Tên đề tài:
“Thực trạng và giải pháp phát triển nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An”.
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài.
Trong những thập kỷ qua, ngành thuỷ sản nước ta đã trải qua nhiều thăng trầm. Từ một lĩnh vực có thể nói là chưa được chú trọng phát triển, còn ở qui mô nhỏ lẻ, ngành thuỷ sản đã từng bước vươn lên phát triển một cách mạnh mẽ và hiện nay đang là một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Sự phát triển này của ngành thuỷ sản được thể hiện qua một s
82 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1390 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp phát triển nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ố chỉ tiêu như: GDP của ngành Thuỷ sản giai đoạn 1995 - 2003 tăng từ 6.664 tỷ đồng lên 24.125 tỷ đồng, tổng sản lượng thuỷ sản tăng từ 1.060.000 tấn năm 1991 lên 2.403.000 tấn năm 2001, giá trị xuất khẩu thuỷ sản tăng từ 262 triệu USD năm 1991 lên 1760 triệu USD năm 2001, giá trị tổng sản lượng thuỷ sản tăng từ 9400 tỷ đồng năm 1991 lên 25000 tỷ đồng năm 2001,…, đạt tốc độ phát triển bình quân của các chỉ tiêu trên thời kỳ 1991 - 2001 tương ứng là 8,5%, 21%, 10,3%.
Góp phần không nhỏ vào sự phát triển chung của ngành thuỷ sản đó là ngành nuôi trồng thuỷ sản. Sự phát triển của ngành nuôi trồng thuỷ sản đã có tác động rất lớn đến các lĩnh vực, ngành nghề trong xã hội, nó không những tạo thêm nhiều công ăn việc làm, tạo thêm thu nhập, nâng cao đời sống của người dân mà còn có những tác động mạnh mẽ đến ngành thuỷ sản và nền kinh tế nói chung. Cụ thể, nuôi trồng thủy sản góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tăng sự trao đổi buôn bán, ngoại giao với nhiều quốc gia và nhiều khu vực trên thế giới.
Trong những năm gần đây, khi khai thác và đánh bắt thuỷ sản ngày càng có nguy cơ giảm sút vì nguồn lực tự nhiên khan hiếm thì nuôi trồng thuỷ sản lại càng được coi trọng và phát triển mạnh đặc biệt là nuôi trồng thủy sản nước ngọt với nhiều giống mới năng suất, phẩm chất cao và hình thức nuôi trồng cải tiến và trở thành một trong những thế mạnh của ngành thuỷ sản.
Hưng Nguyên là một huyện có địa hình sâu trũng với hệ thông sông ngòi, ao hồ dày đặc, lực lượng lao động dồi dào, phù hợp cho việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt. Nắm được lợi thế đó của Huyện, Đảng uỷ, các cán bộ lãnh đạo Huyện đã xác định rõ phát triển nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt là hướng đi đúng đắn và cần thiết để phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của người dân. Để thực hiện điều đó Huyện đã đưa ra nhiều chính sánh hỗ trợ, hướng dẫn, chỉ đạo xuống tận các xã để mở rộng và phát triển phong trào nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt trên toàn Huyện.
Các giải pháp, chính sách của Huyện đưa ra đã góp phần không nhỏ vào viêc phát triển nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt trên địa bàn. Nhưng vẫn còn những hạn chế như: giá trị mang lại trên một đơn vị đơn vị diện tích chưa cao, quy mô nuôi trồng thủy sản còn nhỏ lẽ manh mún, việc phát triển nuôi trồng thủy sản chưa có tính bền vững, bên cạnh đó là sự ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên, nhận thức, cơ sở hạ tầng. Nên việc nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt ở Huyện chưa phát huy được hết những lợi thế sẳn có trên địa bàn.Với những lý do trên em đã chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp phát triển nuôi trồng thủy sản trên địa bàn huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.
2.1. Mục đích.
- Nghiên cứu và tìm hiểu về tình hình nuôi trồng thủy sản thủy sản nước ngọt trên địa bàn huyện Hưng Nguyên nhằm phát hiện ra những kết quả đạt được và tồn tại.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển ngành nuôi trồng thủy sản nước ngọt trên địa bàn Huyện.
2.2. Nhiệm vụ.
- Lựa chọn những vấn đề lý luận và thực tiễn hiện nay liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Tìm hiểu khái quát về nuôi trồng thủy sản và những nhân tố ảnh hưởng đến nuôi trồng thủy sản nước ngọt.
- Phân tích tình hình nuôi trồng thủy sản nước ngọt trên địa bàn huyện Hưng Nguyên,tỉnh Nghệ An.
- Đưa ra một số giải pháp để giải quyết các vấn đề còn tồn tại.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài.
Do hạn chế về thời gian nên đề tài chỉ đi sâu vào nghiên cứu tình hình nuôi trồng thủy sản nước ngọt trên địa bàn huyện Hưng Nguyên như:
- Tình trạng chung về nuôi trồng thủy sản trên địa bàn Huyện.
- Đánh giá hoạt động nuôi trồng thủy sản từ đó rút ra những vấn đề và nêu biện pháp giải quyết nhằm thúc đẩy hoạt động nuôi trồng thủy sản trên địa bàn Huyện.
4. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu.
4.1.Quan điểm nghiên cứu.
- Quan điểm động lực: Theo quan điểm này thì việc phát triển hoạt động nuôi trồng thủy sản nước ngọt là yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của Huyện.
- Quan điểm lãnh thổ: Đó là việc phát triển nuôi trồng thủy sản tùy vào điều kiện của từng vùng để phát triển phù hợp vì vậy có sự phân hóa theo không gian.
- Quan điểm tổng hợp: Nghĩa là phát triển nuôi trồng thủy sản chịu sự tác động của nhiều yếu tố về tự nhiên - kinh tế - xã hội. Do đó đòi hỏi quá trình nghiên cứu một cách tổng hợp.
4.2. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp thực địa thu thập số liệu: Các nguồn tư liệu sử dụng trong đề tài được lấy từ các phòng: phòng Thống kê, UBDS gia đình và trẻ em, phòng Nông nghiệp, phòng đất đai,…đồng thời dựa trên kết qủa khảo sát, điều tra từ năm 2000 đến nay và những kiến thức thu được từ quá trình thâm nhập thực tế.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Trên cơ sở những tư liệu có được tiến hành xử lý, phân tích tổng hợp, nghiên cứu để đưa ra những nhận xét và biện pháp.
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp dự đoán và dự báo.
5. Cấu trúc của chuyên đề.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo nội dung của chuyên đề thực tập gồm có 3 chương:
Chương 1: Lý luận về vấn đề nuôi trồng thủy sản.
Chương 2: Thực trạng nuôi trồng thủy sản trên địa bàn huyện Hưng Nguyên .
Chương 3: Một số giải pháp phát triển nuôi trồng thủy sản trên địa bàn huyện Hưng Nguyên .
Chương 1- Lý luận về vấn đề nuôi trồng thủy sản .
1. Khái niệm, vai trò, đặc điểm của nuôi trồng thủy sản .
1.1. Khái niệm nuôi trồng thủy sản.
1.1.1. Khái niệm và vai trò của ngành thủy sản.
Thủy sản là một bộ phận hay còn gọi là một phần của ngành nông nghiệp bởi thủy sản có những đặc điểm của nông nghiệp nói chung như tư liệu sản xuất chủ yếu là mặt nước, đối tượng lao động là sinh vật thủy sinh, kết quả là những sản phẩm sinh học. Bên cạnh đó ngành thủy sản có nhiều đặc điểm riêng và tính độc lập tương đối về kinh tế, kỹ thuật, môi trường.
Đã có từ rất lâu đời ngành thủy sản ngày càng chứng tỏ được vị trí của nó đối với nền kinh tế Quốc dân. Với vai trò quan trọng trong nền kinh tế, đặc biệt đối với Việt Nam là nước có mặt biển rộng với hơn 3200 km đường bờ biển và mạng lưới sông ngòi dày đặc, chằng chịt. Ngành thủy sản đã cung cấp nhiều sản phẩm quý cho tiêu dùng của dân cư có tác dụng tốt cho sức khỏe. Theo kết quả nghiên cứu của các chuyên gia thì hầu hết các loại thủy sản đều là loại thực phẩm giàu đạm dễ tiêu hóa, phù hợp với sinh lý dinh dưỡng mọi lứa tuổi, giảm nguy cơ bệnh béo phì, tim mạch, ung thư…Ngoài ra ngành thủy sản còn cung cấp nguyên liệu cho một số ngành khác chế biến tạo nên những sản phẩm có giá trị gia tăng cao, phục vụ cho hoạt động xuất khẩu thu lại một nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước.
Với ưu thế về địa hình, cùng với sự quan tâm hợp lý, đúng hướng ngành thủy sản Việt Nam ngày càng phát triển góp phần vào sự phát triển của toàn ngành Nông-Lâm-Ngư và quan trọng hơn nữa đó là sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
1.1.2.Khái niệm về nuôi trồng thủy sản.
Ngành thủy sản xuất hiện và có quá trình phát triển từ rất lâu với xuất phát điểm là đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Thời kỳ đầu đánh bắt thủy sản được coi là ngành quan trọng và chủ yếu cấu thành nên ngành thủy sản, vì vậy ở thời điểm đó nuôi trồng thủy sản chưa phát triển và con người chưa ý thức được việc tái tạo nguồn lực và đảm bảo môi trường cho sự phát triển của các loại thủy hải sản. Nhưng trong những thập kỷ gần đây khi sản phẩm thủy sản tự nhiên ngày càng có nguy cơ sụt giảm và cạn kiệt do đánh bắt quá nhiều, tràn lan trong điều kiện nguồn lực tự nhiên có hạn thì nuôi trồng thủy sản ngày càng phát triển và trở nên quan trọng.
Theo giáo trình kinh tế thủy sản thì “nuôi trồng thủy sản là một bộ phận sản xuất có tính nông nghiệp nhằm duy trì, bổ sung, tái tạo và phát triển nguồn lợi thủy sản”. Các sản phẩm nuôi trồng thủy sản được cung cấp cho các hoạt động tiêu dùng và chế biến xuất khẩu, hoạt động nuôi trồng diễn ra trên nhiều loại hình mặt nước với nhiều chủng loại khác nhau, bên cạnh đó là sự phát triển của khoa học kỹ thuật phục vụ cho hoạt động nuôi trồng thủy sản.
