Tài liệu Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở huyện Phù Ninh_ tỉnh Phú Thọ: ... Ebook Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở huyện Phù Ninh_ tỉnh Phú Thọ
75 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1552 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở huyện Phù Ninh_ tỉnh Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Có thể nói rằng, một đất nước hay một nền kinh tế dù phát triển đến đâu thì cũng không thể không quan tâm tới việc làm sao để kinh tế nông nghiệp phát triển được. Nông nghiệp và nông thôn là hai vấn đề cần quan tâm phát triển, như vậy mới đảm bảo cho một nền kinh tế phát triển nhanh, cân đối và bền vững. Việt nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, chúng ta đang trong quá trình thực hiện công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, nhận thức rõ được tầm quan trọng của nông nghiệp nông thôn. Chính vì lẽ đó mà Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm khuyến khích các thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển. Sự quan tâm đó được thể hiện bằng các chủ trương, đường lối, chính sách…trong đó có ưu tiên phát triển kinh tế trang trại (KTTT) trong NN & NT.
Khái niệm về trang trại hayKTTT đã trở nên quen thuộc,KTTT đã và đang tồn tại, phát triển ngày càng nhanh, mạnh và vững chắc cả về sô lượng và chất lượng, cũng như tính ổn định mà trang trại đem đến cho sản phẩm của mình. Những năm gần đây, với cơ chế đổi mới của Đảng và Nhà nước, KTTT đã đạt được rất nhiều kết quả đáng khích lệ, góp phần thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn, đem lại hiệu quả cao trong việc khai thác các nguồn lực, hạn chế đi nhiều sự manh mún tự cung tự cấp, tạo ra sự đa dạng trong sản phẩm nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu lương thực thực phẩm, góp phần giải quyết được các vấn đề về kinh tế xã hội, ổn định đời sống cho nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, KTTT vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế thiếu sót như: hiệu quả kinh tế chưa như mong muốn từ việc sử dụng đất chưa hợp lý, sản phẩm làm ra khó tiêu thụ, giá trị sản phẩm vẫn còn ở mức thấp…ngoài ra, còn có nhiều bất cập về cơ chế, chính sách của Nhà nước chưa được triển khai tới các trang trại.
Huyện Phù Ninh thuộc tỉnh Phú Thọ, là một huyện trung du miền núi phía Bắc, huyện có những điều kiện thuận lợi để hình thành và phát triển các mô hình (MH) KTTT: đất đai rộng lớn, lao động dồi dào, khí hậu đa dạng…bên cạnh đó, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước cũng như các cấp chính quyền địa phương, một lợi thế rất lớn.
Cùng với sự phát triển của loại hình kinh tế này trên cả nước, KTTT trên địa bàn huyện Phù Ninh cũng đã có những bước phát triển đáng kể. Hiện nay, trên địa bàn huyện có nhiều MH KTTT, sau một thời gian hình thành và phát triển đã hát huy được kết quả bước đầu, mang lại những thắng lợi mới. Nhưng sự phát triển KTTT trong huyện hiện nay còn gặp nhiều vấn đề khó khăn mà chưa giải quyết được: trình độ quản lý còn hạn chế; hiểu biết về khoa học kỹ thuật còn ít; thông tin về vốn, về thị trường còn nhiều thiếu xót;…
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễnở địa phương, em đã lựa chọn nghiên cứu đề tài " Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở huyện Phù Ninh_ tỉnh Phú Thọ".
Để hoàn thành việc nghiên cứu về đề tài này, em xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ Võ Hòa Loan và các thầy cô trong khoa KTNN&PTNT, em cũng xin cảm ơn các cô bác cán bộ trong Phòng Kinh tế thuộc UBND huyện Phù Ninh, nơi em đã về thực tế suốt 4 tháng. Tuy nhiên, với trình độ lý luận còn non nớt nên vẫn còn nhiều thiếu xót trong việc trình bày đề tài này, em mong có sự đóng góp ý kiến.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. MỤC TIÊU CHUNG
Hệ thống hoá lý luận và thực tiễn về KTTT, tìm hiểu và đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh một số mô hình trang trại trên địa bàn huyện Phù Ninh, từ đó có những đề xuất biện pháp nhằm góp phần từng bước nâng cao hiệu quả kinh tế của KTTT.
2. MỤC TIÊU CỤ THỂ
- Hệ thống hoá lý luận và thực tiễn về KTTT.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất kinh doanh của một số MH KTTT trên địa bàn huyện nhà.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh của các MH KTTT trên địa bàn huyện.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đề tài tập trung nghiên cứu mô hình một số trang trại điển hình trên địa bàn huyện cùng một số mối quan hệ giữa các ngành nghề trong trang trại.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
+ Không gian: Các MH KTTT trên địa bàn các xã thuộc huyện Phù Ninh.
+ Thời gian: Nghiên cứu tình hình phát triển KTTT qua 3 năm (2004 - 2006).
+ Thời gian thực hiện đề tài từ 03/01/2007 đến 28/4/2007.
PHẦN TRÌNH BÀY NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG I
Cơ sở lý luận về KTTT trong nông nghiệp nông thôn.
CHƯƠNG II
Thực trạng phát triển KTTT ở huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.
CHƯƠNG III
Phương hướng và giải pháp phát triển KTTT trong nông nghiệp nông thôn ở huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KTTT TRONG NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN
1.1. KHÁI NIỆM VỀ TRANG TRẠI VÀ KTTT
1.1.1. Trang trại
Để có một khái niệm thật đúng đắn và chuẩn mực về trang trại là rất khó, nó thường bị lẫn lộn với khái niệm hộ nông dân. Chúng ta cần có sự phân biệt rõ ràng giữa trang trại và hộ nông dân dựa trên những tiêu chí mà Nhà nước đã quy định.
Theo Ellis năm 1998 thì "hộ nông dân là hộ có phương tiện kiếm sống từ ruộng đất, sử dụng lao động gia đình vào sản xuất, luôn nằm trong một hệ thống kinh tế rộng hơn, nhưng về cơ bản được đặc trưng bởi sự tham gia từng phần vào thị trường với mức độ hoàn hảo không cao".
Theo tác giả Nguyễn Thế Nhã thì "trang trại là hình thức tổ chức nông nghiệp dựa trên cơ sở gia đình là chủ yếu, tự chủ sản xuất và bình đẳng với các tổ chức kinh doanh khác".
Trang trại là đơn vị sản xuất hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp là chủ yếu (theo nghĩa rộng bao gồm cả lâm nghiệp và thuỷ sản). Như vậy, trang trại không gồm những đơn vị thuần tuý hoạt động chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Nếu có hoạt động chế biến hay tiêu thụ sản phẩm thì đó là những hoạt động kết hợp với hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Theo những giáo trình em đã được học, trang trại ban đầu là hình thức tổ chức sản xuất nông, lâm, ngư cơ sở do các chủ trang trại gia đình và chủ trang trại tư nhân trực tiếp tiến hành tổ chức sản xuất trên một khu đất tập trung, liền khoảnh đủ lớn để chuyên canh, thâm canh, ứng dụng những công nghệ mới nhằm cung cấp hàng hoá thường xuyên cho thị trường và quản lý chặt chẽ để tiết kiệm các chi phí sản xuất. Mục đích chủ yếu của trang trại là sản xuất hàng hoá; tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của chủ thể độc lập; sản xuất được tiến hành trên quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất được tập trung tương đối lớn; với cách tổ chức tiến bộ và trình độ kỹ thuật khá cao; hoạt động tự chủ và luôn gắn với nhu cầu từ thị trường. Khi đi vào kinh tế thị trường thì hoạt động của trang trại không chỉ dừng lại ở tổ chức và sản xuất mà được mở rộng sang kinh doanh với mục đích thu lợi nhuận tối đa và từ đấy trang trại phải xử lý nhiều vấn đề kinh tế, phải đưa ra các chiến lược kinh doanh thích ứng với thị trường, phải quản lý theo phương thức marketing, theo chế độ kế hoạch và hạch toán gắn với phân tích tài chính với hiệu quả kinh, với doanh lợi.
1.1.2. Kinh tế trang trại
Khác với trước đây, ngày nay trang trại phải được hiểu đầy đủ là kinh tế trang trại, hoặc kinh tế của chủ trang trại - đơn vị kinh doanh cơ sở trực tiếp sản xuất trồng trọt trên đồng ruộng và chăn nuôi trong chuồng trại.
Theo PGS.TS Lê Trọng thì "kinh tế trang trại là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở là doanh nghiệp trực tiếp tổ chức sản xuất ra nông sản hàng hoá dựa trên cơ sở hiệp tác và phân công lao động xã hội, được chủ trang trại đầu tư vốn, thuê mướn phần lớn hoặc hầu hết sức lao động và trang bị tư liệu sản xuất để hoạt động kinh doanh theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường được Nhà nước bảo hộ theo luật định".
Kinh tế trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông, lâm, thuỷ sản với mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hoá, có quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất đủ lớn, có trình độ kỹ thuật cao, tổ chức và quản lý tiến bộ.
Nhận thức được vai trò của kinh tế trang trại trong nền kinh tế đất nước, nhất là trong quá trình đưa nông nghiệp nông thôn phát triển, Nghị quyết của Chính phủ số 03/2000/NQ - CP ngày 02/02/2000 về kinh tế trang trại đã chỉ rõ: "kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản".
Để góp phần nhận dạng đúng trang trại, các tiêu chí nhận dạng trang trại cần đáp ứng các yêu cầu sau:
- Phải chứa đựng những đặc trưng của trang trại, nhất là đặc trưng cơ bản của trang trại. Yêu cầu này nhằm đảm bảo tính chính xác của việc nhận dạng trang trại trong các cơ sở sản xuất kinh doanh nông nghiệp.
- Đơn giản hoá và dễ vận dụng khi nhận dạng trang trại.
- Phản ánh được tính phong phú của các loại hình trang trại và sự biến động của nó qua các thời kỳ.
Có nhiều tiêu chí để xác định kinh tế trang trại. Theo Thông tư số 69 (tháng 6/2000) của liên bộ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Tổng cục Thống kê đưa ra các tiêu chí sau:
+ Thứ nhất: Giá trị sản xuất hàng hoá tạo ra trong 1 năm. Đây là chỉ tiêu chủ yếu để nhận dạng trang trại.
* Về số lượng cụ thể: Tuỳ theo loại hình kinh doanh trang trại và những điều kiện cụ thể để quy định. Hiện nay, trang trại được quy định là đơn vị kinh doanh sản xuất nông nghiệp có giá trị sản phẩm hàng hoá từ 40 triệu đồng trở lên đối với miền Bắc, và từ 50 triệu đồng trở lên đối với miền Nam (ở Mỹ năm 1970, người ta quy định ở mức 1000 USD, tương đương 16triệu đồng). Có những trường hợp cụ thể chưa thể căn cứ vào tiêu chí này, ví dụ trang trại đang trong giai đoạn xây dựng cơ bản, hoặc mới bước vào kinh doanh, do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp tuy chưa đạt yêu cầu này, nhưng nếu tính tới khả năng trang trại sẽ đạt được khi đi vào kinh doanh và các tiêu thức khác nếu đạt vẫn có thể coi là trang trại khi vận dụng tiêu chí này để xem xét.
+ Thứ hai: Xét về quy mô diện tích ruộng đất (nếu là trang trại trồng trọt là sản xuất chính), số lượng gia súc, gia cầm (nếu trang trại chăn nuôi là chính).
* Về số lượng cụ thể: Cũng tuỳ thuộc loại hình kinh doanh (cây hàng năm hay cây lâu năm, cây có giá trị kinh tế thấp hay cây có giá trị kinh tế cao, ví dụ: Hiện nay trong trồng trọt, trang trại được quy định là đơn vị kinh doanh nông nghiệp có quy mô diện tích 2ha với cây hàng năm ở phía Bắc, 3 ha với cây hàng năm ở Tây nguyên và Đồng bằng sông Cửu long… Có 3 ha với cây lâu năm ở tất cả các miền trong cả nước. Đối với những cây trồng có giá trị kinh tế cao như hoa, cây cảnh thì diện tích có thể xuống đến 0,5 ha.
+ Thứ ba: Xét về quy mô cho sản xuất kinh doanh, trong đó lưu ý hai yếu tố là vốn và lao động. Quy mô sản xuất của trang trại phải tương đối lớn và vượt trội so với kinh tế hộ nông dân. Các tiêu chí này cũng được quy định cụ thể cho từng loại hình kinh doanh của trang trại. Hiện nay, người ta quy định trang trại có vốn đầu tư trên 20 triệu đồng, thuê từ 2 lao động trở lên.
Hiện nay, theo Thông tư liên tịch số 62 ngày 20/5/2003 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Tổng cục Thống kê, một hộ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản được xác định là trang trại chỉ cần đạt tiêu chí về giá trị sản lượng hàng hoá, dịch vụ bình quân một năm, hoặc về quy mô sản xuất trang trại.
1.1.3. Tính tất yếu của việc hình thành kinh tế trang trại
1.1.3.1. Vị trí của kinh tế trang trại trong nền kinh tế
Kinh tế trang trại là một tế bào quan trọng của nền nông nghiệp hàng hóa, nó có vị trí chủ lực trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Kinh tế trang trại có quy mô chuyên môn hoá cao và đa dạng hoá có hiệu quả, thoát khỏi sự tự cung tự cấp hướng sang sản xuất hàng hoá theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
Kinh tế trang trại là bộ phận cấu thành của hệ thống kinh tế nông nghiệp, nó là đơn vị kinh tế trung gian tiếp nhận và chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại.
Kinh tế trang trại là đối tượng để tổ chức lại nền kinh tế nông nghiệp, dựa vào đó mà Nhà nước có thể đầu tư, hợp tác và tạo mối quan hệ gắn kết giữa thành thị và nông thôn.
1.1.3.2. Vai trò của kinh tế trang trại
Kinh tế trang trại là hình thức doanh nghiệp trực tiếp sản xuất ra nông sản phẩm, hàng hóa cho xã hội, phù hợp với đặc điểm sản xuất nông nghiệp và quy luật sinh học của cây trồng vật nuôi.
