhà nước do các cơ quan đơn vị đóng góp. Năm 1964, Điều lệ đãi ngộ quân nhân. Riêng miền Nam, BHXH cũng thực hiện đối với công chức, quân đội làm việc cho chính thể Ngụy. 1.1.4. Giai đoạn t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33122.doc
Tài liệu liên quan