Vì vậy chúng ta có thể hiểu nuôi trồng thủy sản một cách tổng quát đó là một bộ phận sản xuất có tính nông nghiệp sử dụng các nguồn lực để duy trì, bổ sung tái tạo và phát triển nguồn lợi thủy sản, cung cấp sản phẩm trực tiếp cho tiêu dùng và nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và các ngành khác; bao gồm nuôi trồng thủy sản nước ngọt, nuôi trồng nước lợ, nuôi trồng hải sản.
1.2. Vai trò của nuôi trồng thủy sản .
- Ngành nuôi trồng thủy sản có vai trò quan trọng trong việc duy trì, tái tạo các nguồn lợi thủy sản.
Các nguồn lợi thủy sản là nguồn lợi tự nhiên với tính chất có hạn, khan hiếm khi khai thác, đánh bắt một cách tràn lan không có kế hoạch, thì nguồn lợi này lại càng trở nên có hạn, khan hiếm thậm chí một số loài gần như tuyệt chủng. Chính vì vậy để đảm bảo nguồn lợi này được duy trì và tiếp tục mang lại lợi ích cho con người thì cần có những kế hoạch khai thác hợp lý, khai thác kết hợp với bảo vệ, bổ sung tái tạo một cách thường xuyên thông qua hoat động nuôi trồng. Đánh bắt và nuôi trồng thủy sản là hai bộ phận cấu thành nên ngành thủy sản nhưng mang hai sắc thái hoàn toàn khác nhau, bổ sung lẫn nhau tạo nên sự phát triển chung của ngành thủy sản.
- Cùng với những tiến bộ khoa học kỹ thuật ngành nuôi trồng thủy sản góp phần bổ sung, đa dạng hóa các nguồn lợi thủy sản.
Các nguồn lợi thủy sản vốn rất phong phú và đa dạng, theo thống kê thì đối tượng nuôi trồng thủy sản nước ngọt có tới hơn 510 loài trong đó có khoảng 30 loài có giá trị kinh tế cao được coi là đối tượng nuôi truyền thống từ lâu đời, khi khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển đặc biệt là sự phát triển của công nghệ gen đã kéo theo sự phát triển của ngành lai tạo giống. Từ đó chọn lọc và tạo ra nhiều giống mới phù hợp với điều kiện thủy vực của mỗi vùng như mè trắng, Mè hoa, cá Chép, Trắm cỏ, Trắm đen, cá Trôi, cá Rô phi, Trê lai, cá Quả, cá Tra, cá Basa, vá Tai tượng, cá Bống tượng,…. Tạo nên sự phong phú, đa dạng của nguồn lợi thủy sản và tăng thêm sự lựa chọn của người nuôi trồng cũng như người tiêu dùng.
- Sự phát triển của ngành nuôi trồng thủy sản góp phần rất lớn vào sự phát triển chung của toàn ngành thủy sản.
Nuôi trồng thủy sản tạo ra những sản phẩm thủy sản có giá trị kinh tế cao phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu tạo ra nguồn thu lớn. Năm 2001 giá trị xuất khẩu thủy sản đạt 1760 triệu USD trong đó giá trị của các sản phẩm nuôi trồng đạt 1195,04 triệu. Là một bộ phận của ngành thủy sản nên khi nuôi trồng thủy sản phát triển sẽ góp phần rất lớn vào sự phát triển chung của toàn ngành.
- Nuôi trồng thủy sản phát triển mang lại nguồn lợi lớn nâng cao đời sống cho nhân dân.
ở Việt Nam, nuôi trồng thủy sản còn là một nghề truyền thống ở nông thôn. Người ta đã sớm nhận ra giá trị lợi ích của nuôi trồng thủy sản “thứ nhất canh trì, thứ nhì canh viên, thứ ba canh điền”. Từ khi nuôi trồng thủy sản phát triển đã tạo ra nhiều sản phẩm cung cấp cho nhu cầu nội bộ cũng như đưa ra trao đổi, buôn bán làm thỏa mãn nhu cầu đa dạng của người dân. Cùng với những giá trị kinh tế mang lại thì nuôi trồng thủy sản còn góp phần giải quyết việc làm, tạo thu nhập nâng cao đời sống cho nhân dân.
1.3. Đặc điểm của nuôi trồng thủy sản.
- Nuôi trồng thủy sản phát triển rộng khắp đất nước và tương đối phức tạp so với các ngành sản xuất vật chất khác. ở đâu có nước là ở đó có nuôi trồng thủy sản vì vậy nuôi trồng thủy sản phát triển rộng khắp tại mọi vùng địa lý từ miền núi xuống miền biển. Thủy sản nuôi rất đa dạng, nhiều giống loài mang tính địa lý rõ rệt, có quy luật riêng của từng khu hệ sinh thái điển hình. Do vậy công tác quản lý và chỉ đạo sản xuất của ngành cần chú ý đến các vấn đề như: xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch, triển khai thực hiện các chính sách,…, phải phù hợp với từng khu vực lãnh thổ hay từng vùng khác nhau.
- Số lượng, chất lượng thủy vực và nguồn lợi thủy sản rất khác nhau. Mỗi mặt nước nuôi trồng thủy sản có độ màu mỡ khác nhau phụ thuộc vào thổ nhưỡng vùng đất và nguồn nước, nguồn cung cấp. Vật nuôi trong ao hồ khó quan sát trực tiếp được như nuôi các loại khác nên rủi ro trong sản xuất lớn hơn nhiều. Người nuôi cần có kinh nghiệm và kiến thức kỹ thuật cần thiết.
- Hoạt động nuôi trồng thủy sản có tính mùa vụ rõ nét. Nuôi trồng thủy sản có tính mùa vụ vì thủy sản có quy luật sinh trưởng và phát triển riêng. Theo Lênin, tính mùa vụ thể hiện ở chỗ thời gian lao động không ăn khớp với thời gian sản xuất. Thời gian lao động là thời gia tác động tới sự hình thành của sản phẩm, còn thời gian sản xuất kéo dài hơn vì bao gồm cả thời gian lao động không tác động đến sản phẩm. Như vậy rõ ràng người nuôi trồng phải tuân theo quy luật sinh trưởng và phát triển của thủy sản. Trong nuôi trồng thủy sản phải lưu giữ và chăm sóc đặc biệt đối với đàn vật nuôi bố mẹ để sản xuất con giống cho các vụ nuôi tiếp theo. Đây là tài sản sinh học đặc biệt của doanh nghiệp, lựa chọn đàn tôm, cá bố mẹ phải tuân theo quy trình khoa học- công nghệ của hệ thống giống quốc gia.
- Nuôi trồng thủy sản có từ rất lâu đời nhưng đi lên từ điểm xuất phát rất thấp: nhỏ bé manh mún và phân tán. Trong thời gian gần đây nhờ sự quan tâm, nhận thức đúng đắn về ngành thủy sản nên đã có những bước đột phá nhất định. Trong năm 2000 có 7 quốc gia Châu á có tên trong số 10 nước có sản lượng nuôi trồng thủy sản cao nhất thế giới đó là: Băngladet, Trung Quốc, ấn Độ, Inđônêxia, Nhật Bản, Thái Lan và Việt Nam. Châu á đóng góp 90% tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản của thế giới. Nuôi thủy sản theo hướng thân thiện với môi trường, công nghệ nuôi trồng thủy sản không có chất thải sẽ phát triển trên thế giới. ở Việt Nam nuôi trồng thủy sản trong hệ VAC đáp ứng yêu cầu này.
2. Các hình thức tổ chức sản xuất nuôi trồng thủy sản Nước ngọt.
2.1. Các hình thức nuôi lấy thịt điển hình.
- Nuôi quảng canh hay còn gọi là nuôi truyền thống là hình thức nuôi bằng nguồn thức ăn tự nhiên trong các ao, hồ, đầm ở nông thôn và các vùng ven biển.
- Nuôi quảng canh cải tiến là hình thức nuôi chủ yếu bằng nguồn giống và thức ăn tự nhiên, nhưng bổ sung thêm giống nhân tạo ở mức độ nhất định, đồng thời có đầu tư cải tạo thủy vực nhằm tăng sản lượng.
- Nuôi bán thâm canh là hình thức nuôi chủ yếu bằng giống nhân tạo và thức ăn nhân tạo, nhưng kết hợp nguồn thức ăn tự nhiên có trong thủy vực. Ngoài ra hệ thống hồ ao nuôi còn được đầu tư cơ sở hạ tầng như điện, thiết bị cơ khí, thủy lợi…nhất là chủ động về nguồn nước cung cấp. Có khả năng xử lý và khống chế môi trường bằng hệ thống máy bơm và trục khí.
- Nuôi thâm canh là hình thức nuôi hoàn toàn bằng con giống và thức ăn nhân tạo, được đầu tư cơ sở hạ tầng và đầy đủ (quy hoạch hệ thống ao hồ, thủy lợi, giao thông, điện nước, cơ khí), có thể chủ động khống chế các yếu tố môi trường. Mật độ giống thả dầy, năng suất cao.
- Nuôi công nghiệp là hình thức nuôi hoàn toàn bằng con giống và thức ăn nhân tạo với mật độ rất cao. Sử dụng các máy móc thiết bị nhằm tạo cho vật nuôi một môi trường sinh thái và các điều kiện giống tối ưu, sinh trưởng tốt nhất, không phụ thuộc vào thời tiết và mùa vụ, trong thời gian ngắn nhất đạt các mục tiêu sản xuất và lợi nhuận.
2.2. Các hình thức nuôi năng suất cao ở Việt Nam.
- Nuôi cá nước ngọt.
+ Nuôi cá nước tĩnh.
Để đạt năng suất cao, người ta thường nuôi ghép nhiều loại có tập tính ăn khác nhau. Trong ao nuôi truyền thống nuôi ghép cá Mè, Trôi ta, Trắm đen, Chép. Sau này nuôi trồng thủy sản phát triển người ta đưa ra một vài công thức nuôi ghép với quy trình kỹ thuật lấy một loài làm chủ rồi ghép với các loài khác.