Kinh tế trang trại góp phần phát triển kinh tế của nhiều vùng, tập trung khai thác những vùng đất trống, đồi núi trọc, những vùng hoang hoá tạo vai trò to lớn về mặt xã hội. Đồng thời sử dụng lao động dư thừa đặc biệt là lao động thời vụ ở nông thôn góp phần cải thiện đời sống, tránh những tệ nạn xã hội.
Kinh tế trang trại có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường, xây dựng và phát triển nông thôn mới tiến tới phát triển bền vững nền nông nghiệp hàng hoá, nền nông nghiệp sinh thái bền vững.
1.1.3.3. Đặc trưng của kinh tế trang trại
Trang trại sản xuất kinh doanh nông sản phẩm hàng hoá cho thị trường, cho nhu cầu của xã hội. Vì vậy, quy mô sản xuất hàng hóa của trang trại phải có mức độ tương đối lớn, tỷ suất hàng hoá thường đạt 70 - 80% trở lên. Tỷ suất hàng hoá càng cao càng thể hiện bản chất và trình độ phát triển của kinh tế trang trại, hoạt động sản xuất của trang trại phải có sự khác biệt với hộ sản xuất hàng hóa nhỏ, đặc biệt là hộ sản xuất tự cấp tự túc. Đây cũng là điểm đặc thù của trang trại trong điều kiện kinh tế thị trường với các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp tập trung như trước đây.
Mức độ tập trung hoá và chuyên môn hoá các điều kiện và yếu tố sản xuất cao hơn hẳn so với sản xuất của nông hộ, thể hiện ở quy mô sản xuất như đất đai, đầu con gia súc, lao động, giá trị nông sản hàng hoá. Quy mô sản xuất của trang trại trước hết là quy mô đất đai được tập trung đến mức đủ lớn theo yêu cầu của sản xuất hàng hóa, chuyên canh và thâm canh, song không nên vượt quá tầm kiểm soát quá trình sản xuất - sinh học trên đồng ruộng hoặc trong chuồng trại của chủ trang trại.
Mục đích sản xuất của trang trại là sản xuất nông, lâm, thuỷ sản hàng hoá với quy mô lớn, chính vì vậy mà người chủ trang trại cũng cần phải có một trình độ quản lý và trình độ chuyên môn nhất định. Người làm chủ trang trại hay chủ kinh tế cá thể (bao gồm kinh tế gia đình và kinh tế tiểu chủ) nắm một phần quyền sở hữu và toàn bộ quyền sử dụng đối với ruộng đất và tư liệu sản xuất. Người làm chủ trang trại là người có ý trí và có năng lực tổ chức quản lý, có kinh nghiệm và kiến thức nhất định về sản xuất kinh doanh nông nghiệp và thường là người trực tiếp quản lý trang trại của mình. Những đặc trưng ấy được so sánh với chủ nông hộ tự cấp, tự túc, vì vậy mà đây có thể coi là những đặc trưng phân biệt chủ trang trại với chủ nông hộ sản xuất tự cấp, tự túc. Những đặc trưng trên của chủ trang trại không được hội tụ đủ ngay từ đầu mà được hoàn thiện dần cùng với quá trình phát triển của trang trại. Trang trại được sở hữu bởi một cá thể độc lập nên trang trại hoàn toàn tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, từ lựa chọn phương thức sản xuất, quyết định kỹ thuật công nghệ cho đến tiếp cận thị trường, tiêu thụ sản phẩm… Đây là đặc trưng cho phép phân biệt giữa trang trại và hộ công nhân trong các nông, lâm trường đang trong quá trình chuyển đổi ở nước ta hiện nay.
Trang trại có cách thức quản lý và tổ chức đi dần vào phương thức kinh doanh, song trực tiếp, đơn giản và gọn nhẹ lại vừa mang tính gia đình vừa mang tính doanh nghiệp. Tổ chức quản lý sản xuất của trang trại tiến bộ hơn, trang trại có nhu cầu cao hơn nông hộ về ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và thường xuyên tiếp cận thị trường. Điều này được thể hiện:
* Do mục đích của trang trại là sản xuất hàng hoá nên hầu hết các trang trại đều kết hợp giữa chuyên môn hoá với phát triển tổng hợp. Đây là điều khác biệt của trang trại so với hộ sản xuất tự cấp, tự túc.
* Cũng do sản xuất hàng hoá, đòi hỏi các trang trại phải ghi chép, hạch toán kinh doanh, tổ chức sản xuất khoa học trên cơ sở những kiến thức về môn học, về kinh tế thị trường.
* Sự hoạt động của trang trại đòi hỏi phải tiếp cận với thị trường, để biết được thị trường cần loại sản phẩm nào, số lượng bao nhiêu, chất lượng và chủng loại ra sao, giá cả và thời điểm cung cấp như thế nào… Nếu chủ trang trại không có những thông tin về các vấn đề trên, hoạt động kinh doanh sẽ rất tù mù, không mang lại hiệu quả như mong muốn. Vì vậy, tiếp cận thị trường là yêu cầu luôn luôn, cấp thiết với mỗi trang trại.
1.1.3.4. Những yếu tố tác động đến quá trình hình thành và phát triển của KTTT
Sản xuất cần có sự kết hợp của nhiều yếu tố, các yếu tố này ảnh hưởng rất lớn đến quy mô và sự phát triển của kinh tế trang trại, bao gồm các yếu tố:
- Đất đai: Là tư liệu sản xuất đặc biệt và không thể thay thế được, là yếu tố đầu tiên trong việc xác định tiêu chí trang trại, các trang trại muốn hình thành cần có một diện tích đất đủ lớn với quy mô nhất định. Dựa vào đó mà người ta có thể tập trung quỹ đất bằng các hình thức khác nhau để phù hợp với ý đồ sản xuất kinh doanh của chủ trang trại.
- Lao động: Là yếu tố quan trọng để thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh, nó góp phần quyết định đến sự phát triển của trang trại. Trong lao động, ngoài chú ý đến mặt số lượng thì yếu tố chất lượng có ý nghĩa rất quan trọng đối với tình hình sản xuất kinh doanh của chủ trang trại. Vì lao động am hiểu kỹ thuật, hiểu biết thị trường… đảm bảo cho trang trại sử dụng hợp lý các nguồn lực, sản xuất đúng hướng, đạt hiệu quả cao trong kinh doanh.
- Vốn: Là yếu tố quan trọng để thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh, nó là cơ sở để chủ trang trại hình thành ý tưởng kinh doanh và quy mô sản xuất. Vốn để đảm bảo cho trang trại đầu tư đúng mức, đảm bảo phù hợp với quy luật của cây trồng vật nuôi để đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả của sản xuất kinh doanh.
- Chính sách: Là tập hợp các chủ chương và hành động do Chính phủ thực hiện, các chính sách tác động đến trang trại bao gồm: đất đai, tín dụng, lao động… Chính sách đúng, nó sẽ là động lực cho sự phát triển còn đối với một chính sách không hợp lý sẽ kìm hãm sự phát triển.
- Thị trường: Thị trường ở đây bao gồm cả đầu tư vào và đầu tư ra, thị trường ổn định thì các chủ trang trại yên tâm đầu tư hơn trong sản xuất, đầu tư và thúc đẩy sản xuất ngày càng nhiều hơn.
- Khoa học và công nghệ: Là yếu tố thúc đẩy nhanh hơn công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, đảm bảo cho nông nghiệp phát triển một cách bền vững, tạo nhiều sản phẩm, đa dạng về chủng loại, với chất lượng cao.
- Ngoài các yếu tố kể trên còn có các yếu tố khác như khí hậu, thời tiết, địa hình, phong tục tập quán… có ảnh hưởng không nhỏ tới sự hình thành và phát triển của kinh tế trang trại. Vì vậy, trong quá trình phát triển của kinh tế trang trại cần phải coi trọng các yếu tố ảnh hưởng một cách đúng đắn để kinh tế trang trại phát triển một cách đúng hướng đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh.
1.1.4. Các loại hình trang trại
Trang trại có những loại hình khác nhau với các nội dung và quản lý khác nhau. Xét về tính chất sở hữu có các loại hình trang trại:
+ Trang trại gia đình:
Đây là loại hình trang trại phổ biến chủ yếu trong nông, lâm, ngư nghiệp với các đặc trưng, được hình thành từ hộ nông dân, từ kinh tế hộ sản xuất tự cấp, tự túc đi dần vào kinh doanh sản xuất hàng hoá và trở thành hộ sản xuất giỏi rồi chuyển lên kinh tế trang trại gia đình.
Loại hình này chiếm số đông, thông thường khoảng 60 -80% tổng số trang trại, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể ở từng vùng, từng địa phương. Mỗi gia đình là một chủ thể kinh doanh, có tư cách pháp nhân do chủ hộ hay người có uy tín và năng lực trong gia đình đứng ra quản lý. Ruộng đất tuỳ theo từng thời kỳ có nguồn gốc khác nhau (từ địa chủ, thực dân chuyển sang cho hộ nông dân, từ Nhà nước giao, do kế thừa, do mua bán hay chuyển nhượng). Quy mô ruộng đất khác nhau giữa các trang trại ở các nước khác nhau hay ngay trong cùng một nước, nhưng so với các loại hình trang trại khác, trang trại gia đình có quy mô đất nhỏ hơn.
Vốn của trang trại do nhiều nguồn tạo nên, như vốn của nông hộ tích luỹ thành vốn cho trang trại; vốn vay; vốn cổ phần; vốn liên kết; vốn trợ cấp khác; nhưng trong trang trại gia đình thì nguồn vốn tự có chiếm tỷ trọng lớn và chủ yếu được tích luỹ theo phương châm "lấy ngắn nuôi dài". Điều tra 3.044 trang trại năm 1999 của trường ĐH_KTQD cho thấy, vốn tự có của trang trại chiếm 91,03% tổng số vốn của trang trại, có nơi như Đăk lắc chiếm tới 96%, nơi có tỷ trọng vốn tự có thấp như Sơn La cũng có tỷ lệ lên tới 79,9%.
Sức lao động của các trang trại cũng do nhiều nguồn, của trang trại thuê mướn ngoài, nhưng trong trang trại gia đình, lao động chủ yếu là lao động thời vụ, lao động thuê thường xuyên chỉ có ở trang trại gia đình có quy mô lớn, kinh doanh sản phẩm mang tính liên tục như trồng hoa, trồng rau, chăn nuôi bò sữa…
Quản lý trang trại tuỳ theo quy mô khác nhau có các hình thức quản lý khác nhau, nhưng trang trại gia đình thì do trực tiếp gia đình quản lý, nếu chủ trang trại không có điều kiện trực tiếp quản lý thì giao cho một thành viên trong gia đình có năng lực và uy tín quản lý.
+ Trang trại được uỷ thác:
Loại này thường được giao cho người nhà, bạn bè quản lý sản xuất kinh doanh từng việc theo từng vụ hay liên tục nhiều vụ. Các trang trại loại này thường có quy mô nhỏ, đất ít nên đã chuyển sang làm nghề khác, nhưng không muốn bỏ ruộng đất vì sợ sau này muốn trở về khó đòi hay chuộc lại ruộng đất. Ở nhiều nước, hình thức này trở nên phổ biến, đặc biệt là các vùng lãnh thổ ở Châu Á như Đài Loan có tới 75% chủ trang trại gia đình áp dụng hình thức này…
Các loại hình trang trại khi được phân chia theo hướng sản xuất:
+ Trang trại kinh doanh nông, công nghiệp, dịch vụ đa dạng, nhưng hoạt động nông nghiệp vẫn là chủ yếu.
+ Trang trại sản xuất cây thực phẩm, các trang trại loại này thường có ở vùng sản xuất thực phẩm trọng điểm xung quanh đô thị, khu công nghiệp, gần thị trường tiêu thụ.
+ Trang trại sản xuất cây ăn quả nằm ở vùng cây ăn quả tập trung, có cơ sở chế biến và tiêu thụ thuận lợi.
+ Trang trại nuôi trồng sinh vật cảnh thường phát triển ở gần khu đô thị, các khu du lịch lớn, thuận tiện cho việc tiêu thụ.
+ Trang trại nuôi trồng đặc sản như hươu, nai, trăn, rắn, ba ba, cây dược liệu… nằm ở những nơi thuận lợi cho nuôi trồng và tiêu thụ.
+ Trang trại chăn nuôi đại gia súc như trâu, bò…, gia súc như lợn hoặc gia cầm thì có thể chăn nuôi tổng hợp hoặc chuyên môn hoá theo từng loại gia súc.
+ Trang trại kinh doanh nông, lâm nghiệp tổng hợp thường phát triển ở vùng trung du và miền núi có điều kiện về đất đai nhưng hạn chế về điều kiện thị trường tiêu thụ.
1.1.5. Nhận định xu hướng phát triển của mô hình kinh tế trang trại
Phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng kinh tế trang trại là con đường tất yếu ở nước ta trong những năm tới đây. Sự phát triển mô hình kinh tế trang trại theo hướng sau:
+ Khuyến khích phát triển các hình thức kinh tế trang trại, nhưng đặc biệt quan tâm đến hình thức trang trại gia đình.
+ Khuyến khích mọi hình thức kinh doanh của trang trại, nhưng tập trung phát triển các lâm trại, các trang trại chuyên môn hóa cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc… ở các vùng trung du và miền núi. Đối với vùng đồng bằng, nên khuyến khích các trang trại chăn nuôi lợn, gia cầm, gắn sản xuất nông nghiệp với chế biến… Đối với vùng ven biển, khuyến khích các trang trại nuôi trồng thuỷ sản, hải sản.
+ Khuyến khích các hình thức trang trại tư nhân phát triển ở các vùng đất trống đồi núi trọc, đất hoang hoá ở trung du, miền núi và vùng ven biển.
1.1.6. Cơ sở thực tiễn
1.1.6.1. Sự hình thành và phát triển kinh tế trang trại trên thế giới
Các mạng công nghiệp và cách mạng tư sản nổ ra ở Châu Âu kéo theo sự phát triển của kinh tế hàng hoá thay thế kinh tế tự cung tự cấp, tạo ra số lượng hàng hoá nhiều hơn, chất lượng tốt hơn.