Ví dụ:
- Ao nuôi cá Mè làm chủ(tính cho 1ha). Mè trắng 60%, Mè hoa 5%, Trắm cỏ 3%, cá Trôi ta 25%, Chép 7%.
- Ao nuôi Trắm cỏ làm chủ(tính cho 1ha). Trắm cỏ 50%, Mè trắng 20%, Mè hoa 2%, cá Trôi 18%, Chép 4%, Rô 6%.
- Ao nuôi cá Rô phi làm chủ(tính cho 1ha). Rô phi 45%, Mè trắng 20%, Mè hoa 5%, cá Trôi 20%, Trắm cỏ 4%, Chép 6%.
- Ao nuôi cá Trê lai làm chủ nên ghép với Rô phi khoảng 10%.
+ Nuôi cá nước chảy của các hộ gia đình ở miền núi.
Tận dụng các khe suối, kênh rạch có nước chảy làm ao nuôi, hoặc đào ao nuôi rồi dẫn dòng chảy qua đường ống vào ao. Cách làm rất đa dạng sáng tạo, quy mô ao nhỏ bé nhưng tổng diện tích rất rộng có khi cả xã nhà nào cũng có ao như Sơn La, Bình Liêu (Quảng Ninh), Mai Châu (Hòa Bình)…do đó có ý nghĩa kinh tế xã hội rất lớn. Đối tượng nuôi chủ yếu là cá Trắm cỏ, có thể nuôi ghép một ít cá Chép, Rô phi…Vật liệu làm lồng đa dạng như tre, lồng, hóp, gỗ, sắt, lưới, ni lông…Kích thước lồng phụ thuộc vào độ sâu của nước thông thường dài x rộng x cao là: 3 x 2 x 1,5m hoặc 4 x 2,5 x 2m.
+ Nuôi cá nước thải sinh hoạt ở ngoại vi thành phố, thị xã.
Nuôi cá nước thải đã có từ thập niên 60 của thế kỷ trước. Hợp tác xã Yên Duyên, Thanh Trì, Hà Nội là lá cờ đầu vào thời gian đó. Có thể nuôi trên diện rộng từ 5-10ha, phải quy hoạch bờ vùng, mương tưới, cống tiêu và trạm bơm. Xử lý nước thải cho phù hợp với điều kiện nuôi, ngăn ngừa vi khuẩn gây bệnh và các kim loại nặng như chì, thủy ngân…,có trong nước thải. Đối tượng nuôi chủ yếu là các loại ăn tạp, mùn bã hữu cơ như Rô phi, Chép, Trôi ấn Độ, cá Mè…,vùng nuôi cá nước thải ở vên đô cung cấp một lượng thủy sản tươi sống cho người dân thành phố.
+ Nuôi cá ruộng trũng.
Nghề nuôi cá ruộng có lịch sử phát triển lâu đời ở nước ta và các nước Đông Nam á. Hiện nay có các loại hình nuôi cá ruộng phổ biến là xen canh và luân canh. ở các tỉnh phía Bắc kết hợp lúa - cá ở các chân ruộng trũng hoặc luân canh một vụ lúa, một vụ cá. Đối tượng nuôi chủ yếu là cá Chép, Rô phi, các ruộng nuôi cá phải được quy hoạch, có bờ vùng, bờ thửa. Bờ phải cao hơn mức nước cao nhất hàng năm 0.5m. Mặt bờ rộng 0,7 - 0,8m để có thể trồng cây ăn quả và bóng râm. Trong ruộng phải có mương, chuôm cho cá trú nắng khi nhiệt độ cao. Tại nhiều tỉnh miền Tây Nam Bộ như Bạc Liêu, Cà Mau, Cần Thơ, Kiên Giang,…. Nuôi xen canh lúa - cá, lúa - tôm nước mặn hoặc luân canh một vụ lúa một vụ tôm. Nước ta hiện nay có những vùng ruộng trũng rộng lớn, tập trung mang ý nghĩa kinh tế – sinh thái quan trọng cho sự phát triển lâu dài và bền vững.
3. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động nuôi trồng thủy sản.
- Chỉ tiêu về tổng giá trị sản xuất sản phẩm là biểu hiện bằng giá trị của toàn bộ khối lượng sản phẩm từ hoạt động nuôi trồng thủy sản tạo ra trong một thời kỳ (thường tính trong một năm). Bao gồm giá trị của toàn bộ các sản phẩm cả chính và phụ, giá trị mới tăng thêm,… Tổng giá trị sản xuất sản phẩm = C + V + m.
Trong đó:
+ C là phần bù đắp khấu hao của bộ phận tư liệu sản xuất đã tiêu hao trong quá trình sản xuất.
+ V là bộ phân trả công lao động và các chi phí cho lao động.
+ m là giá trị thặng dư.
+ Chỉ tiêu về năng suất phản ánh giá trị sản phẩm tạo ra trên một đơn vị diện tích.
Năng suất = Tổng giá trị sản xuất sản phẩm/diện tích nuôi trồng.
+ Chỉ tiêu về lợi nhuận phản ánh giá trị còn lại của tổng giá trị sản xuất sản phẩm sau khi đã khấu trừ toàn bộ chi phí phục vụ cho quá trình sản xuất.
Lợi nhuận (Ln) = tổng giá trị sản xuất – tổng chi phí sản xuất (tcpsx).
+ Chỉ tiêu lợi nhuận trên tổng chi phí sản xuất = Ln/Tcpsx
+ Chỉ tiêu lợi nhuận trên diện tích nuôi trồng(dtnt) = Ln/Dtnt (đv tiền/ ha)
+ Chỉ tiêu lợi nhuận trên số công lao động(Lđ) = Ln/Lđ (đvi tiền/ công lao động).
- Chỉ tiêu về thu nhập.
Thu nhập (Tn) = lợi nhuận + chi phí lao động gia đình.
+ Chỉ tiêu thu nhập trên tổng chi phí sản xuất = Tn/Tcpsx.
+ Chỉ tiêu thu nhập trên tổng số lao động = Tn/Lđ.
4. Một số kinh nghiệm nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam.
4.1. Tiềm năng nuôi trồng thủy sản ở nước ta.
4.1.1. Điều kiện tự nhiên về mặt nước.
Việt Nam có tiềm năng lớn để phát triển nuôi trồng thủy sản. Bờ biển dài hơn 3600km với 112 cửa sông, lạch và 12 đầm phá, eo vịnh có khả năng phong phú nuôi thủy sản nước lợ, mặn.
Trong nội địa, hệ thống sông ngòi chằng chịt ở phía bắc là hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình, phía nam là đồng bằng sông Cửu Long và hệ thống kênh rạch liên hoàn. Ngoài ra còn các đầm hồ thủy lợi, thủy điện đã tạo ra một tiềm năng to lớn về diện tích mặt nước. Theo thống kê của bộ Thủy sản tổng diện tích có khả năng nuôi trồng thủy sản là khoảng 1,7 triệu ha bao gồm 120.000 ha hồ ao nhỏ, mương vườn; 244.000 ha hồ chứa mặt nước lớn; 446.000 ha ruộng úng trũng, nhiễm mặn; 635.000 ha vùng triều. Và còn phải kể đến khoảng trên 100.000 eo, vịnh, đầm phá ven biển đang được quy hoạch nuôi trồng thủy sản.
4.1.2. Tiềm năng về đối tượng nuôi trồng thủy sản.
Đối tượng nuôi trồng thủy sản nước ngọt rất phong phú. Khu hệ cá sông Hồng có 210 loài và khu hệ cá đồng bằng sông Cửu Long có 300 loài. Trong đó có khoảng 30 loài có giá trị kinh tế cao được coi là đối tượng nuôi trồng truyền thống từ lâu đời. Một số đối tượng nuôi trồng khác như Tôm, Trai ngọc, Bào ngư, Vẹm xanh, Baba, ếch….Bên cạnh đó còn có nghề nuôi rong biển như rau Câu chỉ vàng, sản phẩm của nó rất cần cho thị trường công nghiệp nội địa.
4.1.3. Về khí hậu, thủy văn và lao động.
Nuôi trồng thủy sản ở nước ta tiến hành được cả từ Bắc vào Nam nhờ khí hậu á nhiệt nóng ẩm và một số vùng pha chút khí hậu ôn đới. Tài nguyên khí hậu thực sự quan trọng, đã trở thành một yếu tố đầu vào thuận lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh thủy sản. Chế độ thủy văn ở hầu hết các sông vùng đồng bằng, đặc biệt là vùng hạ lưu của sông đều phù hợp cho nhiều loài thủy sản sinh sống và phát triển, tạo thành một vùng sinh thái đặc trưng về nhiệt độ, dòng chảy, tính chất thủy lý hóa và nguồn thức ăn tự nhiên cho thủy sinh vật. Người lao động ở nông thôn và các vùng vên biển đều biết nuôi trồng thủy sản như một nghề truyền thống và hơn nữa, trong những năm gần đây nuôi trồng thủy sản đã được coi như một nghề chính, có khả năng làm giàu ở nhiều địa phương. Lao động nông ngư dân với kinh nghiệm và kiến thức nuôi trồng thủy sản của mình đang là yếu tố thuận lợi để phát triển nuôi trồng thủy sản.
Bên cạnh đó, Việt Nam còn có những tiềm năng mới được xác định có thể sử dụng để nuôi trồng thuỷ sản như sử dụng vật liệu chống thấm để xây dựng công tình nuôi trên các vùng đất cát hoang hoá, chuyển đổi mục đích sử dụng các diện tích trồng lúa, làm muối kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản. Nuôi biển là một hướng mở mới cho ngành Thuỷ sản, đã có bước khởi động ngoạn mục với các loài tôm hùn, cá giò, cá mú, cá tráp, trai ngọc,.… với các hình thức nuôi lồng, bè. Nuôi nước ngọt đang có bước chuyển mạnh từ sản xuất nhỏ tự túc sang sản xuất hàng hoá lớn, điển hình là việc phát triển nuôi cá tra, cá ba sa xuất khẩu đem lại giá trị kinh tế cao; Nuôi đặc sản được mở rộng; Sự xuất hiện hàng loạt các trang trại nuôi chuyên canh (hoặc canh tác tổng hợp nhưng lấy nuôi trồng thuỷ sản làm hạt nhân) chuyển đổi phương thức nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến sang bán thâm canh và thâm canh đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiệnđại hoá công nghiệp nông thôn.
4.2. Một số kinh nghiệm và kết quả đạt được trong hoạt động nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam.
4.2.1. Mô hình Tôm – Cá ở Bình Sơn (Quảng Ngãi).
Việc phát triển và nhân rộng mô hình một vụ tôm, một vụ cá trong 3 năm qua ở huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi) không những mang lại hiệu quả kinh tế khá cao mà còn hạn chế được tình trạng dịch bệnh, ao hồ nuôi bị ô nhiễm do độc canh con tôm.
Mô hình tôm – cá ở Bình Sơn được chính thức triển khai vào năm 2004, trên diện tích mặt nước khoảng 2000 m2, tại thôn Châu Me, xã Bình Châu. Theo đó cá Rô phi đơn tính được thả với mật độ 5 con/m2 và tôm được thả từ 3- 4 con/m2. Sau khi thu hoạch sản lượng cá thu được là 2,8 tấn, còn tôm là 100 kg. Trừ chi phí, còn lãi được khoảng10 triệu đồng. Từ thành công bước đầu này, năm 2005 được sự trợ giúp của sở khoa học – công nghệ Tỉnh, cũng tại địa điểm trên, mô hình đã được nhân rộng lên 3 ha. Để đạt hiệu quả cao nhất thì việc tập huấn kỹ thuật, cải tạo ao hồ nuôi, cách chăm sóc, nuôi dưỡng và phòng bệnh cho tôm, cá,...,cho các hộ tham gia được cơ quan chuyên môn tổ chức chu đáo và kỹ lưỡng.
Bên cạnh đó, trong quá trình nuôi, cán bộ kỹ thuật huyện còn thường xuyên theo dõi để kịp thời hướng dẫn cho người nuôi xử lý các tình huống xảy ra. Vì thế kết thúc vụ nuôi, sản lượng cá thu được đạt 7,8 tấn, năng suất trung bình khoảng 2,6 tấn/ha/vụ; sản lượng tôm là 5,4 tấn, năng suất trung bình đạt 1,8 tấn/ha/vụ. Trừ các khoản chi phí, lãi khoảng 240 triệu đồng. Đến vụ nuôi năm 2006, được UBND huyện Bình Sơn hỗ trợ 10% chi phí thức ăn, 40% chi phí về giống, mô hình được nhân rộng lên diện tích là 7 ha, triển khai thực hiện ở hai xã Bình Châu và Bình Chánh. Theo đó, mỗi ao hồ nuôi có diện tích từ 1000 – 3000 m2, với mật độ cá được thả đã giảm xuống 1 con/m2, riêng tôm được thả từ 18 – 20 con/m2. Nguồn thức ăn cho cá là: Bột bắp, cám, bột mì, bã đậu,…,còn tôm chủ yếu là thức ăn công nghiệp, cá tươi đồng thời cho ăn bổ sung một số loại vitamin tổng hợp để giúp tăng sức đề kháng và phát triển nhanh hơn. Kết quả tổng sản lượng cá thu hoạch được 14 tấn, sản lượng bình quân 2 tấn/ha/vụ; so với vụ nuôi năm trước tăng hơn 0,2 tấn /ha/vụ. Sản lượng tôm thu được 12,6 tấn đạt năng suất bình quân 1,8 tấn/ha/vụ. Theo giá thị trường vào thời điểm bán đối với cá là 15.000 đồng/kg, tôm 60.000/kg, thì số lãi mang lại khoảng 400 triệu đồng, trong đó số lãi từ tôm là 390 triệu. Tính bình quân nuôi tôm theo mô hình trên, người nuôi lãi 57,5 triệu đồng/ha; tăng so với cách nuôi truyền thống khoảng 20 triệu đồng/ha/vụ.
Qua những vụ nuôi của mô hình tôm – cá đã triển khai ở Bình Sơn trong thời gian qua, theo Trạm khuyến nông huyện thì có hai phương án để các hộ nuôi tôm có thể lựa chọn: nếu nuôi luân canh một vụ cá, một vụ tôm, thì vụ cá bắt đầu từ khoảng tháng 12 năm trước và sẽ kết thúc vào tháng 3 năm sau; còn vụ tôm sẽ từ tháng 4 đến tháng 8. Lựa chọn hình thức nuôi xen canh tôm – cá thì tôm sẽ được thả với mật độ 20 con/m2 và cá sẽ được thả ở mật độ 1 con/m2.
Ngoài hiệu qủa kinh tế, việc nuôi theo mô hình mới đã giúp cải tạo được nguồn nước trong ao hồ nên hạn chế dịch bệnh, khắc phục được tình trạng môi trường sinh thái ô nhiễm, là vấn đề đã tồn tại từ lâu của các vùng nuôi tôm trong tỉnh. Đồng thời mở ra một hướng đi mới: Phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng bền vững, đa dạng hóa vật nuôi để tạo ra sản phẩm hàng hóa cho địa phương.
4.2.2. NuôI cá ao thâm canh ở miền núi Tây Nguyên.
Đắc Lắc có khoảng hơn 9000 ha nuôi trồng thuỷ sản, hệ thống sông suối, đầm hồ phân bố khá đồng đều trong tỉnh đã tạo điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển nuôi trồng thuỷ sản. Những năm gần đây, nhất là từ khi giá cà phê xuống thấp, nghề nuôi thuỷ sản đang được các hộ trong tỉnh chú trọng, nhưng phần lớn bà con mới chỉ nuôi các loài truyền thống như trắm cỏ, cá trôi, cá mè, cá chép. Tuy nhiên, nhiều người nuôi cá vẫn còn chưa nắm rõ các quy trình, kỹ thuật nuôi, nhất là các khâu cải tạo ao hồ, bón phân, gây màu nước, cách quản lý chăm sóc.
Trước thực trạng đó, năm 2005 Trung tâm khuyến ngư Quốc Gia đã chuyển giao kỹ thuật cho Trung tâm khuyến nông Đăc Lắc mô hình nuôi cá ao thâm canh, nhằm chuyển tải và phổ biến rộng rãi kỹ thuật nuôi một số loài cá phổ biến có giá trị cao cho bà con địa phương.
Sau khi khảo sát địa điểm, mô hình được xây dựng ở ba hộ gia đình. Trong quá trình triển khai mô hình, Trung Tâm khuyến nông tỉnh Đắc Lắc đã phối hợp với địa phương xây dựng mô hình tổ chức hai lớp tập huấn về kỹ thuật nuôi các đối tượng thuỷ sản cho 65 người tham gia; 2 cuộc tham quan, tổng kết mô hình cho hơn 80 người tham gia. Tháng 6 năm 2005, các chủ mô hình đã tiến hành thả giống, nguồn giống được đưa về từ công ty Thuỷ Sản Đắc Lắc, mật độ thả 3 con/m2 cỡ từ 4-6 cm/con, con giống đạt chất lượng, không bị bệnh, đồng đều về cỡ. Trong quá trình nuôi, cá sinh trưởng và phát triển tốt, không có hiện tượng nhiễm bệnh. Sau 6 tháng nuôi, các chủ mô hình đều tiến hành thu hoạch, kết quả cho thấy tỉ lệ sống đạt bình quân 70-85%, trọng lượng đạt 0,5 kg/con, năng suất đạt 8-9 tấn/ha.
Hiệu quả mô hình cụ thể như sau:
- Chi phí: 45 triệu đồng, gồm:
Con giống: 4,5 triệu đồng
Thức ăn: 25 triệu đồng
Thuốc thú y: 2 triệu đồng
Tập huấn, hội thảo: 4 triệu đồng
Công chỉ đạo kỹ thuật: 1 triệu đồng
Công lao động: 8,5 triệu đồng
Doanh thu: 80 triệu đồng
Lãi: 35 triệu đồng
Thông qua mô hình, bà con nông dân các vùng lân cận đã được học
kỹ thuật cũng như kinh nghiệm nuôi cá ao, từ đó đã có rất nhiều hộ gia
đình tham gia vào phong trào nuôi cá.
Từ thực tế cho thấy mô hình dễ làm, đem lại lợi nhuận cao, khai thác
được tiềm năng sẵn có của mặt nước ao, hồ và tận dụng được các phụ
phẩm trong nông nghiệp cũng như công lao động, đồng thời giải quyết
việc làm và tăng thu nhập cho người dân địa phương. Đây là mô hình
có thể áp dụng và nhân rộng để góp phần thực hiện chủ trương xoá
đói giảm nghèo, tìm cách tăng thu nhập và ổn định cuộc sống cho bà
con.
4.2.3. Kinh nghiệm nuôi trồng thủy sản ở Bình Thuận.
Nuôi trồng thủy sản ở Bình Thuận trong những năm gần đây đã có chuyển biến rõ nét. Diện tích và năng suất nuôi không ngừng tăng, đặc biệt là với các đối tượng thủy sản nước ngọt. Trong năm 2003 đã mở rộng thêm 700 ha nuôi thủy sản nước ngọt. Trung tâm khuyến ngư Tỉnh thường xuyên tổ chức tập huấn, chuyển giao công nghệ, phổ biến kỹ thuật, triển khai các mô hình trình diễn, luôn đi sát nông ngư dân hướng dẫn kỹ thuật nuôi, giúp xóa đói giảm nghèo, góp phần đưa ngành nuôi trồng thủy sản của tỉnh phát triển đúng hướng, tránh hiện tượng nuôi tự phát làm hủy hoại môi trường, gây khó khăn trong khâu tiêu thụ sản phẩm. Đặc biệt trong thời gian vừa qua do ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm, người dân chuyển sang tiêu thụ mạnh hàng thủy sản nên giá cả thủy sản tăng. Điều này đã hấp dẫn nhiều nhà đầu tư, làm cho nuôi trồng thủy sản có cơ hội được đẩy mạnh. Đã có sự chuyển biến mạnh mẽ trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, một số hộ trước đây nuôi gia cầm nay mở rộng quy mô nuôi thủy sản hoặc chuyển hẳn qua nuôi thủy sản. Các sản phẩm thủy sản nuôi theo hướng tự phát, không quy hoạch, không đủ sản lượng lớn để tiêu thụ ở các cơ sở chế biến, bán ra chợ địa phương có giá trị thấp, tiêu thụ chậm, nhưng sau dịch gia cầm đã dễ dàng tiêu thụ hơn. Song đây chỉ là tạm thời vì muốn nuôi trồng có hiệu quả, cần có sự quy hoạch và sự hỗ trợ của các cấ._.p chính quyền, như vậy mới đảm bảo được lợi ích của người dân.