Với hai hình thức kinh tế trang trại chủ yếu là trang trại tư bản và trang trại gia đình (gia trại), kinh tế trang trại đã góp phần không nhỏ cho sự nghiệp phát triển ở một số nước đặc biệt là các nước công - nông nghiệp. Mỗi nước có một cách quản lý riêng, có quy định cụ thể riêng về tiêu chí trang trại, nó giúp thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hoá. Cơ cấu trang trại đã thay đổi dần theo thời gian.
- Kinh tế trang trại ở Pháp: Theo tài liệu thống kê cho thấy số lượng trang trại ở Pháp đã giảm qua các thời kỳ nhưng quy mô diện tích lại tăng thêm một lượng đáng kể. Sự giảm về số lượng trang trại do lao động bị thu hút vào các ngành công nghiệp, đất nông nghiệp dần bị thay thế, lại lâm vào cảnh chiến tranh suốt từ những năm 1930 -1960. Do đó, đã làm cho số lượng trang trại giảm đi chỉ còn 982.000 trang trại, vào năm 1987 đã giảm đi gần 4 lần so với năm 1929. Tuy nhiên, do nhu cầu hàng hoá nông sản ngày càng tăng lại được thừa hưởng những thành quả của khoa học kỹ thuật, áp dụng trình độ cao vào sản xuất, dùng máy móc hiện đại nên quy mô trang trại đã được tăng lên phù hợp với yêu cầu khoa học kỹ thuật. Kết quả đạt được là số thực phẩm gấp 2,2 lần nhu cầu trong nước, tỷ lệ hàng hoá về hạt ngũ cốc đạt 95%, thịt sữa là 70 - 80%, rau quả trên 70%.
- Kinh tế trang trại ở Nhật Bản: Từ năm 1950 - 1970, trang trại có quy mô 0,3 - 1ha giảm từ 66% còn 57% trong khi đó trang trại có quy mô từ 1 - 2ha tăng từ 24,5 - 32%. Nhóm trang trại có quy mô bình quân từ 2 - 5ha tăng từ 8 - 11%. Đến nay, khi nền kinh tế chuyển dần sang nền kinh tế tri thức, kinh tế trang trại vẫn đang phát triển giữ vai trò quan trọng trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, thu hút lao động nhàn rỗi và cải tạo môi trường.
- Kinh tế trang trại ở Đài Loan: Đài Loan là nước có nền công nghiệp đang phát triển, cơ cấu kinh tế chuyển dần sang công nghiệp và dịch vụ. Từ năm 1955 có 732.000 trang trại đến năm 1970 là 880.274 trang trại, cùng với sự tăng lên về số lượng là sự giảm đi về quy mô (từ 1,29ha / trang trại xuống còn 0,83ha / trang trại). Đến năm 1984, số lượng trang trại giảm còn 796.000 trang trại và quy mô tăng lên 1,42ha / trang trại. Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các trang trại ngày càng nâng cao về số lượng và chất lượng sản phẩm hàng hoá của mình.
1.1.6.2. Sự hình thành và phát triển KTTT ở Việt Nam
Cùng với sự phát triển của đất nước, kinh tế trang trại ở nước ta cũng có những bước phát triển phức tạp qua các mốc lịch sử. Từ thời kỳ Nhà Lý - Trần đến thời kỳ Nhà Nguyễn và trước Cách mạng tháng Tám 1945, trang trại ở Việt nam đã phát triển rất nhiều, mặc dù có những lúc chỉ là sự tồn tại của các điền trang, thái ấp hoặc sự khai thác quá mức của thực dân Pháp.
Thời kỳ 1945 -1975: Ở miền Nam, các đồn điền vẫn tồn tại nhưng không phát triển, chúng bị tàn phá bởi chiến tranh và không được sự quan tâm của bọn đế quốc, kinh tế trang trại hoạt động cầm trừng, sản xuất yếu kém. Còn ở miền Bắc, sau khi có cải cách ruộng đất năm 1953, nông nghiệp đã có những bước phát triển nhưng vẫn còn mang nặng tính tự cấp tự túc. Các đồn điền được tịch thu chia cho dân cày hoặc chuyển thành nông trường quốc doanh. Hình thức sản xuất HTX hình thành và phát triển, kinh tế đi vào bao cấp và kinh tế trang trại không được phát triển.
Thời kỳ 1976 - 1986: Sau khi cả nước thống nhất, bước vào thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, là thời kỳ thực hiện chủ trương cải tạo nông nghiệp, lấy nông nghiệp là cơ sở để phát triển kinh tế đất nước, đảm bảo tự túc lương thực thực phẩm và hướng tới xuất khẩu.
Thời kỳ 1986 - hiện nay: Sau Đại hội Đảng VI tháng 12 / 1986 và Nghị quyết 10/1988, kinh tế cá thể đã khẳng định được vai trò của mình. Kinh tế trang trại lại được hình thành và phát triển mạnh mẽ chủ yếu là loại hình kinh tế trang trại gia đình nhờ có chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, các chính sách đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế trang trại ngày càng phát triển như: Chỉ thị 29 / CT - TW về giao đất, giao rừng và củng cố quan hệ sản xuất miền núi, chỉ thị chế khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động, chương trình 327 về phủ xanh đất trống đồi núi trọc và cũng do đặc trưng của kinh tế trang trại trên các trang trại hình thành nhiều hơn, tập trung nhiều ở các nơi đất hoang hoá, ven biển, vùng đồi núi nơi đất rộng người thưa có điều kiện cho kinh tế trang trại phát triển.
Theo Tổng cục Thống kê, đến năm 2004 cả nước có 110.852 trang trại đang hoạt động, tăng 53.763 trang trại so với năm 2000. Hàng năm, các trang trại tạo ra hơn 10.000 tỷ đồng (trong đó 87,5% là hàng hóa), thu hút và tạo việc làm ổn định cho hơn 578.000 lao động nông nhàn ở nông thôn, bình quân đạt hơn 36.000.000đồng / năm và mỗi lao động đạt khoảng 580.000 đồng / tháng.
Nét mới khá rõ nét của các trang trại hiện nay là tỷ suất hàng hoá rất cao chung cho cả nước là 92,6%, trong đó Nam Trung Bộ là 97%, Đông Nam Bộ là 95,3%, Tây Nguyên là 91,6%, đồng bằng sông Cửu Long là 91,2%, đồng bằng sông Hồng là 94,6%, thấp nhất là Tây Bắc là 82,1%. Điều này chứng tỏ tính chất sản xuất hàng hóa của các trang trại là rõ rệt và đó là nét vượt trội của trang trại so với kinh tế hộ nông dân hiện nay.
Quy mô của các trang trại ở các mức độ khác nhau, tuỳ theo loại hình kinh doanh, vùng và thành phần xuất thân, nhưng nhìn chung các trang trại có quy mô nhỏ là chủ yếu. Quá trình chuyển đổi kinh tế hộ sang kinh tế trang trại đã trở thành xu hướng nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại hàng loạt những khó khăn:
* Vẫn còn có những nhận thức chưa đúng về trang trại và kinh tế tran trại, băn khoăn về việc phát triển kinh tế trang trại ở nước ta.
* Quỹ đất đai hạn hẹp đang là một trong các nguyên nhân hạn chế phát triển kinh tế theo hướng trang trại.
* Việc quy hoạch định hướng phát triển các vùng sản xuất hàng hóa tập trung chưa tốt.
* Thị trường nông sản chưa ổn định, sản phẩm làm ra khó tiêu thụ, quan hệ giữa nông dân với các tổ chức thương mại, các doanh nghiệp chế biến chưa thoả đáng, gây trở ngại cho sản xuất và sự đầu tư theo hướng sản xuất hàng hóa.
* Trình độ công nghệ thấp, dẫn đến chất lượng nông sản thấp, khả năng cạnh tranh kém và chưa thích ứng với nhu cầu ngày càng cao, ngày càng khắt khe của thị trường trong nước và đặc biệt là ngoài nước.
* Các chính sách vĩ mô của Đảng và Nhà nước chưa thực sự tác động đồng bộ, chưa theo kịp yêu cầu của sản xuất nên chưa thực sự khuyến khích hộ phát triển theo hướng kinh tế trang trại.
* Trình độ chủ trang trại chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế.
1.1.6.3. Chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển KTTT
Nhận thức được vai trò của kinh tế trang trại trong phát triển nông nghiệp và nông thôn, Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách khuyến khích sự phát triển của kinh tế trang trại.
Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành TW Đảng (12/1997) và Nghị quyết số 06 ngày 10/11/1998 của Bộ Chính trị về phát ._.triển nông nghiệp nông thôn, cần giải quyết một số vấn đề về quan điểm và chính sách nhằm tạo môi trường và điều kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển mạnh mẽ kinh tế trang trại. Các chính sách gồm: Chính sách đất đai, chính sách thuế, chính sách đầu tư - tín dụng, chính sách lao động, chính sách khoa học công nghệ và môi trường, chính sách thị trường… được cụ thể hóa qua: Thông tư của Bộ Tài chính số 82/2000/TT - BTC ngày 14/8/2000 hướng dẫn chính sách tài chính nhằm phát triển kinh tế trang trại, Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước số 423/2000/QĐ - NHNN1 ngày 22/9/2000 về chính sách tín dụng ngân hàng đối với kinh tế nông nghiệp…
Chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của kinh tế trang trại tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng đóng góp vào quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
1.2.NHỮNG KẾT LUẬN RÚT RA TỪ NGHIÊN CỨU TỔNG QUAN
Kinh tế trang trại đã thể hiện là một hướng đi đúng đắn, một hướng sản xuất tiên phong xoá bỏ dần sự nhỏ lẻ, manh mún của kinh tế hộ nông dân trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Kinh tế trang trại đã khẳng định vị thế của mình như sau:
1.2.1. Kinh tế trang trại là mô hình kinh tế sản xuất hàng hoá
Kinh tế trang trại khác với mô hình kinh tế tiểu nông hay mô hình sản xuất HTX nông nghiệp bao cấp trước đây, lấy mục tiêu là tự cung tự cấp, toàn bộ nông sản sản xuất ra đều nhằm phục vụ nhu cầu của cá nhân, đối với mô hình kinh tế trang trại hướng tới việc bán gần như toàn bộ sản phẩm của mình ra ngoài thị trường. Chính vì vậy, việc trồng cây gì, nuôi con gì, bán ở đâu… là một trong những yếu tố quan trọng của chủ trang trại. Trong quá trình tham gia vào nền kinh tế của đất nước, thu nhập của trang trại không chỉ là những sản phẩm nội tại của nó mà còn có phần lợi nhuận do thị trường đem lại. Với những đòi hỏi khắt khe đó của thị trường, các trang trại bắt buộc phải đầu tư mạnh mẽ, phải có sự linh hoạt trong sản xuất kinh doanh, tìm đối tác… thì mới có thể tồn tại và phát triển được.
1.2.2. Kinh tế trang trại là mô hình kinh tế hộ gia đình sản xuất hàng hóa ở trình độ cao.
Sản xuất nông nghiệp có một đặc thù rất riêng biệt đó là quá trình sản xuất tác động lên những sinh vật sống chịu nhiều tác động của yếu tố không thể kiểm soát nổi nên độ rủi ro thường rất lớn. Vì vậy, ngay từ cuối thế kỷ XVII, một số nước có nền nông nghiệp phát triển như: Anh, Pháp, Mỹ… đã cho rằng nông nghiệp cũng phải tiến hành sản xuất tập trung, quy mô lớn, sử dụng nhiều lao động làm thuê giống như các xí nghiệp công nghiệp. Trải qua thực tế sản xuất đã nhận ra rằng hiệu quả cuối cùng của các xí nghiệp nông nghiệp đều thấp hơn của các trang trại gia đình quy mô vừa và nhỏ, cho dù phần lợi nhuận thu từ bóc lột lao động làm thuê ở các xí nghiệp nông nghiệp là khá lớn, thực tiễn điều đó đã được C.Mác thừa nhận "ngay ở nước Anh, với nền công nghiệp phát triển, hình thức sản xuất nông nghiệp có lợi nhất không phải là các xí nghiệp nông nghiệp quy mô lớn mà là các trang trại gia đình không sử dụng lao động làm thuê". Trong các trang trại gia đình, người chủ trang trại vừa làm công tác quản lý, vừa là người lao động trực tiếp cùng các thành viên khác trong gia đình hoặc lao động thời vụ.
Cần phân biệt rõ: nếu như ở mô hình sản xuất tự cung tự cấp tận dụng khả năng khai thác đất và mô hình "xí nghiệp nông nghiệp" mang nặng tính bóc lột lao động làm thuê thì mô hình kinh tế trang trại lại lấy kinh tế hộ gia đình làm trung tâm phát triển sản xuất hàng hoá có hiệu quả cao.
Ngày nay, nhờ tính ưu việt của nó mà kinh tế trang trại gia đình đã trở thành một mô hình sản xuất chủ yếu phổ biến ở nền nông nghiệp nhiều nước trên thế giới từ những nước đang phát triển tới những nước phát triển. Mô hình này tồn tại và mở ra một triển vọng lớn trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp hàng hoá.
1.2.3. Kinh tế trang trại là mô hình tận dụng được các lợi thế tự nhiên - xã hội của vùng
Tham gia vào nền kinh tế sản xuất hàng hoá nên các chủ trang trại phải tận dụng mọi điều kiện, mọi khả năng để tồn tại và phát triển được. Có những điều kiện ở nơi này là bất lợi cho quá trình sản xuất nhưng nó lại là lợi thế vô cùng to lớn để phát triển cho những nơi khác. Chẳng hạn, ở một vùng đồng chiêm trũng, thì việc tận dụng đất nông nghiệp dư thừa, đất đai của các hộ gia đình không muốn làm nông nghiệp để xây dựng trang trại trồng trọt, chăn nuôi kết hợp… khép kín lại vô cùng thuận lợi. Mặt khác, các trang trại phải nhìn lại một cách nghiêm túc đến những khó khăn do vấn đề thị trường, giao thông vận tải, công nghệ sau thu hoạch… nếu muốn tồn tại và phát triển mạnh. Dù sao, mô hình kinh tế trang trại vẫn là một mô hình kinh tế hàng hóa, lợi nhuận phi sản xuất đóng góp một phần không nhỏ trong hoạt động của các mô hình này. Vì vậy, mọi cố gắng áp đặt các mô hình sản xuất tiến bộ từ nơi khác vào vùng mình, trang trại mình mà không tính đến những điều kiện trong vùng đều khó có thể tạo ra một mô hình kinh tế trang trại có hiệu quả được. Nói một cách khác, mô hình trang trại phải được nay sinh từ thực tiễn đòi hỏi của đời sống trong các vùng khác nhau.
1.2.4. Kinh tế trang trại đòi hỏi một trình độ sản xuất cao
Mô hình kinh tế trang trại muốn đạt hiệu quả trong sản xuất thì phải đáp ứng các phương thức sản xuất và quản lý ở trình độ cao. Các trang trại thành công của các nước trên thế giới đều sử dụng không nhiều nhân công lao động, như Nhật Bản, Hàn Quốc… quy mô trang trại khoảng 1 - 1,2 ha và chỉ có bình quân 1 - 2 lao động, ở Châu Âu trang trại có quy mô 20 - 30 ha cũng chỉ có 1 - 2 lao động của gia đình là chính.
Để làm được điều này, ở nhiều nước khác nhau trên thế giới người nào muốn trở thành chủ trang trại, được nhà nước công nhận trình độ quản lý và tư cách pháp nhân đều phải tốt nghiệp các trường, các lớp đào tạo về quản lý, kỹ thuật, thực tập là lao động kinh doanh một năm trong các trang trại tốt. Có bằng tốt nghiệp nông học, có kiến thức về kinh tế, pháp luật, thị trường… Với một nền tảng kiến thức và kinh nghiệm dầy dặn, một nền khoa học kỹ thuật phát triển, những chủ trang trại đã biết tự hoạch định cho mình những chiến lược sản xuất kinh doanh thích hợp cho trang trại mình như một giám đốc xí nghiệp.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KTTT Ở PHÙ NINH
2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN – KINH TẾ - XÃ HỘI
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.1.1. Vị trí địa lý, địa hình
- Vị trí địa lý: Phù ninh là một huyện miền núi được tái lập tháng 9/1999, nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Phú thọ, có toạ độ từ 21015' - 21033' độ vĩ Bắc, 105013' - 105024' độ kinh Đông. Có vị trí địa lý hành chính như sau:
* Phía Bắc giáp với huyện Đoan Hùng.
* Phía Nam giáp với thành phố Việt Trì.
* Phía Tây giáp với thị xã Phú Thọ.
* Phía Đông là sông Lô giáp với huyện Lập Thạch_ tỉnh Vĩnh Phúc.
Trung tâm huyện lỵ Phù Ninh là thị trấn Phong Châu, trên địa bàn huyện có công ty Giấy Bãi Bằng, Viện nghiên cứu cây nguyên liệu giấy, một phân xưởng của công ty Z121, có cụm làng nghề Đồng Lạng Phù Ninh, cụm tiểu thủ công nghiệp Rừng xanh thuộc thị trấn Phong Châu, có 1 bến cảng An Đạo, có 1 tuyến đường sắt chuyên dùng của công ty Giấy Bãi Bằng…
Huyện Phù Ninh được chia thành 20 đơn vị hành chính, trong đó có 1 thị trấn, còn lại là 19 xã:
1.
LIÊN HOA
11.
BÌNH BỘ
2.
PHÚ MỸ
12.
TỬ ĐÀ
3.
TRẠM THẢN
13.
VĨNH PHÚ
4.
TIÊN PHÚ
14.
HÙNG LÔ
5.
TRUNG GIÁP
15.
KIM ĐỨC
6.
BẢO THANH
16.
PHÚ LỘC
7.
TRỊ QUẬN
17.
PHÚ NHAM
8.
HẠ GIÁP
18.
PHÙ NINH
9.
TIEN DU
19.
GIA THANH
10.
AN ĐẠO
20.
TT.PHONG CHÂU
- Địa hình: Huyện Phù ninh trải dài theo dòng sông Lô về phía Đông bắc, địa hình của huyện khá đa dạng, có địa hình dốc, bậc thang, lòng chảo, tạo cho huyện có hệ thống núi thấp, đồi bát úp, có vùng bán địa, hình thành những sườn đồi, ruộng bậc thang, có vùng đồng bằng và hồ đầm.
Địa hình huyện nhà được chia thành 6 cấp độ dốc:
+ Cấp I (dưới 30), diện tích 6.559,17ha, chiếm 39,22% tổng diện tích.
+ Cấp II (từ 3 - 80), diện tích 1.072,01ha, chiếm 6,41% tổng diện tích.
+ Cấp III (từ 8 - 150), diện tích 3.846,17ha, chiếm 23% tổng diện tích.
+ Cấp IV (từ15 - 200), diện tích 4.348,25ha, chiếm 26% tổng diện tích.
+ Cấp V (từ 20 - 250), diện tích 667,29ha, chiếm 3,99% tổng diện tích.
+ Cấp VI (trên 250), diện tích 230,79ha, chiếm 1,38% tổng diện tích.
Từ những phân tích trên cho thấy địa hình huyện nhà rất phong phú đa đạng, độ cao trung bình không lớn lắm (không quá 50 - 60 m). Địa hình thuận lợi cho việc sử dụng đất vào sản xuất nông, lâm nghiệp, thuận lợi cho việc bố trí quy hoạch, xây dựng các công trình công cộng như giao thông, thuỷ lợi…
2.1.1.2. Khí hậu thuỷ văn
- Khí hậu: Phù Ninh nằm ở vùng núi phía Bắc nên mang đặc điểm chung của khí hậu miền Bắc Việt nam đó là nhiệt đới gió mùa và nóng ẩm, một năm có 4 mùa rõ rệt.
- Thuỷ văn: Địa phận huyện nhà có sông Lô chảy qua, tổng chiều dài phần sông chảy qua là 32km. Theo kết quả tính toán, lượng nước sông Lô chảy qua huyện Phù ninh hàng năm khá lớn. Trong các tháng mùa mưa, lưu lượng dòng chảy trung bình khoảng 1.647m3 / giây, trong các mùa khô, lưu lượng dòng chảy trung bình khoảng 520m3 / giây.
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
2.1.2.1. Tình hình đất đai(2004 - 2006)
Trong sản xuất nông nghiệp, đất đai vừa là đối tượng sản xuất vừa là tư liệu sản xuất chủ yếu. Do đó, việc khai thác và sử dụng tài nguyên này đòi hỏi phải hợp lý trên cơ sở bảo vệ và cải tạo.
Qua bảng 2.1, cơ cấu các loại đất của huyện nhà thay đổi qua các năm theo sự phát triển kinh tế của huyện.
Với tổng diện tích tự nhiên toàn huyện là 16.724ha. Trong đó, diện tích đất nông nghiệp chiếm một tỷ lệ cao, năm 2006 là 12.182ha (chiếm 72,8% tổng diện tích). Diện tích đất nông nghiệp giảm dần qua 3 năm là 120,5ha (bình quân qua 3 năm giảm là 0,5%). Trong đó, diện tích đất sản xuất nông nghiệp và đất lâm nghiệp giảm là 34,6ha và 103,7ha (tương ứng bình quân qua 3 năm giảm là 0,2% và 1,6%) diện tích đất nuôi trồng thuỷ sản tăng qua 3 năm là 17,8%ha tương ứng tăng là 6,8%.
Diện tích đất phi nông nghiệp chiếm tỷ lệ nhỏ hơn với diện tích năm 2006 là: 3.765ha chiếm 22,5% tổng diện tích. Qua 3 năm diện tích đất phi nông nghiệp tăng là do quá trình đô thị hoá, dân số cũng tăng nhanh là cho nhu cầu đất ở và đất chuyên dùng được mở rộng. Diện tích đất ở qua 3 năm tăng là 52,3ha (bình quân tăng 4,0%), đất chuyên dùng tăng là 65,8 ha (bình quân tăng 1,6%).
Diện tích đất chưa sử dụng giảm qua 3 năm là: 1,85ha (bình quân giảm 0,12%), đất chưa sử dụng chuyển sang đất ở, đất chuyên dùng.
Các chỉ tiêu bình quân của huyện có sự biến động nhỏ, bình quân đất nông nghiệp / khẩu giảm dần qua các năm, đến năm 2006 chỉ còn 0,11 ha / khẩu đã giảm 0,003 ha (bình quân qua 3 năm giảm 1,34%). Bình quân đất nông nghiệp / lao động cũng giảm dần qua 3 năm, lượng giảm là 0,019 ha (giảm 4,6%).
Bình quân đất sản xuất nông nghiệp / khẩu cũng giảm, từ 0,081 ha (2004) còn 0,079 ha (2006), giảm 1,24%. Đất sản xuất nông nghiệp / lao động giảm từ 0,17 ha (2004) còn 0,159 ha (bình quân qua 3 năm giảm 3,29%).
Tóm lại, điều kiện đất đai ở huyện nhà khá thuận lợi cho phát triển kinh tế trang trại, vùng núi phát triển cây ăn quả, cây lâm nghiệp; vùng đồng bằng phát triển chăn nuôi và thuỷ sản.
2.1.2.2. Tình hình dân số và lao động
Trong quá trình sản xuất, dân số và lao động là một trong những yếu tố quyết định quan trọng đến hiệu quả công việc, là một trong những nguồn lực tác động mạnh đến quá trình sản xuất của xã hội. Dân số ngày một tăng, nhu cầu đất ở tăng theo đã làm cho diện tích đất nông nghiệp giảm xuống đáng kể.
Qua bảng 2.2, ta thấy tổng số nhân khẩu tăng lên 2035 khẩu từ 108.625 khẩu (2004) đến 110.660 khẩu (2006), bình quân qua 3 năm tăng 0,93%. Trong đó, khẩu nông nghiệp chiếm một lượng lớn, năm 2006 là 91.460 khẩu chiếm 82,65% tổng nhân khẩu, qua 3 năm, khẩu nông nghiệp tăng là 1.802 khẩu (bình quân tăng 0,99%). Khẩu phi nông nghiệp chiếm tỷ lệ nhỏ hơn, năm 2006 là 19.200 khẩu chiếm 17,35%, tuy khẩu phi nông nghiệp còn chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng đang chuyển dịch cơ cấu, bình quân qua 3 năm tăng 233 khẩu (tăng 0,61%).
Tổng số lao động của huyện qua 3 năm tăng lên 3.616 lao động (bình quân qua 3 năm tăng 3,45%). Trong đó, lao động nông nghiệp vẫn chiếm một tỷ trọng lớn là 86,02% (2006), lao động nông nghiệp tăng lên 2.844 lao động (tăng 3,14%). Lao động phi nông nghiệp tăng với tốc độ khá cao là 772 lao động (tăng 5,39%). Đó là sự chuyển dịch cơ cấu lao động sản xuất nông nghiệp sang lao động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng và dịch vụ… đã có nhiều nhà máy, cơ sở sản xuất được hình thành. Đây là tín hiệu tốt cho sự chuyển dịch cơ cấu lao động trong huyện, lao động chuyển dần sang lao động phi nông nghiệp với trình độ, thu nhập cao hơn, góp phần không nhỏ vào quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Tổng số hộ qua 3 năm tăng lên là 1.492 hộ (bình quân tăng 2,95%). Trong đó, hộ nông nghiệp tăng lên là 2,82% từ 20.612 (2004) đến 21.790 (2006). Hộ phi nông nghiệp tăng lên là 314 hộ (bình quân tăng 3,59%). Hộ nông nghiệp tuy số tương đối tăng thấp hơn hộ phi nông nghiệp nhưng số tuyệt đối của hộ nông nghiệp tăng lên là 1.178 người.
Bình quân khẩu trên hộ giảm dần qua 3 năm từ 4,36 khẩu (2004) còn 4,19 khẩu (2006), bình quân qua 3 năm giảm 1,97%. Bình quân lao động trên hộ qua 3 năm tăng lên là 0,22 lao động (bình quân tăng 0,48%).
Nói chung, tình hình dân số lao động ở Phù ninh ổn định, lực lượng lao động nông nghiệp đã chuyển dần sang lao động phi nông nghiệp. Với số lao động bình quân trên hộ ta thấy, lao động ở huyện là khá dồi dào thuận lợi cho phát triển kinh tế trang trại.
2.1.2.3. Cơ sở vật chất kỹ thuật
Cơ sơ vật chất kỹ thuật thể hiện trình độ, năng lực sản xuất cũng như sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Cơ sở vật chất là điều kiện không thể thiếu trong mọi hoạt động của đời sống kinh tế xã hội. Mức trang bị ngày càng cao thì sản xuất càng phát triển, năng suất lao động ngày càng tăng. Tuy nhiên, trong việc trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật phải đảm bảo tính hợp lý, đồng bộ, phù hợp với trình độ quản lý và điều kiện sản xuất cụ thể của từng vùng thì mới có thể đem lại hiệu quả kinh tế cao. Trong sản xuất nông nghiệp, cơ sở hạ tầng cần thiết và trực tiếp phục vụ cho sản xuất như hệ thống thuỷ lợi, nhà kho, hệ thống dường giao thông, thông tin liên lạc, điện lưới,… ngoài ra, còn nhóm cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất như y tế, giáo dục, dịch vụ…
Qua bảng 2.3, ta thấy tình hình cơ sở vật chất kỹ thuật của huyện nhà khá phát triển.
* Giao thông: Huyện nhà có tuyến quốc lộ số 2 chạy qua với tổng chiều dài là 17 km, chạy dọc theo phía Tây của huyện, bên cạnh đó, hệ thống tỉnh lộ, huyện lộ và các tuyến giao thông nông thôn được bố trí hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại và lưu thông hàng hoá trên địa bàn huyện cũng như với các huyện lân cận. Trong đó, đường tỉnh lộ dài 78,5 km đã được giải nhựa, đường huyện lộ cũng có chiều dài là 16 km đã được dải nhựa 3 km. Hệ thống đường liên xã, liên thôn, nội thôn, nội đồng có tổng chiều dài 770 km đã được dải nhựa 30 km.