Trung tâm khuyến ngư Bình Thuận là cơ quan đi đầu trong phong trào khuyến khích giúp đỡ bà con ngư dân phát triển nghề nuôi trồng thủy sản nhằm nâng cao đời sống, tăng thu nhập cho nhân dân. Đầu năm nay trung tâm đã đẩy mạnh hoạt động xây dựng mô hình nuôi thử nghiệm các đối tượng mới có giá trị như nuôi ốc hương, nuôi cá Mú trong ao đất, trong lồng bè, nuôi cá Rô phi lai, nuôi Tôm sú,…, sau đó nhân rộng cho các hộ nuôi trong vùng. Đồng thời hỗ trợ một phần kinh phí cho một số hộ nuôi các đối tượng trên. Đã có thêm nhiều hộ đăng ký xây dựng mô hình đề nghị trung tâm hỗ trợ, song để tránh hiện tượng nuôi không đạt kết quả cao như ở một số hộ trong năm qua, người nuôi đã mạnh dạn đầu tư, nuôi đúng quy trình kỹ thuật thu hoạch đạt kết quả cao đáp ứng yêu cầu của thị trường.
Vụ mùa vừa qua (Năm 2003), đã xuất hiện nhiều hộ nuôi điển hình thu lời hàng chục triệu đồng như lãi hơn 100 triệu đồng ở mô hình 8000m2 nuôi tôm sú, lãi hơn 30 triệu đồng từ mô hình nuôi 3000m2 Baba,…. Với những kết quả đó cho thấy nuôi trồng thủy sản ở Bình Thuận đang phát triển rất có hiệu quả.
Chương 2- Thực trạng nuôi trồng thủy sản trên địa bàn huyện Hưng Nguyên.
1. Điều kiện tự nhiên, tài nguyên môi trường và điều kiện kinh tế xã hội của huyện Hưng Nguyên.
1.1. Điều kiện tự nhiên.
1.1.1. Vị trí địa lý.
Hưng Nguyên là một huyện có địa hình đất trũng, phía Bắc giáp Nghi Lộc, phía Tây giáp Nam Đàn, phía Đông giáp Thành Phố vinh, phía Nam giáp Hà Tĩnh. Diện tích tự nhiên là 163,98 km2.
Có thể nói Hưng Nguyên có vị trí địa lý khá thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội. Phía Đông giáp Thành Phố vinh là trung tâm kinh tế xã hội của Tỉnh Nghệ An đang từng bước có nhiều khởi sắc. Thành Phố vinh trở thành thị trường thu hút nhiều hàng hóa từ các huyện khác đổ về, trong đó gần nhất là Hưng Nguyên. Và là thị trường quan trọng cho việc tiêu thụ các sản phẩm hàng hóa của huyện cũng như cung cấp khoa học kỹ thuật cho việc phát triển sản xuất. Đây là điều kiện quan trọng thúc đẩy hoạt động nuôi trồng thủy sản phát triển.
Như vậy với vị trí này Hưng Nguyên có nhiều thuận lợi để sử dụng tốt nguồn lao động việc làm, phát triến hoạt động nuôi trồng thủy sản đưa kinh tế của huyện ngày một đi lên.
1.1.2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên.
1.1.2.1. Về địa hình.
Địa hình Hưng Nguyên thấp trũng từ Tây sang Đông. ở đây địa hình được chia làm 3 dạng: Vùng đồi núi gồm các xã Hưng Tây, Hưng Yên, Hưng Đạo,…, ít thuận lợi cho việc sản xuất nông nghiệp, chủ yếu trồng các cây công nghiệp như cam, chanh và trồng rừng. Các điều kiện về cơ sở vật chất còn khó khăn do vậy dân cư tập trung thưa thớt. Vùng rốn thấp trũng gồm các xã Hưng Phúc, Hưng Lợi, Hưng Châu.
Mặt khác, Hưng Nguyên cũng có núi sông điểm tô cảnh vật thêm hùng vĩ. Đó là núi Thành, núi Nhón, núi Lưỡi hái, núi Mượu, núi Chùa Khê,…. Kết hợp với các di tích lịch sử khác khác nhau để phát triển du lịch. Điều này sẽ góp phần sử dụng thời gian rỗi trong nông nghiệp, tạo điều kiện chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp xây dựng và dịch vụ.
Như vậy, với địa hình đa dạng không những ảnh hưởng tới phân bố độ ẩm, lượng mưa mà còn tạo ra nhiều điều kiện khác nhau để phát triển sản xuất, lao động và mở ra cơ hội cho hoạt động nuôi trồng thủy sản phát triển thuận lợi.
1.1.2.2. Về khí hậu.
Khí hậu Hưng Nguyên mang đặc điểm chung của khí hậu vùng đồng bằng Nghệ An. Trong năm có 2 mùa rõ rệt:
Mùa nóng từ tháng 4 đến tháng 10, thời kỳ đầu có gió Tây Nam, gây nắng nóng, nhiệt độ trung bình là 23,90c. Mùa lạnh từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, có gió mùa Đông Bắc mang theo không khí lạnh gây mưa, gió rét, nhiệt độ trung bình là 190c, có khi xuống 6 – 70c. Với khí hậu như vậy cũng gây nhiều trở ngại cho việc phát triển hoạt động nuôi trồng thủy sản, người dân cần có ý thức phòng tránh hợp lý các khó khăn do tự nhiên mang lại. Bên cạnh đó kết hợp với điều kiện địa hình, khí hậu Hưng Nguyên cho phép phát triển một nền nông nghiệp nhiêt đới, đủ điều kiện về nhiệt độ, lượng mưa để phát triển đa dạng cây trồng, vật nuôi có thể tiến hành thâm canh, tăng vụ, áp dung các phương pháp mới năng suất cao.
1.1.2.3. Về thủy văn.
Hưng Nguyên có 4 con sông và kênh đào chảy qua với tổng chiều dài 76 km: sông Lam chảy qua 10 xã từ Hưng Lĩnh đến Hưng Lợi, dài 20 km; kênh đào Hoàng Cần dài 21 km được chia thành 2 nhánh qua vùng giữa Huyện đổ vào sông Vinh; kênh Gai dài 21 km từ cầu Đước Hưng Chính qua Hưng Tây, Hưng Yên đến Hưng Trung; sông Vinh dài 9,5 km từ cầu Đước qua Hưng Thịnh đến cống Bến Thủy.
Điều này mở ra cho các xã ven sông nghề đánh bắt, nuôi trồng thủy sản. Như vậy ngoài nghề nông nghiệp truyền thống người dân còn có điều kiện tham gia ngư ngiệp, sử dụng thời gian nhàn rỗi vào nghề cá để tăng thu nhập. ở một số xóm của xã Hưng Lợi, Hưng Lam, người dân đã kết hợp nghề đánh bắt cá với nghề khai thác cát trên sông, tăng nguồn thu cho gia đình.
Mặt khác, ở Hưng Nguyên với gần 1.500 ha mặt nước, lượng mưa hàng năm từ 1.5000 mm – 1.900 mm, nên lượng nước mặt khá lớn ước khoảng 2 tỷ m3/ năm. Đây là điều kiện để phát triển mô hình sản xuất VACR, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập cho lao động. Ngoài ra còn có 2000 ha diện tích lúa và bãi bị ngập lụt, hiện nay các xã này đã áp dụng mô hình sản xuất cá lúa mang lại hiệu quả kinh tế cao. Nhưng do lượng mưa phân bố không đồng đều, lũ lụt thường xảy ra, cần có biện pháp để đảm bảo ổn định sản xuất cho nhân dân.
Tuy là một Huyện không giáp biển song diện tích mặt nước cũng là một thuận lợi để Hưng Nguyên phát triển ngành ngư nghiệp, tạo thêm việc làm cho lao động, thay đổi bộ mặt nông thôn.
1.1.3. Về môi trường.
Theo điều tra của phòng Thống kê huyện Hưng Nguyên thì tình trạng về môi trường nước ở Hưng Nguyên tương đối tốt, lượng nước ở các sông ổn định và phù hợp cho việc phát triển nuôi trồng thủy sản.
Lượng nước ao do nhận thức của người dân về nuôi trồng thủy sản ngày một nâng cao nên nước trong các ao nuôi luôn được đảm bảo về yêu cầu kỹ thuật cho việc nuôi trồng thủy sản.
Bên cạnh đó thì trên địa bàn Huyện hệ thống sông ngòi dày đặc, chằng chịt và là vùng trũng nên thường xảy ra lũ lụt, nước tràn bờ ao gây khó khăn cho việc nuôi trồng.
1.2. Điều kiện kinh tế xã hội.
1.2.1. Xã hội.
1.2.1.1. Dân số và kết cấu dân số.
- Dân số của Huyện năm 2005 là 120.401 người xếp thứ 8 trong 19 huyện, thành phố, thị xã trong tỉnh.
Mức gia tăng dân số không cao song có sự biến động, qua bảng sau:
Bảng 2- Dân số huyện Hưng Nguyên qua các năm.
Năm
2002
2003
2004
2005
Dân số (người)
120.351
120.338
120.397
120.401
Dưới độ tuổi lao động
58.611
58.605
58.633
58.635
Trong độ tuổi lao động
58.370
58.364
58.393
58.394
Trên độ tuổi lao động
8.184
8.183
8.187
8.187
(Nguồn số liệu: phòng Thống kê huyên Hưng Nguyên ).
Mức độ tăng dân số từ năm 2002 – 2005 không lớn trung bình chỉ đạt 12 người/năm, thậm chí năm 2003 so với năm 2002 dân số còn giảm đi 13 người.
- Trong đó kết cấu tự nhiên của dân số:
+ Số người dưới độ tuổi lao động chiếm 48,7%.
+ Số người trong độ tuổi lao động chiếm 48,5%.
+ Số người trên độ tuổi lao động chiếm 6,8%.