* Hệ thống thuỷ lợi: Huyện Phù ninh có tuyến sông Lô dài 32 km cung cấp nước chính, phục vụ cho công tác thuỷ lợi của huyện. Toàn huyện có 100 hồ đập lớn nhỏ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp của các xã vùng đồi và khoảng 1.100 km kênh thuỷ lợi.
* Hệ thống điện: Trên địa bàn huyện có một số tuyến điện cao thế chạy qua như tuyến 220 KV và hệ thống đường trung, hạ thế được bố trí hợp lý đảm bảo việc cung cấp điện cho sinh hoạt của nhân dân cũng như điện cho sản xuất của các nhà máy, xí nghiệp. Hiện nay, trên địa bàn huyện Phù ninh có tỷ lệ số hộ sử dụng điện đạt 100%.
* Bưu chính - viễn thông: Hiện nay, trên địa bàn huyện có 2 trạm trung chuyển thông tin chính, bên cạnh đó tại 20 / 20 xã, thị trấn đều đã có điểm bưu điện văn hoá xã, số máy điện thoại tăng nhanh bình quân đạt 7 máy / 100 dân.
* Y tế: Y tế của huyện đảm bảo chữa trị cho nhân dân trong huyện, ngoài bệnh viện còn có các trạm xá với đội ngũ cán bộ có tâm huyết với nghề, hiện nay toàn huyện có 11 bác sỹ và 23 y sỹ.
* Giáo dục: Giáo dục của huyện nhà có bước phát triển đáng kể, số trường THPT là 5 trường, có 21 trường THCS, có 21 trường tiểu học. Tháng 10 / 2003, đã hoàn thành phổ cập giáo dục THCS, đến nay, toàn huyện đã có 11 trường đạt chuẩn quốc gia.
2.1.3. Kết quả phát triển kinh tế của huyện Phù ninh qua 3 năm (2004 - 2006)
Kết quả phát triển kinh tế thể hiện sự phát triển của một nền kinh tế, một khu vực kinh tế, là một chỉ tiêu rất quan trọng.
Qua bảng 2.4, tình hình kinh tế của huyện nhà có những bước phát triển nhất định cả về sản lượng và giá trị, cơ cấu giữa các ngành sản xuất thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ và giảm tỷ trọng nông nghiệp.
Tổng giá trị sản xuất qua 3 năm tăng nhanh từ 390.400 triệu đồng (2004) lên 475.768 triệu đồng (2006), bình quân qua 3 năm tăng 10,4%, thể hiện sự phát triển đáng kể trong nền kinh tế của huyện. Trong đó, ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng 8.527 triệu đồng (bình quân tăng 2,6%), đặc biệt ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng cơ bản và thương mại dịch vụ tăng cao tương ứng là 16% và 15,7% đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện. Cơ cấu kinh tế của huyện thay đổi qua 3 năm được thể hiện là nông - lâm - ngư nghiệp; công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng cơ bản; thương mại dịch vụ.
42,5% - 35,14% - 22,37% (2004)
39,43% - 37,17% - 23,4% (2005)
36,66% - 38,80% - 24,55% (2006)
Cơ cấu kinh tế của huyện chuyển từ nông - lâm - ngư nghiệp chiếm tỷ trọng lớn (2004) chuyển sang công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng cơ bản (2005). Sự phát triển mạnh của công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng cơ bản ở huyện nhà đó là chủ trương và đường lối của Đảng - Nhà nước và chính quyền địa phương khuyến khích phát triển, tạo bước tiến nhanh, mạnh, vững chắc cho quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hoá của huyện. Trên địa bàn huyện có các nhà máy lớn như: công ty Giấy Bãi bằng, các khu công nghiệp, cơ sở chế biến, các làng nghề truyền thống… đã có bước phát triển vượt bậc trong những năm qua.
Trong ngành nông - lâm - ngư nghiệp, nông nghiệp tăng 12.221 triệu đồng (bình quân 3 năm tăng 3,92 %), trồng trọt tăng 3,69%, chăn nuôi tăng 4,81%, dịch vụ nông nghiệp tăng 0,78%. Chăn nuôi phát triển nhanh, tiến tới thay đổi cơ cấu trong sản xuất nông nghiệp.
Thu nhập bình quân / khẩu / năm thay đổi rõ rệt từ 3,6 triệu đồng (2004) lên 4,3triệu đồng (2006) bình quân qua 3 năm tăng 9,3%. Thu nhập bình quân / lao động / năm tăng mạnh qua 3 năm từ 7,57 triệu đồng (2004) lên 8,62 triệu đồng (2006) bình quân qua 3 năm tăng 13,87%.
Nói chung, tình hình phát triển kinh tế của huyện trong 3 năm đã có những biến chuyển rất lớn, kinh tế ngày càng vững mạnh, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng lên rõ rệt.
2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KTTT Ở HUYỆN PHÙ NINH
2.2.1. Tình hình phát triển kinh tế trang trại ở huyện nhà
Trước năm 2001, trên địa bàn huyện đã hình thành các trang trại nhưng chưa tập trung thành vùng lớn, hầu hết do người dân tự phát xây dựng và hình thành, quy mô nhỏ, chưa xác định được phương hướng sản xuất một cách rõ rệt. Phần lớn các trang trại vừa trồng cây ăn quả vừa trồng cây lâm nghiệp, cây trồng, con gia súc được tuyển chọn.
Vốn đầu tư vào các trang trại vẫn còn ở mức thấp, từ 8 - 10 triệu đồng / trang trại, doanh thu của các trang trại còn thấp, một số cơ chế chính sách chưa có do vậy tốc độ phát triển các loại hình kinh tế trang trại còn hạn chế.
Sau khi có Nghị quyết của Chính phủ số 03/2000/NQ - CP ngày 02/02/2000 về kinh tế trang trại, năm 2001 Huyện uỷ đã có Nghị quyết về phát triển kinh tế trang trại, UBND huyện xây dựng thành chương trình; quy hoạch phát triển cây trồng, vật nuôi theo vùng sản xuất.
Năm 2002, Tỉnh uỷ có Nghị quyết về phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn tỉnh đến năm 2005 và định hướng 2010.
Với cơ chế chính sách ra đời tạo điều kiện của Đảng và Nhà nước và chính quyền địa phương đã tạo điều kiện thuận lợi cho các trang trại phát triển nhanh và mạnh, đóng góp vào quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn của huyện.
2.2.2. Thực trạng và sự phát triển trang trại trên địa bàn huyện
Theo bảng 2.5, đến ngày 31/12/2006, trên địa bàn huyện nhà có 30 trang trại đạt tiêu chuẩn của Bộ nông nghiệp & phát triển nông thôn và Tổng cục Thống kê. Trong đó, trang trại trồng cây ăn quả tăng thêm 3 trang trại từ 7 trang trại (2004) lên 10 trang trại (2006), trang trại chăn nuôi tăng nhanh nhất với 8 trang trại (2004) lên 12 trang trại (2006), trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp tăng từ 2 trang trại (2004) lên 4 tran trại (2006). Đối với trang trại nuôi trồng thuỷ sản và trang trại nuôi ong giảm qua 3 năm qua, trang trại nuôi trồng thuỷ sản với 5 trang trại (2004) giảm xuống còn 4 trang trại (2006), còn đối với trang trại nuôi ong thì đến năm 2006 không có trang trại nào vì không thoả mãn được tiêu chí đề ra.
Bảng 2.5: C¸c m« h×nh KTTT ë huyÖn Phï ninh qua 3 n¨m (2004 - 2006)
Mô hình trang trại
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
SL
CC(%)
SL
CC(%)
SL
CC(%)
1. Cây ăn quả
7
28
9
32,14
10
33,34
2. Chăn nuôi
8
32
11
39,28
12
40
3. Thuỷ sản
5
20
4
14,29
4
13,33
4. Nuôi ong
3
12
-
-
-
-
5. Tổng hợp
2
8
4
14,29
4
13,33
Tổng
25
100
28
100
30
100
(Nguån: Phßng Thèng kª - UBND huyÖn Phï Ninh)
Cơ cấu các mô hình kinh tế trang trại của huyện, chăn nuôi đang là hướng đi chủ yếu của các trang trại hiện nay chiếm 40% (12 trang trại), trang trại trồng cây ăn quả chiếm 33,34% (10 trang trại) còn lại là 2 mô hình trang trại thuỷ sản và trang trại kinh doanh tổng hợp.
Qua cơ cấu mô hình trang trại như trên ta thấy, trang trại đang hướng về sản phẩm chăn nuôi, tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi trong hệ thống trang trại góp phần vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp của huyện.
2.3. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA CÁC MH KTTT
2.3.1. Thông tin đặc điểm chung của mẫu điều tra
2.3.1.1. Số lượng và dạng hình trang trại
Số lượng trang trại được nghiên cứu trong đề tài gồm có 15 trang trại, được thể hiện nhiều dạng trang trại khác nhau. Các mô hình trên đây đã thể hiện đầy đủ các dạng hình trang trại của huyện theo tiêu chí của Bộ nông nghiệp & phát triển nông thôn và Tổng cục thống kê.
Mô hình 1: Cây ăn quả với 5 trang trại
Mô hình 2: Chăn nuôi với 6 trang trại
Mô hình 3: Thuỷ sản với 2 trang trại
Mô hình 4: Tổng hợp với 2 trang trại
2.3.1.2. Thông tin chung của các trang trại điều tra
- Phương hướng sản xuất kinh doanh của trang trại
Với mục đích tìm ra mô hình sản xuất có hiệu quả nhất, phù hợp nhất với tình hình kinh tế của huyện, tôi tập trung nghiên cứu phân tích đánh giá theo hình thức phân loại này.
BẢNG 2.6: Phương hướng sản xuất kinh doanh của các MH KTTT
Mô hình
Số lượng
Cơ cấu (%)
1. MH1
5
33,34
2. MH2
6
40
3. MH3
2
13,33
4. MH4
2
13,33
Tổng số
15
100
Qua bảng 2.6, số lượng trang trại mô hình 2 lớn nhất với 6 trang trại chiếm 40% tổng số trang trại điều tra. Các trang trại này chủ yếu là chăn nuôi lợn, ngoài ra còn chăn nuôi gia cầm, mô hình này cần có nguồn vốn đầu tư lớn và có kỹ thuật tốt.
Mô hình 1, với 5 trang trại chiếm 33,34% tổng số trang trại điều tra. Số trang trại chủ yếu trồng các loại cây có giá trị cao như: vải, nhãn, xoài…
Mô hình 3, là mô hình trang trại nuôi trồng thuỷ sản, với số trang trại điều tra là 2 trang trại, ở trang trại này chủ yếu là chăn thả cá trắm, trôi, mè…
Mô hình 4 là mô hình trang trại tổng hợp với số lượng là 2 trang trại, mô hình này phát triển sản xuất đa dạng vừa kết hợp chăn nuôi, trồng trọt và nuôi trồng thuỷ sản.
Tóm lại, các trang trại ở huyện Phù ninh đã phát triển nhanh, phản ánh đúng tình hình phát triển sản xuất của huyện, chuyển nền sản xuất tự túc tự cấp sang phát triển sản xuất hàng hóa, phù hợp với yêu cầu của thị trường.
- Lao động
Lao động là nguồn nhân lực quan trọng trong sản xuất nông nghiệp nói chung và của trang trại nói riêng, đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả và hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại. Các chủ trang trại thường chọn những người có sức khoẻ, chịu khó, không có thói xấu, có kinh nghiệm và kiến thức thực tế. Nếu biết quản lý và sử dụng tốt, biết quan tâm thoả đáng đến lợi ích vật chất và tinh thần của người lao động thì nó sẽ là nhân tố quan trọng làm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế cho chủ trang trại.
Qua bảng 2.7, ta thấy số lao động làm việc trong các trang trại là khá cao, bình quân là 4,47 lao động / trang trại. Do yêu cầu của sản xuất nông nghiệp đồng thời việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn nhiều hạn chế, lao động đa số phải làm việc trực tiếp bằng những công cụ thô sơ như cuốc, xẻng, liềm… trong các việc như: dãy cỏ, phun thuốc, thu hoạch… Bình quân các trang trại có 4,91 người / hộ, cao hơn mức bình quân chung của toàn huyện là 4,19 người / hộ (2006).
Qua bảng 2.7, số lao động cao nhất thuộc về MH4 với 5,25 lao động / trang trại, trong đó lao động gia đình là 2 lao động, lao động thuê thường xuyên là 3 lao động và 0,25 lao động thuê thời vụ (quy đổi). Bởi đây là trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp với khối lượng công việc, diện tích khá lớn đòi hỏi cần nhiều nhân công, mà đặc biệt đến mùa thu hoạch là rất lớn. Công việc ở đây khá vất vả với nhiều loại cây trồng vật nuôi… Tiền công đối với người lao động thường xuyên được chủ trang trại trả với 2 mức đó là 350.000đồng / tháng (nuôi ăn) và 650.000đồng / tháng (không ăn). Công việc mà các lao động thuê thời vụ thường làm là khi chủ trang trang trại thu hoạch hoa quả, hái chè, phát cây… và tiền công được trả bình quân là 30.000đồng / ngày công.
Mô hình 3 có tổng số lao động tham gia sản xuất là 4,2 lao động / trang trại, ở loại hình này, lao động chủ yếu là lao động gia đình đảm nhiệm, tính bình quân là 3 lao động / trang trại, lao động thuê thường xuyên với 1lao động, thuê thời vụ (quy đổi) là 2 lao động. Mô hình này là chuyên về thuỷ sản là thả cá nên chăm sóc không cần nhiều người, chỉ bận rộn nhất là khi thả và thu hoạch nên mới cần thuê. Đối với lao động thường xuyên được trả bình quân là 630.000đồng / tháng.
Mô hình 2 với tổng lao động tham gia sản xuất là 4,57 lao động / trang trại, trong đó lao động gia đình là 2,33 lao động, lao động thuê thường xuyên là 2,17 lao động và lao động thời vụ (quy đổi) với số lượng ít nhất là 0,067 lao động. Với mô hình chăn nuôi, khi thu hoạch thì cũng không quá bận rộn nên tỷ lệ thuê lao động ngoài là không cao. Đối với lao động thuê thường xuyên thì trang trại thuê 1 người đã học qua trung cấp chăn nuôi để đảm bảo chăm sóc, vì đây là những người có kiến thức, chuyên môn. Tiền công chủ trang trại trả là 650.000đồng / tháng / lao động.
Mô hình 1 có tổng số lao động là 4,14 lao động / trang trại. Trong đó, lao động gia đình với 1,8 lao động / trang trại, lao động thuê là 2,34 lao động / trang trại, số lượng lao động thuê thời vụ (quy đổi) là cao nhất với 0,34 lao động / trang trại, lao động thuê thường xuyên với 2 lao động. Mô hình này vào thời gian thu hoạch là lúc cần đến nhiều lao động nhất vì sản xuất cây ăn quả cần thu hoạch nhanh, đúng vụ để tránh ảnh hưởng đến chất lượng và phẩm cấp của sản phẩm.
Các trang trại khi có khối lượng công việc lớn, lao động gia đình không đảm đương hết nhiệm vụ thì các chủ trang trại đều phải thuê mướn thêm lao động vào lúc đó và luôn có lao động thường xuyên từ 1 - 5 lao động. Mặc dù là một chỉ tiêu đánh giá trực tiếp công việc của trang trại, nhưng qua điều tra được các chủ trang trại cho biết vấn đề lao động không phải là vấn đề cấp thiết của họ, một mặt do quy mô sản xuất chưa đủ lớn mặt khác do lao động nông thôn hiện nay đang dư thừa cho nên việc thuê thêm lao động đối với các chủ trang trại không phải là điều khó khăn.
- Đất đai
Nguồn diện tích đất được sử dụng là một tư liệu đặc biệt và là yếu tố hàng đầu đối với nhu cầu của một tran trại, sự hình thành và phát triển của KTTT đồng nghĩa với quá trình tích tụ và tập trung đất đai. Tuy nhiên, quy mô đất đai lại tuỳ thuộc vào từng loại hình trang trại mà có diện tích đất và sử dụng đất khác nhau.
Qua bảng 2.8, đối với mô hình 1 có diện tích trung bình là 4,75ha / trang trại thì đây là trang trại trồng cây ăn quả là chính như vải, xoài, hồng, bưởi… vì vậy nên diện tích dùng cho cây lâu năm chiếm lớn nhất là 4,56ha (chiếm 98,28%), còn lại 0,08 ha (chiếm 1,72%) dùng chủ yếu để trồng các loại cây ngắn ngày như đu đủ, chuối…
Mô hình 2 là loại hình có ngành sản xuất chính là chăn nuôi chủ yếu là chăn nuôi lợn, bên cạnh đó còn chăn nuôi gà, vịt,ngan. Mô hình này có quy mô diện tích đất nhỏ nhất trong các mô hình trang trại ở Phù ninh. Với mô hình này không cần diện tích quá lớn, tính bình quân thì diện tích của loại hình này là 0,73 ha / trang trại. Trong đó, dùng cho chăn nuôi là 0,62ha / trang trại, ngoài ra 0,04ha trồng rau và một số hoa màu khác, còn lại 0,06ha trồng cây lâu năm.
Mô hình 3 là mô hình chuyên về nuôi trồng thuỷ sản, quy mô diện tích trung bình là 3,602ha / trang trại, trong đó diện tich dùng cho nuôi trồng thuỷ sản chiếm 3,48ha / trang trại còn lại là diện tích đất trồng cây hàng năm và cây lâu năm là 0,11ha (chiếm 3,05%).
Mô hình 4 là mô hình trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp bao gồm chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và cây ăn quả. Với tổng diện tích bình quân là 4,77ha / trang trại thì đây là mô hình có diện tích bình quân lớn nhất trong các mô hình trang trại mà tôi nghiên cứu trên địa bàn. Trong đó, đất sản xuất nông nghiệp chiếm 3,9ha / trang trại (chiếm 81,76% tổng diện tích), diện tích chăn nuôi là 0,24ha / trang trại (chiếm 5,03%), mặt nước nuôi trồng thuỷ sản là 0,62ha / trang trại (chiếm 13%) còn lại là diện tích đất khác. Mô hình này sử dụng một cách linh hoạt các sản phẩm của nhau, như sử dụng thức ăn xanh cho gia súc, mặt khác sử dụng phân của gia súc cho cá và bón cho cây trồng.
Chủ trang trại được Nhà nước giao quyền sử dụng đất, ngoài ra phần còn lại là do đấu thầu và chuyển quyền sử dụng đất, đối với mô hình chăn nuôi thì diện tích được giao chiếm tới 93,15% tổng diện tích đất, còn đất chuyển nhượng chiếm phần rất nhỏ.
Quy mô đất đai của._.lĩnh vực: tạo giống; chăm sóc vật nuôi, cây trồng; các nghiệp vụ phòng và trị bệnh; kỹ năng vận dụng và sử dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, máy móc hiện đại vào sản xuất nông nghiệp… Các trường dạy nghề phối hợp với các tổ chức khuyến nông, các tổ chức quần chúng, các hội nghề nghiệp… hỗ trợ đào tạo và nâng cao tay nghề cho người lao động, hiện nay trên địa bàn huyện chỉ có hơn 10% lao động trang trại được bồi dưỡng tay nghề.
Bảng 3.2: Trình độ quản lý của chủ trang trại
(Định hướng năm 2010)
Chỉ tiêu
Số lượng (người)
Cơ cấu (%)
THPT
8
10
Sơ cấp, trung cấp
47
58,8
Cao đẳng
20
25
Đại học
5
6,2
Tổng
80
100
Các địa phương hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật lao động ở các trang trại. Các chủ lao động được thuê lao động không hạn chế về số lượng nhưng phải thực hiện tốt việc trang trại chuẩn bị dụng cụ theo từng loại nghề cho người lao động: quần áo bảo hộ, có trách nhiệm với người lao động khi có rủi ro, ốm đau, tai nạn… Khuyến khích chủ trang trại ưu tiên thuê lao động của những hộ nông dân không đất, thiếu đất sản xuất nông nghiệp, hộ nghèo thiếu việc làm, giúp những hộ này có thu nhập để cải thiện đời sống.
Bộ nông nghiệp & phát triển nông thôn phối hợp với Bộ Lao động và lãnh đạo tỉnh và UBND huyện Phù Ninh cần nghiên cứu, ban hành các quy chế sử dụng lao động trong các trang trại, xây dựng quy chế hợp đồng lao động mang tính pháp lý giữa chủ trang trại và người làm thuê để bảo vệ quyền lợi cho cả hai bên.
3.2.1.3. Giải pháp về vốn
Quy mô vốn chưa phù hợp với quy mô diện tích và tiềm năng các trang trại. Các trang trại chủ yếu sử dụng vốn của gia đình là chủ yếu, lượng vốn vay còn ở mức thấp.
Nhà nước nên có chính sách tín dụng ưu đãi cho các trang trại theo hai hướng: Tăng vốn vay cao hơn cho kinh tế hộ, đồng thời tăng lượng vốn vay trung và dài hạn để thuận lợi cho các trang trại kinh doanh cây lâu năm hoặc chăn nuôi gia súc lớn, đơn giản hoá thủ tục, giảm lãi suất… coi như đó là một phần gián tiếp Nhà nước đầu tư cho nông nghiệp. Cho đến nay, lượng vốn vay trung hạn đã tăng lên nhưng thủ tục thì lại chưa được thuận tiện.
Cần đa dạng hoá các hình thức cho vay và huy động vốn. Các ngân hàng huy động vốn từ tiết kiệm, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu… vay vốn của các tổ chức quốc tế và cả vốn ODA, vốn vay thương mại. Ngoài ra, hàng năm cũng nên dành một phần ngân sách để chuyển sang các tổ chức tín dụng cho vay theo chương trình dự án. Nếu như cho nông dân vay vốn theo chương trình dự án thì phải hỗ trợ cho họ trong quá trình lập kế hoạch sản xuất vì thông thường mặt này nông dân còn kém.
Cần đổi mới phương thức cho vay, thu nợ phù hợp với đặc điểm của từng loại KTTT. Đổi mới thủ tục cho vay, thu lãi sao cho đơn giản, thuận tiện hơn.
Thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao lượng vốn vay cho các trang trại như: Giảm thủ tục rườm rà, vay với lượng vốn lớn hơn… Đồng thời giúp đỡ các trang trại bằng những chính sách ưu tiên, giải ngân theo chương trình, dự án cho những trang trại có diện tích rừng trồng và rừng chăm sóc.
Về phía các trang trại cũng cần tự giải quyết vấn đề này bằng cách tập trung vốn bằng nhiều hình thức khác nhau như: vay mượn gia đình, liên doanh liên kết, tham gia các hội như hội phụ nữ, hội nông dân, hội cựu chiến binh…nhằm giúp đỡ lẫn nhau, đồng thời tăng vòng quay của vốn. Cần kết hợp hiệu quả các loại cây trồng, vật nuôi để hiệu quả đồng vốn là cao nhất, tránh được các áp lực do thiếu vốn do yêu cầu của sản xuất kinh doanh.
3.2.1.4. Các biện pháp nhằm đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm
Thị trường là yếu tố quan trọng đối với sản xuất hàng hoá, ở đây cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra. Giá cả bấp bênh, không ổn định, gây ra sự bất ổn trong sản xuất kinh doanh, sự thiếu tin tưởng của chủ trang trại vào những quyết định của mình.
* Thông tin thị trường:
Việc người sản xuất nắm bắt thông tin thị trường là vô cùng quan trọng trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Về vấn đề này, Nhà nước cần làm tốt công tác thông tin kinh tế, đưa những thông tin này đến người sản xuất thông qua nhiều hệ thống kênh trong đó có thông qua hệ thống khuyến nông để tăng khả năng tiếp thị của người sản xuất, để chủ trang trại phân tích xem khả năng sản xuất của mình cho phù hợp. Hình thành các kênh thông tin để doanh nghiệp và các chủ trang trại tiếp cận thị trường: như tạo mối làm ăn, hợp đồng dài hạn với các đối tác trong nước và ngoài nước. Chú trọng triển khai các hội thảo hàng nông sản, không chỉ ở các trung tâm kinh tế lớn như: Hà nội, Hải phòng… mà còn ở những địa phương khác nữa, mở rộng hợp tác trang đổi hàng hoá với các vùng khác trong cả nước.
Bộ Thương mại, Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, UUBND các tỉnh tổ chức tốt việc cung cấp thông tin, giá cả, khuyến cáo khoa học giúp trang trại định hướng kinh doanh cho phù hợp nhu cầu thị trường trong nước và ngoài nước, đồng thời cũng phải chú ý tới cơ cấu sản xuất của các vùng kinh tế khác trong nước, khi họ có những điều kiện thuận lợi để sản xuất các mặt hàng nông sản tương tự và mang tính cạnh tranh cao.
* Về lưu thông hàng hóa:
Đa dạng hoá các hình thức liên kết giữa các thành phần kinh tế, giữa các viện nghiên cứu với các cơ sở sản xuất và các địa phương gắn việc ký kết hợp đồng cung ứng vật tư với bao tiêu sản phẩm giữa người sản xuất với thương nhân. Hình thành và phát triển kinh tế hợp tác trên cơ sở tự nguyện và nguyên tắc các bên cùng có lợi, giữa các trang trại và dân cư nông thôn gắn với thị trường tiêu thụ nông sản hàng hoá và nơi cung cấp mặt hàng công nghiệp, thực phẩm thiết yếu cho sản xuất và đời sống của nhân dân và của nông dân.
Khuyến khích phát triển hệ thống chợ nông thôn và các trung tâm giao dịch mua bán nông sản, vật tư nông nghiệp ở các thị trấn, thị tứ nhất là các địa bàn trung tâm phát triển KTTT, thúc đẩy trao đổi hàng hoá ngay trong địa phương.
Khắc phục tình trạng thả nổi thị trường nông thôn tạo điều kiện cho các chủ trang trại không chỉ xuất khẩu trực tiếp sản phẩm của mình mà nếu có điều kiện có thể thu gom của các chủ trang trại khác, hay khuyến khích làm đại lý vật tư nông nghiệp. Hình thành các hiệp hội sản xuất giúp nhau từ đầu vào đến đầu ra, tránh tình trạng bị ép giá.
* Về tiêu thụ nông sản
Một mặt trang trại tiếp tục duy trì mối quan hệ với các thị trường truyền thống như: Hà nội, Hải phòng, các khu công nghiệp…mặt khác tích cực tìm kiếm các thị trường mới.
Khắc phục tình trạng quá nhiều sản phẩm bán ra không có tổ chức, dẫn đến trang chấp, ép giá, gây thiệt hại cho nông dân và lãng phí sản phẩm. Hoàn chỉnh chính sách tiêu thụ ổn định lâu dài và trực tiếp cho những mặt hàng nông sản quan trọng như: thịt, rau quả cao cấp, nông đặc sản… thoát dần tình trạng xuất khẩu nhỏ từng chuyến qua các khâu trung gian, khuyến khích các đơn vị trực tiếp giao dịch và với đối tác nước ngoài, tăng cường và mở rộng hợp tác kinh tế đối ngoại trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp.
Khi thiếu thông tin thị trường, giá cả lại bấp bênh xảy ra thường xuyên, ứ đọng nông sản tại các trang trại là một vấn đề hết sức nguy hiểm. Cho nên cần có sự đảm bảo trong tiêu thụ từ sự giúp đỡ của Nhà nước và chính quyền địa phương trong việc quy hoạch vùng sản phẩm hàng hóa, xây dựng các nhà máy chế biến nông sản… Mặt khác, các chủ trang trại cần thành lập hiệp hội giúp đỡ nhau trong sản xuất, thống nhất giá cả có những bản hợp đồng thật chi tiết, đảm bảo bán đúng hàng, tạo mối làm ăn lâu dài, ổn định. Quan tâm đến thị trường, xem xét nhu cầu của thị trường cần loại gì, chủng loại ra sao, mẫu mã…và luôn luôn tâm niệm rằng "sản xuất những gì thị trường cần chứ không sản xuất những gì mình có", đó là mấu chốt trong nền kinh tế thị trường.