Hưng Nguyên là một huyện có kết cấu dân số trẻ. Với kết cấu dân số này Huyện sẽ có một lực lượng lao động bổ sung hàng năm rất lớn cho các ngành kinh tế đặc biệt là ngành nuôi trồng thủy sản. Đồng thời đây cũng là thị truờng tiêu thụ hàng hóa rông rãi kích thích sản xuất phát triển. Tuy nhiên trình độ lao động còn thấp, đặt ra vấn đề về đào tạo bổ sung kiến thức về kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản.
1.2.1.2. Phân bố dân cư.
Phân bố dân cư không đồng đều giữa các xã, chủ yếu tập trung vùng giữa và vùng dọc sông Lam, thưa tớt ở vùng ngoài.
Mật độ dân số toàn Huyện là 730 người/km2, xã cao nhất là Hưng Chính (1.270 người/km2), thấp nhất là xã Hưng Yên (400 người/km2).
Bảng 3- Hiện trang phân bố dân cư của huyên Hưng Nguyên năm 2003
STT
Xã, thị trấn
Dân số (người)
Diện tích (ha)
Mật độ dân số (người/km2)
1
Hưng Lĩnh
7.097
618,55
1.250
2
Hưng Long
5.816
463,93
903
3
Hưng Xá
3.005
332,60
970
4
Hưng Xuân
4.220
434,81
620
5
Hưng Lam
4.012
647,98
660
6
Hưng Phú
2.687
409,63
560
7
Hưng Nhân
18.12
321,05
600
8
Hưng Châu
3.637
609,04
1.040
9
Hưng Lợi
4.654
448,21
520
10
Hưng Phúc
4.021
766,95
790
11
Hưng Thịnh
3.672
463,83
1.100
12
Hưng Mỹ
6.726
609,45
810
13
Hưng Thắng
4.116
510,63
820
14
Hưng Tiến
3.578
438,38
840
15
Hưng Thông
3.100
370,80
1.050
16
Hưng Tân
4.756
551,58
700
17
Hưng Chính
3.622
482,29
1.270
18
Thị Trấn
5.756
452,91
980
19
Hưng Đạo
7.563
770,83
750
20
Hưng Tây
7.362
1.059,07
700
21
Hưng Yên
9.815
1.841,53
400
22
Hưng Trung
10.636
2.800,97
890
23
Hưng Khánh
8.660
968,39
530
Tổng
120.338
16.399,43
730
(Nguồn số liệu: UBDS gia đình và trẻ em)
Các xã có mật độ dân số cao trên 800 – 1000 (người/km2). Bao gồm Hưng Lĩnh, Hưng Long, Hưng Chính,…,do tỷ lệ sinh cao. Đặc biệt khu vực thị trấn là do sự thu hút của các ngành công nghiệp dịch vụ. Còn các xã vùng ngoài là do ở đây hơn 60% dân số theo đạo, tỷ suất sinh cao. Các xã có mât độ dưới 800 (người/km2) chủ yếu là các vùng giữa và các vùng trong.
1.2.2 Cơ sở hạ tầng.
1.2.2.1. Giao thông vận tải.
Hưng Nguyên có đường bộ, đường thủy, đường sắt ngày càng được nâng cấp đáp ứng nhu cầu giao thông vận tải của huyện và cầu nối với các huyện khác. Nhất là quốc lộ 46 từ thành phố Vinh đến huyện Nam Đàn, rất có giá trị về kinh tế, hiện nay đang xây dựng tuyến đường tỉnh lộ 558 dài 43 km và có tuyến đường tránh quốc lộ I đi qua 6 xã, để giảm thiểu mật độ giao thông cho thành phố Vinh. Đây được coi là cơ hội mới cho sự phát triển kinh tế – xã hội của Huyện trong tương lai.
1.2.2.2. Thủy lợi.
Các công trình thủy lợi phục vụ cho hoạt động sản xuất được xây dựng, đáp ứng hầu hết các nhu cầu về tưới tiêu phục vụ sản xuất. Trong những năm gần đây kết hợp với các dự án phát triển, chính sách hỗ trợ và đóng góp của người dân hàng loạt các công trình thủy lợi được xây dựng và đưa vào sản xuất.
1.2.2.3. Cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động nuôi trồng thủy sản.
Trong những năm qua cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động nuôi trồng thủy sản được quan tâm và phát triển. Cụ thể ở chương trình 224 đã đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cho nuôi trồng thủy sản bao gồm quy hoạch, thiết kế, đào đắp hệ thống ao hồ với diện tích 263 ha ở các xã Hưng Lợi, Hưng Thịnh, Thị Trấn, Hưng Trung đến nay đã đưa vào sử dụng ở Hưng Lợi, Hưng Thịnh, Thị Trấn với diện tích 203 ha và tiếp tục triển khai ở xã Hưng Trung.
Bên cạnh đó là những hoạt động nâng cấp các trại nuôi ương giống phục vụ cho hoạt đông nuôi trồng, cụ thể đó là nâng cấp trại cá giống cấp 2 thành trại cá giống cấp 1 với giá trị toàn bộ trại hai đợt trên 1 tỷ đồng. Cơ sở hạ tầng đã được đầu tư nâng cấp, đặc biệt là hệ thống kênh ao hồ, kênh mương thủy lợi đã được quy hoạch, thiết kế phù hợp và được nhân dân đầu tư xây dựng kiên cố số vốn đầu tư cho xây dựng hạ tâng nuôi trồng thủy sản là hàng chục tỷ đồng được huy động chủ yếu là từ dân theo các chương trình như nhà nước và nhân dân cùng làm,….
1.2.3. Kinh tế.
Trong những năm gần đây nền kinh tế của Huyện có nhiều khởi sắc. Năm 2006, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt bình quân 16%, trong đó ngành Nông – Lâm – Ngư tăng 9,1%, công nghiệp xây dựng tăng 13,7%, dịch vụ thương mại tăng 26,2%. Tổng giá trị sản xuất của toàn Huyện theo giá so sánh năm 1994 là 498.560 triệu đồng. Điều đó chứng tỏ nền kinh tế Huyện cũng đang chuyển biến dần theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Tuy nhiên cơ cấu ngành vẫn chủ yếu là nông nghiệp, nhưng sản xuất nông nghiệp còn chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, sản xuất thủ công nên hiệu quả thấp; chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra chậm.
Bảng 4- Cơ cấu GDP của huyện Hưng Nguyên qua các năm(%).
Ngành
2003
2004
2005
Nông – Lâm – Ngư
51,11
47,23
45,4
Công nghiệp – Xây dựng
19,24
20,55
14,9
Thương mại – Dịch vụ
29,65
32,12
39,7
(Nguồn số liệu: phòng Thống Kê huyện Hưng Nguyên ).
Về cơ cấu thành phần kinh tế quốc doanh đang được củng cố và phát triển các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đều có bước tăng trưởng và cơ cấu khác nhau tùy theo từng lĩnh vực kinh tế. Việc gia tăng ngày càng nhiều thành phần kinh tế, đặc biệt là thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã phát huy nội lực, khơi gợi tính tích cực, tự giác và chủ động sản xuất, giúp họ nâng cao năng lực và cải thiện cuộc sống.
- Trong ngành Nông – Lâm – Ngư, quốc doanh chiếm 0,5% giá trị sản xuất, ngoài quốc doanh 99,5%.
- Trong công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp, quốc doanh chiếm 65%, ngoài quốc doanh là 35%.
- Trong dịch vụ, quốc doanh chiếm 51,5% giá trị sản xuất.
1.2.3.1. Ngành Nông – Lâm – Ngư nghiệp.
Sản xuất Nông – Lâm – Thủy sản trong mấy năm qua có những bước chuyển biến đáng kể theo hướng sản xuất hàng hóa và nông nghiệp:
+ Trồng trọt: Tổng diện tích lúa 11.975 ha. Việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật thâm canh cây trồng ngày càng tốt hơn, 10% diện tích trồng lúa trên địa bàn được sử dụng giống cấp 1 và giống lúa lai. Chủng loại giống được mở rộng, các loại giống mới năng suất cao, chất lượng tốt thích hợp với điều kiện, vì thế vụ mùa đang dần được thu hẹp, tăng nhanh diện tích lúa hè thu và mở rộng diện tích vụ đông xuân, tăng năng suất các loại cây trồng. Sản lượng lương thực (cây có hạt) cả năm là: 66,258 tấn, trong đó lúa đạt 63,934 tấn.
Bên cạnh đó nhờ chuyển diện tích lúa không đạt hiệu quả sang trồng cây trồng khác (chủ yếu là ngô và thuốc lá), diện tích trũng dễ bị úng lụt sang nuôi trồng thủy sản, chỉ trong vòng 5 năm (2001-2005) diện tích đã chuyển đổi được là 213 ha. Bố trí 800 – 1000 ha sản xuất lúa gạo chất lượng cao để làm hàng hóa ở 13 xã vùng giữa và vùng ngoài, đưa diện tích ngô lên 600 ha.
- Cây công nghiệp: Lạc, Đỗ, Vừng tăng cả diện tích năng suất và sản lượng. Riêng dâu tằm hiện đang phát triển mạnh ở xã Hưng Khánh, sắp tới sẽ được phát triển ra khắp các xã dọc sông Lam.
- Cây rau và cây ăn quả cũng phát triển khắp các xã: rau màu các loại ở Hưng Nhân; rau thơm ở hưng Phú; cam, chanh ở Hưng Yên, Hưng Trung đem lai thu nhập cao cho người nông dân.
+ Chăn nuôi: nhờ có lợi thế về thị trường tiêu thụ hàng hóa tươi sống tại thành phố Vinh nên chăn nuôi có nhiều hướng phát triển tốt, tốc độ tăng nhanh kể cả về số lượng và chất lượng nhất là đàn gia cầm. Mặt khác, các giống vật nuôi mới được đưa vào nuôi cho kết quả khả quan. Tổng đàn trâu, bò năm 2004 là 27.265 con, trong đó bò lai sin 9.531 con tăng 1.031 con; bê sữa 131 con, lợn 56.385 con tăng 481 con so với năm 2003. Đàn gia cầm 631.460 con. Trong thời gian tới sẽ đẩy nhanh tốc độ sind hóa đàn bò (68 – 80%). Phát triển chăn nuôi, trồng cỏ cho chăn nuôi, nạc hóa đàn lợn, nuôi lợn choai để làm hàng hóa, góp phần chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp, đưa tỷ trọng chăn nuôi lên 40%.