3.2.1.5. Giải pháp về khoa học công nghệ (KH - CN)
Phát triển KH - CN là đặc biệt quan trọng vì phương châm phát triển KTTT là phát huy tối đa khả năng vận dụng những thành tựu KH - CN để đạt được thu nhập cao tính trên một ha đất trang trại. Muốn vậy, Nhà nước cần đổi mới, hoàn thiện tổ chức hoạt động KH - CN từ nghiên cứu đến triển khai. Cần huy động các tiềm năng của các thành phần kinh tế tập trung đầu tư vào KH - CN nông nghiệp, coi đây là mặt trận hàng đầu. Lãnh đạo huyện phải phối hợp với cấp TW để đào tạo đội ngũ các nhà khoa học, kỹ sư, lao động lành nghề.
Các trung tâm nghiên cứu cần tập trung ưu tiên ứng dụng những thành tựu công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ sinh học nhằm tạo lai, tuyển chọn giống cây, con mới có chất lượng cao và có giá trị kinh tế nhằm tạo bước phát triển mới về chất lượng trong nông nghiệp, cụ thể là giống lợn có tỷ lệ nạc cao; gà, ngan siêu thịt; cá chất lựơng cao… Ngoài ra cần ứng dụng công nghệ tiên tiến trong canh tác và các khâu phơ sấy, chế biến nông sản, ngăn chặn kịp thời các loại dịch bệnh gây hại cho vật nuôi và cây trồng.
Ngoài chính sách chung về KH - CN nông nghiệp, cần có chính sách cụ thể hướng dẫn khuyến khích, hỗ trợ KH - CN đối với KTTT là lực lượng, là loại hình tổ chức sản xuất có nhiều nhu cầu và khả năng nhất trong việc ứng dụng KH - CN vào sản xuất. Đó chính là công tác khuyến nông.
Nâng cao, hướng dẫn cho các trang trại áp dụng mô hình canh tác tổng hợp có hiệu quả, ứng dụng các biện pháp kỹ thuật, quy trình kỹ thuật canh tác tiến bộ nhất là sử dụng các loại giống mới, có năng suất và chất lượng cao vào sản xuất, khuyến khích hỗ trợ các trang trại có điều kiện đất đai, vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật tham gia sản xuất và cung ứng giống.
Tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp trong hoạt động khuyến nông của mọi tổ chức, mọi thành phần kinh tế và phương châm tất cả mọi hoạt động khuyến nông đều tác động đến người lao động, đem lại hiệu quả cao nhất.
Cần có chính sách mạnh mẽ để tập hợp được nhiều cán bộ khuyến nông, chuyên môn giỏi, nhiều cán bộ quản lý kỹ thuật, kinh tế - xã hội, những nông dân giỏi trong sản xuất và có kinh nghiệm làm giàu. Đảm bảo công tác khuyến nông đạt chất lượng cao nhưng phù hợp với điều kiện của địa phương. Trước mắt cần tuyển những cán bộ nông nghiệp có năng lực chuyên môn giỏi và thực hành giỏi, biết làm công tác tuyên truyền và vận động quần chúng đưa về từng xã trả lương ngân sách. Nhiệm vụ của một số cán bộ này là tuyên truyền và phổ biến cũng như vận động, hướng dẫn tập huấn các chủ trang trại và người lao động có đủ khả năng ứng dụng các tiến bộ KH - CN về công nghệ sau thu hoạch, bảo quản sản phẩm, công nghệ chế biến nông, thuỷ sản theo quy mô vừa và nhỏ sử dụng các thiết bị cơ giới phù hợp trong khâu làm đất, vận chuyển, bơm nước…Bên cạnh ngân sách của Nhà nước đầu tư cho khuyến nông, cần xây dựng các chính sách thu hút vốn của các ngân hàng, các cơ sở sản xuất kinh doanh nông sản, và nguồn tài trợ quốc tế tham gia công tác này. Hiện nay, ngành nông nghiệp chỉ hoạt động khuyến nông chung cho cả nông dân giàu lẫn nghèo. Đã đến lúc cần tập trung công tác khuyến nông riêng đối với các hộ nông dân - trang trại sản xuất hàng hóa. Hình thành và mở rộng các câu lạc bộ khuyến nông cho các chủ trang trại theo các ngành sản xuất, đi vào những chuyên đề thiết thực. Mục tiêu của công tác là hướng dẫn các trang trại sử dụng giống cây, giống vật nuôi mới, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật về bảo quản sản phẩm, nhất là bảo quản rau quả nhằm kéo dài thời gian tiêu thụ, áp dụng công nghệ chế biến nông sản tiên tiến, phân loại và đóng gói sản phẩm tiêu thụ, sử dụng máy móc phù hợp để làm đất, vận chuyển và bơm nước tưới tiêu…
Chính sách KH - CN của Nhà nước phải kết hợp những kinh nghiệm, tinh hoa cổ truyền với hiện đại hoá theo hướng cơ giới hoá, tin học hoá, thuỷ lợi hoá, đặc biệt là ứng dụng những thành tựu mới nhất của công nghệ sinh học trong nước và quốc tế.
Nhà nước cũng nên quản lý và kiểm tra chặt chẽ chất lượng giống cây trồng, vật nuôi, vật tư nông nghiệp, đặc biệt là giống nhập khẩu từ các nước, xử lý kịp thời những trường hợp buôn bán hàng giả, giống chất lượng xấu thậm chí có nguy cơ gây hại cho cả ngành sản xuất chung để hạn chế rủi ro cho các trang trại và cho toàn ngành nông nghiệp.
Phát huy vai trò của các trung tâm, các Viện nghiên cứu khoa học kỹ thuật thuộc Bộ Nông nghiệp & phát triển nông thôn, trong các lĩnh vực nghiên cứu lai tạo giống mới có năng suất và phẩm chất tốt, phù hợp với thị trường, nghiên cứu các biện pháp canh tác tân tiến, nghiên cứu áp dụng các loại máy móc thiết bị phù hợp… Các cơ quan này cần theo dõi sát sao nhu cầu của các trang trại, liên kết với các trang trại để xác định các mô hình chuyển giao kỹ thuật mới cho người nông dân trong huyện. Đầu tư xây dựng các vườn ươm nhân giống cây trồng, vật nuôi trên địa bàn phát triển trang trại, thậm chí khuyến khích loại hình trang trại kinh doanh hình thức này để đảm bảo cung cấp đủ giống tốt tại chỗ cho các trang trại.
Tổ chức đào tạo lại đội ngũ cán bộ khoa học phục vụ nông nghiệp bằng nhiều hình thức đa dạng. Khuyến khích cá nhân, tập thể mở rộng trao đổi, hợp tác với nước ngoài, có chính sách đãi ngộ thoả đáng với những sáng tạo công nghệ và ứng dụng có hiệu quả vào sản xuất.
Đối với công nghiệp chế biến, trên cơ sở quy hoạch các vùng nguyên liệu tập trung, sắp xếp lại hệ thống các cơ sở chế biến công nghiệp, đặc biệt là các khu công nghiệp. Đồng thời phát triển công nghiệp chế biến với các trình độ đa dạng không chỉ của trong huyện mà còn của các vùng khác. Đối với các loại cây nông sản xuất khẩu thì phải đầu tư đổi mới công nghệ để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm.
3.2.1.6. Giải pháp về chính sách vĩ mô
Phát triển KTTT không chỉ cần những yếu tố cụ thể như đất đai, lao động, vốn… mà còn cần những chính sách phù hợp, đáp ứng yêu cầu sản xuất của trang trại. Vì vậy, một môi trường chính sách phù hợp sẽ kích thích sản xuất phát triển nhanh và mạnh hơn, do đó theo tôi cần có những điều kiện sau:
_ Các chính sách của Nhà nước cần tạo ra cho người dân sự tin tưởng, cần phổ biến cho họ hiểu được định hướng của Nhà nước. Thêm vào đó, chính sách cần thực hiện một cách đồng bộ, thống nhất, xuyên suốt để chống chồng chéo, đan xen lẫn nhau, để chính sách thực sự đi vào cuộc sống. Mặt khác, cần có những chính sách cụ thể áp dụng cho từng thời kỳ, từng giai đoạn sản xuất: Chính sách thuế, chính sách tiêu thụ… để phát triển một cách ổn định, tránh rủi ro trong sản xuất cho chủ trang trại.
_ Nhà nước cần nhanh chóng giao quyền sử dụng đất lâu dài để chủ trang trại yên tâm đầu tư sản xuất. Đối với những diện tích đất trang trại đã được giao và sử dụng hợp pháp, có thể chuyển nhượng quyền sử dụng để tạo điều kiện tích tụ đất đai nhằm phát triển các trang trại lớn cho những chủ trang trại biết đầu tư khoa học kỹ thuật và tái đầu tư mở rộng vào khai thác hiệu quả nhất diện tích đang được giao quản lý sử dụng.
Đối với những diện tích đất chưa được giao: đẩy mạnh việc giao đất, cho thuê và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho những trang trại sử dụng hợp pháp để các chủ trang trại yên tâm đầu tư phát triển sản xuất về lâu dài. Địa phương cần rà soát lại các trang trại hiện có, xúc tiến nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo chính sách đất đai như trong Nghị quyết của Chính phủ. Những hộ gia đình, cá nhân đã sử dụng đất phát triển trang trại mà chưa được giao, chưa được thuê hoặc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trước khi ban hành Nghị quyết 03/2000/NQ - CP, sử dụng đúng mục đích và không có tranh chấp thì được xét giao, cho thuê, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho trang trại.
Có chính sách dồn điền đổi thửa để lập các trang trại lớn:
_ Do tập quán sản xuất lâu đời để lại nên đất đai ở vào tình trạng manh mún, phân tán. Muốn phát triển KTTT phải "dồn" những diện tích nhỏ để có những vùng đất rộng lớn hơn. Quá trình này có thể được sự chủ động tiến hành của Nhà nước nhưng vì đất đai là hàng hoá đặc biệt nên thị trường đất đai cần sự hướng dẫn, kiểm soát thường xuyên, chặt chẽ hơn của Nhà nước bằng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thuận lợi, đúng quy luật, có hiệu quả cao nhất, tuân theo quy hoạch của Nhà nước và tránh những hậu quả khác ở nông thôn. Cho phép các trang trại có thể nhận, chuyển nhượng quyền sử dụng hoặc cho thuê đất đai, để tích tụ ở những nơi có điều kiện.
_Một vấn đề đặt ra là khi thi hành chính sách dồn điền đổi thửa là phải có sự quản lý chặt chẽ để đảm bảo không có tình trạng người nông dân mất đất bần cùng hóa. Nó cũng phải được vận động tiến hành trên cơ sở tự nguyện trao đổi, hợp tác của bà con nông dân, không cưỡng ép, sử dụng các biện pháp trái với pháp luật để thi hành. Hoặc khuyến khích các hộ nông dân cùng tập trung ruộng đất theo hình thức góp cổ phần sau đó cử một người có trình độ quản lý giỏi điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại, còn các hộ thì cùng lao động trực tiếp ở trang trại đó và được hưởng theo công lao động, thu nhập cuối cùng của trang trại sau khi trừ đi tổng chi phí của trang trại sẽ chia theo phần trăm vốn góp cổ phần của các hộ.
Xây dựng kế hoạch thật chi tiết để phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch đất đai ở Phù ninh.
_ Huyện là cấp hành chính trực tiếp giải quyết các vấn đề có liên quan đến phát triển KTTT, cho đến nay, tuy đã nỗ lực nhưng công tác quy hoạch chi tiết còn chậm, cần phải đôn đốc thực hiện ngay. Trên cơ sở định hướng phát triển đã được xác định, đất đai của huyện được chia thành các tiểu vùng kinh tế - sinh thái - xã hội. Từ đó, bố trí sản xuất trên toàn bộ địa bàn của huyện và tính toán tốc độ phát triển của từng ngành. Các tiểu vùng dự định phát triển KTTT cần được quy định rõ trong quy hoạch của huyện theo từng bước phát triển.
_ Các cấp, các ngành thực hiện tốt Quyết định 80/QĐ - TTG của Thủ tướng Chính phủ về tiêu thụ nông sản, hàng hoá cho nông dân, đẩy mạnh liên kết 4 nhà thật chặt chẽ, đảm bảo lợi ích của các bên tham gia, tạo các chính sách kích thích sự liên kết gắn bó, hỗ trợ lẫn nhau.
_ Chính quyền địa phương cũng cần có biện pháp giúp đỡ khuyến khích các trang trại, tạo điều kiện như: chuyển nhượng, dồn điền đổi thửa… tạo điều kiện cho trang trại yên tâm sản xuất.
_ Quy hoạch vùng sản xuất, tạo điều kiện cho phát triển chuyên môn hoá vùng, tạo điều kiện tốt nhất cho sản xuất, điều đó rất cần có sự quan tâm giúp đỡ của các chính sách Nhà nước và địa phương.
3.2.1.7.Giải pháp về cơ sở hạ tầng
Quan tâm đến nâng cấp, cải tạo hệ thống kênh mương, đường giao thông, thông tin liên lạc. Xây dựng các trạm thuỷ lợi nhỏ, các đường liên thôn, liên xã, chợ đầu mối… tạo điều kiện cho tiêu thụ sản phẩm được dễ dàng và đảm bảo cho sản phẩm có chất lượng tốt nhất, giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, từng bước nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh.
+ Trước hết, cần hoàn thiện và nâng cấp hệ thống đường giao thông trong huyện, đảm bảo lưu thông hàng hóa, vật tư và nông sản phẩm trong phạm vi toàn huyện. Vấn đề là nâng cấp chất lượng đường giao thông liên huyện, liên xã, phù hợp với yêu cầu phát triển của nông nghiệp hàng hoá và kinh tế nông thôn cũng như KTTT. Giải pháp nâng cấp đường giao thông hiện nay phải coi trọng chất lượng hơn là số lượng. Cần tu bổ, nâng cấp và cải tạo quốc lộ Hai qua huyện, các đường liên huyện nâng cấp về quy mô và làn đường.