+ Lâm nghiệp: Các dự án phát triển vốn rừng được triển khai có hiệu quả. Năm 2003, quản lý và bảo vệ khoảng 900 ha rừng, trồng mới 92 ha rừng và 0,4 triệu cây phân tán, trồng tre chắn sóng ở các bãi dọc sông Lam.
+ Ngư nghiệp: Trong những năm gần đây nhờ xác định rõ nuôi trồng thuỷ sản là ngành kinh tế mũi nhọn nên ngư nghiệp trên địa bàn huyện đã có những bước phát triển vượt bậc so với trước. Cụ thể diện tích mặt nước được sử dụng để nuôi trồng thủy sản là 1.550,5 ha (2006), trong đó chuyên canh 525 ha, cá lúa 440 ha, cá vụ 3 520,5 ha, cá rô phi đơn tính 65 ha; Sản lượng nuôi trồng 3500 tấn, đạt giá trị 54,2 tỷ đồng. Bên cạnh đó là sự nhận thức đúng đắn của người dân và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong khâu giống, nhập nhiều giống cá mới có năng suất cao để nuôi như: Trê, Rô phi đơn tính, Trắm, Mè và một số giống đặc sản như: Baba, Lươn, ếch, cá sấu, cá lóc.
Như vậy với sự chuyển dịch ngay trong nội bộ ngành sản xuất Nông – Lâm – Ngư nghiệp cũng đã tạo thêm nhiều việc làm, mở rộng ngành nghề, tăng thu nhập cho người nông dân, giảm thời gian lao động nhàn rỗi. Việc áp dung các tiến bộ khoa học kỹ thuật, phát triển mô hình sản xuất với năng suất cao, góp phần công nghiệp hóa nông thôn. Đặc biệt với việc xây dựng cánh đồng 50 triệu/ha đã mở ra hướng phát triển nông nghiệp hàng hóa thu nhập cao, không chỉ tạo việc làm mà còn sử dụng hợp lý và hiệu quả nguồn lao động, góp phần chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang ngư nghiệp, lâm nghiệp và công nghiệp xây dựng, dịch vụ. Tuy nhiên do nghiêm cứu tiếp cận thị trường của người dân chưa cao, cơ sở chế biến còn nhỏ nên hiệu quả đem lại còn thấp.
1.2.3.2. Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.
Sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, xây dựng tăng trưởng khá, tổng giá trị sản xuất năm 2004 là 137.196 tỷ đồng, tăng 13,7% so với năm 2003. Trong đó, giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp đạt 25,13 tỷ đồng tăng 16,9%.
Hưng Nguyên khai thác lợi thế tự nhiên phát triển mạnh công nghiệp vật liệu xây dựng và công nghiệp chế biến.
- Công nghiệp vật liệu xây dựng: có 3 xí nghiệp sản xuất gạch ngói, các tổ hợp khai thác đá Rú Mượu, khai thác đá Hưng Tây, Hưng Yên.
- Công nghiệp chế biến nông sản và lâm sản: Ngày càng nâng cao năng lực đáp ứng việc làm cho lao động tại chỗ. Sự phát triển của ngành này bước đầu đã thu hút đuợc một lực lượng lao động của Huyện tham gia.
Đặc biệt các ngành nghề truyền thống được khôi phục và củng cố. Một số ngành nghề được đẩy mạnh như sản xuất nón, mũ, đan lát, may mặc,…, góp phần khôi phục lại những làng nghề cổ truyền đang bị mai một, đồng thời giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp nhàn rỗi, chuyển dịch lao động theo hướng tích cực. Tuy nhiên sức hấp dẫn đối với lao động chưa cao, do thu nhập của ngành mang lại còn thấp vì thế cần đầu tư nhiều và có hướng phát triển đúng đắn.
1.2.3.3. Dịch vụ.
Hưng Nguyên có vị trí địa lý khá thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán, du lịch từ thành phố Vinh đến các huyện phụ cận, giá trị dich vụ ngày càng tăng từ 127,5 tỷ đồng (năm 2000) lên 355,86 tỷ đồng (năm 2004). Ngành này ngày càng phát triển góp phần mở rộng ngành nghề và tạo việc làm cho lao động nông nghiệp.
2. Thực trạng nuôi trồng thủy sản trên địa bàn huyện Hưng Nguyên.
2.1. Tiềm năng và lợi thế.
Hưng Nguyên là một huyện đồng bằng thấp trũng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với hệ thống sông ngòi dày đặc, có tới 76 km đường sông chảy qua bao gồm sông Lam và hệ thống sông cụt đào bao quanh huyện tạo nên tiềm năng lớn để Hưng Nguyên phát triển nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là thủy sản nước ngọt.
Theo con số thống kê diện tích mặt nước trên địa bàn Huyện là khoảng 1700 ha con số này được tăng lên hàng năm do phong trào đào ao nuôi cá trong những năm qua rất lớn, do hệ thống sông ngòi và lượng mưa hàng năm lớn nên diện tích ao hồ chứa nước nhiều. Người dân đào ao thả cá truyền thống nhiều, hiện nay lượng ao đào đó đang được cải tạo phù hợp với việc nuôi trồng thủy sản một cách tâp trung và có hiệu quả. Trên hơn 20 xã, thị trấn thì không có xã, thị trấn nào là không có diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản. Tạo điều kiện cho việc phát triển hoạt động nuôi trồng trên địa bàn huyện một cách đồng bộ.
Bảng 5- Diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản của các xã trong huyện
TT
Xã, thị trấn
Cá chuyên canh (ha)
Cá xen lúa (ha)
Cá Rô phi đơn tính (ha)
Cá vụ 3 (ha)
Tổng (ha)
1
Hưng Lĩnh
14
10
0
15
39
2
Hưng Long
20,2
6,5
2
13
41,7
3
Hưng Xá
10,3
0
2
1,3
13,8
4
Hưng Xuân
13,5
4
0
5
22,5
5
Hưng Lam
18,3
0
0
4
22,3
6
Hưng Phú
6,5
3,5
0
36
46
7
Hưng Khánh
6
4
0
12
22
8
Hưng Nhân
1
3
0
0
4
9
Hưng Châu
20
12
2
15
49
10
Hưng Lợi
74
12
2
26
114
11
Hưng Phúc
16,5
16
0
6
38,5
12
Hưng Thịnh
36
19
2
18
75
13
Hưng Mỹ
9,3
12
2
5
28,3
14
Hưng Thắng
7
15
0
15
37
15
Hưng Tiến
18
37
1
39
95
16
Hưng Thông
12,7
10
0
15
37,7
17
Hưng Tân
16
17
7
40
80
18
Thị Trấn
45
35
5
33
118
19
Hưng Đạo
34
34
5
39
112
20
Hưng Chính
12,5
10
2
10
34,5
21
Hưng Tây
50
50
6
40
146
22
Hưng Yên
45
25
2
65
137
23
Hưng Trung
17
18
0
25
60
Tổng
503
353
40
477
1.373,3
(Nguồn số liệu: Phòng NN&PTNT huyện Hưng Nguyên)
Mặt khác, với dân số 120.401 người (2005) trong đó 58.395 người trong độ tuổi lao động nên lực lượng lao đông hoạt động trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản là rất lớn và tăng lên hàng năm về cả số lượng và chất lượng. Là một huyện tiếp giáp với thành phố Vinh – trung tâm kinh tế của tỉnh Nghệ An đang trên đà phát triển với tốc độ cao, quy mô dân số ngày một gia tăng, nhu cầu tiêu dùng ngày càng lớn. Chính đặc điểm này đã thúc đẩy phong trào nuôi trồng thủy sản của huyện. Người dân ngày càng nhận thức rõ hơn vai trò của hoạt động nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là những sản phẩm thủy đặc sản và các sản phẩm tươi sống để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị trường thành phố Vinh, các vùng phụ cận và cho chính địa bàn huyện.
Có thể nói Hưng Nguyên là một huyện có tiềm năng lớn để phát triển nuôi trồng thủy sản nước ngọt. Tuy nhiên, để hoạt động nuôi trồng thủy sản ở Hưng Nguyên phát huy tốt được lợi thế tiềm năng tạo ra được nhiều sản phẩm có giá trị kinh tế cao, cần có sự quan tâm đúng mức của cơ quan chính quyền, nhận thức đúng đắn của người dân trong quá trình thực hiện hoạt động nuôi trồng, từ việc cải tạo ao hồ, chọn giống phù hợp, thị trường tiêu thụ, khắc phục những ảnh hưởng của tự nhiên.
2.2. Thực trạng nuôi trồng thủy sản trên địa bàn huyện Hưng Nguyên.
2.2.1. Hiện trạng nuôi trồng thủy sản nước ngọt chung của toàn Huyện.
Nuôi trồng thủy sản phát triển ở huyện Hưng Nguyên đã chứng tỏ được khả năng đem lại lợi ích cho người nuôi trồng. Nhận biết được tiềm năng và thế mạnh về nuôi trồng thủy sản của huyện người dân Hưng Nguyên đã phát triển nuôi trồng thủy sản đưa nuôi trồng thủy sản trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của huyện. Trong những năm gần đây phong trào nuôi trồng thủy sản ngày một phát triển với nhiều hình thức khác nhau trên khắp cả nước. Hưng Nguyên cũng không phải là một ngoại lệ đặc biệt là thủy sản nước ngọt, với các hình thức như nuôi cá chuyên canh, xen lúa, cá Rô phi đơn tính, cá vụ 3, các loại đặc sản như Baba, cá Quả, ếch,…. Diện tích nuôi trồng thủy sản ngày một mở rộng, các mô hình nuôi trồng thủy sản đưa lại giá trị kinh tế cao ngày càng được nhân rộng, phát triển trên khắp toàn huyện.