+ Hoàn thiện hệ thống điện nông thôn. Hiện nay, điện nông thôn ở huyện đã về 100% số xã, 100% hộ đều có điện thắp sáng. Vì vậy, hoàn thiện hệ thống điện là ổn định nguồn điện, chất lượng đảm bảo…
+ Nâng cấp các công trình thủy lợi trong vùng, đặc biệt là hệ thống đê sông Lô. Hệ thống thuỷ lợi hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu thâm canh cao hơn và đối phó với những biến động bất thường của thời tiết. Yêu cầu tưới tiêu chủ động, tiến tới tưới tiêu theo yêu cầu của sinh trưởng và phát triển của cây trồng đang đặt ra hàng loạt vấn đề kinh tế, kỹ thuật đối với các công trình thuỷ lợi ở huyện. Do đó, cần phải nâng cấp các công trình hiện có để tăng công suất tưới tiêu và cải thiện phương pháp tưới tiêu. Sắp tới, vốn đầu tư xây dựng cơ bản nhấn mạnh vào việc kiên cố hóa kênh mương, gắn kết việc xây dựng kênh mương với hệ thống giao thông nội đồng.
+ Đầu tư, chuyển giao và ứng dụng kỹ thuật mới trong nông nghiệp, hệ thống các trạm kỹ thuật cần được ưu tiên đầu tư vốn, nhân lực, khoa học công nghệ.
+ Tổ chức hệ thống dịch vụ sản xuất, kinh doanh đồng bộ liên hoàn từ các khâu đầu vào cho đến các khâu đầu ra của sản xuất, hình thành hệ thống cung ứng vật tư, kỹ thuật, dịch vụ tư vấn, thông tin…
3.2.1.8. Giải pháp chống rủi ro
Trong sản xuất nông nghiệp gặp rất nhiều rủi ro, ảnh hưởng lớn đến kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của chủ trang trại nói riêng và của ngành nông nghiệp nói chung. Rủi ro trong nông nghiệp có thể phân thành hai loại chính như sau:
* Thứ nhất: Rủi ro do điều kiện tự nhiên: Đó là lũ lụt, hạn hán, sâu bệnh, sương muối, cháy rừng… xảy ra thường xuyên làm giảm năng suất, chất lượng và số lượng của sản phẩm, gây ảnh hưởng tới kết quả thu hoạch.
* Thứ hai: Rủi ro do yếu tố thị trường, chính sách: Đó là thay đổi về cơ cấu sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đô thị hoá, mất cân bằng giữa cung và cầu… Để đảm bảo sản xuất ổn định, tạo an tâm đối với người sản xuất để tránh rủi ro thì cần áp dụng:
_ Thành lập hiệp hội, câu lạc bộ trang trại để từ đó hình thành các quỹ bảo hiểm về giá trên cơ sở tự nguyện. Nếu sản phẩm bán quá quy định thì người sản xuất nộp một tỷ lệ nhất định để gây quỹ, nếu sản phẩm bán dưới mức quy định thì bù lỗ cho các trang trại.
_ Các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản phẩm khi mua thông qua hiệp hội ký các hợp đồng dài hạn, chi tiết cho từng sản phẩm, đảm bảo cho các trang trại mua đầu vào và bán đầu ra không bị ép giá.
_ Đảm bảo hệ thống thông tin về thời tiết, dịch bệnh gây hại để có công tác chuẩn bị phòng tránh kịp thời, hạn chế đến mức tối đa ảnh hưởng xấu.
Các biện pháp phòng chống sẽ đảm bảo cho sản xuất, thị trường ổn định tạo điều kiện cho các trang trại không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, đảm bảo phát triển KTTT nhanh, mạnh và bền vững.
3.2.1.9. Giải pháp đối với bản thân chủ trang trại
Chủ trang trại cần tự ý thức nâng cao kiến thức sản xuất, kiến thức thị trường để tiến hành sản xuất một cách đúng đắn nhất và hiệu quả nhất.
Về công tác thị trường, các chủ trang trại nói riêng, người sản xuất nông sản nói chung phải chủ động tìm kiếm thông tin chỉ dẫn cần sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất bao nhiêu. Các chủ trang trại cần chủ động xâm nhập thị trường sâu hơn, hiễu rõ nhu cầu của người tiêu dùng để tiến hành sản xuất đúng đắn.
Nâng cao trình độ nhận thức, trình độ quản lý và chuyên môn nghiệp vụ để có thể kinh doanh hiệu quả. Nhanh chóng tham gia các lớp đào tạo về các lĩnh vực:
+ Kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi từng loại cây, con
+ Công nghệ lập quy hoạch cụ thể sử dụng đất đai của trang trại
+ Các vấn đề về kinh tế và quản lý trang trại
Chủ động đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đưa giống mới, phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương.
Quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của ngời lao động, tạo mối quan hệ mật thiết giữa chủ trang trại và người lao động, tạo thuận lợi trong công việc và ý thức kỷ luật. Phát huy sáng kiến của người lao động, có chế độ thưởng một cách hợp lý cho những người có sáng kiến lam lợi cho trang trại.
3.2.2. Những giải pháp cụ thể cho từng MH KTTT
Bên cạnh những giải pháp mang tính rộng lớn và mang tầm vĩ mô như đã nêu ở trên, việc nghiên cứu và tìm ra các giải pháp nhằm sử dụng nguồn nội lực tại từng trang trại cũng rất cần thiết để giúp cho các trang trại hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Dựa vào thực trạng MH và kết quả nghiên cứu, chúng tôi đưa ra một số giải pháp cụ thể cho từng MH KTTT như sau:
3.2.2.1. Với MH1:
Có thể nói hiện nay, diện tích chuyển đổi cây hàng năm có giá trị kinh tế thấp sang cây ăn quả tăng rất nhanh. Hiện tại vấn đề tiêu thụ hoa quả của các trang trại trên địa bàn huyện chưa phải là vấn đề đáng lo ngại vì sản phẩm thu được chưa lớn lại gần thị trường TP Việt trì, Vĩnh phúc, Hà nội. Nhưng trong vài năm tới, sản lượng thu hoạch sẽ tương đối lớn, để tránh tình trạng giá cả xuống thấp trong thời vụ làm thiệt hại cho người nông dân thì huyện cần phải có chiến lược tiêu thụ sản phẩm.
3.2.2.2. Với MH2:
Cần được sản xuất xa dân cư, tránh ô nhiễm môi trường hoặc khuyến khích các trang trại xây dựng hầm Biogas vừa xử lý được chất thải, vửa sử dụng khí gas, giảm chi phí cho trang trại.
* Đối với trang trại chăn nuôi gia cầm: Vấn đề đặt ra hiện nay đó là tình trạng dịch bệnh H5N1 đang là vấn đề hết sức bức xúc. Vì vậy, vấn đề an toàn đặt lên hàng đầu, cần xây dựng ở khu vực xa khu dân cư, có biện pháp phòng chống, bảo đảm tốt nhất. Cần có những biện pháp phục hồi và phát triển đàn gia cầm sau dịch cúm. Cần có chính sách hỗ trợ tích cực đối với cán bộ chăn nuôi gia cầm, các cơ sở chăn nuôi bị tiêu huỷ do dịch cúm như: khoanh nợ, hỗ trợ về giống, kỹ thuật phòng chống dịch bệnh… Mặt khác, củng cố tăng cường nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống thú y cơ sở, tăng cường công tác kiểm dịch động vật, kiểm tra, kiểm soát các lò giết mổ… nâng cao nhận thức của người dân về công tác thú y theo Pháp lệnh thú y.
* Đối với trang trại chăn nuôi lợn: Các trang trại trên địa bàn huyện đang sử dụng lợn 1/2 máu ngoại. Đảm bảo cho chất lượng thịt cao, đạt hiệu quả lớn. Trong những năm tới, tăng cường phát triển chăn nuôi, đặc biệt là gia súc phục vụ nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Góp phần chuyển dịch cơ cấu trong sản xuất nông nghiệp, tăng tỷ trọng chăn nuôi và giảm tỷ trọng trồng trọt, phát triển nông nghiệp cân đối và bền vững.
3.2.2.3. Với MH3:
Tiềm năng chăn nuôi cá ở huyện Phù ninh còn rất lớn. Cần có quy hoạch và tổ chức sản xuất hợp lý, đảm bảo thuận lợi trong quá trình sản xuất. Cần tập trung phát triển theo mô hình VAC khép kín để tận dụng tối đa các điều kiện sản xuất. Đây cũng là điều kiện cần thiết để thực hiện quy hoạch tổng thể sản xuất trên địa bàn huyện.
3.2.2.4. Với MH4:
Đây là MH trang trại hoạt động khá hiệu quả trong huyện. Vì có quy mô diện tích lớn, lại đa dạng cả về cơ cấu sản xuất. Tuy nhiên, qua tìm hiểu tôi được biết các trang trại chưa có quy hoạch cụ thể, hợp lý mà chỉ dừng lại ở mức thiết kế. Vì vậy, dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải, nhiều khâu thiếu chọn lọc, thiếu trọng tâm.
MH4 là MH tương đối ổn định, có tính bền vững cao, vì vậy cần sử dụng một cách hợp lý cả về đất đai, lao động, vốn… đảm bảo đạt hiệu quả kinh tế cao. Kết hợp một cách hợp lý giữa trồng trọt với chăn nuôi, sản xuất với chế biến tổng hợp, có thể nói hình thức hoạt động này chính là xu hướng phát triển của KTTT của huyện Phù ninh trong tương lai.
NHỮNG ĐỀ SUẤT VÀ KIẾN NGHỊ
Nhận thức được vai trò quan trọng của KTTT đối với nông nghiệp và nông thôn và tiềm năng to lớn chưa được khai thác. Để KTTT phát triển nhanh, mạnh và bền vững tôi có một số kiến nghị sau:
- Đối với Nhà nước: cần xem xét lại những chủ trương, chính sách cần thực hiện đồng bộ các chính sách để chính sách thực sự đến với người nông dân.
- Đối với địa phương: cần có biện pháp phổ biến, tập huấn kỹ thuật, giúp đỡ người dân hiểu rõ về KTTT và vai trò của nó. Cần có những biện pháp khuyến nông, khyến lâm; hình thành các câu lạc bộ trang trại, tập huấn kỹ thuật, xây dựng cơ sở hạ tầng: đường giao thông, thông tin liên lạc…
Tiếp tục hoàn thiện công tác cấp giấy chứng nhận trang trại, khuyến khích hộ gia đình thành lập trang trại nhưng đồng thời cũng tránh hình thức chạy theo thành tích mà không có hiệu quả thiết thực.
- Đối với chủ trang trại: Cần nâng cao trình độ kỹ thuật, quản lý, kết hợp quy mô trang trại với nhu cầu thị trường, sản xuất theo thị hiếu. Coi trọng công tác marketing giới thiệu sản phẩm. Tạo mối làm ăn thông qua các hợp đồng để làm ăn ổn định.
KẾT LUẬN
Qua kết quả nghiên cứu thực trạng KTTT ở huyện Phù Ninh, em xin đưa ra kết luận sau:
* KTTT đã thực sự trở thành MH kinh tế vượt trội
So với kinh tế hộ nông dân, KTTT mang lại hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội cao. KTTT không chỉ phát triển mạnh trên phạm vi cả nước mà còn là mô hình kinh tế chủ yếu ở Phù ninh, đa phần được hình thành trên các xã miền núi có điều kiện thuận lợi phát triển. Các trang trại đã hoàn thành việc phủ xanh đất trống đồi trọc, góp phần hạn chế thiên tai, phòng trừ lũ lụt, xói mòn. Giải quyết công ăn việc làm cho một số lượng lớn lao động nhàn rỗi, góp phần giảm nghèo, thay đổi bộ mặt nông thôn.
* Sản xuất kinh doanh của các trang trại còn nhiều hạn chế và thiếu hợp lý
Phát triển KTTT theo hướng tự phát, quy mô đất đai lớn nhưng không đồng đều. Nguồn hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, hầu hết còn chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Phương hướng sản xuất kinh doanh chưa có tính khoa học, hệ thống, đa phần chạy theo xu hướng chung của địa phương, kết hợp cây trồng, vật nuôi còn thiếu hợp lý.
Vốn đầu tư còn thấp, không đồng đều giữa các trang trại, đầu tư xây dựng cơ bản còn cao.
Nguồn lao động khá phong phú nhưng việc sử dụng, quản lý và khai thác sức lao động còn thiếu hợp lý, hiệu quả chưa cao. Có trang trại thừa lao động, lại có trang trại không dám sử dụng lao động thuê ngoài. Trình độ tay nghề của lao động chưa cao cộng thêm trình độ quản lý, kỹ thuật của chủ trang trại còn nhiều hạn chế, mức đầu tư cho khoa học kỹ thuật, máy móc kém.
* Tính thị trường chưa thực sự đi vào sản xuất của các TT
Các trang trại đã tạo ra vùng sản xuất hàng hoá lớn, có tỷ suất hàng hóa cao, nhưng việc tiêu thụ còn gặp nhiều khó khăn, sản phẩm chủ yếu tiêu thụ qua tư thương. Giá cả bấp bênh không ổn định, lại luôn bị các nhà buôn ép giá. Những vấn đề đó là do quy luật thị trường tạo nên, các trang trại chưa có biện pháp khắc phục phù hợp và nhận thức đúng đắn về quy luật kinh tế thị trường. Họ chưa có hệ thống Marketing giới thiệu sản phẩm, khả năng tiếp nhận và xử lý thông tin còn nhiều hạn chế, chưa tạo ra được mối liên hệ và thông tin liên tục giữa các trang trại.
* Tiềm năng khai thác của các trang trại còn lớn
Diện tích rộng, lao động dồi dào, vốn đầu tư lớn… đó là các yếu tố không thể thiếu trong sản xuất nông nghiệp, điều kiện phát triển trang trại. Ngành chăn nuôi trên địa bàn huyện đang phát triển nhanh, cần tiếp tục phát huy, chú trọng phát triển chăn nuôi đại gia súc bởi địa phương có điều kiện phát triển, nhu cầu hàng hoá đối với các sản phẩm này là cao./.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32111.doc