Bên cạnh ý thức phát triển của người dân là sự quan tâm chỉ đạo và hỗ trợ đúng hướng, của các cấp lãnh đạo như các chính sách ưu tiên, hỗ trợ, các đề án phát triển, các thông tư hướng dẫn,…, của Tỉnh, Huyện. Cụ thể như dự án Sufa, đề án phát triển nuôi trồng thủy sản trên địa bàn huyện 2001- 2005 và tiếp tục phát triển ở giai đoạn 2006 – 2010,…. Nuôi trồng thủy sản ở huyện Hưng Nguyên đã thực sự trở thành mũi nhọn kinh tế với sự phát triển vượt bậc về diện tích, năng suất và hiệu quả kinh tế. Chỉ trong vòng 5 năm (2001 – 2005) diện tích nuôi trồng thủy sản của huyện tăng 1249 ha, tốc độ tăng trưởng, tổng sản lượng, giá trị tổng sản lượng thủy sản năm 2005 lần lượt là 32%, 3.030 tấn, 45,1 tỷ đồng. Phát triển nuôi trồng thủy sản ở huyện đã tạo sự chuyển biến rõ nét về cơ cấu kinh tế, nhất là cơ cấu kinh tế trong nội bộ ngành nông nghiệp; góp phần thực hiện chương trình giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, tăng thu nhập và nâng cao đời sông cho nhân dân trên địa bàn.
2.2.2. Thực trạng về diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản.
Trong vòng 6 năm (2000 – 2005) nuôi trồng thủy sản có những chuyển biến tích cực, đúng hướng tập trung đi vào chiều sâu, tăng nhanh về diện tích. Đến năm 2005 diện tich nuôi trồng thủy sản đạt 1.500 ha tăng 1.249 ha so với năm 2000.
Bảng 6- Diện tích nuôi trồng thủy sản của huyện Hưng Nguyên qua các năm.
Diện tích
ĐVT
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Tổng
ha
276
722
1.148
1.373
1.500
- Nuôi cá chuyên canh
ha
67
335
493,7
543
570
T.đó: - Rôphi đơn tính XK
ha
22,7
40
50
- Nuôi cá lúa
ha
209
387
654
830
930
(nguồn số liệu: phòng Nông nghiệp Hưng Nguyên).
Qua bảng ta thấy diện tích nuôi trồng thủy sản ở Hưng Nguyên tăng rất nhanh qua các năm, đặc biệt trong thời kỳ này (2001- 2005) do triển khai đề án phát triển nuôi trồng thủy sản trên địa bàn Huyện thời kỳ 2001 – 2005 là đề án về mở rộng diện tích và chất lượng nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn Huyện, trong quá trình thực hiện đã đưa phong trào nuôi trồng thuỷ sản ở huyện ngày càng phát triển, có hiệu quả cao. Chính kết qủa mang lại của dự án đã góp phần thúc đẩy nuôi trồng thuỷ sản trên toàn Huyện, khi đề án kết thúc Huyện đã chủ trương tiếp tục phát triển dự án giai đoạn 2006 – 2010, điều này đã dự báo được sự tăng lên về diện tích nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn huyện trong những năm sắp tới. Dự tính diện tích nuôi trồng thủy sản trong nhưng năm tiếp theo ở Huyện sẽ là:
Bảng 7- Dự kiến diện tích nuôi trồng thủy sản của Huyện trong các năm tới.
Diện tích
ĐVT
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Tổng
ha
1.550
1.780
2.050
2.230
2.500
- Nuôi cá chuyên canh
ha
590
810
1.070
1.240
1.500
T.đó:-Rôphi đơn tính XK
ha
65
85
140
180
200
- Nuôi cá lúa
ha
960
970
980
990
1.000
T.đó cá xen lúa
ha
440
445
450
455
460
Cá vụ 3
ha
520
525
530
535
540
- Nuôi lồng trên sông
Lồng
16
20
20
22
22
(Nguồn số liệu dự án phát triển nuôi trồng thủy sản trên địa bàn huyện Hưng Nguyên (2006 – 2010) – phòng Nông nghiêp huyện)
Trong những năm tới Huyện sẽ đẩy nhanh diện tích nuôi cá chuyên canh, dự kiến đến năm 2010 diện tích cá chuyên canh sẽ bằng tổng diện tích nuôi trồng năm 2005. Việc phát triển nuôi cá chuyên canh sẽ đem lại hiệu quả kinh tế rất lớn cho người nuôi trồng, từng bước ổn định hoạt động nuôi trồng tránh việc dàn trải, manh mún trong quá trình nuôi. Tận dụng được nguồn thức ăn một cách hiệu quả, khoa học kỹ thuật ứng dụng vào sản xuất triển khai trên diện rộng, đảm bảo được nguồn giống. Cùng với việc tăng nhanh của diện tích nuôi cá lúa, Hưng Nguyên là một huyện chủ yếu sản xuất nông nghiệp (trồng lúa), nhưng là vùng có địa hình thấp trũng nên phần lớn diện tích trồng lúa là lúa nước, nhận thức được điều kiện đó người dân đã kết hợp việc trồng lúa với nuôi trồng thủy sản, tăng sản phẩm thu được trên đơn vị diện tích nuôi trồng, tăng thu nhập của người dân. Những ruộng trũng ngập úng, trồng lúa không đạt hiệu quả được người dân cải tạo và đưa vào diện tích nuôi trồng làm cho diện tích nuôi trồng không ngừng tăng lên. Diện tích nuôi trồng cá vụ 3 cũng được mở rộng và tăng lên rất nhanh góp phần vào sự gia tăng của tổng diện tích nuôi trồng.
Diện tích đất mặt nước có khả năng nuôi trồng được khai thác và đưa vào sử dụng thông qua những chủ trương chính sách khuyến khích của huyện, người dân mạnh dạn đầu tư chuyển đổi sản xuất khiến cho diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản trên địa bàn Huyện tăng lên một cách nhanh chóng và hiệu quả. Bên cạnh đó, là sự triển khai hiệu quả các dự án đầu tư phát triển, xây dựng thành công các mô hình trọng điểm. Trong 5 năm thực hiện đề án phát triển nuôi trồng thủy sản trên địa bàn huyện (2001 – 2005), đã đưa diện tích nuôi trồng tăng từ 251 ha năm 2000 lên 1.500 ha năm 2005 và các chính sách chuyển đổi phù hợp của chính quyền các cấp nên diện tích được triển khai ở tất cả các xã trong huyện trong từng năm, cụ thể là:
Bảng 7- Diện tích nuôi trồng thủy sản ở các xã năm 2006.
TT
Xã, thị trấn
Tổng cộng (ha)
Cá chuyên (ha)
Cá xen lúa (ha)
Cá vụ 3 (ha)
Cá rô phi đơn tính (ha)
1
Hưng Lĩnh
41
15
12
12
2
2
Hưng Long
50
20
10
15
5
3
Hưng Xá
13,5
10
2
1,5
0
4
Hưng Xuân
31
17
7
7
0
5
Hưng Lam
22
18
1
3
0
6
Hưng Phú
46
6
8
32
0
7
Hưng Khánh
23
6
5
12
0
8
Hưng Nhân
5
1
4
0
0
9
Hưng Châu
58
20
20
15
3
10
Hưng Lợi
113
75
20
8
10
11
Hưng Phúc
74
20
27
27
0
12
Hưng Thịnh
87
40
20
22
5
13
Hưng Mỹ
35
12
9
10
4
14
Hưng Thắng
45
10
15
20
0
15
Hưng Tiến
92
18
37
37
0
16
Hưng Thông
44
14
15
15
0
17
Hưng Tân
89
16
22
40
11
18
Thị Trấn
144
50
45
40
9
19
Hưng Đạo
130
35
45
45
5
20
Hưng Chính
44
12
15
15
2
21
Hưng Tây
166
47
60
50
9
22
Hưng Yên
126
45
16
65
0
23
Hưng Trung
64
18
25
21
0
Tổng
1.550,5
525
440
520,5
65
( Nguồn tư liệu: phòng Nông nghiệp huyện Hưng Nguyên )
Các xã triển khai hoạt động nuôi trồng thủy sản một cách đồng bộ, có trọng điểm, cao nhất là Xã Hưng Tây với tổng diện tích nuôi trồng là 166 ha, sau đó là Thị Trấn 144 ha, Hưng Đạo 130, Hưng Lợi 113 ha,…, thấp nhất là xã Hưng Nhân chỉ có 5 ha.
Diện tích mặt nước nuôi trồng là một những tư liệu sản xuất không thể thiếu của hoạt động nuôi trồng thủy sản, như tư liệu đất đai đối với trồng trọt. Chính vì vậy để phát triển nuôi trồng thủy sản thì Huyện cần có những chính sách và chủ trương cụ thể để không những tăng nhanh diện tích nuôi trồng mà còn tăng một cách có hiệu quả.
2.2.3. Đối tượng nuôi trồng thủy sản.
Để phát triển nuôi trồng thủy sản thì đối tượng nuôi trồng là không thể thiếu, việc lựa chọn đối tượng nuôi trồng phù hợp với điều kiện tự nhiên, khả năng phòng trừ dịch bệnh, khả năng về con giống,…,của từng vùng là một việc làm rất quan trọng, để đảm bảo cho việc nuôi trồng phát triển và đạt hiệu quả cao. Góp phần nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân; tránh, hạn chế những rủi ro xảy ra trong quá trình nuôi trồng.
Là một huyện không tiếp giáp với biển nên nuôi trồng thủy sản ở Huyện là nuôi trồng thủy sản nước ngọt. Nhưng đối tượng nuôi trồng ở Huyện cũng rất phong phú và đa dạng với các loại thủy sản truyền thống như Trắm, Mè, Chép,…, còn có nhiều đối tượng thủy sản có giá trị kinh tế cao, có giá trị xuất khẩu được du nhập và phát triển khá như: cá Rô phi, cá Lóc bông, cá Chim trắng, ếch Thái Lan, Baba, cá Sấu, tôm he chân trắng,…. Trong những năm qua do nhận thức của người dân về nuôi trồng thủy sản được nâng cao, người dân luôn tìm tòi và tổ chức nuôi trồng các loại thủy đặc sản có hiệu quả kinh tế rất cao như cá Quả, cá Sấu,…. Cụ thể ở mô hình nuôi trồng thủy sản điển hình ở xã Hưng Xuân với đối tượng nuôi trồng là Baba, cá Sấu đã mang lại hiệu quả rất lớn, sự thành công của mô hình đã mở ra một bước phát triển mới ch._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32109.doc